Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

sự tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát của tản đà và thơ lục bát của văn học dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.61 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

NGUYỄN MAI THẢO

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA THƠ
LỤC BÁT CỦA TẢN ĐÀ VÀ THƠ LỤC BÁT
CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: Ths. GV HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG

Cần Thơ, năm 2011
1


ĐỀ MỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU


PHẠM VI NGHIÊN CỨU
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

1.1 VÀI NÉT VỀ THƠ LỤC BÁT
1.1.1 KHÁI BIỆM VỀ THƠ LỤC BÁT
1.1.2 ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ LỤC BÁT
1.2 VÀI NÉT VỀ THƠ LỤC BÁT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
1.2.1 MỘT SỐ THÀNH TỰU TIÊU BIỂU
1.2.2 NÉT ĐẶC SẮC CỦA THƠ LỤC BÁT TRONG VĂN HỌC DÂN
GIAN
1.3 VÀI NÉT VỀ THƠ LỤC BÁT CỦA TẢN ĐÀ
1.3.1 MỘT SỐ THÀNH TỰU TIÊU BIỂU
1.3.2 NÉT ĐẶC SẮC CỦA THƠ LỤC BÁT TẢN ĐÀ
1.4 CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA THƠ LỤC BÁT TẢN
ĐÀ VÀ THƠ LỤC BÁT CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
CHƯƠNG 2 : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ NỘI DUNG
GIỮA THƠ LỤC BÁT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ THƠ LỤC
BÁT CỦA TẢN ĐÀ
2.1 TIẾNG NÓI TÂM TÌNH THIẾT THA SÂU LẮNG
2.1.1 TÌNH CẢM GẮN BÓ VỚI QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
2.1.2 NIỀM MƠ ƯỚC VỀ CUỘC SỐNG BÌNH DỊ
2.1.3 SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁI “TÔI”
2.2 TIẾNG NÓI PHÊ PHÁN MẠNH MẼ, SÂU SẮC
2.2.1 PHÊ PHÁN GIAI CẤP THỐNG TRỊ
2.2.2 PHÊ PHÁN THÓI ĐỜI ĐEN BẠC
CHƯƠNG 3 : SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT VỀ NGHỆ THUẬT
GIỮA THƠ LỤC BÁT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ THƠ LỤC
BÁT CỦA TẢN ĐÀ

3.1 NGÔN NGỮ
3.2 KẾT CẤU
3.3 HÌNH ẢNH THƠ
2


3.4 VẦN, NHỊP, THANH, ĐỐI
KẾT LUẬN
TỔNG KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


A PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, giai đoạn 1900- 1930 là giai đoạn
văn học có tính chất giao thời. Văn học ở thời kì chuyển hóa, tập hợp để chuẩn bị
cho nền văn học hiện đại ra đời: “ Văn học của cả giai đoạn 1900 - 1930 có tính
chất giao thời. Tính chất giao thời đó được biểu hiện ở sự tồn tại song song hai
nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng với hai quan
niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau, ở xu thế thắng lợi
của nền văn học mới đang tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy yếu dần. Ở
giai đoạn giao thời này, nền văn học cũ tuy đã ở trên đà suy tàn nhưng vẫn còn
giữ một vị trí đáng kể, vẫn còn một tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển
của văn học dân tộc.”[10;29]
Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen
hai yếu tố cũ và mới trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng một tác
phẩm. Hai yếu tố cũ và mới ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật được kết
hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên khắp các thể loại, tạo ra những giá trị đặc biệt,

không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại mà cũng chưa thể công nhận là một
tác phẩm văn học hiện đại. Chính vì vậy văn học mang tính chất giao thời , có sự
đan xen giữa phương pháp sáng tác cũ và mới, tạo nên nét “biệt thái”. Cùng với
sự phát triển của tiểu thuyết,thơ ca cũng có sự thay đổi lớn, có thể nói sự góp mặt
của thi sĩ Tản Đà đánh dấu một bước chuyển mới cho chặng đường thơ ca đương
đại. Thơ Tản đà chất chứa nhiều mâu thuẫn, nói khác hơn đó là mâu thuẫn của
buổi giao thời.
Ở Tản Đà luôn chất chứa một tấm lòng đối với dân tộc, ông khao khát tìm một thế
giới tốt đẹp nơi trần giới, ông sống giữa mộng và đời nhưng cuộc đời thực khiến
nhà thơ day dứt không nguôi. Những nhà nghiên cứu về Tản Đà đã có những định
hướng khác nhau, người thì tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong thơ Tản Đà, người
thì nghiên cứu tính giao thời trong thơ ông, người thì khai thác chất dân gian, dân
tộc, lãng mạn thoát ly trong thơ Tản Đà. Qua quá trình tìm hiểu thì phần nhiều Tản
Đà sử dụng thể thơ lục bát của của dân tộc, trong đó có sự tương đồng về nội dung
lẫn nghệ thuật so với các sáng tác về thơ lục bát trong văn học dân gian. Vì sao thơ
ông lại mang những đặc điểm trên? Để trả lời cho câu hỏi ấy, người viết đã chọn
đề tài tìm hiểu về “ sự tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát của Tàn Đà và
thơ lục bát của văn học dân gian”. Tình cảm của nhà thơ trong cuộc đời thực
được chuyển tải qua những vần thơ lục bát nhẹ nhàng sâu lắng, mang đậm tính dân
tộc, đó là cả quá trình sang tạo và chắt lọc của thi sĩ. Với bài viết này người viết
phần nào nắm được chất dân tộc trong thơ ông, cũng như tình cảm nhà thơ đối với
dân tộc, đồng thời có thể hiểu sâu sắc hơn về con người trong thơ lẫn con người
thực của tác giả.

2. Lịch sử vấn đề

4


Trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Tản Đà được đánh giá là thí sĩ có công lớn

và trên văn đàn văn học Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được
yêu mến như Tản Đà. Trong “thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã đặt bài tưởng
niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính: “ có tiên sinh người ta sẽ
thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa thất cước
không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi, có tiên sinh, trên Tao Đàn sẽ còn
phảng phất chút bình yên trong tư tưởng, chút thích thảng mà từ lâu chúng tôi đã
mất.”[ 4; 12]. Tản Đà xuất hiện giữa dòng văn học 1900_1930 như sự báo hiệu
cho những đổi thay trong thơ ở một chặng đường mới. Bởi vì “trong tác phẩm của
Tản Đà có nhiều dấu vết của hình thức trung gian, của những đầu mối giữa văn
học Đông và Tây, điều đó làm cho Tản Đà có vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học
Việt Nam; giá trị tiêu biểu cho một thời đại. dẫu thời đại đó ngắn ngủi: thời cận
đại.” [ 5; 468 ].
Thơ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác phong phú của Tản
Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ,
nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác say
sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri
kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực. Thơ
Tản Đà thường làm theo thể Cổ phong, cũng có khi làm bằng thể Đường luật,
đường luật phá thể, song thất lục bát và thể thơ lục bát. Thế nên đề tài tìm hiểu “sự
tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát Tản Đà và thơ lục bát của văn học dân
gian” là một đề tài mới, giúp người viết hiểu thêm về triết lý sống phóng khoáng,
một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế của tác giả.

3. Mục đích nghiên cứu
Để thực hiện tốt đề tài người viết phải có một lượng kiến thức nhất định về thể thơ
truyền thống. Hiểu biết về thể thơ lục bát trong sáng tác của văn học dân gian.
Thực chất ảnh hưởng của văn học dân gian có thể nói là rất đậm trong thơ lục bát
của Tản Đà. Trong số các nhà thơ cận hiện đại, Tản Đà là nhà thơ được dân gian
hoá mạnh và sâu hơn cả. Trong đó phải kể đến ảnh hưởng của các câu hát lý giao
duyên theo quy tắc hiệp vần bằng trắc cùng với cách gieo nhịp chẵn và ngôn ngữ

đã có trong ca dao như đại từ ai, mình, ta … rất uyển chuyển và duyên dáng. Mặc
dù người viết có dịp tiếp xúc thêm ở học phần “ văn học Việt Nam hiện đại 1”
nhưng sự hiểu biết còn hạn chế. Do đó người viết đã chọn đề tài “sự tương đồng
và khác biệt giữa thơ lục bát của Tản Đà và thơ lục bát của văn học dân gian”
nhằm tạo điều kiện cho bản thân có thể hiểu thêm về thơ lục bát của Tản Đà cũng
như thơ lục bát trong văn học dân gian.
Tản Đà là một tác gia văn học khó đánh giá và nghiên cứu, từ lâu đã được giới phê
bình và nghiên cứu văn học rất quan tâm. Họ khen không tiếc lời và chê cũng
không tiếc lời. Vì lẽ đó người viết mong muốn qua đề tài nghiên cứu này có thể
tìm hiểu và so sánh để làm nổi bật lên các sáng tác bằng thể thơ lục bát của ông,
góp phần khẳng định Tản Đà là nhà thơ được dân gian hóa mạnh mẽ và sâu sắc
hơn cả trên hai bình diện nội dung và nghệ thuật.

