BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
............
............
LƯU THỊ NGỌC YẾN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
............
............
LƯU THỊ NGỌC YẾN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC CẤP
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
MÃ SỐ: 60.62.01.15
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN PHÚC THỌ
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
- Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
- Tôi xin cam đoan rằng mọi sự cộng tác, giúp đỡ cho việc thực hiện luận
văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày
tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn
Lưu Thị Ngọc Yến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp
đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể.
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu Học viện
Nông nghiệp Việt Nam, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Bộ môn Kinh tế
Nông nghiệp và chính sách đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Phúc Thọ đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn UBND huyện Gia Lâm, Phòng Nội vụ huyện
Gia Lâm, Chi cục Thống kê huyện Gia Lâm, UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Gia Lâm đã tạo điều kiện giúp đỡ, cung cấp số liệu, tư liệu khách quan giúp
tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã
động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày
tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn
Lưu Thị Ngọc Yến
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan
i
Lời cảm ơn
ii
Mục lục
iii
Danh mục các chữ viết tắt
vi
Danh mục bảng
vii
Danh mục đồ thị
i
PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1
1.1
Tính cấp thiết
1
1.2
Mục tiêu nghiên cứu
3
1.2.1
Mục tiêu chung
3
1.2.2
Mục tiêu cụ thể
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3
1.3.1
Đối tượng nghiên cứu
3
1.3.2
Phạm vi nghiên cứu
3
1.4
Câu hỏi nghiên cứu
4
PHẦN 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
5
2.1
Cơ sở lý luận
5
2.1.1
Chính quyền cấp xã
5
2.1.2
Một số khái niệm
8
2.1.3
Nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công chức cấp xã, thị trấn
22
2.1.4
Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã
31
2.2
Cơ cở thực tiễn
39
2.2.1
Kinh nghiệm nâng cao chất lượng công chức cơ sở ở một số nước
2.2.2
trên thế giới
39
Bài học kinh nghiệm tại Việt Nam
43
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
PHẦN 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
45
3.1
Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
45
3.1.1
Điều kiện tự nhiên.
45
3.1.2
Đặc điểm kinh tế xã hội
47
3.2
Phương pháp nghiên cứu
54
3.2.1
Chọn điểm nghiên cứu
54
3.2.2
Phương pháp thu thập số liệu
54
3.2.3
Phương pháp xử lý thông tin
56
3.2.4
Phương pháp phân tích
56
3.2.5
Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu
56
PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1
58
Thực trạng đội ngũ công chức cấp xã, thị trấn ở huyện Gia Lâm
hiện nay
58
4.1.1
Số lượng công chức
58
4.1.2
Chất lượng công chức
63
4.2
Đánh giá chất lượng công chức cấp xã huyện Gia Lâm hiện nay
70
4.2.1
Đánh giá chất lượng công chức qua hệ thống chính trị
70
4.2.2
Đánh giá của người dân về công chức cấp xã
86
4.3
Các yếu tố ảnh hướng đến chất lượng cán bộ công chức xã
96
4.3.1
Chính sách tuyển dụng
96
4.3.2
Chế độ với công chức cấp xã
97
4.3.3
Công tác quy hoạch công chức cấp xã, thị trấn
98
4.3.4
Công tác Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ đối với
công chức cấp xã, thị trấn
4.3.5
100
Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ đối với công
chức cấp xã, thị trấn
101
4.3.6
Điều kiện làm việc của đội ngũ công chức
103
4.4
Định hướng giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Gia Lâm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
104
Page iv
4.4.1
Định hướng:
104
4.4.2
Giải pháp
105
PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
117
5.1
Kết luận
117
5.2
Kiến nghị
118
5.2.1
Đối với cấp huyện
118
5.2.2
Đối với Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn
119
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
121
Page v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TW
Trung ương
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
CNH
Công nghiệp hóa
HĐH
Hiện đại hóa
LLCT
Lý luận chính trị
QLNN
Quản lý nhà nước
CBCC
Cán bộ, công chức
TC
Trung cấp
CĐ
Cao đẳng
ĐH
Đại học
QS
Quân sự
TP-HT
Tư pháp – Hộ tịch
ĐC-XD
Địa chính – Xây dựng
VP-TK
Văn Phòng – Thống kê
TC-KT
Tài chính – Kế toán
VH-XH
Văn hóa – Xã hội
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
DANH MỤC BẢNG
Tên đồ bảng
STT
Trang
2.1
Tổng hợp số liệu cán bộ, công chức cấp xã toàn quốc năm 2012
2.2
Đánh giá trình độ đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo vùng
33
lãnh thổ năm 2012
34
3.1
Diện tích các loại đất nông nghiệp của huyện Gia Lâm.
