Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu luận môn quan hệ kinh tế quốc tế Dịch vụ Logistics việt nam hướng tới cộng đồng kinh tế Asean : Cơ hội, thách thức và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.23 KB, 21 trang )

BỘ
B GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG
NG Đ
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA KIINH DOANH QUỐC TẾ - MARKETING


áo cáo môn Quan hệ Kinh tế quốc tế

DỊCH VỤ LOGISTICS VIỆT
VI
NAM HƯỚNG TỚI CỘ
ỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN:: CƠ
C HỘI, THÁCH THỨC
C VÀ GI
GIẢI PHÁP

Nhóm thực hiện - Nhóm 11:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

Nguyễn Thị Phư
ương Hải
Lê Thị Huỳnh L


Liên
Huỳnh Dũng Tââm
Nguyễn Trần Qu
uỳnh Trâm
Nguyễn Minh Trrí
Phạm Hữu Trí
Trần Thị Lệ Xuâân

Lớp: Ngoại Thươn
ng 17B
GVHD: ThS. Hoàn
ng Thu Hằng

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2015


MỤC LỤC
PHẦN 1 – ASEAN VÀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC) .............................. 2
1. Quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN ........ 2
2. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) ........................................................................ 5
3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi AEC vận hành .......................................... 8
3.1.

Cơ hội ............................................................................................................. 8

3.2.

Khó khăn, thách thức..................................................................................... 10

PHẦN 2 – DỊCH VỤ LOGISTICS: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN ......................................................................................... 12
1. Dịch vụ logistics .................................................................................................. 12
2. Lộ trình hội nhập dịch vụ logistics trong ASEAN ................................................ 12
3. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam ........................................... 13
4. Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ logistics Việt Nam khi tham gia AEC ......... 15
4.1. Cơ hội .............................................................................................................. 15
4.2.

Khó khăn, thách thức..................................................................................... 16

5. Một số giải pháp phát triển dịch vụ logistics Việt Nam khi tham gia AEC ........... 16
Q&A ............................................................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 20

1


PHẦN 1 – ASEAN VÀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN (AEC)
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967 bởi Tuyên bố Bangkok (Thái Lan), đánh dấu
một mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực. Khi mới thành lập ASEAN
gồm 5 nước là Indonesia, Malaysia, Phillipines, Singapore và Thái Lan. Sau đó, kết
nạp thêm Brunei Darussalam (năm 1984), Việt Nam (năm 1995), Lào và Myanmar
(năm 1997) và Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN năm 1999), hoàn
thành ý tưởng về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, một ASEAN
của Đông Nam Á và vì Đông Nam Á. ASEAN có diện tích hơn 4.4 triệu km2 với dân
số khoảng 625 triệu người và GDP khoảng 2.395 tỷ đô la Mỹ (2013)1. Các nước
ASEAN có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay đang đứng hàng đầu
thế giới về cung cấp một số nguyên liệu cơ bản như: cao su (90% sản lượng cao su thế
giới); thiếc và dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc (50%), cũng như gạo, đường,
dứa... Công nghiệp của các nước thành viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển, đặc

biệt trong các lĩnh vực: dệt may, hàng điện tử, hàng dầu, các loại hàng tiêu dùng.
Những sản phẩm này được xuất khẩu với khối lượng lớn và đang thâm nhập một cách
nhanh chóng vào các thị trường thế giới. ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới, và được coi là tổ chức khu vực thành
công nhất của các nước đang phát triển.
1. Quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên
ASEAN
28/7/1995, tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28 tại Brunei, Việt
Nam chính thức gia nhập và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Kể từ đó, Việt
Nam đã nhanh chóng hòa nhập và tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực hợp tác
của ASEAN. Trong 20 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của Hiệp hội, góp phần quan trọng vào việc triển
khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của
Đảng và Nhà nước; củng cố xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực có lợi cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những đóng góp cụ thể của Việt Nam có thể kể đến là: tổ chức thành công Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết,
hợp tác và củng cố vị thế quốc tế trong lúc Hiệp hội đang ở thời điểm khó khăn nhất
do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 1997, nhất là việc hoàn tất ý
tưởng một ASEAN-10; thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) để thực
hiện Tầm nhìn ASEAN 2020. Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ủy ban
Thường trực ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 34
(AMM-34) và các Hội nghị liên quan. Bên cạnh đó, VN cũng tích cực tham gia thúc
đẩy hợp tác giữa ASEAN và các nước đối tác bên ngoài như Nhật Bản, Nga, Mỹ,
Australia, Canada, Trung Quốc; giữ vai trò chủ đạo của ASEAN trong tiến trình hợp
1

Nguồn: số liệu thống kê tại website www.asean.org

2



tác khu vực như ASEAN+3 (ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc), Hội
nghị Cấp cao Đông Á (ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và
New Zealand).
Kể từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam được đánh giá là bạn hàng, đối tác tin cậy
và là thành viên trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Theo số liệu của Ban thư ký
ASEAN năm 2014, so với ASEAN, Việt Nam có diện tích chiếm 7,461 %, dân số
chiếm 14,383%, GDP chiếm 7,139%, nhưng GDP bình quân tính theo giá hiện hành
chỉ có 49,748% mức trung bình toàn ASEAN. Trong giai đoạn 2010-2014, tốc độ tăng
trưởng FDI trung bình của Việt Nam nằm trong khoảng 5,5-6%/năm tương đương với
tốc độ tăng trưởng GDP của ASEAN. Năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang các nước ASEAN đạt 18,4 tỷ USD và nhập khẩu đạt 21,35 tỷ USD.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy tính từ đầu năm đến tháng
9 năm 2014, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam với ASEAN đạt
30,63 tỷ USD. Cụ thể, chúng ta đã xuất khẩu sang thị trường ASEAN đạt trị giá 13,64
tỷ USD,dẫn đầu về các mặt hàng được xuất khẩu như : dầu thô, sắt thép, máy móc
thiết bị, gạo, hàng dệt may và hàng thủy sản. Xuất khẩu là 16,99 tỷ USD, các mặt hàng
như xăng dầu các loại, gỗ và sản phẩm gỗ…

Trong tổng số 9 thị trường của khối ASEAN thì có 5 thị trường Việt Nam xuất
siêu gồm Campuchia, Philippines, Indonesia, Myanmar và Brunei với tổng mức xuất
siêu đạt 3,11 tỷ USD. Trong đó Singapore là đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam trong năm 2014, xếp sau là Malaysia, Myanmar, Thailand, Campuchia,
Indonesia, Laos, Philippines và Brunei.

