Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

sự kế thừa và phát triển về nghệ thuật ở tiểu thuyết hồ biểu chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.35 KB, 92 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BỘ MÔN NGỮ VĂN

HUỲNH NGỌC ÚT
MSSV: 6075469

SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN VỀ NGHỆ THUẬT
Ở TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành ngữ văn

Cán bộ hướng dẫn: Ths. HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG

Cần Thơ, tháng 5 năm 2011


PHẦN MỘT

MỞ ĐẦU

2


I. Lí do chọn đề tài
Nam bộ, vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, có nhiều sản vật tài
nguyên, đã trải qua nhiều thế kỉ tồn tại và phát triển. Với những điều kiện thuận lợi ấy
có thể mang đến cho người dân nơi đây cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chính vì thế, ít
nhiều tính cách của họ trở nên phóng khoáng và dễ gần gũi. Song song với quá trình
phát triển kinh tế thì đời sống tinh thần được quan tâm nhiều hơn, phát triển từ sơ khai


dần dần đến đỉnh cao của nghệ thuật. Những câu hò, điệu lí, câu vọng cổ rất được
người dân nơi đây ưa chuộng, họ hát đối đáp với nhau những lúc làm việc hay lúc rãnh
rỗi để quên đi cực nhọc, mệt mỏi. Trên cơ sở đó, văn chương Nam bộ hình thành và
phát triển, xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng ra đời. Trong
số nhà văn, nhà thơ nổi tiếng ấy là nhà văn – nhà tiểu thuyết – Hồ Biểu Chánh với
lượng tác phẩm khá lớn. Những tác phẩm của ông đã đi vào lòng người đọc với nghệ
thuật viết tiểu thuyết mới lạ, hấp dẫn so với những cây bút cùng thời. Tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh được xem là mới hơn cả về lối hành văn, cách xây dựng nhân vật, kết
cấu tác phẩm, nhất là về ngôn từ được sử dụng trong tác phẩm. Để có những cuốn tiểu
thuyết đoạt giải hôm nay thì thể loại tiểu thuyết buổi sơ khai phải trải qua những bước
thâm trầm. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh có sự kế thừa và đổi mới, tức là ông có kế thừa
và phát huy, xây dựng trên nền tảng của quá khứ kết hợp chọn lọc để hoàn thiện hơn
cho tiểu thuyết. Chính sự mới lạ về nghệ thuật tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ở giai
đoạn đầu thế kỉ đã thu hút người viết. Cho nên, người viết đã chọn đề tài “Sự kế thừa
và đổi mới về nghệ thuật ở tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phần nào đó tìm hiểu khía cạnh
lịch sử văn học dân tộc.

II. Lịch sử vấn đề
Nếu trước năm 1930, Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng ở miền Bắc với tác phẩm
Tố tâm thì ở Nam bộ Hồ Biểu Chánh là tác giả được nhiều người yêu thích, kể cả hai
miền Nam - Bắc. Về số lượng cũng như chất lượng mà nói, Hồ Biểu Chánh là nhà văn
đáng chú ý nhất của văn học vào giai đoạn này.
Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng, tác giả đã đề cập đến
Hồ Biểu Chánh với những đóng góp về đề tài, cách xây dựng truyện và văn cách cho
nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Thiếu Sơn trong bài viết đăng trên báo Phụ nữ Tân Văn số 106 ngày 19 tháng 10
năm 1931 có nói, Hồ Biểu Chánh là đại diện cho lối viết kiểu phê bình nhân vật. Ông
3



không ngần ngại ca ngợi Hồ Biểu Chánh: “Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đã biết
do sự quan sát mà sáng tạo ra được những nhân vật đúng với cái khuôn mẫu với
người đời, biết cho nhân vật đó sống theo tánh cách riêng, cái thái độ riêng, trong mỗi
hoàn cảnh riêng của họ, mà ông khéo léo cho những nhân vật đó hiệp thành cái xã hội
gần giống như xã hội ta…” Thiếu Sơn có nhận xét khá tinh nhạy về tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh, nhưng chỉ có cái nhìn về một phương diện nghệ thuật xây dựng “nhân
vật”.
Trong Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nguyễn Q. Thắng đã phân tích một số tác
phẩm tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh. Ông đánh giá về mặt đổi mới của nhân vật từ tính
cách đa dạng, tình cảm, tâm lí của nhân vật trong tác phẩm và phong phú về mặt nghệ
thuật ngôn từ. Nhưng nhìn chung, ông cũng chỉ đánh giá khái quát những đóng góp
của Hồ Biểu Chánh trong nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đầu thế kỉ XX, chứ chưa
đi sâu vào phân tích nội dung hay một phương diện nghệ thuật cụ thể của tác phẩm.
Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh là nhà tiểu thuyết Nam bộ duy nhất được Vũ Ngọc Phan
giới thiệu trong bộ sách phê bình văn học Nhà văn hiện đại Việt Nam (1942) tâp 1.
Ông khẳng định tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh giai đoạn đầu thế kỉ đã có nhiều đóng góp
cho văn học Việt Nam hiện đại, nó mang tính bình dân từ nhân vật đến lời văn, lối kết
cấu, dựng việc, sự quan sát của Hồ Biểu Chánh rất tinh sảo. Đó là bước đi đầu tiên để
có những bước đi vững vàng của tiểu thuyết sau này. Nhìn chung, Vũ Ngọc Phan đánh
giá cao ở Hồ Biểu Chánh về nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả cảnh, ông có đưa
một vài dẫn chứng để phân tích, tuy nhiên chưa đi sâu vào khám phá nghệ thuật của
tác phẩm, chỉ nhìn nhận ở bình diện bao quát.
Khi viết Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) Phan Cự Đệ tập trung vào một số tác
phẩm tiêu biểu được sáng từ năm 1900 đến 1930 một số tác phẩm của Hồ Biểu Chánh
ở miền Nam. Phân tích chủ yếu những mặt tích cực và hạn chế về nội dung tác phẩm.
Ông nhận định, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh vẫn còn những ảnh hưởng của tiểu thuyết
truyền thống về hình thức kết cấu và nội dung luân lí, nhưng nội dung có những điểm
đổi mới đáng ghi nhận là đã phản ánh được hiện thực xã hội Nam bộ trong giai đoạn
đầu thế kỉ đầy rối ren phức tạp.
Từ sau 1975 đến nay, đất nước thống nhất đã tạo điều kiện thuận lợi để khắc phục

những hạn chế ở giai đoạn trước trong việc nghiên cứu về Hồ Biểu Chánh. Các công
trình nghiên cứu có liên quan đến Hồ Biểu Chánh và trực tiếp nghiên cứu về những

4


khía cạnh khác tiểu thuyết của ông như: Những áng văn chương Quốc ngữ đầu tiên,
truyện Thầy Lazaro phiền của Nguyễn Văn Trung (1987); Tiến trình Văn nghệ miền
Nam hiện đại (1998), Bình minh của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1990) của
Nguyễn Q. Thắng; Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900 – 1945 của
Mã Giang Lân chủ biên (2000); Tiểu thuyết Nam bộ cuối thế kỉ XIX của
Nguyễn Kim Anh chủ biên (2004). Những công trình này đã có những nhận xét về vị
trí của Hồ Biểu Chánh trong quá trình vận động và phát triển của văn học Nam bộ
cũng như trong lòng độc giả những năm đầu thế kỉ XX.
Bên cạnh đó, những công trình trực tiếp nghiên cứu về tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
cũng góp phần làm phong phú hơn về quá trình tìm hiểu Hồ Biểu Chánh: Trong Thi
pháp nhân vật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh trước 1945 của Nguyễn Thị Phương Thảo đã
đi vào phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật thuộc các tầng lớp khác nhau trong xã
hội: giàu – nghèo, chính diện – phản diện từ ngoại hình, ngôn ngữ đến tính cách nhân
vật. Người viết đã đưa ra quan điểm của bản thân về tài tăng nghệ thuật

Hồ

Biểu Chánh, đó là sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, mang màu sắc thẩm
mĩ của người phương Đông. Đồng thời nêu lên quan niệm của tác giả khi xây dựng
nhân vật trong xã hội đầy biến động.
Cái nhìn của Hồ Biểu Chánh về người dân Nam bộ của Huỳnh Thị Lan Phương
(2006). Người viết cho rằng, Hồ Biểu chánh đã phản ánh được cuộc sống nghèo khó
và tính cách của người nông dân: hiền lành, bộc trực, thẳng thắng, sống nghĩa tình,
cam chịu, nhẫn nhục. Đôi khi có phản kháng nhưng yếu ớt và mang tính“tức nước vỡ

bờ”, bên canh đó thì “cái nhìn” của Hồ Biểu Chánh còn lệch lạc về người nông dân,
chưa nhận ra ở họ sức mạnh vùng lên. Nhà văn cũng đưa ra những biện pháp giúp cho
người nông dân thoát cảnh lầm thang, bằng sự hỗ trợ của những địa chủ giàu sang, tâm
đức, tuy nhiên đó chỉ là cách giải quyết giàu màu sắc “cải lương”. Nhưng dù sao thì
Hồ Biểu Chánh vẫn có “cái nhìn” nhân đạo đối với người nông dân.
Vài nét về phong cách ngôn ngữ tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh của Huỳnh Thị Lan
Phương và Nguyễn Văn Nở, nhận xét Hồ Biểu Chánh có phong cách rất đời thường,
nhà văn đã vận dụng những lớp ngôn ngữ như: khẩu ngữ, phương ngữ, từ biến thể, từ
địa phương … trong sáng tác của mình, chính phong cách ngôn ngữ này đã đưa tiểu
thuyết ông đến gần với đông đảo công chúng bình dân.

