Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận “Ảnh hưởng của đô thị hoá đến tình hình quản lý, sử dụng đất, phát triển xã hội nông thôn và đời sống người nông dân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.5 KB, 19 trang )

1. Đặt vấn đề

Đô thị hoá là một xu thế tất yếu, đó là một quá trình phát triển của
xã hội mang tính chất toàn cầu và diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở tất cả các
quốc gia trên toàn thế giới.
Quá trình đô thị hoá đã làm biến đổi sâu sắc mọi mặt của cuộc sống,
đem đến nhiều thành tựu quan trọng trong quá trình phát triển của các đô
thị nói riêng và cả xã hội nói chung. Bên cạnh những thành tựu đạt được,
đô thị hoá cũng đã làm nảy sinh hàng loạt vấn đề có liên quan đến tính bền
vững cho cuộc sống nhân loại. Đối với các nước đang phát triển, quá trình
đô thị hoá diễn ra theo chiều rộng, chủ yếu chạy theo việc mở rộng quy mô
và gia tăng số lượng các đô thị…mà ít quan tâm đến chất lượng đô thị cũng
như chất lượng môi trường sống trong các đô thị, gây ra những hậu quả
không mong muốn, làm ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Vì vậy, cần phải tiến hành nghiên cứu và giải quyết nhiều vấn đề trong quá
trình đô thị hóa, trong đó có vấn đề quản lý và sử dụng đất đai.
Đô thị hoá là một quy luật khách quan diễn ra ở tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới, Việt Nam nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Phấn đấu trở thành thành phố trực
thuộc trung ương nên quá trình đô thị hoá tại tỉnh diễn ra khá nhanh. Đặc
biệt ở vùng ven đô quá trình đô thị hóa diễn ra sôi động hơn bao giờ hết,
điều này đã tạo ra những diện mạo mới cho bộ mặt nông thôn cũng như gây
nhiều áp lực đối với người dân ở đây, làm cho cơ cấu sử dụng đất trên địa
bàn tỉnh cũng có những biến động mạnh, nhất là quá trình chuyển mục
đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng sang đất phi
nông nghiệp cũng như nhiều biến động khác trong quá trình trình sử dụng
đất. Điều này đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước để nâng
cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất, đồng thời đảm bảo sự ổn định về
mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Vì vậy, trong bài tiểu
luận của mình, em xin chọn đề tài “Ảnh hưởng của đô thị hoá đến tình hình
quản lý, sử dụng đất, phát triển xã hội nông thôn và đời sống người nông


dân trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.


2. Nội dung

2.1. Quá trình đô thị hóa và xu hướng phát triển đô thị trong
tương lai ở các đô thị lớn hiện nay
2.1.1. Đô thị hóa và đặc điểm của đô thị hóa
Đô thị hoá là sự mở rộng của đô thị và sự hình thành các điểm dân
cư đô thị do yêu cầu công nghiệp hóa. Trong quá trình này có sự biến đổi
về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ chức xã hội, cơ cấu
không gian và hình thái xây dựng từ dạng nông thôn sang dạng thành thị.
Có 5 yếu tố cơ bản để tạo thành đô thị là:
+ Chức năng của đô thị
+ Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
+ Cơ sở hạ tầng
+ Quy mô dân số
+ Mật độ dân cư
Đô thị hoá có các đặc điểm là gắn liền với công nghiệp hóa. Quá
trình đô thị hóa là người bạn đồng hành của quá trình công nghiệp. Có
người cho rằng quá trình đô thị hóa chính là quá trình công nghiệp hóa.
Quá trình đô thị hóa đã làm nhiều biến đổi sâu sắc và đưa đến nhiều thành
tựu quan trọng trong quá trình phát triển của các đô thị nói riêng và của cả
xã hội nói chung. Bên cạnh đó, đô thị hóa cũng kéo theo nhiều mặt tiêu
cực đòi hỏi sự quan tâm giải quyết của của toàn xã hội nhằm đảm bảo cho
xã hội phát triển bền vững.
Ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá đến đời sống con người:
+ Mặt tích cực: quá trình đô thị hóa kéo theo quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp – xây dựng và dịch vụ - du lịch. Về cơ cấu sản

xuất, các thành phần kinh tế hoạt động đa dạng hơn, phát triển sản xuất
theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế thị trường từ đó đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội, nâng cao thu nhập cho người dân ở
khu vực nông thôn, góp phần tạo nên sự cân bằng hơn về kinh tế - xã hội
giữa các vùng.


