Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

tìm hiểu lễ hội đình, chùa người kinh tại huyện mỹ xuyên và đánh giá khả năng khai thác du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.88 MB, 63 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ- ĐỊA LÝ-DU LỊCH

BÙI THỊ NGỌC THƠ

TÌM HIỂU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ
XUYÊN VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH

Người hướng dẫn: HUỲNH VĂN ĐÀ

Cần Thơ, tháng 04/2012


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN LỊCH SỬ- ĐỊA LÝ-DU LỊCH

BÙI THỊ NGỌC THƠ
MSSV: 6086571

TÌM HIỂU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ
XUYÊN VÀ ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH DU LỊCH

Người hướng dẫn: HUỲNH VĂN ĐÀ

Cần Thơ, tháng 04/2012




TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Lời Cảm Ơn!
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến toàn thể quý
thầy cô của bộ môn Lịch sử – Địa Lý – Du lịch, những người đã tận tụy truyền đạt lại
những kinh nghiệm, những kiến thức thật quý báu và bổ ích cho tôi trên từng những
trang giáo án trên giảng đường đại học. Đó là nền tảng thật vững chắc và là một hành
trang quý báu để giúp tôi có thể tự tin và vững bước vào con đường tương lai mà mình
đã chọn. Sau 4 năm dài học hỏi và tích lũy được vốn kiến thức ích ỏi cho mình từ thầy
cô và bạn bè, đó là khoảng thời gian thật khó quên trong quảng đời sinh viên đã để lại
trong tôi thật nhiều kỷ niệm đẹp khó phai trong tâm trí mà tôi không thể nào quên
được.
Tiếp theo, tôi xin cảm ơn thầy cố vấn – thầy Đào Ngọc Cảnh, đã tận tình giúp
đỡ chúng tôi về những vấn đề khó khăn trong học tập và một số vấn đề khác trong suốt
thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin cảm ơn thầy Huỳnh Văn Đà đã tận tình hướng dẫn tôi
hoàn thành đề tài luận văn của mình một cách hiệu quả nhất trong khả năng của mình.
Tiếp đến, tôi cũng chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc và toàn thể nhân viên của
Sở Văn Hóa – Thể Thao – Du lịch tỉnh Sóc Trăng, những người đã nhiệt tình giúp đỡ
tôi về những thông tin, số liệu hữu ích trong quá trình hoàn thành đề tài luận văn của
mình.
Một lần nữa, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và xin gửi những lời chúc
tốt đẹp nhất đến tất cả quý thầy cô, và đến tất cả những người đã giúp đỡ tôi hoàn
thành tốt luận văn tốt nghiệp của mình.
Do thời gian có giới hạn và kiến thức còn nhiều hạn chế nên không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ quý thầy cô để luận
văn tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn.


Cần Thơ, ngày 25 tháng 04 năm 2012
Sinh viên thực hiện

Bùi Thị Ngọc Thơ

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

DANH MỤC BẢNG

Bảng
1
2
3
4
5
6
7

Nội dung

Thống kê các xã và thị trấn huyện Mỹ Xuyên
Bảng thống kê đình ở huyện Mỹ Xuyên
Bảng lịch lễ hội trong năm tại đình Mỹ Xuyên
Bảng lịch trình tổ chức lễ Kỳ Yên đình Mỹ Xuyên

Bảng thống kê chùa người Kinh ở huyện Mỹ Xuyên
Lịch tổ chức lễ hội tại chùa Phước Lâm ở thị trấn Mỹ
Xuyên
Bảng thống kê lịch tổ chức lễ hội tại chùa Phước Hòa
ở thị trấn Mỹ Xuyên

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

Trang
22
27
30
30
36
37
41

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 1
3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................... 2
3.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tư liệu.............................................. 2
3.2. Phương pháp khảo sát thực tế ................................................................................ 2