5


Công trình ngiên cứu Nghệ thuật kết cấu trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh của
Trà Thị Lâm Vân, chia kết cấu tiểu thuyết thành hai cấp độ: kết cấu trần thuật và kết
cấu hình tượng. Hồ Biểu Chánh đã học tập và vận dụng nghệ thuật kết cấu của tiểu
thuyết phương Tây vào trong tác phẩm của mình và đã có những thử nghiệm khá ấn
tượng. Dù vậy, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh ba mươi năm đầu thế kỉ vẫn có tính chất
quá độ giao thời, chưa thoát khỏi kết cấu chương hồi truyền thống.
Qua quá trình tìm tư liệu, người viết nhận thấy tất cả công trình nghiên cứu nói về
cuộc đời cũng như tác phẩm Hồ Biểu chánh, chỉ nhận xét sơ lược về nội dung và nghệ
thuật. Có chăng một số công trình đi vào nghiên cứu vài phương diện nghệ thuật riêng
lẻ của tác phẩm Hồ Biểu Chánh như: ngôn ngữ, kết cấu, nhân vật, lối hành văn… chứ
chưa có công trình nghiên cứu mang tính tổng quát về nghệ thuật của tác phẩm
Hồ Biểu Chánh.
Đề tài của người viết Sự kế thừa và đổi mới về nghệ thuật ở tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh sẽ đi vào nghiên cứu nghệ thuật, cụ thể hơn là yếu tố truyền thống và cách tân
về nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông. Thông qua thủ pháp nghệ thuật, người viết sẽ
nhận rõ hơn các giá trị tư tưởng của tác phẩm Hồ Biểu Chánh.


III. Mục đích nghiên cứu
Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại có cách tân về nội dung, nghệ thuật là điều đáng ghi
nhận. Tuy nhiên trên cơ sở “hiện đại hóa” văn học Việt Nam, các nhà văn của chúng
ta vẫn có sự kế thừa và phát huy truyền thống văn học. Hiện đại không có nghĩa là từ
bỏ, tuyệt giao truyền thống, cần phải có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại về cả
nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh không nằm ngoài sự kết hợp đó.
Đề tài đòi hỏi công trình nghiên cứu của chúng ta phải nhìn nhận và khẳng định đóng
góp của Hồ Biểu Chánh trên con đường hình thành tiểu thuyết Việt Nam và chỉ ra
được sự kế thừa và đổi mới về nghệ thuật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Từ đó
nhận rõ các giá trị của tác phẩm cũng như quan niệm của nhà văn thông qua những thủ
pháp nghệ thuật tiêu biểu. Đồng thời đề tài nghiên cứu giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về
nghệ thuật văn chương, đặc biệt là nghệ thuật viết tiểu thuyết hiện đại. Bản thân chúng
tôi nhận thấy đề tài có thể góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu và là dữ liệu
tham khảo về nghệ thuật tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh sau này.

IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

6


Đối tượng khảo sát của luận văn là một số tiểu thuyết tiêu biểu của Hồ Biểu Chánh.
Luận văn tập trung vào hai vấn đề chính: sự kế thừa và đổi mới về nghệ thuật ở tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết của nhà văn Nam bộ,
thông qua đó thấy được quan niệm nghệ thuật chi phối trong sáng tác truyện của ông.

V. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành khảo sát, giải quyết vấn đề đưa ra, trong luận văn chúng tôi sẽ sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất là phương pháp thống kê, phân loại nhằm tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật

mà Hồ Biểu Chánh sử dụng trong tác phẩm của ông. Trên cơ sở đó thấy được những
yếu tố truyền thống và cách tân của nhà văn.
Thứ hai là phương pháp tổng hợp, khái quát nhằm xác định những đóng góp tích
cực của ông trong quá trình hình thành tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Thứ ba là phương pháp phân tích lịch sử giúp cho việc tiếp cận các thủ pháp nghệ
thuật mang tính đặc thù thời đại của ông và các tư tưởng, quan niệm được thể hiện qua
thủ pháp ấy, như chứng minh, so sánh.

7


PHẦN HAI

NỘI DUNG CHÍNH

8


Chương 1: Vài nét về thể loại tiểu thuyết
1.1. Khái niệm về tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thuật ngữ Hán việt. Hiểu một cách đơn giản, tiểu là nhỏ nhặt,
thuyết là nói, là bàn. Thực tế cho thấy, hiện nay, tiểu thuyết là tác phẩm chứa đựng
dung lượng cuộc sống rộng lớn, nhiều trang so với các thể loại khác. Vậy chúng ta nên
hiểu “tiểu thuyết” như thế nào cho đúng và hợp lí.
Trước khi định nghĩa tiểu thuyết, chúng ta dành ít thời gian ngược dòng lịch sử tìm
hiểu sự ra đời của “tiểu thuyết”. Theo quan niệm về tiểu thuyết của Trung hoa, nguồn
gốc của tiểu thuyết là những câu chuyện vặt vãnh nơi thôn xóm, phố phường được
quan lại thu thập nhằm khảo sát tư tưởng chính trị và tập quán của người dân. Theo
quan niệm thời bấy giờ, nhất là tầng lớp thượng lưu, thì tiểu thuyết không được coi là
chính thư, không được dùng để dạy và học. Nghệ thuật tiểu thuyết không thể so sánh

với nghệ thuật lớn của thơ ca, nó chỉ là loại văn xuôi kể chuyện đời thường, chuyện
nhỏ nhặt, những thuật kể của của bọn văn gia tẹp nhẹp khác với bậc thánh hiền, học
giả. Chữ “tiểu” cũng có nghĩa là “tiểu sự tình”, ý nói những việc nhỏ nhặt, lượm lặt ở
những nơi góc phố, chợ búa, hay câu chuyện kể ở tửu trà, thuộc về dân gian tầm
thường. Phương Lựu đã khái quát lại hàm nghĩa tiểu thuyết qua các thời đại ở Trung
Hoa: chữ tiểu thuyết xuất hiện sớm nhất trong Ngoại thiên sách Trang Tử nhưng mang
hàm nghĩa gần như học thuyết chứ không phải là sáng tác văn học. Đến đời Hán trong
sách “Hán Thư”, thiên “Nghệ văn chí”, Ban Cố cho rằng tiểu thuyết gia thuộc một
trong mười loại nhà văn và nói tiếp: “Loại tiểu gia xuất thân từ hạng quan nhỏ, nghe
các lời nói trong thôn cùng ngõ hẻm khắp các nẻo đường mà viết nên. Khổng Tử có
nói: Tuy là con đường nhỏ, nhưng tất yếu cũng có cái có thể xem được… cho nên quân
tử không làm ra nó, song cũng không tiêu diệt nó”. Đến nhà Minh, Tiêu Hoa chủ nhân
thì cho rằng: “tiểu thuyết là sách của bọn tài tử” [46:135]. Nhà tiểu thuyết Phùng
Mộng Long có nói: “Ngoài Lục Kinh Quốc sử ra, phàm những trước thuật khác đều
gọi là tiểu thuyết” (Tựa cảnh thế hằng ngôn).
Manh nha từ thời Hán Vũ đế, thế kỉ thứ 2 trước công Nguyên, nhưng phải trải qua
hàng chục thế kỉ, thể loại tiểu thuyết của Trung Quốc mới thật sự hình thành và dần
dần phát triển. Nhất là vào thời thịnh Đường, loại tiểu thuyết truyền kì rất được ưa
9