46
3.2
Giá trị sản xuất các ngành của huyện Gia Lâm (2011-2013)
48
33
Tình hình dân số, lao động, việc làm trên địa bàn huyện Gia Lâm. 52
4.1
Số lượng công chức cấp xã phân theo chức danh
59
4.2.
Số lượng công chức cấp xã phân theo độ tuổi
60
4.3
Số lượng công chức cấp xã phân theo giới tính
62
4.4
Trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức cấp xã
năm 2011 – 2013
4.5
64
Trình độ quản lý nhà nước của đội ngũ công chức cấp xã huyện
Gia Lâm
67
4.6
Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ công chức cấp xã
69
4.7
Đánh giá của CBCC huyện và cán bộ xã về tiêu chuẩn chung của
đội ngũ công chức cấp xã
4.8
71
Đánh giá của CBCC huyện và cán bộ xã về tiêu chuẩn chung của
đội ngũ công chức cấp xã (tiếp)
4.9
73
Đánh giá của CBCC huyện và cán bộ xã về việc thực hiện nhiệm
vụ của chức danh Trưởng công an
4.10
74
Đánh giá CBCC huyện và cán bộ xã về thực hiện nhiệm vụ của
chức danh Chỉ huy trưởng quân sự
4.11
75
Đánh giá của CBCC huyện và cán bộ xã về thực hiện nhiệm vụ
của chức danh VP-TK
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
77
Page vii
4.12
Đánh giá CBCC huyện và cán bộ xã về việc thực hiện nhiệm vụ
của chức danh ĐC-XD
4.13
79
Đánh giá CBCC huyện và cán bộ xã về việc thực hiện nhiệm vụ
của chức danh TC-KT
4.14
82
Đánh giá của cán bộ quản lý huyện và lãnh đạo xã về việc thực
hiện nhiệm vụ của chức danh TP-HT
4.15
83
Đánh giá CBCC huyện và cán bộ xã về việc thực hiện nhiệm vụ
của chức danh VH-XH
84
4.16
Tổng hợp thực hiện nhiệm vụ của các chức danh
85
4.17
Đánh giá của người dân về công chức cấp xã
86
4.18
Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của chức danh Trưởng công an
89
4.19
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh Chỉ huy trưởng
quân sự
90
4.20
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh VP-TK
91
4.21
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh ĐC-XD
92
4.22
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh Tài chính - Kế toán
93
4.23
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh TP-HT
94
4.24
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ của chức danh VH-XH
95
4.25
Chính sách tuyển dụng công chức
96
4.26
Chế độ chính sách với công chức và chất lượng công việc
97
4.27
Đánh giá công tác quy hoạch cán bộ ở cấp xã
99
4.28
Đánh giá của công chức về đào tạo hiện nay
101
4.29
Đánh giá của hệ thống chính trị về kiểm tra, giám sát công chức 102
4.30
Điều kiện làm việc của đội ngũ công chức
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
103
Page viii
DANH MỤC ĐỒ THỊ
STT
Tên đồ thị
Trang
4.1
Cơ cấu độ tuổi cán bộ công chức cấp xã qua các năm 2011-2013
61
4.2
Tỷ lệ giới tính trong cán bộ công chức xã huyện Gia Lâm
62
4.3
Tỷ trọng cán bộ công chức xã phân theo trình độ chuyên môn
đào tạo các năm 2011-2013
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
65
Page i
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết
Cán bộ, công chức có vai trò rất quan trọng, là nhân tố then chốt tạo nên
một chính quyền vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc", "Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ
tốt hoặc kém".