+ Mặt tiêu cực: đô thị hóa sẽ kéo theo quá trình tập trung dân cư,
đặc biệt là sự di dân từ nông thôn ra thành thị, tạo ra sự chênh lệch rất lớn
về mật độ dân cư giữa đô thị với nông thôn, kéo theo nhiều vấn đề về nhà
ở, việc làm, sinh hoạt, nghỉ ngơi,…những vấn đề này nếu không được giải
quyết một cách kịp thời thì sẽ nảy sinh rất nhiều khó khăn cho hoạt động
sản xuất cũng như sinh hoạt của con người, đặc biệt là vấn đề về môi
trường đang có xu hướng mất cân bằng sinh thái. Đô thị hóa sẽ thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa diễn ra một cách ồ ạt, nhiều chất thải độc hại được
thải ra môi trường, kéo theo những vấn đề cực kỳ nóng bỏng đòi hỏi sự hợp
tác giải quyết toàn cầu, nhất là vấn đề về môi trường. Đô thị hóa cũng làm
cho cơ cấu sử dụng đất thay đổi, xu thế chung là giảm tỷ trọng đất nông
nghiệp và tăng tỷ trọng đất phi nông nghiệp. Tại thời điểm này, việc chuyển
đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp đang diễn ra một cách ồ ạt trên
cả nước. Hàng năm có khoảng 10.000 ha đất nông nghiệp phải chuyển sang
các mục đích sử dụng khác. Nếu cứ tiếp tục theo xu thế này thì vấn đề an
ninh lương thực trong thời gian sắp tới là vấn đề rất đáng lo ngại.
2.1.2. Khái quát quá trình đô thị hoá ở Việt Nam
Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời
trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều
nguyên nhân, quá trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư
thành thị thấp.
Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới đô thị hóa ở
Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh

nghiệp (năm 2000), Luật Đất đai (năm 2003), Luật Đầu tư (năm 2005);
Chính phủ ban hành Nghị định về Quy chế khu công nghiệp, khu chế
xuất (năm 1997)… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện
rộng, tốc độ nhanh, số lượng lớn các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị cũng
như nông thôn. Làn sóng đô thị hoá đã lan toả, lôi cuốn và tác động trực
tiếp đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, kết cấu hạ tầng ở nông thôn xưa nay vốn yếu kém, đã có sự cải thiện đáng kể. Các làng nghề được chấn
hưng, mở mang góp phần làm sôi động thêm quá trình đô thị hoá ở nông thôn.


Làn sóng đô thị hóa cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI đã thổi luồng
sinh khí mới vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam. Đô thị hoá
gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã trực tiếp góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng giá trị nông, lâm, thuỷ sản
trong tổng thu nhập quốc dân trong nước (GDP) và tăng dần tỷ trọng các
ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ trong GDP.
Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quá trình đô thị hoá
diễn ra hết sức nhanh chóng nhất là trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 các đô thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả nước
mới có khoảng 500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá vào khoảng 17-18%), đến năm
2000 con số này lên 649 và năm 2003 là 656 đô thị.
Đến cuối năm 2007, cả nước có trên 700 điểm cư dân đô thị, tăng
hơn 40% so với năm 1995. Bên cạnh những đô thị có bề dày lịch sử tiếp
tục được mở mang, nâng cấp, đáng chú ý là sự xuất hiện ngày càng nhiều
các khu đô thị mới tập trung, trong đó hệ thống các thị trấn, thị tứ ngày
càng toả rộng, tạo thành những nét mới ở nông thôn.
Tính đến giữa năm 2008, trên phạm vi cả nước đã có gần 200 khu

công nghiệp, phân bố trên địa bàn 52 tỉnh, thành phố với trên 6.000 dự án
đầu tư trong, ngoài nước, thu hút hơn 1.000.000 lao động. Phần lớn diện
tích các khu công nghiệp, khu chế xuất là đất nông nghiệp và lực lượng
chủ yếu bổ sung vào đội ngũ lao động công nghiệp là nông dân.
Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá Việt Nam là nước có tốc độ đô
thị hóa cao nhất Đông Nam Á. Nếu năm 1986, tỉ lệ dân cư sống tại đô thị
Việt Nam mới 19% (khoảng 11,8 triệu người) thì đến năm 2010 đã tăng lên
30,5% (khoảng 26,3 triệu người).
Thống kê đến cuối năm 2012, Việt Nam có 765 đô thị, chiếm tỷ lệ đô
thị hóa đạt 32,45%. Đô thị hóa đã đóng góp 70% GDP cả nước, tạo động
lực cho phát triển đất nước sau 20 năm đổi mới. Trong bản báo cáo “Đánh
giá đô thị hóa ở Việt Nam” của WB ngày 5/4/2012 cho biết: Việt Nam đang
đô thị hóa một cách nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa sẽ là một phần quan
trọng trong tương lai của Việt Nam để đảm bảo có thành phố dễ sống và có
khả năng cạnh tranh trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Đây cũng sẽ trở
thành một phần cần thiết trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.


Theo báo cáo này, tốc độ đô thị hóa của Việt Nam đạt 3,4%/năm, đa số tập
trung trong và xung quanh thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đô thị hóa
đóng vai trò trọng tâm trong tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo của
Việt Nam. Đô thị hóa bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm
quốc gia: các đô thị trung tâm quốc gia gồm Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế. Các đô thị trung tâm vùng gồm các thành
phố như: Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Nam
Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ Long, Hoà Bình… Các đô thị trung tâm
tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm hành chính-chính
trị, kinh tế, văn hoá, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông; và các đô thị
trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn, các đô
thị mới.