3


Về đầu tư, ngoài dòng vốn FDI từ các nước ASEAN sang Việt Nam, Việt Nam

cũng có nhiều hoạt động và dự án đầu tư sang các nước ASEAN, trong đó nhiều nhất
là Lào, Campuchia, Myanmar… Theo Báo cáo Đầu tư của ASEAN năm 2013-2014:
Phát triển FDI và chuỗi giá trị khu vực do Ban Thư ký ASEAN và UNCTAD thực
hiện, tính đến tháng 4/2014, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu đầu tư ra nước
ngoài tập trung ở các nước láng giềng trong khu vực ASEAN.
Số dự án
Đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
933
Đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vào các nước
543
ASEAN
Thị phần đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam vào các
58%
nước ASEAN
Lào
270
Cambodia
171
Malaysia
12
Myanmar
19
Singapore
53
Indonesia
8
Thailand
9
Brunei Darussalam
1


Số vốn
(triệu USD)
19.023
9.543

50%
4.690
3.377
754
450
196
50
25
0.6

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Năm 2015 là một năm quan trọng đối với Việt Nam khi có nhiều thay đổi liên
quan trong quan hệ thương mại, đầu tư với ASEAN. Về thương mại hàng hóa, Việt
Nam phải đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với gần 93% biểu thuế và chỉ còn duy trì 05% đối với 7% biểu thuế đến năm 2018. Về thương mại dịch vụ và đầu tư, Việt Nam
phải hoàn thành lộ trình tự do hóa thương mại trong khuôn khổ hiệp định chung về
dịch vụ (AFAS) theo cam kết 10 gói dịch vụ chính và các gói cam kết về dịch vụ tài
4


chính, vận tải hàng không và tự do hóa đầu tư theo Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN
(ACIA).
2. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)
Tháng 10/2003, tại Hội nghị Cấp cao lần thứ 9 (ở Bali, Indonesia), ASEAN đã ra
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Bali II), chính thức hóa việc

thực hiện ý tưởng xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột: Cộng đồng An
ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hoá-Xã hội (ASCC); đồng
thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên
ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Để
triển khai và kế tục Chương trình Hành động Hà Nội, ASEAN đã đề ra Chương trình
Hành động Vientian (VAP) cho giai đoạn 2004-2010 và các Kế hoạch Hành động để
xây dựng ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN, trong đó có hợp phần quan trọng là thực
hiện Sáng kiến Liên kết ASEAN (IAI) nhằm giúp thu hẹp khoảng cách phát triển trong
ASEAN với các kế hoạch hành động và các dự án cụ thể.
Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình
quốc tế và khu vực, tháng 1/2007, lãnh đạo các nước ASEAN đã quyết tâm đẩy nhanh
tiến trình liên kết nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí vì
mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì năm 2020 như thỏa
thuận trước đây) và rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc thông qua
Kế hoạch hành động AEC và thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào ngày
31/12/2015 tới đây.
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập nhằm mục đích tạo dựng một
thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất cho các quốc gia thành viên ASEAN; thúc đẩy
dòng chu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có tay nghề trong
ASEAN; thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng, thiết lập khu vực kinh tế có
năng lực cạnh tranh cao, có thể hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.

5


Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được xây dựng và vận hành trên 4 trụ cột
chính như sau:
(1) Một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất
Mục tiêu đầu tiên được đưa ra là xây dựng ASEAN thành một cơ sở sản xuất và
thị trường chung. Tuy nhiên, trước hết cần xây dựng một thị trường ASEAN có tính

cạnh tranh cao trước khi hướng đến mục tiêu dài hạn là một thị trường chung. Thị
trường có tính cạnh tranh cao là nơi hàng hóa và dịch vụ (thị trường hàng hóa dịch vụ)
và các doanh nghiệp (thị trường đầu tư) có thể dễ dàng thâm nhập và rút khỏi thị
trường đó. Bước phát triển cao hơn của thị trường này chính là một nền kinh tế, một
thị trường chung đơn nhất nơi các luồng hàng hóa, dịch vụ, lao động và vốn được tự
do dịch chuyển. Trong quá trình chuyển đổi lên thị trường chung, các quốc gia sẽ ưu
tiên xây dựng một mạng lưới sản xuất thống nhất trên cơ sở sự kết nối về giao thông
vận tải và sự phù hợp về thể chế.
Để trở thành một mạng lưới sản xuất khu vực có tính cạnh tranh cao, ASEAN
cần tạo ra sự thuận lợi cho thương mại tự do hơn, hài hòa hóa các tiêu chuẩn và thủ
tục, kết nối tốt hơn và tạo thuận lợi cho giao thông vận tải, tạo thuận lợi cho lao động
có kỹ năng di chuyển dễ dàng hơn. Mặc dù những yếu tố này đã và đang đạt được tiến
bộ song sẽ còn rất nhiều điều các quốc gia cần phải thực hiện để đi đến mục tiêu một
cơ sở sản xuất và thị trường chung.
(2) Nâng cao năng lực cạnh tranh của các khu vực và ngành kinh tế
Cộng đồng kinh tế ASEAN hướng tới tạo dựng một khu vực kinh tế có năng lực
cạnh tranh cao, thịnh vượng và ổn định, theo đó khu vực kinh tế mang tính cạnh tranh
này sẽ ưu tiên 6 yếu tố chính: chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở
hữu trí tuệ, phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế khóa và thương mại điện tử.
ASEAN cam kết thúc đẩy văn hóa cạnh tranh công bằng thông qua việc ban hành các
chính sách và luật cạnh tranh, đảm bảo sân chơi bình đẳng trong ASEAN và hiệu quả
kinh tế khu vực ngày càng cao.
(3) Phát triển kinh tế công bằng và đồng đều
Mục đích của hiệp định khung AEC đối với sự phát triển của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa (SMEs) là thúc đẩy năng lực cạnh tranh của khu vực này bằng cách lợi thế
hóa phương pháp tiếp cận thông tin, tài chính, kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực và
công nghệ. Những động lực này nhằm lấp đầy khoảng cách giữa các quốc gia thành
viên ASEAN, thúc đẩy hội nhập kinh tế của Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam
(ASEAN-4 hay CLMV), cho phép các nước thành viên cùng hướng tới một mục tiêu
chung và đảm bảo tất cả các quốc gia này đều có được lợi ích công bằng trong quá

trình hội nhập kinh tế. Sự công bằng này có thể đạt được thông qua việc kết nối, hiệp
lực giữa các thành viên trong ASEAN. Các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng theo
phương thức đối tác công tư (PPP) là một trong những giải pháp để giúp thu hẹp
khoảng cách phát triển giữa các thành viên ASEAN mới kém phát triển hơn với các
thành viên cũ phát triển.
6