chuộng, thể hiện vấn đề số phận và phẩm chất cá nhân trong cuộc sống. Thời Minh trở
đi tiểu thuyết vào giai đoạn phát triển rực rỡ theo dạng chương hồi như Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du ký của Ngô Thừa Ân…
Sang đời Thanh, xã hội trở nên thối nát, xuất hiện các tiểu thuyết xuất sắc kể về đời tư
và đạo đức thế sự như Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.
Qua đó, ta thấy tiểu thuyết Trung Hoa ra đời từ lớp bình dân trong dân gian, sáng
tác từ những chuyện nhỏ nhặt đơn giản đến chuyện lớn hơn, phức tạp hơn để phản ánh
mọi phương diện của cuộc sống. Nếu lấy Tam Quốc Diễn Nghĩa làm ví dụ ắt hẳn trước
khi tiểu thuyết bằng giấy mực ra đời đã có nhiều câu chuyện nhỏ nhặt được kể và lưu

truyền như Tam cố thảo lư, La Quán Trung như người tổng hợp lại để viết nên
Tam quốc diễn nghĩa hoàn chỉnh với dung lượng đồ sộ. Quan niệm tiểu thuyết
Trung Hoa có đặc điểm chung là tiểu thuyết không mang tính quy phạm như các thể
loại văn học khác như: thơ, phú, từ…
Chia loại tiểu thuyết ở Trung Hoa, có nhiều quan niệm khác nhau về cách chia tiểu
thuyết. Qua khảo sát thì tiểu thuyết chia thành 3 loại: Đoản thiên tiểu thuyết, trung
thiên tiểu thuyết, trường thiên tiểu thuyết. Hay: Giản thiên tiểu thuyết, truyền kì tiểu
thuyết, chương hồi tiểu thuyết (Dịch Quân Tả). Đây là những loại tiểu thuyết phát triển
qua nhiều giai đoạn văn học, trải qua bao thâm trầm trước biến thiên của hoàn cảnh xã
hội rồi phát triển rực rỡ ở đỉnh cao nhất vào thời Minh – Thanh và sau này thể loại tiểu
thuyết được thừa nhận là một thể loại văn học. Thể loại tiểu thuyết đã được các nhà
văn sử dụng để sáng tác phẩm phản ánh cuộc sống. Điều đáng nói hơn là từ nghệ thuật
kể truyện vặt vãnh, vãn trà, túc tửu bị xem thường không bằng những câu thơ, câu phú,
bài từ thì nay thể loại tiểu thuyết được công nhận và đưa vào giảng dạy trong nhà
trường. Bởi nó chứa đựng dung lượng lớn, đáp ứng được nhu cầu của người đọc và
của thời đại. Trong những quan niệm phân chia tiểu thuyết ở Trung Hoa thì chúng tôi
nhận thấy cách chia của Dịch Quân Tả (giản thể tiểu thuyết, truyền kì tiểu thuyết,
chương hồi tiểu thuyết) là gần gũi với tiểu thuyết Việt Nam hơn cả.
Ở Việt Nam, các loại truyện kể dân gian như loại truyện cổ tích, truyền kì, truyền
thuyết, dã sử… đã có từ xa xưa và lưu lại cho đời sau bằng hình thức truyền miệng. Từ
khoảng thế kỉ XIII – XIV trở đi nhiều tác phẩm văn xuôi ra đời: Lĩnh nam chích quái
của Trần Thế Pháp, Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên, Truyền kì mạn lục của
Nguyễn Dữ. Đầu thế kỉ XIX thì tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí của Ngô gia văn

10


phái ra đời. Đây là tác phẩm dài bằng văn xuôi có phạm vi phản ánh cuộc sống các sự
kiện lịch sử rộng lớn, nhân vật đông đảo, tính cách sinh động và quan hệ với nhau
trong một hệ thống tình tiết phong phú, kết cấu chặt chẽ. Chính quy mô của dung

lượng phản ánh cuộc sống đã làm cho tác phẩm Hoàng lê nhất thống chí bước vào một
vị trí tiểu thuyết đích thực. Đây là cuốn tiểu thuyết chữ Hán gần gũi nhất với tiểu
thuyết hiện đại của chúng ta hiện nay.
Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, cũng xếp các loại truyện Nôm: Trê
cóc, trinh thử vào thể loại tiểu thuyết viết bằng văn vần. Loại truyện thơ Nôm này đặc
biệt phát triển vào cuối đời nhà Trần và đầu nhà Nguyễn như: Hoa Tiên, Song Tinh,
Phạm Công Cúc Hoa, Phan Trần, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên. Các truyện Nôm này
ảnh hưởng từ tiểu thuyết Trung Hoa thời trung đại. Các nhà thơ, nhà văn đã mượn đề
tài, tích xưa trong sử Trung Hoa mà dựng nên câu chuyện riêng, thường có cấu trúc
quen thuộc “Hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên”. Nhân vật là những tài tử giai nhân, anh
hùng liệt nữ, tài hoa bạc mệnh… Cuối câu truyện thường là những bài học giáo huấn
về luân lí, đạo đức, nhân cách, chí làm trai hay thiện ác ở đời theo thuyết “nhân quả”
của đạo giáo.
Bước sang giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX danh từ “tiểu thuyết” mới bắt
đầu xuất hiện.
Cuộc xâm lược của thực dân Pháp chính là yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc hình
thành tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. Để thực hiện bộ máy
cai trị ở Việt Nam, thực dân Pháp đã đào tạo ra những tay chân đắc lực, sáng tạo ra
chữ Quốc ngữ, mở trường dạy học để đào tạo những người biết tiếng Pháp phục vụ lại
chúng. Nhờ đó các tầng lớp trí thức có được điều kiện tiếp xúc với nền văn hóa mới,
trong khung cảnh giao lưu văn hóa phương Tây. Trước hết là văn học Pháp, các nhà
văn được tiếp xúc với thể loại tiểu thuyết, những tác phẩm nổi tiếng của: Banzăc,
Lev Tolstoy, Huygô… và trong điều kiện các phương diện in ấn máy móc có ở
Việt Nam, tiểu thuyết được viết theo cách mới lần lượt ra đời. Đặc biệt là được viết
bằng khuôn chữ mới, chữ Quốc ngữ.
Giai đoạn sơ khai của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, các nhà văn của chúng ta đã
nói nhiều, viết nhiều về tiểu thuyết, nhưng mỗi người có quan niệm riêng. Tác phẩm
Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quảng tuy là một truyện ngắn nhưng nội
dung có thể xem như là một tác phẩm tiểu thuyết. Vì thế những nhà ngiên cứu thường


11


lấy tác phẩm làm mốc cho sự ra đời đầu tiên của văn học viết chữ Quốc ngữ ở Việt
Nam. Hay tác phẩm Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Chánh Chiếu, sau này có
tác phẩm Tố tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách được xem là một cuốn tiểu thuyết
được nhiều đọc giả đón nhận với tư tưởng tiến bộ ở thời kì đầu của tiểu thuyết hiện
đại. Thầy Lazaro Phiền là tác phẩm chính thức cấm mốc cho sự ra đời của tiểu thuyết
văn xuôi Việt Nam. Song chưa được hoàn chỉnh. Tác phẩm chỉ mang hơi, giọng và kết
cấu của tiểu thuyết hiện đại chứ chưa sắc sảo. Phải đến những năm 30 của thế kỉ XX
văn học Việt Nam mới xuất hiện tiểu thuyết với đầy đủ tính chất của thể loại hiện đại.
Cùng phong trào thơ mới, tiểu thuyết hiện đại Việt Nam từ năm 1930 – 1945 có những
bước tiến vượt bậc và thành tựu lớn với hai khuynh hướng sáng tác: Những khuynh
hướng lãng mạn với cây bút nổi tiếng của Tự Lực Văn Đoàn và khuynh hướng hiện
thực phê phán như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,
Nguyên Hồng… Trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc, chống Mĩ và chống Pháp, đội
ngũ sáng tác tiểu thuyết ngày càng đông đảo và đi dần đến sự hoàn thiện: Tô Hoài,
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên
Ngọc… Với lực lượng nhà văn như thế ít nhiều tiểu thuyết Việt Nam đạt được những
thành tựu đáng nói. Sau 1986, lịch sử Việt Nam bước sang giai đoạn mới, lịch sử tiểu
thuyết Việt Nam cũng sang trang mới, thời kì đổi mới văn học với những tên tuổi như:
Lê Lựu, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp… có nội dung sâu sắc hơn về
thân phận con người và hình thức có dấu hiệu manh nha của văn chương thời hiện đại.
Nhìn chung tiểu thuyết giai đoạn đầu còn non trẻ, yếu ớt chỉ là “Bước đầu làm quen
với thể loại mới mẻ này trong hoàn cảnh tác giả chưa phải đã có được nội lực sung
mãn về nhiều phương diện, tác phẩm của họ chưa đầy đặn, dài hơi, kể cũng là điều dễ
hiểu” [61:11].
Giai đoạn “bình minh của tiểu thuyết” đã có quan niệm mới về tiểu thuyết so với
quan niệm thời trung đại. Tiểu thuyết không còn là câu truyện nhỏ nhặt ở đầu đường
xó chợ, ở quán trà tán gẫu nữa. Tiểu thuyết hiện đại có số lượng lớn hơn, nhân vật

cũng nhiều hơn, đặc biệt là đưa cuộc sống riêng tư vào trong sáng tác, không còn
những tích xưa mà là hiện thực, con người của đời sống, nhất là tiểu thuyết mang tính
chất lãng mạn của văn học Pháp.
Giai đoạn đầu có rất nhiều quan niệm khác nhau về viểu thuyết, nhưng rất tiếc chưa
có khái niệm tiểu thuyết hoàn chỉnh và chính xác. Ở giai đoạn đầu, cách hiểu tiểu