Chính quyền địa phương là nền tảng, cơ sở của chính quyền Trung ương,
chính quyền địa phương có vững mạnh thì Trung ương mới vững mạnh. Vì
vậy muốn xây dựng một bộ máy chính quyền Nhà nước vững mạnh thì trước
tiên phải xây dựng một hệ thống chính quyền vững mạnh từ các cấp xã, huyện
đến tỉnh. Trong đó chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
quyền các cấp của Nhà nước ta; và là cấp trực tiếp tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống,
là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cấp gần gũi dân nhất, là nơi
trực tiếp đáp ứng các yêu cầu chính đáng của dân. Để chính quyền cấp xã
thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách có hiệu lực và hiệu quả thì
cần phải có đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) chính quyền cấp xã có năng
lực quản lý nhà nước tốt. Thực tế cho thấy ở đâu mà năng lực quản lý nhà
nước của CBCC chính quyền cấp xã tốt thì hiệu lực, hiệu quả quản lý cao.
Ngược lại, ở đâu mà năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp
xã không tốt thì hiệu lực, hiệu quả quản lý thấp, tiềm ẩn nguy cơ mất đoàn kết
nội bộ, mất dân chủ, tình trạng khiếu nại, tố cáo kéo dài, tạo nên điểm nóng...
làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị ở cơ sở.
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm và chú trọng đến công tác cán
bộ, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác
cán bộ càng được chú trọng. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
quyết, văn bản quy phạm pháp luật quy định về cán bộ như: Nghị quyết hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3, 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII, Văn kiện đại
hội Đảng X, đặc biệt là Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 khoá IX Ban Chấp hành
Trung ương Đảng "về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ
sở xã, phường, thị trấn", trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ
sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy
sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công
tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ
cơ sở”.
Gia Lâm là một huyện ngoại ô của thủ đô Hà Nội, đang trên đà phát triển
với nhiều bước ngoặt mới về kinh tế - xã hội. Vì vậy để định hướng và quản
lý tốt nền kinh tế - xã hội của huyện, đưa huyện tiến tới phát triển bền vững,
cần có một đội ngũ cán bộ chèo lái vững vàng, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp
xã, phường.
Mặc dù từ năm 2007, Huyện ủy Gia Lâm đã chú trọng tới việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã bằng việc triển khai Đề án 13 về “Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã, thị trấn”; nhưng thực tế hiện nay chất
lượng, năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ CBCC cấp xã trên địa bàn
huyện còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay. Do đó việc
nghiên cứu thực trạng về chất lượng CBCC cấp xã trên địa bàn huyện Gia
Lâm, tìm ra hệ thống giải pháp đồng bộ về nâng cao chất lượng đội ngũ
CBCC xã, thị trấn trên địa bàn huyện có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận
và thực tiễn.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng công
chức cấp xã trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội " là yêu cầu tất
yếu khách quan, cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức xã trên địa
bàn huyện Gia Lâm, đề xuất một số giải pháp nâng chất lượng đội ngũ công
chức cấp xã trên địa bàn huyện Gia Lâm.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ công
chức cấp xã, phường;
- Đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã trên địa trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã
trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố hà Nội.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ công chức cấp xã của
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Phạm vi không gian
Luận văn tập trung phân tích thực trạng đội ngũ công chức trong Uỷ ban nhân
dân được quy định tại khoản 3 Điều 61 – Luật Cán bộ công chức năm 2008 và công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Gia Lâm.
1.3.2.2 Phạm vi thời gian
- Số liệu thu thập trong giai đoạn 2011- 2013
- Luận văn được tiến hành từ tháng 5/2013 đến tháng 10/2014
1.3.2.3 Phạm vi nội dung
- Đánh giá số lượng, chất lượng công chức cấp xã.
- Giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
1.4 Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng chất lượng công chức cấp xã của huyện như thế nào?
- Yêu cầu đối với chất lượng công chức, quan điểm của Đảng và Nhà
nước đối với công chức cấp xã trong thực hiện nhiệm vụ mới ?
- Giải pháp nâng cao chất lượng công chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
mới hiệu quả ?
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Chính quyền cấp xã
2.1.1.1 Khái niệm
Chính quyền cấp xã có vị trí, vai trò rất quan trọng trong công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cấp xã
là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi
việc đều xong xuôi". Vị trí và vai trò của chính quyền cấp xã được thể hiện ở
những nội dung sau đây:
- Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức và thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống. Thực tiễn
cho thấy có hệ thống đường lối, chính sách pháp luật đúng đắn, khoa học
nhưng ở đó chính quyền cấp xã hoạt động yếu kém thì đường lối, chính sách,
pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa phát huy được sức mạnh của
mình; ở đâu chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả thì ở đó đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực thi nghiêm minh,
chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao. Chính quyền cấp xã là nơi thể nghiệm chính xác đường lối,
chính sách pháp luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Chính quyền cấp xã là cấp quản lý các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn cơ sở. Hiệu quả hoạt động của chính quyền
cấp xã là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động trong cả bộ
máy nhà nước.
- Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền trực tiếp với dân, gần dân, sát
dân nhất, là cấp chính quyền giải quyết và chăm lo mọi mặt đời sống nhân
dân, trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
- Chính quyền cấp xã là cấp hướng dẫn, giám sát các hoạt động tự quản
của nhân dân nhằm tạo điều kiện cho nhân dân phát huy mọi khả năng phát triển
kinh tế - xã hội. Đây là nét đặc thù của chính quyền cấp xã, so với các cấp chính
quyền khác.
- Chính quyền cấp xã là "cầu nối" giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cho nhân dân hiểu và thực hiện
đường lối, chính sách, pháp luật đó và chính quyền cấp xã là cấp nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng, ý chí của nhân dân để phản ánh với cấp liên quan.
- Cấp xã là nơi lưu giữ các giá trị văn hoá truyền thống, phong tục tập
quán tiến bộ của dân tộc Việt Nam. Chính quyền cấp xã có vai trò rất quan
trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân, xây dựng đời sống văn hoá mới, đặc biệt là ở vùng nông thôn.
Chính quyền cấp xã là bộ máy mang tính quyền lực Nhà nước điều hành,
quản lý hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn cơ sở. Chính quyền cấp xã chỉ bao gồm
HĐND và UBND. Trong đó "HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan Nhà nước cấp trên"; "UBND do HĐND bầu là cơ quan chấp hành của
HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước
HĐND cùng cấp và cơ quan Nhà nước cấp trên".
Qua phân tích ở trên có thể khái niệm: chính quyền cấp xã là cấp thấp
nhất, cấp gần gũi dân nhất, bao gồm HĐND và UBND thực hiện quyền lực
Nhà nước và đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở, quyết định và thực hiện những chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế
- xã hội, củng cố quốc phòng an ninh trên địa bàn theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật là tổ chức phát huy tính tự quản của nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
2.1.1.2 Đặc điểm của chính quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chính quyền cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống chính
quyền các cấp của Nhà nước ta (Trung ương, tỉnh, huyện, xã); là cấp quản lý
hành chính Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an
ninh, quốc phòng ở địa bàn cơ sở.
Thứ hai, chính quyền cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức và thực hiện đường
lối chính trị, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cuộc sống, là
cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là cấp gần gũi dân nhất, là nơi
trực tiếp đáp ứng và giải quyết các yêu cầu chính đáng của nhân dân.