Về nông nghiệp, cần đảm bảo an ninh lương thực của các nước ASEAN bằng
cách đầu tư để gia tăng năng suất, kiểm soát hành vi của các nước xuất khẩu và nhập
khẩu nhằm tránh những biến động bất lợi về giá lương thực. Về năng lượng, cần sử
dụng năng lượng hiệu quả, tăng cường sử dụng các năng lượng tái tạo như năng lượng
mặt trời đặc biệt ở các nước là quốc đảo và khuyến khích việc sử dụng công nghệ than
sạch. Các biện pháp này sẽ góp phần phát triển một ASEAN xanh và trong tương lai
góp phần vào an ninh lương thực cũng như công bằng xã hội vì khu vực ASEAN
thường xuyên chịu điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Về rủi ro thiên tai và an sinh xã hội,
các quốc gia trong khu vực cần tăng cường phối để chủ động phòng chống và ứng phó
với các thảm họa thiên nhiên. Bên cạnh đó, cần đảm bảo an sinh xã hội thông qua các
biện pháp như trợ cấp thất nghiệp, lương hưu, bảo hiểm lao động, bảo hiểm y tế và an
ninh quốc phòng…
(4) Hội nhập với nền kinh tế toàn cầu
Có thể nói ASEAN hiện đang hoạt động trong một môi trường toàn cầu hóa ngày
càng cao. Do vậy, không chỉ dừng lại ở AEC mà ASEAN còn phải xem xét tất cả các
quy định trên thế giới để hình thành những chính sách riêng cho mình. Đây sẽ là động
lực chính cho phép ASEAN có thể cạnh tranh thành công với thị trường toàn cầu, đạt
được mục đích sản xuất, trở thành nơi cung ứng quan trọng cho thị trường quốc tế,
đồng thời đảm bảo thị trường ASEAN có sức hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, để tăng cường vai trò trung tâm của ASEAN trong cơ cấu kinh tế ở Đông Á
và nâng cao tiếng nói của ASEAN trong các diễn đàn khu vực và toàn cầu, ASEAN
chọn hai cách tiếp cận: (i) tiếp cận thống nhất với hợp tác kinh tế ngoại khối thông qua

các hiệp định thương mại tự do; (ii) tăng cường tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn
cầu.
Hiện nay, ASEAN đang tích cực tham gia Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu
vực (RCEP), với mong muốn hội nhập sâu rộng hơn với các quốc gia Đông Á để đem
lại nhiều lợi ích hơn cho ASEAN; việc tham gia RCEP sẽ giúp giảm dần các rào cản
về hàng hóa và dịch vụ tự do hơn ở Đông Á cho các thành viên ASEAN. Ngoài ra, các
quốc gia thành viên ASEAN cũng nhất trí tham gia nhiều hơn nữa vào mạng lưới cung
ứng toàn cầu bằng việc nâng cao năng suất và hiệu quả công nghiệp. AEC sẽ trở thành
tâm điểm của ASEAN với vai trò chủ động tham gia các hiệp định thương mại tự do
với các nền kinh tế bên ngoài trong việc đổi mới kiến trúc khu vực. Sau khi hội nhập,
ASEAN sẽ là một thị trường lớn và trở thành một nhân tố quan trọng đối với kinh tế
toàn cầu như Liên minh Châu Âu (EU).
Bên cạnh 4 trụ cột chính, AEC sau 2015 sẽ dựa trên một nền tảng chung là một
ASEAN phản ứng nhanh và giải quyết hiệu quả các vấn đề của doanh nghiệp trong
khu vực. Do vậy, ASEAN cần cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh trong khu
vực hướng đến một hệ thống quy định linh hoạt, thuận lợi hơn cho đối tượng này. Bên
cạnh đó, cần có sự điều phối hiệu quả hơn giữa các cơ quan với nhau và giữa các chính
phủ với nhau để đạt được sự kết nối thể chế tốt hơn.

7


Như vậy, AEC chính là sự đẩy mạnh những cơ chế liên kết hiện có của ASEAN,
như Hiệp định Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Khung ASEAN
về Dịch vụ (AFAS), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), Hiệp định Khung về Hợp tác
Công nghiệp ASEAN (AICO), Lộ trình Hội nhập Tài chính và Tiền tệ ASEAN, v.v…,
để xây dựng ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất. Nói cách
khác, AEC là mô hình liên kết kinh tế khu vực dựa trên và nâng cao những cơ chế liên
kết kinh tế hiện có của ASEAN có bổ sung thêm hai nội dung mới là tự do di
chuyển lao động và di chuyển vốn tự do hơn.

Với quyết tâm chính trị cao, các nước thành viên ASEAN đã và đang triển khai
các biện pháp cụ thể trong khuôn khổ các thỏa thuận và hiệp định của ASEAN trong
thời gian qua. Hành động lớn đầu tiên của ASEAN chính là việc các nhà lãnh đạo các
nước thành viên ký Hiệp định Khung ASEAN về Hội nhập các Ngành Ưu tiên. Có thể
coi đây là một kế hoạch hành động trung hạn đầu tiên của AEC. ASEAN hy vọng, hội
nhập nhanh các ngành ưu tiên này sẽ tạo thành bước đột phá, tạo đà và tạo ra hiệu ứng
lan tỏa sang các ngành khác. Tại Hiệp định này, các nước thành viên đã cam kết loại
bỏ thuế quan sớm hơn 3 năm so với cam kết theo Chương trình Thuế quan Ưu đãi Có
Hiệu lực Chung của AFTA (CEPT/AFTA). Các ngành ưu tiên hội nhập gồm: 7 ngành
sản xuất hàng hóa là nông sản, thủy sản, sản phẩm cao su, sản phẩm gỗ, dệt may, điện
tử, ô tô; 2 ngành dịch vụ là hàng không và e-ASEAN (hay thương mại điện tử); và 2
ngành vừa hàng hóa vừa dịch vụ là y tế và công nghệ thông tin. Tháng 12/2006, tại
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, các bộ trưởng đã quyết định đưa thêm ngành hậu
cần (logistics) vào danh mục ngành ưu tiên hội nhập.
3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi AEC vận hành
Việc tích cực tham gia vào Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) của Việt Nam
đem đến nhiều cơ hội, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều khó khăn và thách thức như
sau:
3.1.