4. Phạm vi nghiên cứu
5


Với đề tài tìm hiểu về “sự tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát của Tản Đà và
thơ lục bát của văn học dân gian”, người viết chỉ dừng lại ở việt khảo sát những
tác phẩm thơ lục bát của Tản Đà và thơ lục bát trong văn học dân gian, so sánh nét
giống và khác về nội dung lẫn nghệ thuật. Trên cơ sở khảo sát những bài thơ trong
“Tuyển tập Tản Đà” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn biên soạn, quyển “Tản Đà đời
và thơ” do nhà xuất bản Văn học giới thiệu, và “ca dao Việt Nam” nhà xuất bản
văn học,người viết cố gắng tìm ra những nét tương đồng và khác biệt trong sáng
tác thơ bằng thể lục bát của Tàn Đà và thơ lục bát trong văn học dân gian ở hai
phương diện nội dung và nghệ thuật. Qua đó chúng ta vừa có thể tìm hiểu về thể
thơ lục bát của dân tộc, ảnh hưởng của văn học dân gian trong sáng tác của Tản Đà
về cách gieo vần, nhịp điệu, ngôn ngữ…
Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu này, chúng ta có cách nhìn, đánh giá đúng
hơn, sâu sắc hơn về nhà thơ, hiểu được con người trong thơ cũng như con người

thực của tác giả, bên cạnh đó có cách đánh giá xác đáng hơn về những đóng góp
của Tản Đà cho nền văn học nước nhà.

5. Phương pháp nghiên cứu
Do yêu cầu của đề tài là tìm hiểu “ sự tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát
của Tản Đà và thơ lục bát của văn học dân gian” nên người viết cơ bản bám sát
những tác phẩm thơ lục bát của Tản Đà trong “tuyển tập Tản Đà” do nhà xuất bản
Hội nhà văn giới thiệu, Từ những tác phẩm cụ thể của Tản Đà sáng tác bằng thể
lục bát và thơ lục bát trong văn học dân gian, người viết đã so sánh từng bài thơ,
tìm ra nét tương đồng và khác biệt trên cả hai bình diện nội dung và nghệ thuật để
xác lập các yếu tố tạo nên “sự tương đồng và khác biệt giữa thơ lục bát của Tản
Đà và thơ lục bát của văn học dân gian”. Bên cạnh đó người viết đã thu thập
nhiều tài liệu có liên quan để tổng hợp, so sánh, đối chiếu và rút ra kết luận riêng
cho đề tài.
Tóm lại, ở đề tài này, người viết đã kết hợp tất cả các phương pháp: so sánh, phân
tích, chứng minh, tổng hợp… để tìm ra cách lí giải, giải thích cụ thể cho từng vấn
đề được đặt ra.

6


B PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1VÀI NÉT VỀ THƠ LỤC BÁT
1.1.1 Khái niệm về thơ lục bát
Lục bát là loại thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền
nhau. Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu
bát. Đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt tính cách lơ lửng,
hiểu ngầm, hay diễn đạt tính cách đột ngột.


1.1.2 Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của thơ lục bát
Lục bát là thể thơ dân tộc mang đậm bản sắc và phong vị quê hương. Thơ lục
bát rất dễ nhớ và dễ thuộc vì lời thơ giản dị, mộc mạc, có sự kết hợp giữa ngôn
ngữ thơ và ngôn ngữ đời thường. Câu thơ đọc lên mà cữ ngỡ là câu hát hoặc một
bản nhạc, vừa có vần, vừa có điệu, nghe rất thanh thoát và êm tai. Nhiều bài thơ
lục bát đi vào lòng người như một lời ru:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
(Ca dao)
Có thể nói trải qua một thời gian dài, thể thơ lục bát đã đạt đến một cấu trúc
hoàn hảo. Cái hay của thể thơ này nằm ở chỗ mặc dù đã đạt được sự hoàn chỉnh
về vần luật nhưng nó vẫn không gây nên sự gò bó, cứng nhắc, nhàm chán. Ngược
lại, những vần luật ấy lại tạo nên cho lục bát một vẻ uyển chuyển riêng, nhờ vậy
mà duy trì được sự thanh tao của thể thơ.
Vì có dung lượng lớn, không hạn chế về số câu trong bài thơ , đáp ứng được
nhu cầu tự sự nên thường được sử dụng trong truyện thơ, diễn ca lịch sử, trường
ca.
Với nhịp điệu, âm hưởng dung dị, trữ tình của ca dao nên rất phù hợp khi thể
hiện những đề tài ca ngợi vẻ đẹp của đất nước, cảnh sắc, con người, tâm tư tình
cảm hay những nét văn hóa độc đáo nơi làng quê:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Việt Nam đất nước ta ơi_Nguyễn Đình Thi)
Hay:
“Dù cho sông cạn đá mòn
Còn non còn nước hãy còn thề xưa”
(Thề non nước_Tản Đà)

7


Đến với những câu lục bát của Nguyễn Bính sẽ cảm thấy rất gần gũi, bình
dị,cũng bởi nhà thơ khai thác đề tài về cuộc sống làng quê:
“Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn
Hai người sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có giậu mồng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng”
(Cô hàng xóm)
Trong bài tựa sách Quốc âm từ điệu, Phạm Đình Toái đã nhận xét: “Thể thơ lục
bát đâu đâu cũng quen thuộc không hẹn mà giống nhau, tao nhân mặc khách mở
miệng nên thơ, gái dệt, trai cày nói lời hợp điệu, cho đến câu hát của xóm làng,
lời đùa của trẻ con cũng không gì là không nhịp nhàng, hợp vần”.
Do yêu cầu phản ánh, thể hiện tình cảm cần lời ít mà ý sâu, càng ngắn gọn
càng dễ nhớ, dễ lưu truyền, phổ biến nên tính kiệm lời, cô đọng, ngắn gọn là đặc
điểm nổi bật trong nghệ thuật biểu hiện của lục bát dân gian.
Khác với truyện cổ, phương thức biểu hiện tình cảm của lục bát dân gian ngắn
gọn, cô đọng nhưng giàu cảm xúc. Ví dụ: khi đề cập đến thân phận, cuộc đời,
tương lai.
Các cô gái miền Bắc nói về tâm trạng mình:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
(Ca dao)
Cùng tâm trạng, tình cảm đó, cô gái Trung Bộ thể hiện:
“Thân em như chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước linh đinh
Biết đâu trong đục nương mình gửi thân.”