Thứ ba, chính quyền cấp xã gồm HĐND và UBND, mà không có cơ
quan Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân. HĐND là cơ quan quyền lực
Nhà nước và đại diện cho ý chí, nguyện vọng quyền làm chủ của nhân dân ở
cơ sở. UBND là cơ quan chấp hành, cơ quan quản lý hành chính nhà nước
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, an ninh, quốc phòng trên
địa bàn cơ sở.
Thứ tư, các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng
những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống
nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải
được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và
giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan cai trị - quản
lý mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư.
Thứ năm, trong hoạt động của chính quyền cấp xã, giữa HĐND và
UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm quyền và UBND có ưu thế
vượt trội: Chính quyền cấp xã được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh,
bao quát toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở
địa bàn cơ sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND
nhìn chung là giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết định biện pháp, còn
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
UBND tổ chức thực hiện. Trong khi đó, tổ chức bộ máy của HĐND không đủ
sức hoạt động độc lập mà chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo
các nghị quyết. Theo Điều 5, Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi): "Hội
đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân". Đối với
cấp tỉnh và cấp huyện: "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có Thường
trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân". Với cơ cấu tổ
chức như trên, các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có khả năng soạn
thảo các nghị quyết, thức hiện chức năng quyết định các biện pháp, chủ
trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện.
Trong khi đó, ở cấp xã, do không có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại
kiêm nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp hoàn toàn dựa vào bộ máy của UBND
và mỗi năm chỉ họp từ 3 - 4 lần. Trong điều kiện đó, hoạt động của UBND sẽ
có ưu thế vượt trội hơn, dễ lấn át HĐND, dễ lâm vào tình trạng "vừa đá bóng,
vừa thổi còi".
2.1.2 Một số khái niệm
2.1.2.1 Công chức cấp xã
- Công chức: Ở nước ta, ngay từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành
công, Hiến pháp năm 1946 ra đời là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chế độ
công chức mới. Ngày 20 - 5 - 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc
lệnh 76/ SL về thực hiện quy chế công chức.
Sắc lệnh đã chỉ rõ: “Công chức là những công dân Việt Nam được chính
quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính
phủ ở trong hay ở ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ trường
hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”.(Hồ Chí Minh, 1950)
Sau 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tiếp tục tiến
hành cách mạng giải phóng dân tộc. Thời kỳ này tuy không có văn bản nào bãi
bỏ sắc lệnh 76/SL về quy chế công chức Việt Nam, nhưng thuật ngữ công chức
được thay thế bằng thuật ngữ cán bộ, công nhân, viên chức.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
Ngày 25 - 5 - 1991, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành
Nghị định số 169/HĐBT quy định về công chức Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam: “Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng và
bổ nhiệm một công vụ thường xuyên trong một công sở Nhà nước ở trung
ương, địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch,
bậc, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp ”(Hồ Chí Minh, 2000)
Hiện nay, Điều 4 Luật cán bộ, công chức năm 2008, được Quốc hội
thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm
2010 quy định:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. (Luật cán bộ, công chức, 2008)
Cũng theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tại khoản 3 Điều 4 quy định:
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức
danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. (Luật cán bộ, công chức, 2008)
Theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn thì công
chức chính quyền xã, thị trấn gồm các chức danh sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
+ Trưởng Công an
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường,
thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hoá – xã hội.