Cơ hội

Sau khi thành lập, AEC sẽ là một thị trường chung có quy mô lớn qua sự liên kết
về kinh tế trên cơ sở sản xuất thống nhất như tự do thương mại về đầu tư, chu chuyển
vốn, lao động, dịch vụ… AEC sẽ tạo ra một khu vực kinh tế có tính cạnh tranh cao và
hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Do đó, lợi ích mà các thành viên có được
khi AEC được hình thành là tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo ra nhiều việc làm hơn,
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ hơn, phân bổ nguồn lực tốt hơn,
tăng cường năng lực sản xuất và tính cạnh tranh. Đặc biệt, AEC chú trọng đến mục
tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước, cũng là điều mà Việt Nam hết sức

quan tâm.
-

Cơ hội mở rộng thị trường và tăng cường trao đổi thương mại

ASEAN là một thị trường rộng lớn với hơn 600 triệu dân. Đây là một thị trường
hết sức tiềm năng với những đặc điểm tương đồng và hết sức đa dạng, phù hợp cho
việc mở rộng thị trường và đa dạng hóa sản phẩm đối với doanh nghiệp Việt Nam.
8


Số liệu của Bộ Công Thương cho thấy, năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam đối với thị trường ASEAN là 18,5 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2012; kim
ngạch nhập khẩu đạt 21,3 tỷ USD, tăng 2,8%. Cơ hội mở rộng trao đổi thương mại cho
các doanh nghiệp trong ASEAN nói chung và cho các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng chính là những thuận lợi hóa thương mại trong ASEAN như tự do thuế quan,
nâng cao tính minh bach trong thương mại và cải cách liên tục quy tắc xuất xứ.
Từ ngày 01/01/2010, các nước ASEAN–6 đã loại bỏ thuế quan thêm 7.881 dòng
thuế, đưa tổng số dòng thuế mức 0% là 54.467, trong đó, hàng hóa thuộc các ngành
hội nhập ưu tiên chiếm 24,15% tổng số dòng thuế, sắt và thép chiếm 14,92%, máy
móc và các công cụ điện chiếm 8,93%, hóa chất chiếm 8,3%. Các mặt hàng như thực
phẩm chế biến, nhựa, giấy, xi măng, đồ gia công và kính, nhôm có xuất xứ từ ASEAN
cũng được miến thuế nhập khẩu vào Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipines,
Singapore và Thái Lan. Sau ngày 31/12/2015, hầu hết các mặt hàng nhập khẩu nội
khối sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan 0%, cùng với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa,
dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề, vì thế AEC sẽ tạo điều kiện cho doanh
nghiệp các nước ASEAN bình đẳng và có cơ hội mở rộng thương mại, thu hút đầu tư,
đẩy mạnh xuất khẩu, giảm chi phí nhập khẩu, hạ giá thành sản phẩm.
Ngoài 10 nước thành viên ASEAN, các doanh nghiệp Việt Nam còn có cơ hội
tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với các đối tác như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn

Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand thông qua các hiệp định thương mại tự do riêng
rẽ giữa ASEAN với các đối tác kinh tế này. Thông qua các FTA giữa ASEAN với các
đối tác, các mặt hàng xuất khẩu của ASEAN cũng được hưởng thuế quan ưu đãi 0%
khi xuất khẩu sang các thị trường các nước.
-

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ hơn

Với mục đích đưa ASEAN trở thành điểm đến thu hút đầu tư nước ngoài, thích
ứng với môi trường cạnh tranh toàn cầu, thiết lập một cơ chế đầu tư tự do và mở cửa
với các mục tiêu hội nhập kinh tế, ngày 26/02/2009, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã
ký kết Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA). Luồng vốn đầu tư vào ASEAN có
xu hướng tăng lên trong những năm gần đây do phát triển kinh tế mạnh mẽ trong khu
vực và toàn cầu trước khi xảy ra khủng hoảng toàn cầu năm 2008 và 2009. Đầu tư
nước ngoài vào ASEAN chủ yếu là từ Liên minh Châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Tỷ
trọng của ASEAN trong tổng vốn đầu tư toàn cầu phản ánh khả năng hút vốn đầu tư
nước ngoài của ASEAN vẫn tăng thêm dù trải qua suy thoái kinh tế.
Năm 2015, khi AEC chính thức hình thành, với các biện pháp dỡ bỏ thuế quan và
các hàng rào phi thuế quan; thuận lợi hóa thương mại, hài hòa các tiêu chuẩn sản phẩm
và quy chế; giải quyết nhanh các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu, hoàn chỉnh các
quy tắc về xuất xứ; tạo thuận lợi cho các dịch vụ, đầu tư; tăng cường phát triển thị
trường vốn ASEAN, tự do lưu chuyển vốn và lao động có tay nghề; bảo vệ người tiêu
dùng và quyền sở hữu trí tuệ… AEC sẽ tạo môi trường đầu tư thuận lợi, giúp đẩy
mạnh thu hút vốn FDI vào các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
9


-

Mở ra các cơ hội về việc làm, lao động


AEC giúp tạo thêm công ăn việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ cấu sản
phẩm xuất khẩu theo hướng tích cực hơn, tăng cường năng lực cạnh tranh cho các nền
kinh tế ASEAN… Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) đã đưa ra dự báo: AEC có thể tạo thêm 14 triệu việc làm mới và thúc đầy nhịp
độ tăng trưởng hàng năm của ASEAN lên 7,1% vào năm 2025. Đặc biệt, tạo động lực
giúp các doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình, chủ động tham gia vào các chuỗi cung
ứng, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
3.2.
-

Khó khăn, thách thức

Cạnh tranh khốc liệt trên mọi thị trường, mọi bình diện

Trên thị trường ASEAN, các thị trường mà ASEAN có ký kết FTA và cả thị
trường nội địa Việt Nam, sản phẩm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hóa của các
nước ASEAN khác. Từ sau 31/12/2015, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan
được dỡ bở, nếu không có biện pháp đối phó hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam có thể
bị thua ngay trên sân nhà. Khi một nền kinh tế chưa được chuẩn bị đầy đủ trước những
đối thủ cạnh tranh trong điều kiện các hàng rào thuế quan đã sớm bị dỡ bỏ sẽ dẫn đến
những tổn thất về kinh tế trong cuộc cạnh tranh không cân sức, đồng thời gây sức ép
đối với nền công nghiệp còn non trẻ của đất nước. Trong khi đó, những hiểu biết và
nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về AEC còn rất hạn chế. Cụ thể: có 76% số
doanh nghiệp được điều tra không biết về AEC và 94% doanh nghiệp không biết về
Biểu đánh giá thực hiện AEC (AEC Scorecard); Các doanh nghiệp được hỏi cũng
không hiểu rõ những cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam nói chung và với
các doanh nghiệp nói riêng khi Việt Nam gia tham gia vào AEC 2015; Có đến 63%
doanh nghiệp cho rằng AEC không có ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít đến việc kinh
doanh của mình. Đây là tỷ lệ lớn nhất trong số các quốc gia ASEAN.