(Ca dao)
Trên miền đất Nam Bộ, dù thiên nhiên có hào phóng ban tặng nhiều sản vật
phong phú thì người con gái vẫn có nỗi lo:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?”
(ca dao)
Những thân phận mong manh, lênh đênh như “tấm lụa đào”, “chiếc thuyền
tình”, “trái bần trôi” đã mang tâm hồn, tình cảm, dấu ấn thiên nhiên miền đất
sinh sống của những người con gái không có quyền định đoạt số phận, hạnh phúc,
cuộc đời. Nỗi đau khổ, cay đắng chất chứa trong tiếng thở than nghẹn ngào đã làm
rung lên niềm thương cảm của trái tim bao người nghe. Nỗi khổ đau đó cũng được
đại thi hào Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm “Truyện Kiều” với độ dài 3254
dòng lục bát đầy những niềm cảm thông thương xót:
8


“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ.
Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ mộng. Có những hình ảnh khắc
khổ, vuông thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ xộ, đôi khi gớm
ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người làm thơ
lúc họ viết. Một trong những ví dụ về hình ảnh có thể tìm thấy trong tập Truyện
Kiều của Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Do ảnh hưởng của quan niệm hội họa dưới thời người làm thơ còn sống, Nguyễn
Du thường sử dụng phong thái thủy mặc trong thơ của mình. Phong cảnh đơn sơ,
chấm điểm, phác thảo và nhẹ nhàng, nhưng không kém sức quyến rũ.
Hay gần đây hơn của nhà thơ Trần Đăng Khoa trong bài “Nghe thầy đọc thơ”:

“Em nghe thầy đọc bao ngày
Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
Mái chèo nghiêng mặt sông xa
Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa”
Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình ảnh trong thơ còn động đậy, hoạt
bát. Người đọc thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu sắc, vừa thấy sự
chuyển động của chúng. Chính vì lý do này, nhiều khi các vật được miêu tả trong
thơ được nhà thơ cho thêm tính “hoạt họa” của nó, hay còn gọi là “nhân cách
hóa”. Dùng động từ cho những vật tưởng là vô tri, vô giác cũng giống như việc
thổi sức sống vào trong vật thể, làm nó sống động trong đầu người đọc thơ
Thực tế, do đặc điểm ngắn gọn nên dung lượng phản ánh của mỗi bà thơ có phần
hạn chế. Bởi hiện thực cuộc sống vô cùng phong phú, đa dạng, phức tạp. Tâm hồn,
cảm xúc của con người rất tinh tế, nhiều cung bậc. Mỗi lời ca dao chỉ phản ánh
được một khía cạnh của cuộc sống nên từ đó có hiện tượng trái nghĩa, hay có
nhiều cách biểu hiện khác nhau.
Hãy nghe những tâm tư tình cảm được bộc lộ qua những vần lục bát:
“Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng đi”.
Hay:
“Có chồng phải luỵ cùng chồng
Nắng mưa phải chịu, mặn nồng phải theo”.
(Ca dao)
Thực tế lại có lời ca dao biểu hiện thái độ:
“Có chồng thì mặc có chồng
9


ở đây vắng vẻ tơ hồng cứ xe”.
“Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ”.

(Ca dao)
Bên cạnh lời ca dao ca ngợi người phụ nữ chung thuỷ:
“Lên non thiếp cũng lên theo
Tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau”
thì lại có những lời có nội dung trái ngược:
“Chính chuyên chết cũng ra ma
Lẳng lơ chết cũng khiêng ra ngoài đồng”.
(ca dao)
Thái độ tương phản đó là sự phản kháng quyết liệt chống đối lại lễ giáo nghiệt
ngã, những quan niệm cực đoan.
Phải tập hợp được một số lượng đủ đến mức cần thiết những lời ca dao về
người phụ nữ thì mới nhận thức được tương đối đầy đủ quan niệm dân gian về họ.
Như vậy, qua nhiều lời ca dao, tính thống nhất nổi bật đó là sự ngắn gọn, kiệm
lời, cô đọng, hàm súc. Tính chất ngắn gọn là một đặc điểm chung, thống nhất của
ca dao, có liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh, điều kiện của việc sáng tác và sinh
hoạt văn nghệ.
Mặt khác, nhịp điệu trong thơ lục bát phong phú, có khả năng thể hiện tinh tế
những sắc thái tình cảm đa dạng, phức tạp của con người:
“Cái gì như thể nhớ mong
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng”
(Người hàng xóm_Nguyễn Bính)
Ngoài ra, các dạng thức gieo vần linh hoạt cũng góp phần thể hiện các sắc thái
cảm xúc tinh tế của con người:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay”
(Ca dao)
Thể thơ lục bát còn có thể tổ chức tiểu đối hoặc đối trong ngữ đoạn câu thơ, tạo
vẻ đẹp hài hòa cân chỉnh và tăng sức hàm súc của ngôn từ thơ:

“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”
(ca dao)
Hoặc:
“Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn”
(Buồn đêm mưa_ Huy Cận)
10


Đồng thời với khả năng thích ứng cao với nhu cầu vận dụng các chất liệu văn
chương dân gian vào tác phẩm văn học viết:
“Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưa sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”
(ca dao)
Và:
“Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây”
(Ngậm ngùi _ Huy Cận)
Có nhiều cách hiểu rộng, hẹp khác nhau về lục bát biến thể, có thể đồng tình
với cách hiểu của Mai Ngọc Chừ "Lục bát biến thể ở đây được quan niệm là
những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít khịt "trên sáu dưới tám"
mà có sự co giãn nhất định về số lượng âm tiết (tiếng)”.
Đây là lục bát biến thể trong ca dao.
“Đôi ta tình thẳm nghĩa dày
Dù có xa nhau đi chăng nữa ba vạn sáu ngàn ngày mới xa.”
(6/14 tiếng)
“Đau tương tư đầu tóc rối bù
Đặt lược lên, lấy lược xuống, nước mắt chùi không khô”.
(7/11 tiếng)
Thực tế cho thấy, những lời ca dao lục bát biến thể chủ yếu là do làn điệu của

việc ca hát quy định (đối với dân ca) do yêu cầu thể hiện một số nội dung nhất
định (đối với ca dao). Hai lời ca dao vừa dẫn cho thấy: Số lượng âm tiết tăng thêm
hoặc giảm đi đóng vai trò quyết định để nhịp thơ thay đổi tạo nên ưu thế cho việc
biểu đạt những điều kiện khó khăn, không thuận lợi và sự quyết tâm khắc phục
những trở ngại đó.
Ngoài ra, lục bát biến thể còn đắc dụng trong những lời châm biếm, trào phúng:
“Chập chập cheng cheng
Con gà sống thiến để riêng cho thầy
Đơm xôi thì đơm cho đầy
Đơm mà vơi đĩa thì thầy không ưa.”
(Ca dao Bắc Bộ)
“Anh đi đâu lúc la lúc lắc, quạt dắt sau lưng
Hay làng cử anh làm lí trưởng để "giữ rừng" cho em?
Rừng em anh chẳng dám vô
Sợ phụ mẫu em giấu mả mồ ở trong.”
(Ca dao Trung Bộ)
Các tác giả dân đã sử dụng rất tài tình, linh hoạt thể thơ lục bát nhưng mức độ
sử dụng và trau chuốt có khác nhau.
Ca dao Bắc Bộ sử dụng thể lục bát nhuần nhuyễn, trau chuốt hơn ca dao Trung
Bộ và Nam Bộ. Ca dao Bắc Bộ tiếp nhận lối ngắt nhịp truyền thống của ca dao
Việt Nam (ngắt nhịp chẵn dòng lục 2/2/2, dòng bát 2/2/2/2 hoặc 4/4).
11


“Nước trong nước chảy quanh chùa (2/2/2)
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu”.(2/2/2/2)
“Công cha nghĩa mẹ thiếp đền (2/2/2)
Xin chàng đừng có kết duyên chốn nào” (2/6)
“Xin đừng đứng thấp trông cao (2/2/2)
Xin đừng tơ tưởng chốn nào hơn đây” (6/2)