12


thuyết còn mang tính khái quát để chỉ chung cho tác phẩm văn xuôi dù đó là truyện
ngắn, truyện dài hay truyện vừa. Sau này các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều quan
niệm và đi đến kết luận cho khái niệm tiểu thuyết như: Tô Hoài, Phan Cự Đệ,
Nguyễn Trọng Quảng, Ngô Đức kế, Nguyễn Thi... Song, cho đến hiện nay, khái niệm
“tiểu thuyết” vẫn chưa được thống nhất vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhất là giai
đoạn tiểu thuyết sau 1945 đến 1975. Sự phân định về mặt thể loại tiểu thuyết ngày
càng cụ thể hơn, khái niệm về tiểu thuyết cũng được các nhà lí luận phê bình văn học
miền Nam hiểu rõ ràng, sát với đặc trưng thể loại. Trong chuyên luận “Xây dựng tác
phẩm tiểu thuyết” Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Yếu tính của tiểu thuyết là cái tưởng
tượng, không thể kiểm chứng được”. Nguyễn Duy Anh thì quan niệm“tiểu thuyết mà
thiếu tưởng tượng không phải là tiểu thuyết. Và bắt buộc, nó khó lòng thoát lên cao”.
Còn với Võ Phiến: “Tiểu thuyết là công trình giả tưởng. Màu sắc, cây lá, gió trăng
mọi hoạt động đều là bịa đặt”… Cách diễn giải về khái niệm tiểu thuyết của các nhà
văn tuy khác nhau nhưng có điểm thống nhất trong quan niệm: tiểu thuyết là hư cấu,
tưởng tượng. Tuy nhiên, tiểu thuyết không phải luôn là tưởng tượng, hư cấu mà còn
phải gắn kết với hiện thực cuộc sống, cần phải tôn trọng sự thực đó. Bởi vì “với sự có
mặt của mình trong cuộc đời, tiểu thuyết là một hình thái của nghệ thuật, một lối diễn
đạt của con người gần với cuộc đời nhất”. Nó chỉ là “vẽ thực” tiểu thuyết không phải
là tấm gương phản ánh đời sống mà là cái phần được che giấu của đời sống, cái phần
không thuộc về đời sống” (Nguyễn Đình Toàn). Nó không phải là bản sao mà chỉ là
phản ánh qua lăng kính của tác giả một cách chủ quan mà thôi. Không chỉ phản ánh

cuộc đời, tiểu thuyết còn phải phản ánh thế giới sâu bên trong tâm hồn con người. Nếu
chúng ta chỉ quan tâm tiểu thuyết có phản ánh đúng sự thật của đời sống, tất cả nguyên
bản, thì vô hình dung làm nghèo giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết và làm vơi đi sự
tưởng tượng của người tiếp nhận.
Tiểu thuyết là một thể loại văn học gần gũi nhất với cuộc sống. Đây là đặc trưng
thẩm mĩ của tiểu thuyết. Trong thể loại này cuộc sống được thể hiện một cách chọn
vẹn với tất cả tính chất sinh động, phức tạp, nhiều màu, nhiều vẻ của nó. Đặc điểm này
cũng là đặc điểm chung của các ngành nghệ thuật khác. Nhưng đối với tiểu thuyết nó
được bộc lộ một cách sâu sắc nhất, rõ rệt nhất. Cuộc sống trong tiểu thuyết bao giờ
cũng là một cuộc sống phong phú, toàn diện về nhiều mặt từ ngoại cảnh đến tâm cảnh,
từ tình hình kinh tế, văn học, chính trị, tư tưởng…của thời đại đến những biến động

13


trong từng số phận con người. Tất cả hiện lên như một cuốn phim, được xây dựng
bằng chất liệu ngôn ngữ giàu hình ảnh “Cái khuynh hướng của tiểu thuyết bây giờ là
hết sức gần sự sống, được linh động và thật như cuộc sống” (Thạch Lam).
Nguyễn Thi cho rằng “Mỗi cuốn tiểu thuyết đều phần nào mang tính chất bách
khoa ấy, vì đời sống tự nó là bách khoa. Tiểu thuyết có thể đi sâu vào mọi ngỏ ngách
của tâm hồn, của đời sống với những phát hiện hết sức tinh vi”.
Tiểu thuyết là một thể loại dân chủ nhất cho phép người trần thuật có thể có thái độ
thân mật hoặc ngược lại đối với nhân vật của mình. Có sự đan chéo giữa cái xấu và cái
tốt, cái đẹp và cái cao thượng. Đó là màu sắc thẫm mĩ của tiểu thuyết được pha trộn,
màu sắc này được thể hiện trong từng nhân vật, từng sự kiện, từng chi tiết, mọi thứ đều
có khả năng quay ra một mặt khác, thậm chí là đối lập nhau.
Ở phương Tây, tiểu thuyết có mầm móng ban đầu từ các tác phẩm tự sự viết bằng
tiếng Roman, thường là thể loại anh hùng đó là những tiểu thuyết kị sĩ với những biến
cố và tình huống phi thường. Tuy nhiên, về nguồn gốc của thể loại, các nhà nghiên cứu
có thể truy nguyên nguồn gốc từ Hy Lạp cổ đại, bên cạnh những tác phẩm cổ đại với

cảm hứng về cái chung và cái anh hùng là chủ đạo, vẫn có những tác phẩm lấy cảm
hứng từ con người riêng lẻ và Belinski rất có lí khi cho rằng “Tiểu thuyết hình thành
khi vận mệnh con người, mọi mối quan hệ của nó với đời sống nhân dân được ý thức”
và “đời sống cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh hùng ca
Hy Lạp, nhưng có thể là nội dung tiểu thuyết”.
Tóm lại, cho đến bây giờ khái niệm “tiểu thuyết” vẫn chưa được thống nhất vẫn
còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng dù là góc độ nào đi chăng thì tiểu thuyết cũng có
những nét chung và khái quát:
Tiểu thuyết là hình thức kể chuyện với quy mô lớn có khả năng phản ánh hiện thực
ở mọi giới hạn không gian và thời gian… Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận nhiều
cuộc đời, những bức tranh phong tục, tập quán, đạo đức xã hội, miêu tả cuộc sống sinh
hoạt nhiều tính cách, đa dạng và điển hình. Số phận nhân vật, sự kiện chồng chéo vào
nhau.
Tiểu thuyết được định nghĩa trong nhiều từ điển, theo thời gian càng về sau định
nghĩa tiểu thuyết càng gần chân lí hơn:
Theo tự điển Hán – Việt, Sài Gòn, 1953: “Tiểu thuyết là thể loại văn xuôi kể một
câu truyện”.

14


Năm 1961, Tô Hoài đưa ra nhận định của mình về tiểu thuyết: “Không thể cho tiểu
thuyết một định nghĩa cố định tiểu thuyết lúc nào cũng phát triển và biến đổi. Tiểu
thuyết có khả năng tung hoành không bờ bến”.
Phan Cự Đệ đã nhận xét: “Đúng như anh Tô Hoài nói tiểu thuyết rất khó định
nghĩa, nhưng không lẽ chúng ta đành khoanh tay như những kẻ bất tri”. Vì tiểu thuyết
không phải “một vật tự có” của chủ nghĩa bất khả tri và vẫn có thể xác định được bản
chất của tiểu thuyết. Mặc khác, định nghĩa tiểu thuyết cần phải căn cứ vào dòng chủ
lưu của thể loại tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa. Đây là những tiểu thuyết phát triển
vào loại sớm trong lịch sử tiểu thuyết và sẽ có một tương lai lâu dài nhất so với những

dòng tiểu thuyết khác.
Tự điển học sinh, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1971: “Tiểu thuyết là truyện có
cốt truyện và nhân vật mà nhà văn dựa vào cuộc sống xây dựng nên theo một phương
pháp điển hình hóa và theo một tư tưởng tình cảm”.
Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988: “Tiểu thuyết là
truyện dài bằng văn xuôi có dung lượng lớn với nhiều nhân vật hoạt động trong phạm
vi lịch sử xã hội rộng lớn”.
Dựa vào những đặc điểm và định nghĩa nêu trên đồng thời căn cứ vào thực tiễn
phát triển thể loại tiểu thuyết, chúng tôi xin đưa ra quan niệm của mình về tiểu thuyết:
“Tiểu thuyết là hình thức kể truyện với quy mô lớn, chủ yếu viết bằng văn xuôi.
Trong đó có nhiều trang, nhiều nhân vật, tình tiết phức tạp, nhiều tuyến, nhiều tầng
hoạt động trong không gian và thời gian giới hạn. Chính kết cấu chặt chẽ, đa tầng, đa
tuyến, tình tiết hấp dẫn, sự phong phú của cuộc sống được phản ánh trong tiểu thuyết
là chất liệu sống cho tiểu thuyết tồn tại và phát triển đến ngày hôm nay”.