Các cam kết ngày càng cao về thực hiện lộ trình AEC, đặc biệt trong giai đoạn từ
nay đến năm 2015 và những yêu cầu ngày càng cao đối với hàng xuất khẩu sẽ là thách
thức không nhỏ với các doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh các biện pháp về phòng
vệ thương mại đang có xu hướng gia tăng. Sức ép từ hàng hóa nhập khẩu, cạnh tranh
về dịch vụ đầu tư của các nước ASEAN dẫn đến một số ngành, một số sản phẩm phải
thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường. Trong khi đó, việc khuyến khích các
doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) trong khu vực vẫn đang trong giai đoạn kế hoạch.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ASEAN trong nỗ lực khu vực hóa của mình phải đối
mặt với việc thắt chặt tín dụng, di chuyển lao động, nhu cầu thị trường và rủi ro chính
trị.
-

Rủi ro về chính sách

Các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ bộc lộ hạn chế khi hình thành cơ cầu đầu tư, sản
xuất và thương mại khu vực với quy mô lớn. Hiệu quả kinh doanh chưa cao của một
số ngành như ngân hàng – tài chính, bất động sản hoặc sự thiếu hụt cơ sở sản xuất
công nghiệp hiện đại và công nghệ cao... gây bất lợi trong ban hành chính sách đồng
bộ và đồng thời.
10


-

Hạn chế của đội ngũ lao động

Đội ngũ lao động Việt Nam thiếu tay nghề cao, năng suất lao động còn thấp (thấp
hơn 7 lần so với Malaysia và 15 lần so với Singapore), hạn chế về kỷ luật lao động so
với đội ngũ này ở các nước ASEAN khác… có thể dẫn tới tình trạng mất việc làm, tiền
lương thấp… Hệ thống giáo dục nghề nghiệp trình độ cao của Việt Nam cũng chưa

thích nghi hiệu quả với thị trường lao động ASEAN.

11


PHẦN 2 – DỊCH VỤ LOGISTICS: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
1. Dịch vụ logistics
Logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí và thời điểm, vận chuyển và dự trữ
nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của chuỗi cung ứng qua các khâu sản xuất, phân
phối cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người
tiêu dùng với chi phí hợp lý. Lĩnh vực Logistics hoạt động tập trung nhất, dễ thấy nhất,
chính là giao nhận vận tải, kho bãi. Ở Việt Nam, tại điều 233, Luật Thương mại 2005,
dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một
hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục
hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã
hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận của
khách hàng để hưởng thù lao.
Ngày nay, dịch vụ logistics phát triển mạnh mẽ và được chuyên môn hóa với
mức độ khá cao, trở thành một trong những ngành dịch vụ xương sống của ngành
thương mại quốc tế. Do vậy, logistics có vai trò to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp
mà cả nền kinh tế nói chung. Khi thị trường toàn cầu phát triển, logistics được các nhà
quản lý coi như là công cụ, phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau của chiến lược
doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu dụng về thời gian và địa điểm cho các hoạt động
của doanh nghiệp; giúp giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp; giúp
mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế… Phát triển dịch vụ logistics một cách hiệu
quả sẽ giúp góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, đem lại
nguồn lợi khổng lồ cho nền kinh tế.
2. Lộ trình hội nhập dịch vụ logistics trong ASEAN
Lộ trình này cung cấp hành động cụ thể cần theo đuổi để đạt được hội nhập sâu

hơn và nâng cao tầm quan trọng của dịch vụ Logistics trong ASEAN, gắn với việc
triển khai thực hiện hiệu quả nhiều giải pháp, trong đó bao gồm: Tăng cường khả
năng cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ Logistics ASEAN thông qua các dịch vụ
thương mại và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động Logistics; Tăng cường năng
lực của các nhà cung cấp dịch vụ Logistics ASEAN; và Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải đa phương thức. Kết luận của Hiệp định Giao thông vận tải ASEAN
giúp hướng tới thực hiện đầy đủ các lộ trình dịch vụ Logistics đã được ký kết tại Hội
nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 39 họp tại Manila, Philippines vào
ngày 24 tháng 8 năm 2007.
 Mục tiêu chính của lộ trình Logistics ASEAN
- Tạo ra một thị trường chung ASEAN vào năm 2015 bằng cách tăng cường hội
nhập kinh tế ASEAN thông qua tự do hóa và thuận lợi hóa các biện pháp trong lĩnh
vực dịch vụ Logistics.
12


- Hỗ trợ thành lập và nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN thông qua việc
tạo ra một môi trường Logistics liên kết ASEAN.
 Các chính sách quan trọng của lộ trình Logistics ASEAN
- Khuyến khích hội nhập của hệ thống Logistics quốc gia trong ASEAN (bằng
cách tăng thông tin liên lạc ở cấp khu vực và xác định các hoạt động trong lĩnh vực
Logistics để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho dòng lưu thông thương mại giữa các
nước thành viên ASEAN).
- Khuyến khích tiến trình tự do hóa các dịch vụ Logistics (để làm cho các dịch vụ
Logistics có thể đáp ứng các cơ hội sẵn có khi hội nhập ASEAN và gia tăng sức cạnh
tranh tốt hơn).
- Tạo điều thuận lợi cho thương mại, Logistics và đầu tư (để xác định các phương
tiện cần thiết, cải thiện cơ sở vật chất cho Logistics và các ưu tiên cho đầu tư).
- Xây dựng năng lực Logistics khu vực ASEAN (bằng cách khuyến khích phát
triển nguồn nhân lực, và một môi trường thuận lợi để phát triển ngành).

- Khuyến khích các nhà cung cấp dịch vụ Logistics.
- Tăng cường năng lực vận tải đa phương thức (đặc biệt là vận chuyển container).
3. Thực trạng phát triển dịch vụ logistics của Việt Nam
Theo báo cáo Đánh giá về thúc đẩy thương mại và giao thông, ít nhất 90% lượng
hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam được vận chuyển bằng đường biển, chỉ có 10%
được vận chuyển bằng đường bộ sang các nước láng giềng như Lào, Campuchia và
Trung Quốc và chỉ có một số ít hàng có giá trị cao như điện tử, một số mặt hàng giày
dép và dệt được vận chuyển bằng đường hàng không. Tổng chi phí logistics tại Việt
Nam chiếm khoảng 20% GDP, tương đương khoảng 20 tỷ USD, cho thấy tầm quan
trọng của ngành logistics đối với thương mại nội địa và xuất khẩu.
Dịch vụ logistics ở nước ta bắt đầu phát triển từ những năm 1990 trên cơ sở dịch
vụ giao nhận vận tải, kho vận. So với trước thời điểm gia nhập WTO, ngành logistics
Việt Nam đã có bước trưởng thành đáng kể về số lượng cũng như tính chuyên nghiệp
của những nhà cung cấp dịch vụ.
Hiện cả nước có khoảng hơn 1.200 doanh nghiệp logistics, chủ yếu tập trung tại
khu vực TP.HCM và Hà Nội. Trong đó, đa phần là công ty cung cấp dịch vụ logistics
và đại lý vận tải với khoảng 15-30 nhân viên. Nhiều hãng vận tải chỉ tập trung hoạt
động trong lĩnh vực làm thủ tục hải quan và xử lý các đơn hàng đơn giản. Những công
ty nhỏ này chỉ chiếm 20% thị phần nên cạnh tranh giữa các công ty này với nhau rất
khốc liệt. Có một số công ty logistics thuộc Nhà nước như Vinalines, Viconship,
Vietrans Vinafreight và một vài công ty liên doanh như South Logistics JSC,
Vinatrans JSC, Gemadept JSC và các công ty mới thành lập thuộc cảng vụ như Tân
Cảng Logistics. Các công ty này có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ như đại lý vận tải,
thông quan, thu gom, phân phối, kho bãi, quá cảnh, vận tải đường bộ và theo dõi; một
số có đại lý tàu biển của riêng mình. Phần lớn thị trường toàn ngành logistics Việt
Nam rơi vào tay các hãng lớn, thường là hãng tàu biển nước ngoài, liên doanh giữa các
13