3.3. Phương pháp thống kê ........................................................................................... 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 2
CHƯƠNG 1 ...................................................................................................................... 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................................................................................ 3
1.1. Một số vấn đề về lễ hội.......................................................................................... 3
1.1.1.
Lược khảo về lễ, hội, lễ hội................................................................................ 3
1.1.1.1. Lễ ......................................................................................................................... 3
1.1.1.2. Hội ....................................................................................................................... 3
1.1.1.3. Lễ hội ................................................................................................................... 4
1.1.2.
Đặc điểm và vai trò của lễ hội............................................................................ 5
1.1.3.
Phân loại lễ hội .................................................................................................. 7
1.1.4.
Tiềm năng du lịch của lễ hội .............................................................................. 7
1.1.5.
Các yếu tố của lễ hội ảnh hưởng đến việc thu hút khách du lịch ......................... 8
1.2. Tín ngưỡng ở Đình Nam Bộ ....................................................................................... 8
1.2.1. Khái quát về đình ở Nam Bộ.................................................................................... 8
1.2.2. Tín ngưỡng thờ Thần Thành Hoàng ở đình Nam Bộ .............................................. 11
1.3. Thờ Phật ở chùa Nam Bộ.......................................................................................... 13
1.3.1. Khái quát về chùa ở Nam Bộ ................................................................................. 13
1.3.2. Thờ Phật ở Chùa Nam Bộ...................................................................................... 15
CHƯƠNG 2 .................................................................................................................... 18
KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN ............................ 18
2.1. Khái quát về huyện Mỹ Xuyên ................................................................................. 18
2.1.1. Tổng quan ............................................................................................................. 18
2.1.2. Lịch sử .................................................................................................................. 19
2.1.3. Kinh tế .................................................................................................................. 19

2.1.4. Xã hội ................................................................................................................... 20
2.1.5. Một số lợi thế và tiềm năng phát triển của huyện Mỹ Xuyên.................................. 21
2.2. Lễ hội đình ở huyện Mỹ Xuyên ................................................................................ 23
2.2.1. Lễ hội Đình Mỹ Xuyên.......................................................................................... 24
2.2.1.1. Khái quát về Đình Mỹ Xuyên ............................................................................. 24
2.2.1.2. Lịch sử hình thành đình Mỹ Xuyên..................................................................... 24
2.2.1.3. Kiến trúc............................................................................................................. 26
2.2.2. Lễ hội Kỳ Yên ........................................................................................................ 27
2.2.3 Lễ hội Đình Hòa Tú................................................................................................ 30
2.2.3.1. Khái quát về đình Hòa Tú ................................................................................... 30
2.2.3.2. Quá trình xây dựng và kiến trúc đình.................................................................. 31
2.2.3.3. Lễ hội đình Hòa Tú............................................................................................. 32
2.3. Lễ hội chùa ở Mỹ Xuyên .......................................................................................... 33
2.3.1. Lễ hội chùa Phước Lâm......................................................................................... 34
2.3.2. 1. Khái quát về chùa Phước Lâm........................................................................... 34

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH
2.3.2.2. Một số lễ hội tại chùa Phước Lâm ...................................................................... 34
2.3.2. Lễ hội chùa Phước Hòa ......................................................................................... 37
2.3.2.1. Khái quát về chùa Phước Hòa ............................................................................ 37
2.3.2.2. Một số lễ hội tại chùa Phước Hòa....................................................................... 38
2.4. Giá trị lễ hội đình, chùa người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên......................................... 40
CHƯƠNG 3 .................................................................................................................... 42
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC LỄ HỘI ĐÌNH CHÙA TẠI HUYỆN MỸ