Với tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hoá.
Đó là vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị, làm cho mật độ dân số ở
thành thị tăng cao; vấn đề giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ,
nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức
tạp; vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị; vấn đề ô nhiễm
môi trường, ô nhiễm nguồn nước...
2.1.3. Xu hướng phát triển đô thị trong tương lai
2.1.3.1. Xu hướng đô thị hóa phân tán
Quá trình đô thị hóa diễn ra theo hai xu hướng chính:
+ Đô thị hóa tập trung: là toàn bộ công nghiệp và dịch vụ công cộng
tập trung vào các thành phố lớn và xung quanh, hình thành các đô thị khổng
lồ, tạo ra sự đối lập giữa thành thị với nông thôn, đồng thời gây ra sự mất
cân bằng sinh thái.
+ Đô thị hóa phân tán: là hình thái mạng lưới điểm dân cư có tầng
bậc, phát triển cân đối công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ công cộng, đảm
bảo cân bằng sinh thái, tạo điều kiện làm việc, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho
dân cư đô thị và nông thôn.
Hiện nay, đô thị hóa phân tán là xu hướng chủ đạo nhất trong quá
trình đô thị hóa mà đa số các nước đang phát triển lựa chọn vì thực chất của
quá trình đô thị hóa cũng là quá trình công nghiệp hóa, xu hướng này giúp
phát triển công nghiệp đồng đều giữa các vùng, góp phần giải quyết việc làm


cho lao động tại địa phương, hạn chế luồng di cư vào đô thị của các vùng lân
cận.
2.1.3.1. Xu thế phát triển đô thị bền vững – đô thị xanh
Đô thị xanh, đô thị thông minh đang là một trong những xu thế phát
triển đô thị của thế giới hiện nay.
+ Đô thị xanh được hiểu là đô thị đạt 7 tiêu chí: không gian xanh;

công trình xanh; giao thông xanh; công nghiệp xanh; chất lượng môi
trường xanh; bảo tồn cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, công
trình lịch sử, văn hóa; cộng đồng dân cư sống thân thiện với môi trường và
thiên nhiên.
+ Đô thị thông minh là sự kết hợp giữa không gian đô thị và công
nghệ thông tin. Đô thị thông minh sẽ giúp nhà quản lý và người dân vận
hành tất cả mọi công việc trên hệ thống công nghệ thông tin, dưới sự điều
hành của một trung tâm. Đô thị thông minh làm cuộc sống con người trở
nên dễ dàng hơn, môi trường sinh hoạt an toàn và thoải mái hơn.
Việt Nam đang trong quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ cao. Sự
cạnh tranh đô thị với chất lượng cuộc sống ngày càng cao, đòi hỏi phải có
tầm nhìn chiến lược về quá trình xây dựng, quản lý và phát triển đô thị…
Sự phát triển đô thị tại Việt Nam tuy diễn ra nhanh chóng nhưng bộc lộ
nhiều hạn chế và yếu kém về hạ tầng kỹ thuật và ô nhiễm môi trường; đô
thị Việt Nam trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế cũng phải đối mặt
với các vấn đề toàn cầu như khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, nước
biển dâng… Đặc biệt, đa số các thành phố lớn và khu công nghiệp lớn đều
tập trung ở vùng đồng bằng trũng thấp, khu vực ven biển - đây là những
khu vực rất dể bị tổn thương do biến đổi khí hậu gây ra. Đối mặt với thách
thức của tình trạng biến đổi khí hậu trong xu thế đô thị hóa tại Việt Nam
hiện nay đặt ra vấn đề chiến lược: phát triển đô thị bền vững hướng tới các
đô thị xanh; quản lý tổng hợp các rủi ro ngập úng đô thị hướng; lồng ghép
biến đổi khí hậu trong quy hoạch đô thị.
Chiến lược đô thị hóa của Việt Nam hướng tới mục tiêu bền vững
giữa tự nhiên, con người và xã hội. Đô thị xanh, đô thị thông minh là một
trong những tầm nhìn chiến lược cho trong mục tiêu xây dựng và phát triển
đô thị của Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần xem xét và có thêm cách nhìn
mới về quy hoạch và phát triển đô thị với ưu tiên cho phát triển mô hình đô



thị xanh, đô thị thông minh và xem đây là mục tiêu xây dựng và phát triển
đô thị của Việt Nam trong tương lai.
Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh là một mục tiêu quan trọng của phát triển bền
vững, đảm bảo kinh tế phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững góp phần quan
trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. Đồng thời xác
định 3 nhiệm vụ cơ bản cùng 17 giải pháp thực hiện. Các giải pháp có liên
quan đến đô thị hóa bền vững gồm: quy hoạch đô thị và quản lý quy hoạch;
xây dựng hạ tầng kỹ thuật; xây dựng đô thị xanh, đô thị sinh thái và công
trình xanh….
2.2. Quá trình đô thị hoá ở tỉnh Thừa Thiên Huế
2.2.1. Đô thị hoá thời Pháp thuộc
Trong suốt thời thời kỳ đô hộ nước ta để áp đặt quyền thống trị của
mình, Pháp đã thiết lập hệ thống tổ chức, quản lý hành chính theo lối tư
bản chủ nghĩa vào nước ta nhằm khai thác tối đa lợi nhuận cho chúng.
Chính việc tổ chức hành chính theo lối hiên đại của Pháp đã góp phần
quan trọng trong quá trình đô thị hóa, dẫn đến sự ra đời của nhiều thành
phố, thị xã và thị trấn ở nước ta.
Với khát khao mở rộng thị trường để tìm kiếm nguồn nguyên liệu,
tiêu thị hàng hóa và tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc đầu tư và phát
triển kinh doanh, Pháp đã xúc tiến việc thiết lập các khu hành chính ở đô
thị. Từ đó mà ranh giới hành chính thị xã Huế được xác lập vào ngày
31/12/1901, lúc đó thị xã Huế chủ yếu là các vùng phụ cận xung quanh
kinh thành Huế và lối sống đô thị đã ngày càng được phát triển và đổi mới
rất mạnh mẽ tại đây.
Khi đã đạt được sự thuận lợi nhất định, Pháp tiến hành mở rộng địa
giới hành chính của thị xã Huế, qua ba lần điều chỉnh thị xã Huế đã được
điều chỉnh thành chín phường.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, để đẩy nhanh tốc độ phát triển
kinh tế, Pháp đã phát triển Huế trong một không gian đô thị khá rộng. Những