“Xin đừng tham gió bỏ mây (2/4)
Tham vườn táo rụng bỏ cây nhãn lồng” (4/4)
Đọc những lời ca dao Bắc Bộ ta cảm nhận được sắc thái tình cảm nhẹ nhàng,
dìu dịu, đằm thắm, tha thiết. Trong lời ca dao trên, người con gái như đang "rót
mật vào tai”, dùng "lạt mềm buộc chặt”. Cái duyên dáng, tươi trẻ, dịu dàng, thanh
lịch của người con gái xứ Bắc đã níu giữ chân chàng trai lại. Những lời tha thiết
yêu thương được láy lại trong từ “xin chàng” và điệp từ “xin đừng” khiêm
nhường mà không hạ mình, nhắc nhở mà không giáo điều, giáo huấn. Người nghe
không chỉ cảm nhận được điều hay lẽ phải mà còn cảm nhận được phẩm chất đẹp
đẽ, lịch lãm, thanh cao, đáng trọng của con người xứ Bắc.
Ca dao Bắc Bộ chịu ảnh hưởng nhiều hơn của ngôn ngữ văn chương bác học.
Cuộc sống lao động sản xuất của người dân đồng bằng Bắc Bộ nhìn chung ổn
định, hiền hoà. Thiên nhiên Bắc Bộ dù có sự chuyển đổi bốn mùa khắc nghiệt
nhưng cuộc sống lao động và văn hoá tinh thần của con người vẫn được đảm bảo.
Những lễ hội mùa xuân tưng bừng cùng những hội chùa, hội làng... kéo dài từ
tháng giêng sang hết tháng hai. ở đâu cũng có lễ hội, dường như điều đó đã giải
toả tâm linh và những khúc mắc trong tình cảm. Do vậy con người không phải
chịu sự dồn nén,bức bối.
Giữa sinh hoạt văn hoá và thiên nhiên đầy những hình ảnh thơ mộng, lãng mạn,
con người có thể trao đổi gửi gắm cảm xúc bay bổng. Điều đó được ghi lại trong
ca dao Bắc Bộ, lục bát biến thể ít và thiên về sự co giãn ở dòng lục hoặc dòng bát:
“Chàng trẩy đi nước mắt thiếp tôi chảy quanh
Chân đi thất thểu lời anh dặn dò.”
(9/8 tiếng)

“Người ta chung nón chung tơi
Cho em chung thầy, chung mẹ, chung hơi, chung tình.”
(6/10 tiếng)
Trung Bộ phải chịu cảnh quá khắc nghiệt của thiên tai liên tiếp. Con người nơi
đây từng trải qua bao thăng trầm, biến cố của các cuộc xung đột, khai phá, chiến

tranh giữa các thế lực phong kiến. Sự khắt khe của tư tưởng lễ giáo, sự nghiệt ngã
của thiên nhiên khiến con người chất chứa bao nỗi uất ức, hờn căm, dồn nén đau
khổ muốn giãi bày:
“Nốc tôi chật chội chẳng cùng
Làm thân con gái, nỏ biết rùng nơi mô.”
(6/9 tiếng)
12


“Nốc năm mui sóng khó chèo
Muốn kết đôi với bạn, bạn chê nghèo thì thôi”.
(6/10 tiếng)
Trong lao động, nhịp điệu sản xuất của người miền Trung mạnh mẽ, chắc khoẻ.
Người lên rừng trèo đèo, lội suối, chặt cây, động tác phải nhanh. Người đi biển
đánh cá phải chống chọi với sóng to gió lớn, hiểm nguy. Không có sự dũng cảm,
cứng rắn, vượt lên để đấu chọi, tồn tại thì làm sao có hạnh phúc, tươi vui. Ngay cả
khi làm ruộng, đất cứng vì khô hạn, các động tác cũng phải thật mạnh, thật chắc
nịch, bền bỉ mới bổ được từng nhát cuốc, bừa từng luống cày...
Cuộc đời đầy những thách thức, khó khăn đã làm biến đổi nhịp sống của con
người. Điều đó có thể thấy trong thái độ biểu hiện cảm xúc của con người miền
Trung cũng mang nét khác dân Bắc Bộ. Họ ưa sự dứt khoát, thẳng thắn, trung
thành, bền bỉ, chịu khó. Sự biến thể đột ngột với nhiều cung bậc khác nhau trong
ca dao Trung Bộ là biểu hiện nghệ thuật mang ý nghĩa nội dung trên. Lục bát ở
Trung Bộ thiên về sự giãn tiếng ở dòng bát:
“Đôi ta tình thắm nghĩa dày
Dù có xa nhau đi chăng nữa/ba vạn sáu ngàn ngày/mới xa.”
(6/14 tiếng)
“Hai tay bưng bát nước đầy
Anh muốn kết duyên em mãi mãi/sợ thầy mẹ không thương.”
(6/12 tiếng)

“Nguyện thề trước miếu sau đình
Đó vong ân/đó chịu/đây bạc tình/đây mang”
(6/10 tiếng)
“Thương anh nỏ biết mần răng
Cứ lơ lơ, lửng lửng như sao băng giữa trời.”
(6/10 tiếng)
Ca dao Nam Bộ sáng tác thuần thể lục bát ít hơn ca dao nói chung, tỉ lệ lục bát
chiếm 79,1%, thấp hơn ca dao Bắc Bộ. Lục bát trong ca dao Nam Bộ vẫn sử dụng
nhịp một cách linh hoạt, uyển chuyển như ca dao cả nước để biểu hiện sinh động
tâm trạng, tình cảm. Song số thanh bằng hoặc trắc được sử dụng nhiều tạo nhịp
điệu man mác, da diết hoặc dứt khoát, mạnh chắc. Ngoài ra còn có kiểu ngắt nhịp
khá táo bạo, tự do, phá vỡ sự nhàm chán nhịp chẵn bằng nhau tuyệt đối. Cách ngắt
nhịp có chẵn, lẻ hoặc phối hợp sáng tạo với thanh trắc để diễn tả, nhấn, láy được
những cung bậc tình cảm của con người Nam Bộ:
“Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau”.
“Biển cạn lòng anh không cạn
Núi non kia mòn nghĩa bạn không vong”.

13


Bản sắc Nam Bộ thể hiện rõ ở hoàn cảnh, gắn bó xuất hiện của lời ca dao, đặc
biệt là sự phá cách táo bạo, bất ngờ theo hai chiều hướng co hoặc giãn tiếng trong
cả hai dòng lục và bát nhiều hơn so với ca dao Trung Bộ và Bắc Bộ:
“Cực chẳng đã cha mẹ gả em đã đành
Chớ ăn khoai lang chấm muối ngon lành gì đâu.”
(9/10 tiếng)
Lời ca dao đối đáp ở trên, diễn đạt một tâm sự ngổn ngang, nặng nề của đôi trai
gái bởi sự cách ngăn, trắc trở tình yêu, ngậm ngùi thở than, trách cứ.


1.2VÀI NÉT VỀ THƠ LỤC BÁT TRONG VĂN HỌC DÂN GIAN
1.2.1 Một số thành tựu tiêu biểu
Lục bát ca dao ra đời từ ngàn xưa, gắn với cuộc sống trăm đắng ngàn cay nhưng
đậm tình nặng nghĩa. Những câu hát phản chiếu đời sống tâm hồn, đời sống tình
cảm của người bình dân, chứa đựng những đạo lí dân gian sâu sắc.
Những đề tài ca dao bắt nguồn từ thực tế cuộc sống lao động sản xuất và những
sinh hoạt đời thường, từ những rung động tinh tế trước thiên nhiên, từ đời sống
thuần hậu chất phác của người lao động. Chính vì thế, những hình ảnh ca dao mộc
mạc nhưng mang theo bao hơi thở tâm tình, những nỗi niềm thân phận. Toát lên từ
những lời ca là ý thức về phẩm giá, nhân cách, là những tình cảm thương nhớ đợi
chờ, là khát vọng được sẻ chia, là ước ao về cuộc sống thủy chung mặn nồng.
Ba chủ đề phổ biến trong mảng ca dao: phản ánh tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ
chồng là chủ đề phổ biến nhất; châm biếm thói hư tật xấu, hài hước trào lộng và ca
ngợi những người có công đức với dân với nước là hai chủ đề còn lại.
Có thể nói thơ lục bát bắt nguồn từ trong ca dao Việt Nam, thể hiện thành công
cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng
trong văn học dân gian với những câu thơ mang đậm tâm tư, tình cảm của người
bình dân vốn chịu thương chịu khó. Đó là những bài hát ru con, những câu hò điệu
lý, những lời ngâm vịnh ngân nga mà mọi người vẫn nghe thấy trong sinh hoạt
hàng ngày, gắn liền với cuộc sống lao động của người bình dân:
“Tháng Chạp thì mắc trồng khoai,
Tháng Giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng Ba cày bở ruộng ra,
Tháng Tư bắc mạ, thuận hoà mọi nơi.
Tháng Năm gặt hái vừa rồi,
Bước sang tháng Sáu, nước trôi đầy đồng.”
(ca dao)
Nếu như tục ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống thì ca dao lại
thiên về tình cảm (nội dung trữ tình) và ca dao là một thể loại đã thể hiện được hết

cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn học dân gian. Cũng như tục ngữ hoặc bất cứ thể
loại văn học nào khác, ý nghĩa chủ yếu có thể thấy ở ca dao vẫn là về mặt nội
dung, có điều là nội dung ấy thường đượm chất thơ. Nếu cho rằng một đặc điểm
của thơ là ở chỗ biểu hiện một cách cô đúc nhất tư tưởng và tình cảm thì cũng có
thể coi tục ngữ như là một dạng của thơ. Tuy nhiên chất thơ chỉ có thể thấy một
14


cách đầy đủ và toàn diện trong ca dao. sở dĩ như thế một phần cũng chính là vì
trong ca dao không những hiện thực được phản ánh một cách cô đúc hơn là trong
ngôn ngữ hàng ngày, hơn cả trong văn xuôi mà còn là vì trong ca dao tư tưởng và
tình cảm được chắp đôi cánh kỳ diệu của sự tưởng tượng, điều này ít thấy có ở
trong tục ngữ.
Có đôi cánh kỳ diệu ấy tâm hồn của nhân dân thể hiện được đầy đủ hơn tất cả
sự phong phú và tầm rộng lớn, cao cả của nó. Tất nhiên là tính lãng mạng mà đầu
óc tưởng tượng phong phú của nhân dân đã đem lại cho ca dao không hề tách rời
và đối lập với tính hiện thực.
Cũng như tục ngữ và các thể loại văn học dân gian khác, ca dao là tấm gương
trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của nhân dân. Đó là cuộc sống cần
cù, giản dị và chất phác, đậm đà phong vị dân tộc. Đó là cuộc đấu tranh anh hùng
trong dựng nước và giữ nước. Đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần
tương ái giữa những con người lương thiện. Đó là nhận thức sắc bén về bạn, về
thù, về chính nghĩa và phi nghĩa. Tóm lại cũng như ở tục ngữ, qua ca dao có thể
thấy rõ hiện thực, tức là “cái vốn có”. Nếu tục ngữ thường dừng lại ở nhận thức
“cái vốn có” thì ca dao lại thường tiến thêm một bước nữa rất quan trọng là bộc lộ
nguyện vọng của nhân dân đối với việc cải tạo hiện thực.
Đề tài trong ca dao không những chỉ phản ánh “cái đã có” mà còn đề xuất ra
“cái nên có”. Ca dao chẳng những muốn giúp cho việc nhận thức cuộc sống mà
còn muốn xây dựng lý tưởng về cuộc sống.
Về cơ bản thì ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác

phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao động,
trong sinh hoạt gia đình, xã hội hoặc nói lên những kinh nghiệm sống và hành
động... thì bao giờ cũng là bộc lộ thái độ chủ quan của con người đối với những
hiện tượng khách quan chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện
tượng, những vấn đề. Cho nên ở ca dao cái tôi trữ tình được nổi lên một cách rõ
nét.
Ca dao phản ánh lịch sử, miêu tả khá chi tiết phong tục, tập quán trong sinh
hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động nhưng trước hết là bộc lộ tâm hồn
dân tộc trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã hội. Từ cuộc
sống lao động vất vả của nhân dân đã nảy sinh nhiều câu ca dao thể hiện các hình
thức lao động và nghề nghiệp khác nhau.
Những câu ca dao về đất nước và lịch sử, ca ngợi những danh lam thắng cảnh,
những đặc sản của các địa phương, truyền thống chống ngoại xâm, chống ách áp
bức phong kiến của nhân dân. Phong phú nhất, sâu sắc nhất là mảng ca dao về tình
yêu nam nữ. Trai gái gặp gỡ tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao
động, hội hè, đình đám, vui xuân. Họ có thể thổ lộ với nhau bằng câu "ví", bằng
hình thức giao duyên trong các hình thức đối đáp nam nữ. Nội dung những câu ca
dao này phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình yêu: những tình
cảm thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn hạnh phúc với những niềm mơ ước,
15


những nỗi nhớ nhung da diết hoặc cảm xúc nảy sinh từ những rủi ro ngang trái,
thất bại, khổ đau với những lời than thở oán trách.
Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động được thể hiện bằng những tình
cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp thống trị và lễ giáo phong kiến muốn bóp chết
những tình cảm hồn nhiên, lành mạnh ấy. Vì vậy trong ca dao, bên cạnh tiếng hát
ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ, xót xa về những
trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan
do trai gái không hợp tính nết nhau hoặc còn ngập ngừng, e ngại... nhưng phần lớn

là do những nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân do xã hội phong kiến
gây ra:
“Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em”
“Trách ai tham phú phụ bần
Tham xa mà bỏ nghĩa gần thuở xưa”
Và cũng dễ hiểu, trong ca dao có nhiều bài phản ánh tinh thần đấu tranh để bảo
vệ tình yêu chân chính của những “chàng trai” và những “cô gái”.
Những câu ca dao về chủ đề hôn nhân và gia đình biểu hiện các mối quan hệ
đẹp đẽ giữa tình cảm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em họ hàng, bà con làng
xóm... ở đây hiện lên hình ảnh người phụ nữ lao động đầy rẫy những chịu đựng
ngang trái mà vẫn cao thượng:
“Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm. chín mười chuyện cay”
Và còn biết bao nhiêu chuyện sầu thảm như là cảnh mẹ chồng nàng dâu, cảnh
“có mới nới cũ”, cảnh góa bụa... cho nên lời than thở của người phụ nữ về số phận
mình dưới chế độ phong kiến là âm điệu chủ yếu của mảng ca dao này.
Những bài ca dao mang nội dung đấu tranh chống áp bức của chế độ phong
kiến, chống đế quốc xâm lược đã vạch trần những cái xấu xa của bọn phong kiến
đế quốc, những tội ác của chúng đối với nhân dân ta và lòng căm thù sâu sắc của
nhân dân ta đối với chúng. Cùng với những bài ca dao mang nội dung trên là
những bài ca dao tập trung mũi nhọn đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hiện
tượng tiêu cực, cụ thể là đả kích, chế giễu tệ mê tín dị đoan, những hủ tục hôn
nhân, những thói hư tật xấu như: cờ bạc, rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam,
ích kỷ... ở đây ca dao đã thể hiện tính chiến đấu rất cao:
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cưới đêm là giặc cướp ngày là quan”
"Của bụt mất một đền mười

Bụt vẫn còn cười bụt chửa lấy cho”
16


Những bài ca dao nhận định về con người và việc đời như là tổng kết các kinh
nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, cách ứng xử của nhân dân càng thể hiện tính
cô đọng hàm súc của tục ngữ. Nhiều bài ngắn, chỉ một cặp lục bát thôi mà vẫn sâu
sắc về mặt cách sống và hành động:
"Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm”
Ở trên chúng ta mới đề cập đến nội dung ca dao trong một số chủ đề cơ bản.
Thực ra nó còn phong phú hơn nhiều, nhất là khi quan sát những bình diện, những
dạng thức biểu hiện ca dao sẽ thấy rõ hơn tính đa dạng, độc đáo của nó.
Với tính cách là thơ theo ý nghĩa đầy đủ của thơ, ca dao đã vận dụng mọi khả
năng về ngôn ngữ của dân tộc để biểu hiện một cách chính xác, tinh tế cuộc sống
và hơn nữa để biểu hiện một cách sinh động và đầy hình tượng nguyện vọng của
nhân dân về cuộc sống ấy. Ở tục ngữ, tư tưởng thường được biểu hiện qua hình
thức ngôn ngữ ngắn gọn. Ở ca dao, tư tưởng và tình cảm một mặt được cô đúc
dưới hình thức ngôn ngữ vững chắc và mặt khác lại còn được diễn đạt trong sự
vận động rất phong phú và đa dạng của ngôn ngữ văn học. Cho nên thông qua việc
sáng tác ca dao, nhân dân đã đưa ngôn ngữ văn học đến trình độ nghệ thuật cao,
nhiều khi đạt đến tính trong sáng cổ điển. Cảnh vật thiên nhiên, trạng thái xã hội,
thể chất và tâm tình con người đã thể hiện qua ca dao với những hình tượng văn
học, từ lâu đã trở thành truyền thống và nhiều khi có tính chất mẫu mực về mặt
nghệ thuật.
Nói đến ca dao tức là nói đến thơ, về mặt hình thức, trước hết phải nói đến nhịp
điệu vì đó là một đặc điểm có tính chất thể loại, một động lực chủ yếu của thơ.
Maiacôpxki nói: "Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lực cơ bản của câu thơ
không giải thích được nó đâu, chỉ có thể nói về nhịp điệu như nói về từ lực hay
điện. Từ lực hay điện - đó là những dạng của năng lượng”