XUYÊN TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH ..................................................................... 42
3.1. Hiện trạng khai thác lễ hội đình, chùa tại huyện Mỹ Xuyên ...................................... 42
3.1.1. Hiện trạng về nguồn khách du lịch tại huyện Mỹ Xuyên ........................................ 42
3.1.2. Hiện trạng về cơ sở vật chất – hạ tầng ở huyện Mỹ Xuyên..................................... 42
3.1.3. Hiện trạng về các nội dung hoạt động du lịch đình, chùa người Kinh tại huyện Mỹ
Xuyên ............................................................................................................................. 43
3.1.4. Đánh giá chung về hiện trạng phát triển du lịch của lễ hội đình, chùa tại huyện Mỹ
Xuyên ............................................................................................................................. 43
3.2. Định hướng phát triển du lịch lễ hội đình, chùa người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên ..... 45
3.2.1. Định hướng phát triển du lịch lễ hội đình người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên ........... 45
3.2.2. Định hướng phát triển du lịch lễ hội chùa người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên ........... 47
3.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch lễ hội đình, chùa tại huyện Mỹ Xuyên48
3.3.1. Công tác quản lý và tổ chức lễ hội đình, chùa người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên..... 48
3.3.2. Quảng bá và nâng cao chất lượng lễ hội đình, chùa................................................ 48
3.3.3. Cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng – vật chất kỹ thuật............................................ 49
3.3.4. Nguồn nhân lực và an sinh xã hội .......................................................................... 50
3.3.5. Chú trọng giữ gìn môi trường, cảnh quan của khu di tích...................................... 50
KÊT LUẬN .................................................................................................................... 52
1. Kết quả nghiên cứu.................................................................................................. 52
2. Ý kiến đề xuất ............................................................................................................. 53
3. Hướng nghiên cứu tiếp theo ........................................................................................ 53
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 55
MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN TỈNH
SÓC TRĂNG.................................................................................................................. 55

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, lễ hội là một trong những điểm đến văn hóa tâm linh thu hút không ít
khách du lịch hành hương đến tham quan và cúng bái, không những ở Việt Nam mà
hầu hết tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nét văn hóa
và tín ngưỡng riêng của quốc gia, dân tộc ấy, điều này đã góp phần tạo nên một nét
riêng biệt và đặc sắc trong các lễ hội ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới.
Ở nước ta, cộng đồng các dân tộc anh em cùng chung sống trong một đại gia
đình luôn có sự giao thoa và tiếp biến các yếu tố văn hóa theo thời gian và sự cộng cư
của các dân tộc anh em. Thế nhưng, mỗi dân tộc đều tạo cho mình một nét đặc trưng
mang một giá trị văn hóa riêng biệt không thể nhầm lẫn được. Có thể nói lễ hội của
các dân tộc là một trong những kết tinh văn hóa và bản sắc dân tộc ấy luôn được giữ
gìn và phát huy theo thời gian.
Sóc Trăng được biết đến như là vùng đất hội tụ nhiều lễ hội, phong tục, tập
quán đặc trưng từ sự hỗn dung văn hóa của ba dân tộc Việt – Hoa – Khmer cùng cộng
cư. Chính những lễ hội độc đáo, nét kiến trúc đặc trưng của các ngôi chùa đã làm lưu
luyến tâm hồn biết bao du khách khi đặt chân đến mảnh đất này. Nhưng một thực
trạng hiện nay là hầu như đa số khách du lịch gần xa thường bị hấp dẫn bởi những kiến
trúc chùa chiềng của người Khmer, người Hoa và những lễ hội đặc sắc của họ nhưng ít
ai quan tâm đến những đền – chùa của người Kinh ở nơi đây. Chính vì thế, tôi thiết
nghĩ chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề này nhằm tìm hiểu sâu hơn nữa yếu tố
văn hóa tâm linh cũng như những lễ hội ở đình, chùa của người Kinh ở huyện Mỹ
Xuyên tỉnh Sóc Trăng và đánh giá những mặc thuận lợi và khó khăn của huyện nhằm
đưa ra một số định hướng và giải pháp khắc phục để là tiền đề cho sự phát triển du lịch
của huyện Mỹ Xuyên nói riêng và tỉnh Sóc Trăng nói chung, nên tôi đã chọn đề tài
“Tìm hiểu lễ hội đình, chùa người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên và đánh giá khả năng khai

thác du lịch” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về lễ hội đình, chùa tại một số đình, chùa tiêu biểu của người Kinh ở
huyện Mỹ Xuyên của tỉnh Sóc Trăng và nêu lên giá trị đình, chùa của huyện đối với du
lịch.
Đánh giá khả năng khai thác du lịch ở nơi đây, cũng như nghiên cứu thế mạnh
và những mặc yếu còn tồn tại.
Đề xuất các định hướng, giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những yếu kém
còn tồn tại cũng như phát huy hiệu quả tiềm năng sẵn có của lễ hội đình, chùa của
người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên, nhằm góp phần thu hút khách du lịch và phát triển
du lịch Sóc Trăng nói chung và huyện Mỹ Xuyên nói riêng.
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