công trình quan trọng để đầu tư phát triển đã được mở rộng ra các vùng xa
trung tâm thành phố như: sân bay Phú Bài, cảng biển Thuận An, khu nghỉ
mát Cảnh Dương, khu du lịch sinh thái Bạch Mã… cùng với việc mở rộng
giao thông nối liền giữa thành phố Huế với các khu vực này đã từng bước


hình thành nên các thị xã, thị trấn mới, thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở tỉnh
Thừa Thiên Huế và phát triển đến ngày nay.
2.2.2. Đô thị hoá tại Thừa Thiên Huế hiện nay
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đặc biệt là qua quá trình
thực hiện công cuộc đổi mới, cùng với sự phát triển của đất nước, bộ mặt
đô thị ở Thừa Thiên Huế đang có bước chuyển biến tích cực. Sau những
năm tháng dò dẫm, với không ít những bước đi vấp váp, Thừa Thiên Huế
đã từng bước nhận thức lại về giá trị độc đáo của di sản kiến trúc đô thị
Huế để tập trung bảo tồn và phát huy hệ thống di tích cố đô, gắn với chỉnh
trang đô thị, tôn tạo cảnh quan thiên nhiên; đồng thời tiếp tục mở hướng
phát triển đô thị mới về phía bờ Nam sông Hương, vươn rộng về hướng
Phú Bài, Thuận An, Tứ Hạ và tập trung đầu tư cho khu đô thị mới Chân
Mây – Lăng Cô, hình thành một chuổi các thị trấn, thị tứ ở Nam Đông, A
Lưới, Phong Điền, Phú Đa, Sịa... với một hệ thống kết cấu hạ tầng và giao
thông đô thị nối các vùng xa về với thành phố Huế và trục quốc lộ IA. Cơ
cấu kinh tế của tỉnh đang chuyển dịch theo hướng phát triển dịch vụ – công
nghiệp và nông nghiệp toàn diện; thế mạnh về văn hoá du lịch, về kinh tế
biển đang được đánh thức dậy, đặc biệt, từ ngày 24-8-2005 thành phố Huế
được công nhận là đô thị loại I của quốc gia, đánh dấu một bước phát triển
mới trong quá trình đô thị hóa ở Thừa Thiên Huế.Vóc dáng của một trung
tâm văn hoá du lịch, trung tâm giáo dục đào tạo và y tế chuyên sâu ngày
càng được khẳng định.
Sự phát triển nhanh chóng của Huế đã làm ảnh hưởng rất lớn đến
các vùng xung quanh và thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng

mạnh mẽ trên toàn tỉnh. Đặc biệt các phường nằm cạnh trung tâm thành
phố như: Hương Sơ, An Hòa, Thủy An, Thủy Xuân, An Đông, An Tây…
từ những vùng đất sản xuất nông nghiệp đã mọc lên các khu dân cư, các
cụm công nghiệp, làng nghề, kéo theo sự phát triển của thương mại, dịch
vụ tạo nên một sự chuyển biến mạnh mẽ cả về kinh tế xã hội. Với sự hỗ
trợ của trung ương, Thừa Thiên Huế đang chuyển mình để vươn đến trở
thành một tỉnh có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm của miền
Trung.
Ngày 15/11/2010, ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành
quyết định 2237/UBND về việc phê duyệt đề án xây dựng tỉnh Thừa Thiên
Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ưng. Theo đó, tỉnh sẽ xây dựng


Khu vực đô thị trung tâm của đô thị Thừa Thiên Huế đạt tiêu chuẩn đô thị
loại I, bao gồm: 27 phường của TP Huế, 5 phường nội thị tại thị xã Hương
Thủy, 7 phường nội thị tại thị xã Hương Trà và thị trấn Thuận An, xã Phú
Thuận (thuộc thị trấn Thuận An mở rộng). Các đô thị vệ tinh gồm 7 thị trấn
đã và đang phát triển (Phú Lộc, Sịa, Phong Điền, A Lưới, Khe Tre, Phú Đa
và Lăng Cô) được đánh giá theo các tiêu chuẩn đô thị tùy thuộc vào thực
trạng phát triển.
Năm 2013, Thừa Thiên Huế đặt xây dựng hạ tầng là mục tiêu xuyên
suốt. Theo đó, xác định tiếp tục huy động tối đa mọi nguồn lực để đầu tư hạ
tầng, ưu tiên đầu tư hạ tầng giao thông, đô thị, gắn với xây dựng nếp sống
văn minh đô thị, phấn đấu tiến tới đạt cơ bản các tiêu chí đô thị loại I. Được
sự hỗ trợ của Trung ương cùng nỗ lực của địa phương, Thừa Thiên Huế đã
tập trung nguồn lực để chỉnh trang đô thị và nâng cấp kết cấu hạ tầng giao
thông đô thị, xây lại mới hệ thống cầu qua sông An Cựu, cầu Bao Vinh, cầu
Long Hồ, cầu Dã Viên... một số trục đường chính trong thành phố cùng
nhiều tuyến đường đến các điểm di tích, các trung tâm kinh tế, thương
mại... được nâng cấp. Hệ thống đường nội thị tại các đô thị động lực, đô thị