1.2. Một số đặc điểm của tiểu thuyết trung đại
Tiểu thuyết trung đại phản ánh bức tranh xã hội thật sinh động với nhiều tầng
nghĩa, nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chung quy lại thì đó là vấn đề con người, nhất
là thân phận người phụ nữ, ngoại trừ tiểu thuyết chương hồi là tiểu thuyết lịch sử ít nói
đến.
Vấn đề về người phụ nữ đó là biểu hiện trực tiếp quan niệm về tình yêu, hạnh phúc
của các nhà văn, nhà thơ nhưng cho đến nay nó chưa được lí giải một cách hợp lí và
thuyết phục. Trong Truyện Kiều, nhân vật Thúy Kiều phải chịu cảnh mười lăm năm
lưu lạc thật oan ức, nàng phải xa gia đình, xa người mà mình đã nặng lời hẹn ước.

15


Kiều hết ở nhà chứa này đến nhà chứa khác, làm vợ khắp thiên hạ nhưng cô không
được quyền lên tiếng đòi công lí cho mình. Cô chẳng khác nào một thứ trò chơi dai

dẳng của người và của đời, mà đến hồi cuối vẫn không được hưởng hạnh phúc một
cách trọn vẹn. Mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc và các thế lực tàn bạo của xã hội
phong kiến chính là hạt nhân nghệ thuật của tiểu thuyết trung đại như một số truyện
trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ chẳng hạn, người phụ nữ luôn gánh chịu
những thiệt thòi, khổ sở do chiến tranh gây ra (Truyện Lệ Nương). Hoặc vì kẻ ác ỷ thế
lộng quyền mà phải chịu cảnh “rẽ thúy chia uyên” (Truyện Túy Tiêu), hoặc vì chế độ
nam quyền phong kiến nên vợ chồng, con cái phải xa cách tiêu biểu là truyện Người
con gái Nam Xương. Niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ thường đi vào ngõ
cụt dẫn đến cái chết thương tâm. Trong Truyện Kiều, đáng lí ra Kiều đã được sống êm
đềm hạnh phúc bên cạnh Từ Hải nhưng hạnh phúc ấy lại một lần nữa tuột khỏi tầm
tay. Bởi những kẻ chuyên quyền, xảo trá, độc ác như Hồ Tôn Hiến đã âm mưu chia
cắt, khuyên dụ Thúy Kiều, giết Từ Hải hòng lập công với triều đình và chiếm đoạt mỹ
nhân cho thỏa lòng dâm dục. Bước ngoặc cuối cùng của cuộc đời Kiều là khi nàng
nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn chấm dứt những năm tháng đoạn trường đầy cay
đắng, tủi nhục. Thiết nghĩ, đó là hành động tất yếu sẽ xảy ra, Thúy Kiều đã rơi vào tình
trạng vô cùng tuyệt vọng. Từ Hải là vị anh hùng cái thế, người ân nhân cao cả của
Thúy Kiều đã chết vì sự lừa gạt, giả dối của Hồ Tôn Hiến. Ước mơ có một mái ấm gia
đình nương tựa và gặp lại cha mẹ sau mười lăm năm lưu lạc thế là bị tan vỡ. Trước
mắt Kiều là một màn đen tối, nàng bị tên “Tổng đốc đại thần” đẩy vào cảnh éo le,
nhục nhã không thể chấp nhận được:
“Giết chồng mà lại lấy chồng.
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!”
Đặc biệt là nhân vật Đào Hàn Than trong truyện Nghiệp oan của Đào Thị, nàng
chính là biểu hiện của lòng khát khao mãnh liệt vươn tới cuộc sống hạnh phúc mà
nàng hằng mong muốn. Hơn mọi đau khổ của những người phụ nữ trong Truyền kì
mạn lục, Đào Thị là hiện thân mỗi nỗi đau của một kiếp người bé nhỏ không phương
tự vệ, trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công mà Nguyễn Dữ thấy được. Truyện
Cây gạo nói về cô gái chết trẻ tên là Nhị Khanh biến thành ma, quyến rũ một chàng lái


16


buôn tên là Trung Ngộ, hai người yêu nhau say đắm. Đến khi biết nàng là ma và tung
tích lúc sống rõ ràng, chàng thoát khỏi sự ngăn trở của người thân để tìm đến với
người yêu và ôm lấy quan tài của nàng mà chết. Người ta chôn chàng bên cạnh nàng.
Từ đó về sau phàm những đêm tối trời, người ta thường thấy họ dắt nhau đi đôi, khi thì
hát, khi thì khóc. Ý nghĩa câu truyện đọng lại ở đó, gợi cho đọc giả nhiều suy nghĩ,
tình yêu là tình cảm thủy chung, sâu sắc, mãnh liệt và nghĩa tình, đồng thời đó cũng là
niềm khao khát một hạnh phúc trong sáng, chân thật của con người theo quy luật tự
nhiên. Cuộc đời cô gái bị cắt ngang, cô chết nhưng luôn tìm kiếm tình yêu cho mình,
khao khát được hạnh phúc. Tiếng kêu dấu kín trong câu truyện của con người cá nhân
thật tội nghiệp, bao nhiêu chi tiết tiếp theo là dành cho xã hội gia giáo đáng lên án, phỉ
nhổ.
Hay trong Chinh phụ ngâm, nội dung ý nghĩa chính của khúc ngâm là lên án chiến
tranh, lên án mọi thứ danh lợi phù hoa, để có được nó người phụ nữ phải đánh đổi
bằng hạnh phúc, bằng cả tuổi thanh xuân mơ mộng. Đồng thời cũng bày tỏ nỗi xót xa
sâu sắc, niềm ước mơ thầm kín về hạnh phúc lứa đôi, vợ chồng sum hợp, nỗi cô đơn
trong cảnh phòng khuê lạnh lẽo. Họ đang vui sung sướng với hạnh phúc thực tại bên
gia đình, thế mà bỗng chốc người phụ nữ phải sống lẻ loi đơn độc, một mình, một
bóng trông ngóng tin chồng. Thử xem nỗi niềm ấy sâu đến độ nào:
“Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt
Lầu hoa kia phản phất mùi hương.”
Nhớ cảnh bên nhau ngày nọ, hạnh phúc ấm êm còn vươn vấn mà hai người phải
chia lìa hai ngã, vẻ mặt còn đây, hơi thở còn đây nhưng người xưa không còn kề bên
nữa.
Ngoài ra tiểu thuyết thời trung đại cũng đề cập đến những mâu thuẫn trong xã hội,
xã hội nào cũng có những mâu thuẫn nhưng chỉ là mức độ mà thôi. Vào thời trung đại
thì sự mâu thuẫn thể hiện rõ, như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du bọn quan lại mặc

dù rất giàu có nhưng vì muốn nâng cao quyền lực và danh vọng của mình nên đã bốc
lột người dân, tham ô mà hại gia đình Kiều. Vì vậy sự mâu thuẫn trong xã hội ngày
càng gây gắt, kẻ giàu thì lại giàu thêm, người nghèo càng trở nên xơ xát và dần dần đi
vào ngõ cụt. Bọn quan lại, cường hào ỷ thế ỷ quyền đàn áp những con người thấp cổ
bé miệng có địa vị nhỏ nhoi trong xã hội. Đây là những hình ảnh của bọn quyền cao
chức trọng: “Quyền vị đã cao Lý Bền làm những việc trái phép, dựa vào kẻ trộm cướp