hãng quốc tế hoặc đại lý của các hãng nước ngoài tại Việt Nam, gồm 25 hãng logistics

quốc tế lớn như APL, Maersk, NYK, OOCL, Yusen, Schenker… Các hãng này không
chỉ cung cấp đầy đủ các dịch vụ mà còn có mạng lưới quốc tế rộng, tài chính mạnh và
hệ thống công nghệ thông tin hiện đại.
Trong thời gian qua, bên cạnh phát triển về số lượng, hoạt động logistics của
nước ta đã có những bước phát triển về chất lượng, bước đầu đạt được một số kết quả
khích lệ như Chỉ số năng lực logistics (LPI) năm 2014 đạt 3,15 điểm, đứng thứ 4 trong
khu vực ASEAN trong phát triển logistics; xếp hạng 97/134 nước châu Á – Thái Bình
Dương và 28/193 nước tham gia tổ chức hàng hải quốc tế. Tốc độ phát triển đạt 2025%/năm.
Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam còn thấp. Theo số
liệu của Ngân hàng thế giới, đầu năm 2014, chi phí logistics trung bình ở Việt Nam
chiếm khoảng 20,9-25% GDP, cao hơn khoảng 10% so với các nước đang phát triển
cùng khu vực. Nó cũng là nguyên nhân khiến cho giá thành sản phẩm từ Việt Nam bị
đẩy lên cao. Bên cạnh đó, đa số các doanh nghiệp logistics của Việt Nam có quy mô
vừa và nhỏ, vốn điều lệ bình quân khoảng 4-6 tỷ đồng, nhân lực được đào tạo bài bản
thấp. Năng lực tài chính còn yếu, cùng với hạn chế trong liên kết giữa các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics làm cho dịch vụ ở nước ta kém phát
triển so với yêu cầu. Ngoài ra, còn sự thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng, phát triển khung
pháp lý, trình độ ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế, phải giải quyết thông qua
các đại lý của công ty nước ngoài… cũng hạn chế cho sự phát triển của ngành logistics
Việt Nam.
Chất lượng dịch vụ logistics ở Việt Nam còn thấp. Chưa có doanh nghiệp Việt
Nam nào có khả năng cung cấp dịch vụ logistics toàn cầu đầy đủ hoặc cung cấp dịch
vụ trọn gói “Door to Door”, chủ yếu chỉ làm đại lý hoặc đóng vai trò nhà cung cấp
dịch vụ vệ tinh cho các doanh nghiệp logistics nước ngoài như khai báo hải quan, cho
thuê phương tiện vận tải, kho bãi… Rất ít doanh nghiệp tổ chức, điều hành toàn bộ
quy trình hoạt động logistics theo phương thức 3PL (hiện đã phát triển đến phương
thức 5PL).
Theo ước tính của Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA),
hiện có khoảng 4.000 nhân viên chuyên nghiệp và 5.000 nhân viên bán chuyên nghiệp
hoạt động trong hơn 300 doanh nghiệp, nhưng chỉ đáp ứng 40% nhu cầu, trong khi dự

báo 3 năm tới các doanh nghiệp logistics cần thêm 18.000 lao động. Do vậy, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố then chốt giúp ngành logistics
Việt Nam tiến nhanh, bắt kịp với nhịp độ của các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, theo
cuộc khảo sát về nguồn nhân lực logistics của Việt Nam cuối năm 2014 cho thấy có
60% tự đào tạo qua kinh nghiệm, học hỏi tay nghề từ lớp đàn anh đi trước, chỉ có 40%
có đào tạo qua trường lớp nhưng đa phần là những lớp bồi dưỡng tay nghề do các hiệp
hội tổ chức. Những lớp này thiếu cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, phương pháp truyền
đạt…, trong khi đó yêu cầu về một nhân lực logistics thực thụ phải được trang bị các
kiến thức, kỹ năng quản trị trở thành nhà cung cấp logistics tích hợp (3PL).
14


4. Cơ hội và thách thức đối với dịch vụ logistics Việt Nam khi tham gia AEC
Logistics là ngành ưu tiên hội nhập thứ 12 của ASEAN, với mục tiêu tạo ra 1 thị
trường chung ASEAN vào năm 2015 thông qua việc tăng cường hội nhập kinh tế
ASEAN bằng các biện pháp tự do hóa và tạo thuận lợi trên lĩnh vực dịch vụ logistics;
hỗ trợ việc hình thành và nâng cao khả năng cạnh tranh của 1 nền sản xuất ASEAN
qua việc tạo nên 1 môi trường logistics ASEAN liên kết và thống nhất; từ đó tạo cú
hích trong lộ trình đưa ASEAN trở thành trung tâm logistics ở khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương. ASEAN đang dần loại bỏ các rào cản về quy tắc và luật lệ, khẩn trương
thực thi kế hoạch chiến lược phát triển hải quan và “Cơ chế một cửa ASEAN” nhằm
hài hòa quy tắc quản lý thương mại và thủ tục hải quan giữa các nước. Việc thực hiện
có kết quả Lộ trình hội nhập logistics với những biện pháp cụ thể sẽ giúp các nước
ASEAN phát triển ngành logistics tiến kịp với các nước phát triển, xây dựng ASEAN
thành 1 trung tâm dịch vụ logistics toàn cầu, thúc đẩy việc hình thành thị trường chung
ASEAN vào cuối năm 2015.
Với lộ trình hội nhập trong lĩnh vực logistics của ASEAN, ngành logistics Việt
Nam đang đứng trước cơ hội lớn để phát triển, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều khó
khăn cần giải quyết.
4.1. Cơ hội