2.1.2.2 Vai trò của công chức cấp xã, phường
Đội ngũ cán bộ, công chức có vị trí, vai trò quan trọng đối với cơ quan,
tổ chức. Trong đó công chức là thành viên, là phần tử cấu thành của tổ chức
bộ máy. Cán bộ, công chức có quan hệ mật thiết với tổ chức và quyết định
mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu quả hoạt động trong tổ chức và quyết
định mọi sự hoạt động của tổ chức. Hiệu quả hoạt động trong tổ chức, bộ máy
phụ thuộc vào cán bộ, công chức. Cán bộ công chức có trình độ, có đạo đức
nghề nghiệp, tâm huyết, có trách nhiệm với công việc được giao sẽ làm cho
cơ quan, đơn vị mình hoạt động tốt, dẫn đến bộ máy nhà nước hoạt động nhịp
nhàng; cán bộ, công chức trình độ quản lý yếu kém, năng lực hạn chế, quan
liêu, cửa quyền… sẽ làm cho bộ máy tê liệt: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn
bộ máy cũng tê liệt” (Hồ Chí Minh, 2000)
Cán bộ, công chức nói chung có vai trò rất quan trọng, cán bộ, công
chức cấp xã nói riêng, có vị trí nền tảng cơ sở. Cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức
thực hiện mọi chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật một phần được quyết định bởi sự
triển khai ở cơ sở. Cấp xã là cấp trực tiếp gắn với quần chúng tạo dựng phong
trào cách mạng quần chúng. Vì vậy, cơ sở xã, phường mạnh hay yếu một
phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ xã, phường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
Những năm vừa qua cũng đã chỉ ra rằng sự thành công hay thất bại của
Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội ở cơ sở phụ thuộc rất
lớn vào đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, phường (gọi chung là cán bộ, công
chức cấp xã). Tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức này quyết định
khả năng hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước vì cán bộ, công chức xã, phường vừa là người đại diện cho Đảng và Nhà
nước trong việc quản lý, điều hành mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, quốc
phòng và an ninh ở cơ sở; là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các
chủ trương đường lối của Đảng, thực thi quyền hành pháp cũng như tiến hành
tổ chức, triển khai các chương trình kinh tế xã hội ở địa phương. Mặt khác
cán bộ, công chức xã, phường cũng là người thường xuyên chăm lo đến mọi
mặt trong đời sống, cả vật chất và tinh thần tới mọi người dân; là người đại
diện cho ý chí, quyền lợi của nhân dân địa phương, luôn đấu tranh và bảo vệ
mọi quyền lợi chính đáng của người dân khi bị vi phạm. Như Hồ Chủ tịch đã
từng nói: Cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân. Cán bộ, công chức xã là đội ngũ thể hiện cụ thể và trực tiếp nhất
nội dung này.
Thực tiễn cho thấy rằng chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức có
ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Ở xã, phường
nào có đội ngũ công chức tốt thì ở đó các “phong trào” đều được triển khai và
thực hiện rất rầm rộ, có hiệu quả; kinh tế, xã hội phát triển, tình hình an ninh
chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Thực tế đó ở nước ta đã
chứng tỏ: Cán bộ nào thì phong trào đó.
Cán bộ, công chức cấp xã có một vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt
động quản lý điều hành ở cơ sở, trong bộ máy nhà nước, trong hệ thống
chính trị. Cán bộ, công chức cấp xã là người đại diện cho Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý nhà nước ở cơ sở; là những người hàng ngày trực
tiếp tiếp xúc với nhân dân, đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân. Và cũng qua nhân dân, cán
bộ, công chức cấp xã nắm bắt tâm tư tình cảm của nhân dân, kiểm nghiệm
những quy định, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã hợp lòng
dân, phù hợp với yêu cầu thực tiễn chưa, để báo cáo lên cấp trên tiếp tục
chỉnh sửa, đề ra những quy định về chế độ, chính sách, pháp luật ngày càng
phù hợp với thực tiễn, nhằm cho xã hội phát triển, người dân ngày càng
được ấm no, hạnh phúc; đi đúng định hướng mà Đảng và Nhà nước ta đã
đề ra. Như vậy, cán bộ, công chức cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân, là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Ngoài những vị trí, vai trò trên cán bộ, công chức cấp xã còn có vị trí,
vai trò thể hiện những phương diện sau đây:
- Cán bộ, công chức cấp xã là người am hiểu các phong tục tập quán
truyền thống của địa phương, là nơi tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân
ở cơ sở, là nơi phát huy tính tự quản cộng đồng dân cư. Như Nguyễn Trãi đã
đúc kết: Người đẩy thuyền cũng là dân, người lật thuyền cũng là dân… Vì
vậy, việc tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở là rất quan trọng,
quyết định đến hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở.