vệ tinh cũng không ngừng được đầu tư xây dựng. Hệ thống giao thông
nông thôn được đầu tư kiên cố hóa. Một số tuyến giao thông quan trọng
phá thế chia cắt đã hoàn thành, như hệ thống đường và cầu vượt phá Tam
Giang, đường Phong Điền - Điền Lộc; Thủy Phù - Vinh Thanh, nhiều tuyến
đường qua các miền núi, vùng biển, đầm phá khác... đang được xây dựng.
Nằm về phía Đông Bắc Thừa Thiên Huế, thị trấn Sịa được biết đến
không chỉ là nơi hội tụ giao thương của huyện Quảng Điền, mà còn của cả
các vùng lân cận và đang tiếp tục xây dựng trở thành đô thị động lực của
tỉnh. Riêng 5 năm trở lại đây, tổng giá trị đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội trên địa bàn thị trấn Sịa đạt trên 210 tỷ đồng, tập trung chủ
yếu vào giao thông, mặt bằng đô thị. Tuyến Quốc lộ 1A qua TP. Huế, nơi
kết nối các đô thị Phong Điền, Hương Trà, Huế, Hương Thủy, Phú Lộc,
Lăng Cô và nhiều khu đô thị khác cũng đang được mở rộng với quy mô
hiện đại hơn.
2.2.3. Xu hướng phát triển đô thị của Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là đô thị mang những yếu tố đặc thù của đô thị di
sản, đây là đô thị cố đô còn giữ được khá nguyên vẹn và đô thị di sản văn
hóa thì nó sẽ khác đô thị công nghiệp. Nếu như thành phố Hồ Chí Minh là


trung tâm phát triển kinh tế, đô thị công nghiệp, Hà Nội là thủ đô, đô thị
hành chính. Các đô thị như Đà Nẵng, Hải Phòng cũng phát triển công
nghiệp thì Thừa Thiên Huế, tỷ trọng dịch vụ, du lịch đạt trên 50% và có rất
nhiều di sản, cảnh quan thiên nhiên đẹp, hấp dẫn…
Hiện nay, Chính phủ đang có chủ trương phát triển kinh tế, theo
hướng tăng trưởng xanh, lãnh đạo Thừa Thiên Huế cũng định hướng xây
dựng thành phố Huế trở thành thành phố xanh. Một vấn đề đáng chú trọng
trong phát triển đô thị tại thành phố Huế là phải giữ gìn di sản do đó nếu đô
thị hóa theo hướng hiện đại nhà cao tầng mật độ xây dựng cao sẽ phá vỡ
cảnh quan. Chính đặc thù này đem đến định hướng phát triển đô thị tại đây

theo xu hướng hiện đại.
2.3. Quá trình biến động đất nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ
cấu sử dụng đất trong thời kỳ đô thị hóa tại Thừa Thiên Huế
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với quá trình đô thị
hóa những năm qua đã làm cho một diện tích lớn đất nông nghiệp được
chuyển dịch sang đất phi nông nghiệp do việc trưng dụng đất để xây dựng
các công trình sự nghiệp, cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, mà chủ yếu là các công trình đường giao thông, nhà ở.
Theo báo cáo thống kê đất đai năm 2010 của tỉnh Thừa Thiên Huế,
diện tích đất nông nghiệp năm 2010 (382.814,37 ha) so với năm kiểm kê
2009 (385.248,11 ha) giảm 2.433,74 ha. Trong đó, đất trồng lúa giảm 72,99
ha; chủ yếu tập trung ở các huyện Phong Điền giảm 9,29 ha, Phú Vang
giảm 16,70 ha, Phú Lộc giảm 23,13 ha, Quảng Điền giảm 6,65 ha, thành
phố Huế giảm 7,17 ha... do chuyển đất trồng cây hàng năm khác, cây lâu
năm, nuôi trồng thuỷ sản, đất ở. Đất lâm nghiệp giảm 2624,91 ha; chủ yếu
tập trung ở xã Dương Hoà, thị xã Hương Thuỷ do thu hồi đất rừng sản xuất
xây dựng hồ Tả Trạch 2.635,76 ha.
* Biến động đất nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng
đất trong thời kỳ đô thị hóa tại phường Kim Long
Phường Kim Long là một phường mới còn non trẻ thuộc phía Tây
của Thành phố Huế của thành phố Huế. Để bắt kịp với sự phát triển của
thành phố, tốc độ chuyển dịch đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp của
phường diễn ra rất mạnh mẽ.