Như vậy nhịp điệu giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nó luôn có tác dụng nâng
đỡ cảm xúc, làm tăng thêm sức biểu đạt của thơ. Ca dao ngắt nhịp hai là phổ biến,
nhưng nhiều trường hợp ca dao ngắt nhịp rất sáng tạo. Như để làm bật lên cái
quyết tâm vượt lên mọi khó khăn, trục trặc của những con người đi theo tiếng gọi
của tình yêu, ca dao đã bỏ nhịp hai:
"Yêu nhau/ tam tứ núi/ cũng trèo/
Thất bát sông/ cũng lội/ tam thập lục đèo/ cũng qua/”
"Thương nhau chẳng quản gì hơn/
Phá Tam Giang/ anh cũng lội/ núi Mẫu Sơn/ anh cũng trèo/”
Câu ca dao dưới đây nhịp điệu không biểu hiện lòng quyết tâm vượt khó của
những người muốn được xích lại gần nhau, được chung sống cùng nhau mà khẳng
định một sự ly khai dứt khoát:
"Chồng gì anh/ vợ gì tôi
17


Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”
Những câu ca dao trên, nhịp điệu biến hóa thích hợp với việc biểu hiện những
tâm trạng khác nhau.
Với ca dao, chúng ta còn có thể nêu lên nhiều cái độc đáo khác nữa của thể loại
này như: cách xưng hô, đối đáp, hình tượng, không gian, thời gian, tính ước lệ...
cùng với tục ngữ, ca dao được quần chúng nhân dân sáng tạo qua nhiều thế hệ tác
giả, qua nhiều thời đại đã có được vẻ đẹp nhiều mặt bền vững như ngày nay.
Có thể nói thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay luôn là phương tiện tuyền đạt nội
dung tốt nhất, đem lại những giá trị nhận thức, giá trị thẩm mỹ cho con người. Thơ
lục bát Việt Nam đã làm được điều đó trong suốt chặng đường từ lục bát ca dao
dân gian đến lục bát hiện đại.

1.2.2 Nét đặc sắc của thơ Lục Bát trong văn học dân gian
Trong kho tàng văn học Việt nam, văn học dân gian là sự kết tinh quá trình

sáng tạo nghệ thuật của nhân dân qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm còn lưu
truyền đến hôm nay đã được sàng lọc qua thời gian, bởi vậy chúng có giá trị về
nhiều mặt. Văn học dân gian không chỉ bồi đắp cho tâm hồn muôn triệu con
người Việt nam mà còn là nguồn cảm hứng vô tận đối với các nhà thơ, nhà văn,
giúp các nhà thơ, nhà văn học tập được nhiều điều.
Lục bát gắn liền với con người Việt .Dẫu rằng dân tộc Việt trải qua nghìn năm
Bắc thuộc, vài trăm năm thực dân đô hộ, ảnh hưởng văn hoá là có. Nhưng lục bát
là “đặc sản” của người Việt Nam. Trưa hè oi ả, bà ôm cháu nằm trên võng à ơi
bằng câu lục bát, mẹ hát dạy con cũng bằng câu lục bát :
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
(Cao dao)
Cái hay, cái đẹp và nét đặc sắc của thơ lục bát là tính phổ quát rộng, sức truyền
cảm sâu. Ngôn ngữ dìu dặt có vần luật, trầm bổng có tính nhạc và rất du dương.
Nếu như tiếng Hán có 4 thanh (Bình, Thượng, Khứ, Nhập) thì tiếng Hán - Việt có
8 thanh (ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc khứ, sắc nhập, nặng khứ, nặng nhập)[7;57].
Dẫn chứng ra đây không phải lệ thuộc hẳn vào sách vở. Bởi trong quá trình giao
lưu tiếp cận với nhiều nền văn hoá trên thế giới. Ảnh hưởng văn minh của văn hoá
nhân loại. Lục bát không ngừng đổi mới và làm mới mình. Thơ nói chung và lục
bát nói riêng phải thật giàu hình ảnh, tài ví von. Dù là giận hờn hay oán trách song
thơ vẫn mềm mại như câu ca dao:
“Công anh bắt tép nuôi cò
Đến khi cò lớn cò dò lên cây”.
Hay nói đến cảnh gian nan vất vả của người vợ:
“Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non”.
18


Để nói lên cảnh lam lũ, ca dao dùng hình ảnh con cò để nói về thân phận con

người. Lục bát đã vô tình trở thành lời hát ru. Người ta hát bằng thơ lục bát, tỏ tình
bằng thơ lục bát, đối đáp bằng thơ lục bát và cả khóc bằng thơ lục bát… Tám
thanh tiếng Hán - Việt làm câu lục bát giàu có lên, ngọt ngào dân dã và gần gũi
xiết bao. Sức mạnh của thơ lục bát truyền khẩu trong kháng chiến chống Pháp là
những bài hò vè, diễn ca, cổ động phong trào toàn dân đánh giặc.
Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay. Vì kết cấu vần, thanh điệu bằng trắc. Nhưng
đã hay thì đi vào lòng người đọc qua bao thế hệ:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
(ca dao)
Thực chất thơ lục bát không tác động trực tiếp vào cảm giác như nghệ thuật tạo
hình và nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật ngữ văn dân gian tác động tới con người
bằng những ký hiệu ngôn ngữ. Là một loại hình của nghệ thuật ngữ văn dân gian,
ca dao, thông qua những tín hiệu ngôn ngữ, đã thể hiện phong phú và linh hoạt
những hình tượng thẩm mỹ văn học, phản ánh mọi mặt của cuộc sống sinh hoạt,
những suy tư và diễn biến tình cảm của con người.
Thể lục bát truyền thống trong ca dao bộc lộ trực tiếp những tâm tình nảy sinh từ
thực tiễn cuộc sống; thể hiện từ những bức tranh lao động đến những suy nghĩ về
cuộc đời, từ khoảnh khắc hồn nhiên vô tư của con người đến những diễn biến tình
cảm trữ tình phong phú... Vì vậy ngôn ngữ ca dao vừa hàm chứa những giá trị suy
tư, suy lý như:
“Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng “
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi”
Hay:
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa”
(Ca dao)
Hoặc giàu chất tự sự trong “Thằng Bờm”:

“Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè”
Hơn thế, ngôn ngữ ca dao còn mang phong cách trữ tình dân gian bay bổng
lãng mạn:
“Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng.
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
19


Đan sàng thiếp cũng xin vâng.
Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng?”
Và:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay”
Ngôn ngữ mộc mạc giản dị khiến những lời thơ trong ca dao dường như trở nên
lung linh, đằm thắm hơn thể hiện đậm nét những giá trị nghệ thuật truyền thống.
Các tác phẩm ca dao theo thể lục bát được vận dụng linh hoạt, trong những giai
điệu ngâm ngợi, ca xướng uyển chuyển. Sở dĩ như vậy là do kết cấu đặc trưng
riêng biệt về âm luật của thể loại thơ này. Dưới góc độ thi pháp, có thể thấy lục bát
mang đầy đủ dáng dấp của một thể thơ cách luật với những yếu tố đặc thù về tổ
chức âm thanh: gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu trong hình thức tối thiểu là một cặp
lục bát gồm 2 câu với số tiếng cố định: 6 tiếng (câu lục) và 8 tiếng (câu bát). Vì
vậy, mọi nguyên tắc tổ chức ngôn từ thơ ca của thể lục bát được tạo dựng theo một
thể thức nhất định, lặp đi lặp lại trong tác phẩm, tuân thủ nghiêm ngặt cơ cấu tổ
chức âm luật về phương thức gieo vần, ngắt nhịp, phối điệu, cơ sở quan trọng để
tạo dựng lên những lời dân ca giàu chất dân gian. Phương thức gieo vần 6-8 là