- Cán bộ, công chức cấp xã vừa là người đại diện cho Nhà nước,
vừa là người đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa là
người dân, là người gần dân nhất nên thực tế cho thấy, ở đâu cán bộ, công
chức cấp xã hiểu dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của
dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc, đề nghị của nhân dân; cán bộ,
công chức cấp xã gương mẫu, không quan liêu, hách dịch, cửa quyền thì ở
đó tình hình an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội sẽ ổn định.
- Cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu,
những thắc mắc chính đáng của nhân dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
Tóm lại, cán bộ, công chức cấp xã là người có vị trí, vai trò quan trọng
trong việc ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội ở cấp cơ sở, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện phát huy tính tự quản trong
cộng đồng dân cư.
2.1.2.3 Chất lượng công chức cấp xã
2.1.2.3.1 Khái niệm chất lượng công chức cấp xã
Theo từ điển tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là "cái
tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc".
Khi đánh giá chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, một vấn đề đặt ra là
hiểu cho đúng thế nào là chất lượng của đội ngũ công chức. Chất lượng của đội
ngũ công chức được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Chất lượng của đội ngũ công chức được thể hiện thông qua hoạt động
của bộ máy chính quyền cấp xã, ở việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của chính quyền cấp xã.
Chất lượng của đội ngũ công chức được đánh giá dưới góc độ phẩm
chất đạo đức, trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao
cũng như hiệu quả công tác của họ.
Chất lượng của đội ngũ công chức là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của
từng công chức cấp xã. Đối với đội ngũ công chức cấp xã, muốn xác định
chất lượng cao hay thấp ngoài việc đánh giá phẩm chất đạo đức phải có hàng
loạt chỉ tiêu đánh giá trình độ năng lực và sự tín nhiệm của nhân dân địa
phương. Chẳng hạn, các lớp đào tạo huấn luyện đã qua; bằng cấp (kể cả ngoại
ngữ, tin học) về chuyên môn, kỹ thuật, quản lý nhà nước, pháp luật,…; độ
tuổi; thâm niên công tác,…Chất lượng của đội công chức còn được đánh giá
dưới góc độ khả năng thích ứng, xử lý các tình huống phát sinh của người cán
bộ, công chức đối với công vụ được giao. Công vụ là một hoạt động gắn liền
với công chức, là một loại lao động đặc thù để thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước; thi hành pháp luật - đưa pháp luật vào đời sống; quản lý và sử dụng
có hiệu quả công sản và ngân sách Nhà nước phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
Từ những góc độ khác nhau nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chất lượng
đội ngũ công chức cấp xã như sau: Chất lượng đội ngũ công chức cấp xã là chỉ
tiêu tổng hợp đánh giá phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực và khả năng thích
ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao của họ.
Để đánh giá đúng thực trạng và xác định các giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức cấp xã cần phải xác định rõ những tiêu chí đánh giá
chất lượng đội ngũ công chức, cũng như hiểu rõ những yếu tố tác động đến
chất lượng của đội ngũ công chức cấp xã.
2.1.2.3.2 Những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ công chức cấp xã
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị là tiêu chí là yêu cầu cơ bản nhất đối
với cán bộ, công chức. Phẩm chất chính trị là lòng nhiệt tình cách mạng, lòng
trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng hết sức vì sự
nghiệp của nhân dân; là bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Phẩm chất chính trị đòi hỏi người công chức phải thấm nhuần chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có tinh thần cương quyết đầu
tranh chống lại các quan điểm lệch lạc, sai trái hoặc chống đối những chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các hành vi xâm
phạm quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Phẩm chất chính trị của công chức cấp xã được biểu hiện trước hết là
sự tin tưởng tuyệt đối đối với lý tưởng cách mạng, kiên định với mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
và Đảng ta đã lựa chọn, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, không dao động trước những khó khăn,
thử thách, trước những cám dỗ. Đồng thời phải có biện pháp để đường lối đó
đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân địa phương.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14