Biến động diện tích đất nông nghiệp tại Phường Kim từ năm 2006 2010 do một nhóm giáo viên trường đại học Nông lâm Huế nghiên cứu đã
được đăng lên tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 71, số 2, năm 2012 được
kết quả như bảng sau:
Bảng 2.1. Biến động diện tích đất nông nghiệp từ năm 2006 – 2010


Theo số liệu bảng 2.1, diện tích đất nông nghiệp tại phường Kim
Long ngày càng giảm qua các năm. Tại thời điển năm năm 2006 diện tích
đất nông nghiệp tại phường là 97,48 ha chiếm 39,21% tổng diện tích tự
nhiên của phường, năm 2008 diện tích nhóm đất này còn lại 37,23 ha và
đến năm 2010, diện tích đất nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 22,65 ha
chiếm 9,15% tổng diện tích tự nhiên. Như vậy, trong vòng 4 năm từ 2006 –
2010 thì diện tích đất nông nghiệp tại phường Kim Long giảm đi 60,25 ha.
Diện tích đất nông nghiệp giảm tập trung chủ yếu vào diện tích đất
sản xuất nông nghiệp, trong đó, giảm mạnh là diện tích đất trồng cây lâu
năm với 75,61 ha).
Cũng theo nghiên cứu này, diện tích đất phi nông nghiệp tại phường
cũng có sự biến động lớn. Trong đó:
+ Diện tích đất ở bao gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị, biến
động mạnh nhất đáp ứng nhu cầu của người dân. Trong 78,83 ha đất phi
nông nghiệp tăng trong giai đoạn năm 2006 – 2010 thì tăng diện tích đất ở
chiếm 70,02 ha (88,82%). Diện tích đất ở được chuyển từ đất trồng cây lâu
năm và một phần chuyển từ đất trồng cây hàng năm.


+ Diện tích đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệptăng nhưng
không đáng kể 0,35 ha. Trong những năm trở lại đây, phát triển công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của phường theo hướng chuyên sâu, hộ gia
đình cá nhân là chủ yếu, các cơ sở sản xuất kinh doanh có trước đây.
+ Diện tích đất công cộng tăng 13,38 ha và chủ yếu phục vụ nâng
cấp, mở rộng, làm mới các công trình giao thông và các công trình có mục
đích công cộng.
Cơ cấu kinh tế phường Kim Long đang chuyển dịch từ nông nghiệp
sang tiểu thủ công nghiệp – thương mại, dịch vụ. Nếu xét về biến động diện
tích đất theo mục đích sử dụng từ năm 2006 – 2010 thì diện tích đất nông
nghiệp giảm 74,8 ha, đất phi nông nghiệp tăng từ 142,87 ha (năm 2006) lên

221,7 ha (năm 2010), tăng 78,83 ha. Phần đất chưa sử dụng đã giảm từ 8,25
ha (năm 2006) xuống còn 3,6 ha (năm 2010).
2.4. Sự chuyển đổi nghề nghiệp thông qua quá trình công nghiệp
hóa ở các khu vực ven đô
Thành phố Huế có nền nông nghiệp tập trung ở vùng ngoại thành,
nông nghiệp ven đô chiếm tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế của thành phố
với các cơ sở sản xuất tập trung, đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm
của nhân dân ngoại thành và một phần nhu cầu nhân dân nội thành. Những
năm qua, ngành nông nghiệp của thành phố có bước tăng trưởng đáng kể
mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm do quá trình đô thị hoá, cụ thể: giá
trị sản xuất năm 2008 ước đạt 110,2 tỷ đồng, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm
trước. Sản xuất Nông nghiệp của thành phố đang chuyển đổi theo hướng
dịch vụ phục vụ du lịch, khu du lịch sinh thái, cây trồng có giá trị kinh tế
cao như thanh trà, măng cụt, rau sạch…
* Sự chuyển đổi nghề nghiệp thông qua quá trình đô thị hóa tại
xã Phú Thượng, huyện Phú Vang
Xã Phú Thượng, huyện Phú Vang cách trung tâm thành phố Huế 3
km về phía Đông được xem một xã vùng ven. Quá trình đô thị hóa ở xã
Phú Thượng diễn ra khá sớm từ trước năm 2000, trong giai đoạn từ năm
2000 đến năm 2010 quá trình này diễn ra một cách mạnh mẽ, được UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế phê duyệt nhằm thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội của vùng. Xã đã chuyển đổi mục đích sử dụng hơn 159,45 ha đất để
phục vụ cho phát triển các công trình công cộng, giao thông, thủy lợi,


trường học và khu đô thị. Việc xây dựng các công trình như khu đô thị mới
An Vân Dương, khu đô thị Mỹ Thượng, khu quy hoạch dân cư Ngọc Anh –
Chiết Bi, trường phổ thông Huế Star, dự án xây dựng Trung tâm Đào tạo
cán bộ ngành ngân hàng Công Thương khu vực miền Trung... đã làm thay
đổi bộ mặt nông thôn ở đây.

Trong một nghiên cứu được đăng trên tạp chí khoa học Đại học Huế,
tập 72B, số 3, năm 2012 nhóm nghiên cứu trường Đại học Kinh tế, Đại học
Huế khảo sát tại xã Phú Thượng cho thấy quá trình đô thị hóa đã làm
chuyển đổi ngành nghề lao động, lao động nông nghiệp giảm và lao động
phi nông nghiệp tăng biểu hiện cụ thể qua số liệu bảng sau:
Bảng 2.2. Chuyển đổi ngành nghề của lực lượng lao động xã Phú Thượng
trước và sau đô thị hóa

Sự hình thành các cụm công nghiệp, làng nghề mới trong quá trình
đô thị hóa cùng với phát triển các khu đô thị, nghề truyền thống tại địa
phương đã thu hút một lượng lao động trong tình trạng không có việc làm
ổn định, mang tính thời vụ sang có việc làm thường xuyên và thu nhập ổn
định. Cụ thể số lao động có việc làm thường xuyên tăng từ 69% lên 75,7%,
số lao động thời vụ giảm từ 19,8% xuống 8,1%.
Cùng với sự thay đổi việc làm, cơ cấu nghề nghiệp cũng có sự thay
đổi rõ nét, một lượng lớn lao động đã chuyển đổi ngành nghề sang buôn
bán, công nhân và các ngành nghề khác như thợ nề, thợ mộc, thợ may,...
Lao động nông nghiệp có sự chuyển đổi mạnh nhất từ 29,4% trước đô thị
hóa xuống còn 14,9% sau đô thị hóa.