17


như lòng ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam
không chán, lại tậu lắm ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm
ao…” [32:345]. Một tên quan công nhiên tuyên bố “Ta làm quan đến quan ngôi
Thượng Công, quyền cao lộc hậu, việc khoản đãi khách mỗi ngày tốn phí đến hàng
ngàn trung tước” [31:322]. Trong khi đó người nông dân sống trong cảnh “Người nằm
trong dòng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ hỏi, ai nấy đều
vai sưng, tay rách, rất khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên không chút từ tâm” [31:347].
Qua một số truyện, chúng ta thấy trong xã hội lúc bấy giờ lớp người buôn bán giàu
có thường dựa vào thế lực đồng tiền để mưu cầu khoái lạc vật chất không hiếm gì.
Trọng Quỳ vì chơi bời và ham tiền trong một canh bạc đã đẩy vợ rơi vào tay lái buôn
nhà giàu là Đỗ Tam (Người Nghĩa Phụ Khoái Châu). Điều đó cho ta thấy được sức
mạnh của đồng tiền cũng là một nội dung quan trọng của tiểu thuyết trung đại mà các
nhà văn muốn đề cập đến. Ở đây không còn vị trí nào cho lòng nhân nghĩa nữa mà chỉ
có chỗ đứng của bọn cường quyền với quan niệm “kẻ mạnh là kẻ phải biết đứng trên
vai của kẻ khác”. Nguyễn Du đã thể hiện điều đó qua Truyện Kiều. Trong Truyện
Kiều hầu như đồng tiền có sức mạnh vạn năng, vì tiền mà gia đình Kiều tan nát và
nàng phải chịu sống cuộc đời lưu lạc suốt mười lăm năm trời. Vì tiền mà bọn Tú Bà,
Mã Giám Sinh, Sở Khanh không kể nhân tính, bất chấp đạo đức để hành nghề buôn
thịt bán người, giết chết cuộc đời của biết cô gái son trẻ vào chốn tanh hôi, bùn nhơ,
nhục nhã. Trong chế độ phong kiến công lí trở thành màn sương mỏng manh trước ánh

hào quang của đồng tiền, quyền thế, không phân biệt đúng sai, hậu quả ra sao.
Tiểu thuyết trung đại thường được viết theo kiểu chương hồi, tiểu thuyết Việt Nam
trong văn học truyền thống sang thế kỉ XVIII mới xuất hiện hoàn chỉnh hơn, có giá trị
lịch sử và xã hội. “Văn học Việt Nam trung đại có ba bộ tiểu thuyết chương hồi viết
bằng chữ Hán. Đó là Nam triều công nghiệp diễn chí, còn gọi là Việt Nam khai quốc
chí truyện của Nguyễn Khoa Chiêm, Tây Dương Gia Tố sĩ lục do tác giả Phạm Ngộ
Hiên, Nguyễn Hòa Đường, Nguyễn Bá Ân, Trần Trình Hiến soạn và Hoàng lê thống
nhất chí của Ngô Gia Văn Phái…” [53:37].
Tiểu thuyết chương hồi viết bằng văn xuôi chữ Hán là một hiện tượng độc đáo của
văn học Việt Nam trong bối cảnh các nền văn học chịu ảnh hưởng từ văn học chữ Hán.
Khác với truyện truyền kì, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trung đại hầu như không
đề cập đến đề tài tình yêu, mà chủ yếu liên quan đến đề tài lịch sử. Đề tài lịch sử này

18


theo nhận xét của Rytin về Hoàng lê nhất thống chí thì không phải là lịch sử quá khứ,
mà lịch sử đương đại của tác giả. Ghi chép lịch sử đương đại của các sử gia. Nó có nét
độc đáo so với tiểu thuyết lịch sử hiện đại. Tính thời sự, chính trị của các bộ tiểu
thuyết chương hồi đều rất cao. Tiểu thuyết gần với kí sự lịch sử. Do là tiểu thuyết lịch
sử nên hầu như ít có việc hư cấu nhân vật và sự kiện. Về hình thức. Trừ Nam triều
công nghiệp diễn chí, Tây Dương Gia Tô bí lục là chia quyển, còn Hoàng lê nhất
thống chí hoàn toàn theo mô hình chương hồi Trung Quốc. Mỗi hồi chứa đựng một sự
kiện chính, có một câu đối ở đầu hồi tóm gọn nội dung sự kiện. Cách trần thuật mở
đầu bằng niên hiệu lịch sử. Tả người, chủ yếu bằng phương pháp tương phản, miêu tả
tâm lí nhân vật chỉ bằng vài đường nét phát họa.
Tiểu thuyết lịch sử miêu tả chiến trận, thuật dùng binh, tuy nhiên cũng miêu tả
nhiều trạng thái xã hội và nhiều bi kịch, chẳng hạn: Nam triều công nghiệp diễn chí,
Tây Dương Gia Tô bí lục lại mang tính chất tố cáo. Tác giả vạch ra rằng đạo Giesu là
lừa phỉnh con người, là các phép nhằm khiến con người trở nên ngu độn, mất hết tình

cảm, mất hết chí khôn, để dễ bề sai bảo. Tính chất lật tẩy và đối thoại, chế giễu là đặt
trưng của bút pháp.
Tóm lại, tiểu thuyết chương hồi Việt Nam trung đại là thể loại gắn liền với lịch sử,
trực tiếp lấy lịch sử làm đề tài. Nó thể hiện nổi bật tính chất văn sử bất phản, đồng thời
cũng thể hiện rõ chất văn học do chú trọng vào tính cách, chi tiết biểu hiện và hình
thức tổ chức tác phẩm. Mặc khác do gắn với lịch sử, số phận nhân vật ít khi kết thúc
có hậu, mà thường là bi kịch. Đây là đặc điểm quan trọng làm cho các văn học viết
khác hẳn văn học truyền miệng dân gian.
Công việc sáng tạo của nhà văn là họ không chú ý đến xây dựng cốt truyện riêng
biệt nào mà họ viết ra: “trung thành với nguyên mẫu” càng ít hư cấu bịa đặt càng tốt,
hợp nguyên tắt thông báo. Do kết cấu chương hồi nên tác phẩm không có nhiều bình
diện, nhiều tuyến nhân vật và nội dung xuyên suốt trải dài theo một xâu chuỗi không
đan chéo vào nhau như tiểu thuyết hiện đại. Trong tiểu thuyết trung đại, nhà văn kể
theo lối văn biền ngẫu, nhiều điển cố điển tích và ước lệ tượng trưng. Hiện thực cuộc
sống trong tiểu thuyết trung đại Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng và chi phối bởi giáo
huấn “Văn dĩ tải đạo”, tính uyên bác, tính sùng cổ, chủ nghĩa quy phạm và tính phi
ngã rất phổ biến trong nền văn học phong kiến. Điều này làm hạn chế việc bộc lộ cái

19


tôi cá nhân cũng như tính độc đáo của người sáng tác, nhân vật là những người anh
hùng, mỹ nhân tài hoa, cang cường khí tiết.
Ngoài ra tiểu thuyết trung đại có nguồn gốc từ những câu chuyện kể dân gian, vì
thế ít nhiều còn mang lối kể, mô tiếp dân gian quen thuộc. Quá trình sưu tầm chỉnh lí
truyện dân gian, hay khai thác đề tài văn học dân gian của tác giả văn học viết, là một
quá trình kế thừa nâng cao liên tục, người sau nối gót và rút kinh nghiệm của người đi
trước. Từ đó, vai trò người dẫn chuyện, phương thức dẫn chuyện như: theo trật tự thời
gian, sử dụng yếu tố thần linh, bố trí nhân vật thành hai tuyến thiện ác, tốt xấu, kết
thúc có hậu… đều những kết cấu đặc trưng mà tiểu thuyết trung đại thường sử dụng.