thao tác đặc biệt tạo nên vẻ nhịp nhàng trong ngôn ngữ thơ, là phương tiện tổ chức
văn bản và là chỗ dựa cho sự phát triển nhạc tính để hình thành nên những âm
hưởng nhiều màu sắc vang vọng trong thơ. Lối ngắt nhịp chẵn (chủ yếu là nhịp
hai) có một ý nghĩa quan trọng tạo nên sự phân bố và lặp đi lặp lại ngắt quãng các
đơn vị ngôn từ, tạo điều kiện cho sự chuẩn hóa về mặt thẩm mỹ trong lời thơ. Còn
phối điệu mang lại âm điệu trầm bổng trong thơ bằng sự sắp xếp phối hợp các
thanh điệu bằng trắc theo nguyên tắc nhất định thể hiện tính cân đối hài hòa về âm
thanh giữa các nhịp và các vế tương đương:
“Cách sông/ em chẳng/ sang đâu
Anh về/ mua chỉ/ bắc cầu/ em sang
Chỉ xanh/ chỉ đỏ/ chỉ vàng
Một trăm/ thứ chỉ/ bắc ngang/ sông này”
(Ca dao)
Phương thức ngắt nhịp hai ở thể lục bát cũng là loại nhịp được vận dụng phổ biến
và bao trùm trong dân ca.
Mặt khác, chúng ta còn bắt gặp hình thức sử dụng ngôn ngữ đối thoại và độc
thoại trong lục bát ca dao. Độc thoại là hình thức kết cấu đơn giản nhất trong thơ
ca trữ tình dân gian nhằm biểu đạt một cách trực tiếp, giản dị, tự nhiên những ý
nghĩ tâm tư tình cảm của các nhân vật trữ tình. Ở dạng này, nội dung của lời ca
hướng vào một ý lớn với ngôn ngữ mang tính tự sự. Hình thức này thường được
sử dụng trong sinh hoạt dân ca nghi lễ phong tục và dân ca lao động. Đó là những
câu hát với những lời lẽ trang trọng kể về sự tích, ca ngợi công đức các anh hùng
trong dân ca nghi lễ:
20


“Bề trên hiển thánh đời Trần
Một đình một miếu bốn dân phụng thờ
Anh linh bảo hộ từ xưa
Dân khang vật thịnh đội nhờ thánh công...”

(Hát chèo tàu- Hà Tây)
Diễn tả tâm tình của người con gái trong khi dệt vải:
“Em ngồi kéo vải quay tơ
Để anh đọc sách ngâm thơ kẻo buồn
Em ngồi kéo vải bán buôn
Để bán cái buồn dệt vải cho anh”.
(Múa đèn - Thanh Hóa)
Ngôn ngữ đối thoại cũng thật gần gũi với sinh hoạt của cuộc sống đời thường.
Đó chỉ là hình ảnh con trâu, cái cày, những người bạn của nhà nông, nhưng khi
bước vào ca dao, nó đã trở thành những hình tượng nghệ thuật mang tính chất so
sánh:
“Của chua ai thấy chẳng thèm
Em cho chị mượn chồng em mấy ngày”
“Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm”.
Đặc biệt hình thức đối thoại trong ca dao là cơ sở cho những bài hát đối đáp
giao duyên, một hình thức phổ biến trong sinh hoạt diễn xướng dân ca ba miền mà
nhân vật chính là hai bên nam nữ. Phần lớn nội dung đều mang tính trữ tình, diễn
tả tâm trạng của tình yêu lứa đôi:
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao”.
Đó là những lời ca sử dụng hình thức ngôn ngữ với lối kết cấu hai vế tương
hợp; có nghĩa là lời của vế trên có thể được tách ra độc lập với lời của vế dưới vì
nó đã diễn tả một ý trọn vẹn. Do vậy người hát có thể vận dụng linh hoạt các vế
đối của câu thơ tùy theo hoàn cảnh diễn xướng.
Có thể nói, trong ca dao, dấu ấn đối thoại thể hiện không chỉ ở những bài ca
được kết cấu 2 vế đối đáp mà ngay cả ở những bài ca mang tính độc thoại vẫn là
sự thể hiện của lối trò truyện giãi bày trực tiếp được sử dụng linh hoạt trong các

cuộc hát lẻ và hát cuộc của sinh hoạt dân ca.
Thời gian được diễn tả trong ca dao là thời gian nghệ thuật. Mỗi thể loại văn học
đều mang nét đặc thù riêng về thời gian nghệ thuật. Nếu như trong sử thi là thời
gian “khuyết sử”- thời gian của lịch sử được thêu dệt mang tính khái quát hàng
21


nghìn năm, đậm chất thần thoại, thì thời gian trong cổ tích là thời gian của quá khứ
không xác định mang tính hoang đường gắn với một chuỗi liên tục của các sự kiện
từ “ngày xửa ngày xưa” , còn thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện
tại có nghĩa là thời gian của tác giả và thời gian của “người đọc” (người thưởng
thức) hòa lẫn với thời gian của người diễn xướng.
Thời gian hiện tại trong ca dao được biểu hiện bằng những cụm từ chỉ hiện tại
như: “bây giờ” “hôm nay”:
“Bây giờ anh bắt tay nàng
Hỏi sao lá ngọc cành vàng xa nhau”.
“Hôm nay mười bốn mai rằm
Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ”.
Tuy vậy “bây giờ” hay “hôm qua” chỉ là những cụm từ mang tính chất phiếm
chỉ, diễn tả một quãng thời gian của hiện tại, của sự gặp gỡ và chia ly, của những
mối tình sống mãi với thời gian... Như vậy, thời gian hiện tại trong ca dao chủ yếu
mang tính ước lệ, nhằm diễn tả tâm lý và những diễn biến tình cảm nội tâm của
nhân vật.Và ngay cả khi sử dụng những cụm từ chỉ quá khứ như: “hôm qua”,
“đêm qua”, “khi xưa” thì thời gian trong ca dao vẫn diễn tả sự việc mang ý nghĩa
hiện tại:
“ Đêm qua dồn dập mưa mau
Gió rung cành ngọc cho đau lá vàng
Trách chàng phụ ngãi tham vàng
Ngô đồng nỡ để phượng hoàng ngẩn ngơ
Biết nhau từ bấy đến giờ

Đã cho bướm đậu thì chừa sâu ra”.
Đó là tiếng lòng ai oán của người phụ nữ bị phụ bạc. Cô trách người phụ nghĩa,
trách cho số kiếp bạc bẽo đến “ngẩn ngơ”. Và dẫu rằng cái đêm mưa gió hôm qua
đã qua đi nhưng nỗi đau vẫn còn đó, vẫn giày vò cô với nỗi cô đơn thực tại của
ngày hôm nay. Bằng việc sử dụng cụm từ trạng ngữ diễn tả quá khứ ngay sát gần
hiện tại, tác giả đã đưa ra cách hiểu mang tính khái quát về hiện tại; không chỉ là
ngày hôm nay hay một khoảnh khắc nào đó cụ thể trên dòng đời mà đó là một hiện
tại mang tính ước lệ, hiện tại của thời gian nghệ thuật.
Bên cạnh đó, thời gian nghệ thuật trong ca dao còn được thể hiện qua những từ
láy để nhấn mạnh quá trình diễn ra của sự việc hiện tại:
“Chiều chiều ra đứng bờ ao
Nước kia không khát, khát khao duyên chàng”
“Đêm đêm chớp bể mưa nguồn
Hỏi người quân tử có buồn hay không?”