Một số lao động còn gặp khó khăn trong chuyển đổi ngành nghề do
hạn chế về trình độ học vấn, tuổi tác và vốn để phát triển sản xuất. Chính
điều này làm cho số người chưa có việc làm và có việc làm không ổn định
chiếm tới 16,8%, hầu hết đây thuộc nhóm người tuổi cao, khả năng học
nghề mới hoặc tham gia các ngành nghề khác là rất khó khăn.
2.5. Thu nhập và đời sống của người dân sau quá trình đô thị
hóa
Xem xét vấn đề thu nhập và đời sống của người dân sau quá trình đô
thị hóa tại tỉnh Thừa Thiên Huế ta sẽ dựa vào số liệu điều tra của nhóm

nghiên cứu trường đại học Kinh tế Huế tại xã Phú Thượng, huyện Phú
Điền. Qua kết quả khảo sát 50 hộ nông dân trên địa bàn xã Phú Thượng cho
thấy, 100% các hộ nông dân đều chịu tác động từ quá trình đô thị hóa ở các
mức độ và phương diện khác nhau. Nguồn thu nhập và việc làm của hộ
nông dân có sự thay đổi mạnh. Thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp
đã trở thành nguồn thu nhập chính trong khi thu nhập từ nông nghiệp ngày
càng giảm xuống. Bên cạnh đó, một số hộ nông dân còn gặp nhiều khó
khăn trong tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập.
Bảng 2.3. Quy mô, cơ cấu thu nhập của các hộ điều tra
Đơn vị tính: 1.000 đồng

Qua số liệu Bảng 2.3 cho thấy tổng thu nhập bình quân hộ có sự gia
tăng đáng kể, từ 49.794 nghìn đồng/hộ lên 58.270 nghìn đồng/hộ tương
ứng tăng 17%. Trong đó, số hộ có mức thu nhập trên 50 triệu đồng/hộ/năm
gia tăng từ 26% trước đô thị hóa lên 46% sau đô thị hóa. Số hộ có mức thu
nhập dưới 20 triệu đồng/hộ/năm giảm từ 21,7% xuống 5%.


Tỷ lệ đóng góp của các ngành nghề trong tổng thu nhập cũng có sự
thay đổi, thu nhập từ nông nghiệp của các hộ có xu hướng giảm từ 23.893
nghìn đồng/hộ xuống 18.787 nghìn đồng/hộ. Ngược lại, thu nhập từ kinh
doanh buôn bán và tiểu thủ công nghiệp có sự gia tăng, thu nhập từ kinh
doanh dịch vụ tăng từ 14.185 nghìn đồng/hộ lên 21.268 nghìn đồng/hộ.
Đây là những hộ có trình độ, có kinh nghiệm trong kinh doanh, họ đã biết
cách tận dụng thời cơ và nguồn vốn từ tiền đền bù để chuyển hướng sản
xuất.
Sự thay đổi việc làm và thu nhập đã góp phần cải thiện đời sống của
người dân. Trong 50 hộ được phỏng vấn có 16 hộ chiếm 32% cho rằng đời
sống và thu nhập của họ có sự gia tăng đáng kể sau quá trình đô thị hóa. Số
hộ có thu nhập giảm chiếm 22%, đây chủ yếu là những hộ sử dụng tiền đền

bù không đúng mục đích như đã dùng tiền đền bù để xây dựng nhà cửa,
mua sắm xe máy... hoặc những hộ bị thu hồi đất nhưng không có cơ hội tìm
kiếm việc làm mới.
Sự thay đổi hoạt động sản xuất của hộ do nhiều nguyên nhân khác
nhau cả chủ quan lẫn khách quan. Qua số liệu điều tra cho thấy 62% số hộ
cho rằng mất đất sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân dẫn đến việc thay
đổi hoạt động sản xuất, 58% số hộ cho rằng thay đổi hoạt động sản xuất do
có cơ hội để tìm kiếm việc làm mới, việc làm phi nông nghiệp. Số hộ do
tình trạng sức khỏe, không tìm được việc làm chiếm 26%.
Như vậy, quá trình đô thị hóa đã tác động đến kinh tế của các hộ
nông dân ở các xã vùng ven đô. Kết quả phân tích cho thấy, hầu hết các hộ
nông dân ở xã Phú Thượng đều có sự thay đổi đáng kể về việc làm và thu
nhập so với trước đô thị hóa. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hộ nông dân chưa
thích nghi được với điều kiện mới để ổn định cuộc sống. Lao động đã có xu
hướng chuyển dịch theo hướng chuyển từ nông nghiệp sang các ngành
nghề phi nông nghiệp.
2.6. Các vấn đề môi trường cần quan tâm trong quá trình đô thị
hoá
Quá trình đô thị hoá đi liền với sự nghiệp công nghiệp hoá, phát triển
giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng điện, nước đã làm thay đổi bộ mặt của
các đô thị tại Thừa Thiên Huế. Công nghiệp phát triển, đô thị càng mở
rộng, dân số đô thị ngày càng tăng đã làm bùng nổ lượng chất thải khí,
nước thải và đặc biệt là chất thải rắn với khối lượng vượt quá khả năng thu


gom, xử lý, ở một số nơi vượt quá tầm kiểm soát của cơ quan chức năng
địa phương.