1.3. Một số đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại
Tiểu thuyết vốn là một thể loại sinh sau đẻ muộn, nhưng ngày nay, tiểu thuyết hiện
đại ở Việt Nam cũng như trên thế giới có vị trí quan trọng trong văn học. Quan niệm
hiện đại bao gồm cả hai yếu tố nội dung và hình thức. Tiểu thuyết hiện đại phản ánh
được tư tưởng tình cảm của những giai cấp, những tầng lớp trong xã hội hiện đại, đặt
ra những vấn đề có ý nghĩa thời đại. Nó soi rọi ánh sáng vào thời kì quá khứ xa xưa
nhưng với quan điểm lịch sử, với cái nhìn đánh giá của con người hiện đại. Tiểu thuyết
hiện đại Việt Nam được xây dựng theo kiểu kết cấu mới, phương pháp điển hình hóa
(khác với những truyện Nôm và tiểu thuyết chương hồi trong thế kỉ XVIII – XIX),
ngôn ngữ mới – không phải thứ văn chương biền ngẫu đầy điển tích nặng nề, và quan
điểm thẩm mĩ mới.
Tiểu thuyết hiện đại có xu hướng tả thực, chủ trương phủ định cái huyền ảo, li kì
trong tiểu thuyết truyền thống, đề cao vai trò tả thực trong tiểu thuyết. Nếu như những
tiểu thuyết truyền thống thường khai thác những truyện xưa, chuyện thần tiên huyền ảo
thì tiểu thuyết hiện đại chọn những đề tài có ý nghĩa thực tế, gần gũi với đời sống. Tác
phẩm nêu ra những vấn đề thiết thực đối với đời sống xã hội, khác với những câu
chuyện mang tính răn dạy luân lí cho người đọc trong tiểu thuyết trung đại. Tả thực
tức là cần thể hiện cái nguyên sơ, bề bộn, ngổn ngang của cuộc sống, cái tự nhiên của
cuộc đời với tất cả tính chất sinh động, nhiều màu nhiều vẻ của nó. Thạch Lam từng
nhận xét: “Cái khuynh hướng của tiểu thuyết bây giờ là hết sức gần sự sống để được
linh hoạt và thật như cuộc đời” [47:119]. Trong tiểu thuyết ta có thể bắt gặp mọi thứ
xảy ra ở cuộc đời thực: những vấn đề triết học, văn nghệ, chính trị quân sự, kinh tế,
đạo đức mà nhân loại hằng quan tâm, sự hình thành tính cách của một con người,

20


những nét tinh tế, phức tạp trong tâm hồn… đó là một xã hội thu nhỏ mà tiểu thuyết
hiện đại thể hiện. Ở đây tác giả đã khám phá nhiều lĩnh vực của cuộc sống, không chỉ

phản ánh hiện thực trong mâu thuẫn dữ dội, quyết liệt mà còn đi sâu vào cuộc sống
bình thường với tất cả những phong tục, lễ nghi, sinh hoạt lao động. Tiểu thuyết còn
đưa ta đến cuộc sống đời tư mà tiểu thuyết trung đại ít nói đến. Văn học là tác phẩm
nghệ thuật thể hiện dấu ấn hư cấu sáng tạo của người nghệ sĩ. Tác phẩm phải có cấu
trúc riêng trở thành một chỉnh thể nghệ thuật, có quy luật sinh tồn của mình. Cho nên
ngoài yếu tố tả thực, tiểu thuyết hiện đại còn có những sáng tạo, xây dựng nhân vật
theo hướng hiện đại hóa.
Nhân vật là yếu tố nghệ thuật quan trọng bậc nhất của một tiểu thuyết. Tiểu thuyết
hiện đại có những cách tân về nghệ thuật xây dựng nhân vật. Có thể nhận thấy, tính
hiện đại của nhân vật tiểu thuyết là vấn đề trung tâm mà các nhà phê bình thường chú
ý, bàn luận và đánh giá.
Quan niệm nghệ thuật về con người giai đoạn này phủ nhận quan niệm con người
siêu phàm hoặc con người tính cách đơn nhất thời trung đại, khẳng định quan niệm
con người là một thực thể tính cách phức tạp và nhiều sắc thái của tiểu thuyết hiện đại.
Tính cách nhân vật có sự phát triển “tự thân” như là trong cuộc đời thật. Tiểu thuyết
của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Trung Thành, Chu Văn… hiện ra như cái gì đó tương
tự với cuộc sống phức tạp và sinh động. Sự phát triển “tự thân” của các nhân vật
chứng minh rằng những hình tượng trong tiểu thuyết có tính chất tạo hình, có thể có
cuộc sống độc lập, khách quan đối với tác giả. Điều này chỉ xuất hiện ở tiểu thuyết
hiện đại, nhất là khi chủ nghĩa hiện thực xuất hiện. Tiểu thuyết trung đại thường can
thiệp một cách lộ liễu vào cuộc đời của các nhân vật hoặc dẫn dắt các nhân vật “một
cách khéo léo”, một số tác giả truyện thơ Nôm thường chọn những sườn truyện đã có
sẵn. Trong trường hợp này, nhân vật dường như không gây ra một sự bất ngờ nào đối
với kế hoạch định sẵn của tác giả. Mặt khác nhân vật của tiểu thuyết hiện đại phát triển
theo nguyên lí “vận động”. Tác giả và nhân vật trung đại cũng vậy, họ không phải
luôn luôn hướng về phía trước, về thế giới đang mở ra mà hướng về phía sau, về phía
khởi điểm, nơi mà tất cả cần quay lại vì thế kết cấu câu truyện theo một vòng khép kín.
Tiểu thuyết hiện đại kết thúc nhưng không chấm hết câu chuyện mà mở ra dường như
thời gian đang tiếp diễn và nhân vật vẫn đang vận động về phía trước. Tiểu thuyết
Trước giờ nổ sung của Lê Khâm, kết thúc tác phẩm là cảnh một chiến sĩ đã hi sinh


21


nhưng cuộc sống không dừng lại ở đó, bởi “sóng người ào ạt đổ về hướng nam theo
con đường đã mở….sông núi lào đang hát khúc anh hùng ca đời đời không tắt”.
Chưa bao giờ văn học lại gần với cuộc sống như trong tiểu thuyết hiện đại. Nhà
văn tái tạo lại hiện thực chứ không phải chụp nguyên sơ bản thể cuộc sống. Cuộc sống
trong tiểu thuyết trở nên đậm nét hơn, xúc động hơn. Ta nhận ra một cách nhìn, cách
nghĩ sâu sắc hơn, tinh tế lạ thường và nhìn cuộc đời khác hơn, độc đáo với nhiều gốc
độ từ thế giới hiện thực của đời thường.
Tiểu thuyết hiện đại sử dụng hình thức thể hiện là văn xuôi Quốc ngữ. Tính văn
xuôi được thể hiện ngay trong ngôn ngữ nghệ thuật. Trong tiểu thuyết ngôn ngữ trần
thuật mang tính chính xác, khách quan, nó gần với ngôn ngữ đời thường hay ngôn ngữ
của thể loại bút kí, nhật kí… thứ ngôn ngữ này đã tạo ra được sức hấp dẫn của tiểu
thuyết. Ngôn ngữ của tiểu thuyết lãng mạn mang rõ dấu ấn cái “Tôi” khách quan của
tác giả, ngôn ngữ chải chuốt và mòn sáo, nhưng lại giàu cảm xúc, giàu chất thơ, chất
trữ tình và các biện pháp tu từ. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa
thì mang tính trào phúng, cường điệu, phóng đại rất cao và tác giả bộc lộ rất rõ những
tư tưởng, khuynh hướng của mình trong cách nhìn sự vật, sự việc, hiện tượng, nhân vật
nào đó, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng đã thể hiện rõ những tính chất trên.
Tiểu thuyết hiện đại mang tính chất tổng hợp, nhiều phong cách và thanh điệu để
kể chuyện, pha trộn cái cao cả và cái thấp hèn, cái nghiêm chỉnh với cái buồn cười, thu
hút được hầu hết các thể loại văn học khác: kí, thư từ, đối thoại, kịch… Tiểu thuyết có
thể dung nạp những yếu tố chính luận. Tuy nhiên không nên xem tính tổng hợp là đặc
trưng riêng của tiểu thuyết, tất cả các loại hình nghệ thuật đều có đặc trưng tổng hợp
như vậy. Bản chất này còn có khả năng vận dụng các thủ pháp nghệ thuật điện ảnh và
âm nhạc. Thủ pháp lắp ghép được sử dụng phổ biến trong nghệ thuật điện ảnh và ảnh
hưởng nhiều đến tiểu thuyết hiện đại. Sự cách tân về hình thức này nhằm đáp ứng
những nhu cầu mới của thời hiện đại trong thế kỉ XX, mối liên hệ giữa cá nhân và xã

hội, nó trở nên khắn khít hơn bao giờ hết. Nguyễn Tuân đã cho vào tác phẩm của mình
hình thức lắp ghép theo nghệ thuật điện ảnh “nghĩ thấm thía, tôi cảm thấy khoảnh trại
đây là một chốn lãnh cung mà tôi chỉ là một tên yếm hoạn cầm một chiếc đèn lồng
phát lượt sa xanh chiếu rọi mãi để tìm những người cung nữ đã chết mòn từ bao giờ”
(Chiếc lư đồng mất cua).