- Giúp logistics Việt Nam tiếp cận được thị trường logistics rộng lớn hơn với
những ưu đãi thương mại để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. Trong đó, đồng hành
với hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa có xu hướng gia tăng do các ưu đãi, rào cản
thuế quan cắt bỏ, ngành logistics cũng có cơ hội mở rộng các đơn hàng và phát triển
thuận lợi hơn.
- Phát huy lợi thế địa chính trị trong phát triển cơ sở hạ tầng logistics như phát
triển cảng nước sâu, sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên Á, các trung tâm
logistics. Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi cho hoạt động vận tải quốc tế đường
biển, đường hàng không, đường sắt và đường bộ. Bên cạnh hệ thống các cảng biển
đang được đầu tư xây dựng từ Bắc vào Nam, các sân bay quốc tế nếu được đầu tư
nâng câp sẽ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động logistics. Vị trí địa lý của Việt
Nam không những thuận lợi cho hoạt động logistics của Việt Nam mà còn thu hút
được một lượng hàng quá cảnh đáng kể của các quốc gia láng giềng như Lào, Đông
Bắc Thái Lan và Campuchia. Các doanh nghiệp logistics Việt Nam sẽ dễ nhanh nhạy,
nắm vững được thị trường, tâm lý khách hàng, vị trí địa lý, thời tiết, văn hóa của người
dân các nước trong khu vực do có nền văn hóa tương đồng.
- Tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển quan hệ đối tác, góp phần cơ cấu lại nền
kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam
được dự báo tăng mạnh về số lượng và chất lượng khi Việt Nam tham gia tiến trình
AEC. Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không chỉ bởi một quy mô thị trường của
AEC hơn 580 triệu dân với GDP trên 1.500 tỷ USD, mà còn bởi chi phí kinh doanh và
giao dịch sẽ giảm mạnh qua việc cải thiện môi trường đầu tư. Từ đó, cũng tất yếu
15


hưởng lợi từ những công nghệ chuyển giao, mở ra kênh tiếp cận thị trường khu vực và
thế giới cho các doanh nghiệp logistics Việt Nam.
- Tích cực tham gia vào AEC, Việt Nam sẽ khiến các đối tác bên ngoài thay đổi
tư duy của họ khi tiến hành xúc tiến đầu tư vào ngành logistics. Với vị thế trong cộng
đồng, thị trường Việt Nam sẽ được coi trọng, thu hút được các công ty xuyên quốc gia,

các tập đoàn lớn vào đầu tư.
4.2.

Khó khăn, thách thức

Trên con đường thực hiện mục tiêu hội nhập AEC của ngành logistics, Việt Nam
cũng đang đối mặt với nhiều thách thức như:
- Cơ sở hạ tầng cho hoạt động logistics nghèo nàn, thiếu đồng bộ, hạn chế đến sự
phát triển, dẫn đến cho phí logistics của Việt Nam còn cao hơn nhiều so với các nước;
- Doanh nghiệp logistics quy mô nhỏ, hoạt động manh mún và thiếu tính chuyên
nghiệp. Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp logistics trong hoạt động kinh doanh là
điều cần thiết nhằm thúc đẩy và tạo động lực phát triển, nhưng trong điều kiện hiện
nay khi mà các doanh nghiệp trong nước mới chỉ cung ứng dịch vụ truyền thống, đơn
lẻ, chủ yếu là làm đại lý, quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ, kinh doanh còn mạnh mún,
lao động vừa thiếu lại vừa yếu, chưa có sự hợp tác, liên minh liên kết để cạnh tranh với
doanh nghiệp các nước trong khu vực như Singapore, Malaysia, Thailand, sẽ gây khó
khăn cho ngành logistics non trẻ của Việt Nam.
- Thiếu hụt nguồn nhân lực logistics được đào tạo bài bản và có trình độ quản lý
logistics;
- Môi trường pháp lý còn nhiều bất cập, sự khác biệt về hệ thống luật pháp, thông
quan hàng hóa và các thủ tục hành chính…Hệ thống pháp luật của Việt Nam về dịch
vụ logistics vẫn chưa thực sự sẵn sàng để theo kịp tiến trình hội nhập, mặc dù chúng ta
đang cố gắng từng bước hoàn thiện.
- ASEAN đề nghị các nước ASEAN-4, trong đó có Việt Nam, thúc đẩy nhanh
tiến trình thực hiện CEPT/AFTA lên 1 năm tương tự như ASEAN-6. Đây là thách thức
lớn đặt ra khi phải sớm dỡ bỏ hàng rào bảo hộ cho ngành logistics trong nước không
có khả năng cạnh tranh cao.
5. Một số giải pháp phát triển dịch vụ logistics Việt Nam khi tham gia AEC
Toàn cầu hóa làm cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới
phát triển mạnh mẽ và đương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi,

các dịch vụ phụ trợ… Các xu thế mới của thời đại sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu
của logistics toàn cầu. Nổi bật là xu hướng ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại
điện tử ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong lĩnh vực của logistics như hệ thống
thông tin quản trị dây chuyền cung ứng toàn cầu, công nghệ nhận dạng bằng tần số vô
tuyến…;. Xu hướng tăng hoạt động thuê ngoài logistics cũng là cơ hội thuận lợi để
logistics phát triển.
Để phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh dịch vụ logistics của Việt Nam khi
tham gia vào AEC cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
16


- Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho hoạt động logistics: cần xây dựng
hành lang, khung pháp lý mở và chọn lọc, đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và
hợp lý trong các văn bản, quy định liên quan đến lĩnh vực logistics với mục đích tạo cơ
sở cho một thị trường logistics minh bạch. Cần hài hòa hóa quy định giữa các thành
viên trong ASEAN về pháp lý trong lĩnh vực logistics để tiến tới hoàn thành Lộ trình
hội nhập logistics của ASEAN.
- Tăng cường vai trò của các hiệp hội: các hiệp hội, cần năng động hơn nữa
trong việc bảo vệ quyền lợi hội viên thông qua các hoạt động đào tạo, gắn kết thông
tin, điều phối, hướng dẫn tiếp cận và thâm nhập thị trường nước ngoài. Đặc biệt là vai
trò cầu nối với Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần được phát huy hơn nữa nhằm
tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp logistics nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Đầu tư xây dựng và quy hoạch cơ sở hạ tầng: cần đầu tư hợp lý, đồng bộ các
cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa, đường bộ, đường sắt, đường song, kho bãi,
trang thiết bị… có khả năng tương tác và hỗ trợ qua lại lẫn nhau một cách hiệu quả;
qua đó khai thác tối đa các cơ sở vật chất để đảm bảo lợi ích quốc gia và của ngành.
- Tập trung, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ cho ngành logistics: mở
các lớp đào tạo kiến thức về logistics một cách bài bản, chú trọng đào tạo ngoại ngữ và
khả năng ứng dụng công nghệ thông tin; mở các chuyên ngành đào tạo logistics ở các
trường đại học, các chương trình liên kết với nước ngoài.