Hình 2.1. Bãi chôn lấp không hợp vệ sinh thị trấn Sịa, Quảng Điền
Tại thành phố Huế, tác động của đô thị hóa làm tăng diện tích xây

dựng, ao hồ trong thành phố bị thu hẹp, hầu hết các hồ ở khu vực phía Nam
sông Hương đã được san lấp. Đồng thời gia tăng bề mặt không thấm nước
trong thành phố. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình xây dựng nhà
ở... đã làm thay đổi đáng kể bề mặt đệm trong đô thị; tăng bề mặt không
thấm nước và giảm bề mặt thấm nước, làm cho quá trình thấm nước trong
đô thị giảm gây nên hiện tượng gia tăng dòng chảy mặt trong đô thị; dẫn
đến ngập lụt, úng nước trong mùa mưa, gia tăng dòng chảy sông và làm
khô hạn về mùa khô.
Sự gia tăng các nhà máy sản xuất công nghiệp và các làng nghề tiểu
thủ công nghiệp trong quá trình đô thị hóa tại tỉnh cũng kéo theo nhiều chất
thải độc hại được thải ra môi trường, nhiều doanh nghiệp cũng bất chấp các
quy định của pháp luật để "thu lợi” bất chính về chi phí chôn lấp, thu gom
chất thải rắn sinh hoạt. Trường hợp nhà máy tinh bột sắn Thừa Thiên Huế
xả thải chất thải độc hại gây ảnh hưởng đến các khu dân cư tại xã Phong
An, huyện Phong Điền gây bức xúc dư luận trong thời gian qua là một ví
dụ điển hình.

3. Kết luận và kiến nghị


Đô thị hóa là quá trình tất yếu của sự phát triển, có nhiều tác động
tích cực và tiêu cực đến đời sống con người. Tại Thừa Thiên Huế, đô thị
hóa đã có tác động đến kinh tế, hạ tầng, xã hội và môi trường địa phương
như sau:
Thứ nhất: làm biến động đất nông nghiệp và sự chuyển dịch cơ cấu
sử dụng đất theo hướng tăng tỷ trọng diện tích đất phi nông nghiệp, giảm
dần tỷ trọng đất nông nghiệp và đất chưa sử dụng.
Thứ hai: đô thị hóa tại tỉnh không chỉ đã làm thay đổi bộ mặt toàn diện bộ
mặt cơ sở hạ tầng xã tại đây mà còn kéo theo việc chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và chuyển đổi nghề nghiệp, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho

người dân bên cạnh đó vẫn còn nhiều người dân chưa thích nghi được với
điều kiện mới để ổn định cuộc sống trong quá trình đô thị hóa do đó Vì
vậy cần định hướng phát triển kinh tế ổn định cho người dân và cần quan
tâm đến công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm.
Thứ ba: đô thị hóa làm gia tăng lượng chất thải vào môi trường
buộc các lãnh đạo địa phương và những nhà nghiên cứu cần có hướng giải
quyết cụ thể để khắc phục vấn đề này.
Thứ tư: lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế định hướng phát triển Thừa
Thiên Huế thành đô thị loại I trực thuộc Trung Ương và sẽ đô thị hóa theo
xu hướng phân tán, mở rộng đô thị, đảm bảo cân bằng sinh thái, phát triển
đô thị xanh.

Tài liệu tham khảo
1.

Hạ tầng - Động lực lên đô thị loại I của Thừa Thiên Huế


/>2.

Nhìn lại quá trình đô thị hoá ở Thừa Thiên Huế

trạng đô thị hóa ở Việt Nam
3.

Kết quả thống kê đất đai năm 2010 Theo Báo cáo số 16/BC-UBND
ngày 02/3/2011

/>OneID=12&TwoID=99
4.


Khóa luận tốt nghiệp “Đánh giá tác động của quá trình đô thị hoá đến
việc quản lý và sử dụng đất trên địa bàn thành phố Huế”.

5.

Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình chuyển dịch đất nông nghiệp sang
đất phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố Huế, giai đoạn 2006 – 2010,
tạp chí khoa học, Đại học Huế, tập 71, số 2, năm 2012.

6.

Tác động của đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân tại xã phú thượng,
huyện phú vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, tạp chí khoa học, Đại học Huế,
tập 72B, số 3, năm 2012.

7.

Thực trạng đô thị hóa ở Việt Nam

/>8.

Thực trạng và giải pháp công nghệ xử lý chất thải rắn khu vực miền
Trung Tây Nguyên

/>9.

Thành phố trực thuộc Trung ương không chỉ riêng cho Thừa Thiên Huế

/>10.


Tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam đạt 3,4%/năm

/>11.

Việt Nam hướng tới xây dựng đô thị xanh và bền vững


/>tabid=428&CateID=24&ID=130043&Code=EATU130043



×