22


Những cụm từ chỉ thời gian trong ca dao như đêm qua, hôm nay, ngày nào,
chiều chiều, đêm đêm...chỉ mang tính chất ước lệ, không có giá trị cụ thể, bởi lẽ
người ta có thể vận dụng nó linh hoạt tùy vào từng hoàn cảnh diễn xướng. Người
diễn xướng có thể thay đổi lời hát tùy theo cảm hứng và ngữ cảnh: “Chiều chiều
ra đứng bờ ao”, “hôm nay ra đứng bờ ao” hay “đêm đêm ra đứng bờ ao” mà giá
trị ngữ nghĩa của câu hát vẫn không thay đổi.
Ngôn ngữ diễn tả không gian trong ca dao là ngôn ngữ miêu tả và bộc lộ cảm
xúc qua môi trường không gian vật lý và không gian tâm lý. Không gian vật lý là
những môi trường không gian cụ thể như gốc đa, bến nước, sân đình, đồng ruộng
nơi gặp gỡ trò chuyện, sinh hoạt lao động của các nhân vật trữ tình:
“Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai”

“Cây đa cũ, bến đò xưa,
Bộ hành có nghĩa, nắng mưa cũng chờ”.
Đó là những khung cảnh bình dị, gần gũi với cuộc sống của người dân đất
Việt, được khắc họa trong những câu ca dao mang màu sắc trữ tình đậm nét.
Dường như nó được thổi vào đó một tâm hồn, một tình cảm yêu thương tha thiết,
giản dị và chân thành như chính cuộc sống con người lao động nơi đây.
Bên cạnh không gian vật lý là môi trường không gian xã hội. Không ít câu ca
thể hiện mối quan hệ xã hội phức tạp và đa dạng giữa người với người bằng lối sử
dụng ngôn ngữ bình dị đời thường mang tính khẩu ngữ:
“Sáng trăng trải chiếu hai hàng
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ...”
Nhưng cũng có những lời ca thể hiện hình thức diễn tả thật tinh tế, dường
như chức năng định danh của các từ bị xóa nhòa nhường chỗ cho sự cảm nhận về
một không gian mênh mông của tâm hồn con người:
“ Đưa nhau giọt lệ không ngừng
Ngó sông, sông rộng, ngó rừng, rừng cao”.

“Người về em những trông theo
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi”.
Trong ca dao, đôi khi không gian là chất liệu nghệ thuật để tạo nên cấu tứ
của lời thơ:
“Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ
Trên bầu trời rạng rỡ mây xanh
Từ ngày chia rẽ em anh
Nước trời còn đó ai đành phụ nhau”.

23


Những hình ảnh so sánh đất trời, sông nước đã tạo nguồn cảm hứng cho lời

ca bằng một không gian mênh mông để rồi từ đó hòa với những tình cảm sâu lắng
của lòng người, đằm thắm và quyến rũ như chính vẻ đẹp tự nhiên mà tạo hóa đã
ban tặng cho sự sống con người.
Thời gian và không gian nghệ thuật là yếu tố quan trọng cho quá trình gợi hứng
của lời thơ. Đó là những ngôn ngữ của lối diễn tả hình ảnh, màu sắc sống động
mang âm điệu của hình thức diễn xướng đậm đà chất dân gian.
Bên cạnh yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật thì hình thức sử dụng đại từ
nhân xưng cũng thường thấy trong lục bát ca dao. Đại từ nhân xưng là hình thức
ngôn ngữ thể hiện rõ phương thức diễn xướng qua lối kết hợp câu đối đáp trong ca
dao dân ca, chủ yếu ở ngôi thứ nhất và thứ hai như: anh - em, chàng - thiếp, mình ta, đó - đây, chị hai - tôi, qua - bậu, tui - mình, bạn – ta……..
“Hỡi anh đi dường cái quan
Dừng chân đứng lại em than vài lời”.
”Cô kia cắt cỏ bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang”.
Đó là những lời thơ thể hiện rõ dấu ấn của lối kết cấu đối đáp, trò chuyện
mang đặc trưng bản chất thể loại của ca dao dân ca. Với lối trò chuyện, đối đáp
trực tiếp, đại từ nhân xưng trong ca dao đã được sử dụng một cách hết sức linh
hoạt và độc đáo. Và cách xưng hô trong ca dao là một trong những thủ pháp nghệ
thuật quan trọng khẳng định phương thức diễn xướng của thể loại.
Phương thức diễn xướng của thể loại ca dao dân ca với lối sử dụng đại từ nhân
xưng là sự thể hiện của phong cách ngẫu hứng trong sinh hoạt diễn xướng dân ca.
Đôi khi đó chỉ là những lời hát bâng quơ của những cặp nam nữ bất chợt gặp nhau
trên đường hay là những câu ca đối đáp của gái trai trong quá trình lao động, cũng
có khi nó là những cuộc hát có tổ chức vào những dịp lễ hội nhất định. Song dù
dưới hình thức nào thì hành động diễn xướng ở đây không nhất thiết phải là “đối
giọng” mà còn được thể hiện qua “đối lời” vì vậy cách xưng hô trong ca dao đóng
vai trò quan trọng nhằm diễn tả mọi sắc thái biểu cảm nội dung ngôn ngữ đối thoại
của nhân vật.
Tính phiếm chỉ, xu hướng không cá thể hóa nhân vật là đặc điểm của thơ ca
dân gian Việt Nam mà lối sử dụng đại từ nhân xưng là một trong những thủ pháp

nghệ thuật nổi bật làm tăng thêm giá trị diễn xướng của lời ca.
Có thể nói, ngôn ngữ ca dao với đặc trưng tính chất của thể loại thơ ca dân
gian, mang âm sắc của giai điệu lời nói tiếng Việt với hình thức kết cấu đối đáp,
ngôn ngữ diễn tả thời gian, không gian nghệ thuật mang tính gợi hứng và lối sử
dụng đại từ nhân xưng đầy biểu cảm là những yếu tố cơ bản tạo giá trị thẩm mỹ
cho những lời hát dân ca mang mầu sắc của sinh hoạt diễn xướng dân gian. Là cơ
sở (phần lời) của những lời hát dân ca, ca dao trong sự liên kết với màu sắc của âm
24


thanh, động tác điệu múa được diễn ra trong môi trường sinh hoạt cụ thể mang
tính đặc trưng vùng miền của sinh hoạt diễn xướng dân gian đã thực sự bay cao
hơn, xa hơn đạt đến giá trị hiện thực thẩm mỹ trọn vẹn hơn.
Đọc toàn bộ sáng tác ca dao người ta dễ dàng nhận ra có ba thể thơ tác giả dân
gian thường sử dụng để sáng tác, đó là thể thơ lục bát, Thể song thất lục bát hay
lục bát kết hợp và thể vãn.
Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên
cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thể thơ này. Nhịp điệu
thơ lục bát về cơ bản là nhịp chẵn 2/2/2, 2/4/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm
thương yêu, buồn đau…
“Người thương/ ơi hỡi/ người thương
Đi đâu/ mà để/ buồn hương/ lạnh lùng”.
Nhưng khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay
tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…đây là
một dạng của lục bát biến thể:
“Chồng gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây”
Lục bát biến thể là những câu ca dao có hình thức lục bát nhưng không khít rịt
trên sáu dưới tám mà có sự co giãn nhất định về âm tiết ( dẫn theo Lê Đức Luận),
về vị trí hiệp vần…Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao,

chúng ta có thể xem xét một số trường hợp :
Câu lục biến thể tăng tiếng :
Có khi là câu cảm :
“Con gà rừng tốt mã khoe lông
Chẳng cho đi chọi, nhốt lồng làm chi !
Thầy mẹ ơi, con đã đến thì
Mười bảy mười tám chẳng cho đi lấy chồng
Bây giờ người có, con không
Thấy chúng, thấy bạn, cực lòng con thay !”
Có khi sử dụng số đếm biểu thị không gian, thời gian :
“Ba bốn bữa rày anh có bụng trông
Kẻ lên người xuống cũng không thấy nàng”.
Phần lớn câu lục biến thể tăng tiến đều bắt nguồn từ dụng ý nghệ thuật của tác
giả dân gian mà cách nói phổ biến là : giảng giải, phân trần. Điều này buộc phải
kéo dài câu và dùng nhiều vế câu cùng một dòng thơ. Một số câu lục biến thể có
sự đan xen các từ khẩu ngữ đệm vào, đây là một đặc điểm của thơ hát nói.
Câu lục biến thể giảm số tiếng
Loại biến thể này lời ca như những câu châm ngôn, có lời như một tục ngữ. Lời
thơ xúc tích, hàm nghĩa mang tính triết lý nhân sinh, những nhận xét sắc sảo về
những vấn đề cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu.
“Mật ngọt chết ruồi
Ai mà đến đấy thời người say sưa”
“Người khôn chóng già
Người dại lẩn quất vào ra tối ngày”.
25


×