- Tăng cường tính liên kết: các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần hợp tác, liên
kết nhằm mở rộng quy mô nguồn vốn, đủ sức cạnh tranh thành, tạo thành chuỗi cấp
cho khách hàng những dịch vụ tổng thể, hoàn hảo thông qua chuỗi liên kết dọc hoặc
chuỗi liên kết ngang để cung cấp dịch vụ One Stop Ship (dừng 1 lần có thể mua được
tất cả những gì mong muốn) cho khách hàng. Ngoài ra, cũng có thể liên doanh với các
đối tác nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm và phương pháp quản lý, nhận hỗ trợ tài
chính, xây dựng cơ sở vật chất và mở rộng quan hệ, tiếp cận thị trường bên ngoài của
đối tác.
- Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin hiện đại là công cụ
cơ bản giúp các doanh nghiệp logistics hàng đầu thế giới hoạt động hiệu quả, đủ sức
cạnh tranh quốc tế. Chính vì vậy, để phát triển dịch vụ logistics thì công việc đầu tiên
là cần tập trung phát triển hạ tầng công nghệ thông tin.

17


Q&A
1. Phân tích thêm về tình hình đầu tư ra nước ngoài, trong đó có các nước
ASEAN. Đưa ra một số ví dụ và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam
khi đầu tư ra nước ngoài?
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính lũy kế đến tháng
4/2015, Việt Nam đã có 962 dự án đầu tư ra nước ngoài sang 22 quốc gia và vùng lãnh
thổ với tổng vốn đăng ký đầu tư là 15 tỷ USD và 134 lượt dự án tăng vốn với tổng vốn
tăng thêm là 5 tỷ USD. Tính cả vốn cấp mới và vốn tăng thêm tính đến nay là hơn 20
tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2015 đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài
cho 47 dự án với tổng số vốn là 155,4 triệu USD và 19 lượt điều chỉnh vốn. Theo Báo
cáo Đầu tư của ASEAN năm 2013-2014 – Phát triển FDI và chuỗi giá trị khu vực
do Ban Thư ký ASEAN và UNCTAD thực hiện, tính đến tháng 4/2014, các doanh
nghiệp Việt Nam chủ yếu đầu tư ra nước ngoài tập trung ở các nước láng giềng
trong khu vực ASEAN. Số dự án đầu tư sang các nước ASEAN chiếm gần 58%

tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam và gần 50% tổng số vốn đầu tư.
Trong đó, tập trung nhiều tại Lào (259 dự án), Campuchia (171 dự án), Myanmar…
Một số doanh nghiệp Việt Nam có hoạt động/dự án đầu tư sang các nước ASEAN có
thể kể đến như Viettel, Vinamilk, Hoàng Anh Gia Lai, FPT, Tập đoàn Cao su Việt
Nam, Tôn Hoa Sen, Kymdan…
Một số hạn chế, thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước
ngoài như:
(i)

(ii)

(iii)
(iv)

Quy mô vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ,
tỷ suất lợi nhuận và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp. Đa số các doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài chưa mạnh về tiềm lực tài chính, công nghệ sản
xuất lạc hậu, trình độ quản lý và kinh nghiệm kinh doanh quốc tế còn nhiều
hạn chế nên không có nhiều lợi thế trong cạnh tranh.
Việc cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài chưa được phân cấp, còn tập
trung ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Sự khác nhau về những quy định cấp phép
đầu tư, chuyển vốn ra nước ngoài giữa các nước gây không ít khó khăn cho
doanh nghiệp muốn đem vốn ra nước ngoài kinh doanh.
Sự khác biệt và thiếu thông tin về địa bàn đầu tư, về các quy định pháp lý về
đầu tư, quy định về chính sách, ngành nghề kinh doanh tại các quốc gia...
Rào cản về ngôn ngữ, văn hóa xã hội.

18



2. Ngành logistics Việt Nam đang phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước
ngoài (chủ yếu là các hãng tàu). Giải pháp nào nhằm thúc đẩy các
forwarder gắn kết với doanh nghiệp thay vì qua hãng tàu?
Nếu như trước đây, các hãng tàu giữ vị trí then chốt trong lĩnh vực giao nhận thì
sự ra đời của các công ty giao nhận đã mang đến nhiều sự lựa chọn cũng như giá trị
gia tăng cho khách hàng. Tuy nhiên, các công ty giao nhận (forwarder) còn gặp phải
quá nhiều cản trở như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các forwarder với nhau,
cạnh tranh giữa hãng tàu và forwarder và sự tin tưởng của khách hàng đối với
forwarder còn thấp.
Một số giải pháp đối với các forwarder như:
-

-

Tăng cường liên doanh, liên kết giữa các forwarder để nâng cao năng lực về
vốn, nhân lực, thị trường, từ đó cạnh tranh và tạo uy tín đối với doanh
nghiệp
Ký kết hợp đồng với các hãng tàu nước ngoài, trở thành các agent/đại lý đại
diện tại Việt Nam
Tăng cường nghiên cứu và phát triển thị trường trong và ngoài nước, nhất là
các thị trường gần trong ASEAN
Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động, tính chuyên nghiệp như tăng
cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý…

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Đạt, Logistics – Những vấn đề cơ bản (2010)
2. Lý Hoàng Ánh, Trần Mai Ước, AEC – Những thách thức cơ bản và vấn đề đặt

ra (5/2014)
3. Nguyễn Thị Minh Hà, Dịch vụ vận tải và logistics Việt Nam trước thềm AEC
2015, Vietnam Logistics Review số 93 (2014)
4. Nguyễn Thị Thu Hà, Thách thức lớn khi Việt Nam tham gia AEC, Vietnam
Logistics Review số 91 (2014)
5. Nguyễn Thu Thủy, Hoàng Trường Giang, Nguyễn Trung Kiên, Thuận lợi hóa
thương mại và hài hòa hóa chính sách logistics tại các quốc gia ASEAN, Tạp
chí Kinh tế Đối ngoại số 63 (03/2014)
6. Phạm Hùng Tiến, Hội nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN – Góc nhìn từ ngành
dịch vụ logistics Thái Lan và vận dụng kinh nghiệm phát triển logistics tại Việt
Nam (2014)
7. Phạm Hùng Tiến, Cơ hội phát triển dịch vụ logistics nhìn từ góc độ hình thành
Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015 (5/2014)
8. Thành Phương, Nguồn nhân lực Logistics chưa sẵn sàng, Vietnam Logistics
Review số 91 (2014)
9. Trần Kim Anh, Nguyễn Thị Quỳnh Hương, Phát triển dịch vụ logistics trong
bối cảnh Việt Nam tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (2014)
10. Website ASEAN: www.asean.org
11. Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn
12. Website Bộ Công Thương: www.moit.gov.vn
13. Website Tổng Cục Thống kê: www.gso.gov.vn
14. Website Tổng Cục Hải quan: www.custom.gov.vn

20



×