22


Trong một số tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa như: Vỡ bờ, Miền tây, chúng
ta có thể thấy rõ hơn ảnh hưởng của điện ảnh vào văn xuôi hiện đại. Các nhà văn xuôi
hiện thực xã hội chủ nghĩa có khuynh hướng sử dụng biện pháp này để mở rộng khuôn
khổ hành động và dung lượng tiểu thuyết làm cho bối cảnh trở nên phong phú thêm.
Đặc điểm tiếp theo mà chúng tôi thật sự quan tâm là sự xuất hiện cái “Tôi” cá nhân
một cách công khai. Lần đầu tiên cái Tôi xuất hiện trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam
giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tác phẩm Thầy Lazara Phiền (1887) được
xem như cái mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, với
hình thức và nội dung mới. Tiểu thuyết Tố tâm (1925) của nhà văn Hoàng Ngọc Phách
là tác phẩm phát triển tiếp cái mới đó, tác phẩm đã chiếm lĩnh văn đàn và độc giả
đương thời trong vòng gần mười năm, từ khi được xuất bản đến khi tiểu thuyết của
Tự lực văn đoàn ra đời. Chưa có tác phẩm nào thời đó lại chinh phục được cả một thế
hệ độc giả đông đảo và rộng khắp như vậy. Thạch lam đã khẳng định: “Từ Bắc chí
Nam không ai không biết đến Tố Tâm. Có nhiều bạn gái thuộc lòng cả quyển”.
Tác phẩm của ông làm đảo lộn các quan niệm văn chương trước đó, vì nó đã đưa
vào văn học luồng gió mới. Tố tâm được xem như tác phẩm mở đầu cho văn học lãng
mạn, tác phẩm đã khắc phục lối kết cấu chương hồi bằng kết cấu theo quy luật tâm lí
của nhân vật: sự xung đột nội tâm giữa lí trí và tình cảm của Đạm Thủy và Tố Tâm.
Kết thúc câu truyện là bi kịch về tình yêu. Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam
hiện đại đánh giá rất cao tác phẩm “Tố tâm khẳng định vị trí của cá nhân, quyền sống
của con người trước uy quyền còn khá kiên cố của lễ giáo phong kiến khắc ngiệt…

Tố Tâm chết để bảo vệ tình yêu, chung thủy. Cái chết của Tố Tâm tố cáo lễ giáo phong
kiến, gia đình phong kiến… Ở đây cái Tôi cá nhân bắt đầu lấp ló trên sân khấu văn
học” [38:25-26].
Chất liệu cuộc sống của tác phẩm lấy từ cuộc sống đời thường. Nói đến chất liệu
cuộc sống đời thường trong sáng tác văn học giai đoạn này thì Hồ Biểu Chánh, nhà
văn Nam bộ, là người phát huy chúng rực rỡ một thời với số lượng tác phẩm đồ sộ.
Nhân vật của ông tập hợp đủ mọi tầng lớp chứ không là những viên quan, công chức,
tri thức con nhà giàu. Họ còn là những con người đời thường, là những người nông
dân chân lắm tay bùn, là thị dân nghèo khổ với tính cách hiền lành, chất phát, bộc trực,
thẳng thắng, được nhà văn xây dựng đầy đủ cốt cách đặc trưng của người dân đất
phương Nam.

23


Học tập câu văn trong tiểu thuyết phương Tây, ngôn ngữ được cách tân, xuất phát
từ tinh thần tự tôn dân tộc và ý thức giữ gìn tiếng Việt, từng bước thoát li lối văn biền
ngẫu. Tác giả Trúc Hà, với bài viết in trên tập chí Nam Phong năm 1932 – Lược khảo
về sự tiến hóa quốc văn trong lối viết tiểu thuyết – phê phán lối văn biền ngẫu, ủng hộ
lối văn tự do. Theo tác giả “văn biền ngẫu lúc nào cũng bó buộc trong sự đối chọi,
thành thử kém vẻ tự nhiên không tiêu biểu được “thể tài” riêng của từng người và
cũng không thể hiện hết cái tình cảm xúc trong lòng, hay tả cho đúng những cảnh vật
bên ngoài…”. Sau năm 1930 câu văn xuôi tiếng Việt đã gọn gàng hơn, lời lẽ uyển
chuyển hơn, trong sáng khúc triết hơn và có những đỉnh cao thật sự. Nam Cao với sự
phối hợp nhịp nhàng giữa lời kể, lời nhân vật, lời trực tiếp, lời nửa trực tiếp, mang tính
đối thoại. Trong một tác phẩm, có thể dùng ngôn ngữ ngôi thứ nhưng cũng có thể kết
hợp ngôn ngữ khi ngôi thứ này, khi ngôi thứ khác… Có thể nói, tiểu thuyết là thể loại
dung nạp được nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc của riêng mình.
Tư tưởng chủ đạo của văn học hiện đại là muốn khẳng định cái Tôi của con người
thời đại, các nhà văn hiện thực coi nghệ thuật là “Bức tranh hiện thực nghiệt ngã lạnh

lùng” còn người nghệ sĩ là “thư kí trung thành của thời đại”, xem nghệ thuật như một
phương tiện để vạch trần cái xã hội nhố nhăng, những thế lực đen tối áp chế con
người. Các nhà văn hiện thực phê phán của ta chủ trương “nghệ thuật là khách quan”
như: Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, …
đã sử dụng rất nhiều phương pháp trong sáng tác phân tích dữ kiện, đưa cả tính
“phóng sự” vào tiểu thuyết. Tác phẩm của họ phản ánh mặt trái của xã hội đưa vào tác
phẩm những cảnh “Sống mòn”, hay những cảnh “Người ngựa, ngựa người” để mọi
người thấy được bản chất của xã hội, đầy rẫy những xấu xa, bất công.
Sự phát triển nhanh chóng của văn học và thành tựu cụ thể của nó thể hiện sự
chuyển biến mạnh mẽ của xã hội thời hiện đại khác xa xã hội Việt Nam từ thế kỉ XIX
trở về trước. Đội ngũ nhà văn mới mang hồn dân tộc, thay thế cho các nhà nho, với tư
tưởng sáng tạo độc đáo đã tạo ra những thành tựu đáng kể trong khám phá nhân vật
thời đại mới.

24


Chương 2: Yếu tố truyền thống trong nghệ thuật tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh
2.1 . Nhân vật
Với mục đích chấn chỉnh phong hóa và về lâu dài nhằm gìn giữ chính đạo trong cái
buổi giao thời đạo đức xã hội đang trên đà xuống thấp, Hồ Biểu Chánh xây dựng nhân
vật với cảm hứng đạo lí chịu ảnh hưởng của nho học. Nhân vật đặt vấn đề quyền lợi cá
nhân nhẹ hơn vấn đề của cộng đồng với quan niệm “Trung – trinh – tiết – nghĩa”, vì
bổn phận, danh dự, trách nhiệm, lí trí trong hành động, ứng xử. Chí Đại trong tác phẩm
Ai làm được, Thiên Hương trong Một đời tài sắc, Thủ Nghĩa trong Chúa tàu Kim
Quy… là những nhân vật mang đậm tính chất lí tưởng Nho giáo trong suy nghĩ và
hành xử. Ngoài ra còn có những nhân vật là vị cứu tinh như Mạc Tiển, Ba Thời, hòa
thượng Chánh Tâm, Hương sư Thiện… họ hành sự theo “kiến nghĩa bất vi vô dõng
dã…” của một Từ Hải, một Lục Vân Tiên, một ngư ông, lão tiều phu. Qua kiểu nhân

vật trên Hồ Biểu Chánh khẳng định vai trò không thể thiếu của đạo lí truyền thống dân
tộc.
Trước tiên Hồ Biểu Chánh xây dựng ngoại hình nhân vật theo nhân vật lí tưởng
tuyền thống với dung nhan tuấn tú khôi ngô, diễm lệ, đài các. Nhất là trong nghệ thuật
miêu tả, Hồ Biểu Chánh hay so sánh nhân vật với thực thể của vũ trụ, thiên nhiên “Cô
nắm chùm bông Huệ rồi cúi xuống, kê mặt vô mà hửi, bàn tay cô dịu nhiễu, da mặt cô
trắng ngần. Bông kề mặt cô bông lúc lắc oặc è, còn cô hửi bông rồi, cô vừa lòng nên
cô cười chúm chím” [12:7]. Ông miêu tả Thu Hà có nhan sắc đẹp đến nỗi hoa phải
“lúc lắc oặc è”, như dè dặt trước vẻ đẹp của cô, cách miêu tả này rất quen thuộc trong
thơ ca truyền thống. Chẳng phải Nguyễn Du từng miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều và
Thúy Vân đó hay sao? Thúy Vân được nhà thơ miêu tả:
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Và nàng Kiều có phần sắc sảo hơn:
“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Qua cách thể hiện nhan sắc của người phụ nữ ta thấy, dường như có sụ tương đồng
về việc thể hiện số phận của nhân vật. Người phụ nữ có nét đẹp thiên nhiên phải
“hờn” hay “oặt è” số mệnh của họ thường trắc trở. Tuy sự trắc trở của hai người phụ
nữ thuộc hai thời kì khác nhau nhưng có chung sự truân chuyên đau khổ. Kiều phải xa
25


×