1

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập , phân tích và tổng hợp tư liệu
Thu thập những nguồn tư liệu về các lễ hội truyền thống ở một số đình, chùa
tiêu biểu của người Kinh ở huyện Mỹ Xuyên. Tổng hợp tư liệu đã có kết hợp với
những kết quả nghiên cứu trong quá khứ thông qua sách, báo, internet, số liệu thống kê
của sở văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Sóc Trăng... Từ đó tham khảo, nghiên cứu và
xử lý thông tin để đưa ra nội dung hợp lý.
3.2. Phương pháp khảo sát thực tế
Phương pháp này giúp tôi tiếp cận vấn đề một cách chủ động, trực quan, kiểm

tra, đánh giá một cách xác thực để có được một tầm nhìn toàn diện về các đối tượng
nghiên cứu. Các hành động chính trong khi tiến hành nghiên cứu phương pháp này
gồm: quan sát, miêu tả, ghi chép, chụp ảnh, quay phim… tại các điểm nghiên cứu. Qua
khảo sát thực tế, tôi đã khảo sát và thu thập thông tin về một số chùa, đình ở huyện Mỹ
Xuyên như: Đình Mỹ Xuyên, Đình Hòa Tú, Chùa Phước Hòa, Chùa Phước Lâm...
3.3. Phương pháp thống kê
Những tài liệu thống kê của hoạt động du lịch liên quan đến những lĩnh vực như
lượng khách, doanh thu… là những số liệu mang tính định lượng. Trên cơ sở khai thác
từ những nguồn thuộc: tổng cục du lịch, cục thống kê, sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tỉnh Sóc Trăng… các số liệu được đưa vào xử lý, phân tích để từ đó rút ra những kết
luận, đánh giá có tính chất thực tiễn cao.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Sóc Trăng là một tỉnh nằm ở phía Nam sông Hậu, ngoài những đặc điểm chung
của vùng miệt vườn sông nước Cửu Long, Sóc Trăng còn có những nét đặc thù riêng
với những ngôi chùa cổ kính, những lễ hội đậm đà bản sắc văn hóa, một nét ẩm thực
độc đáo của cả ba dân tộc Kinh – Hoa – Khmer. Những nét đặc trưng này sẽ là tiềm
năng lớn để khai thác du lịch, tạo nên lợi thế so sánh với các tỉnh khác. Thời gian qua
theo xu thế phát triển chung của vùng, ngành du lịch tỉnh Sóc Trăng cũng đã phát triển
với tốc độ khá cao.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn trong một phạm vi tương đối nhỏ
hẹp, đó là những đình, chùa của người Kinh tại huyện Mỹ Xuyên thuộc tỉnh Sóc
Trăng.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

2

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Một số vấn đề về lễ hội
1.1.1. Lược khảo về lễ, hội, lễ hội
1.1.1.1. Lễ
Theo từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2002 là từ chỉ những nghi thức tiến hành
nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó. Ví dụ lễ Quốc
khánh, lễ thành hôn. Lễ còn có nghĩa là váy, lạy để tỏ lòng cung kính theo phong tục
cũ. Lễ còn được hiểu là khuôn phép, là phép bày ra nhằm tỏ ý kính trọng, lịch sự.
Có nhiều khái niệm về lễ. Lễ là linh hồn, cốt lỗi của một lễ hội và là phần quan
trọng nhất, được đầu tư công phu nhất cả về thời gian, tiền bạc, công sức. Tham dự lễ
chỉ có một số người có vai vế, vị trí nhất định. Phần lễ trong một lễ hội mang tính
thiêng liêng, bất biến, là những nghi thức thờ thần thánh. Không gian và thời gian của
các nghi lễ được quy định chặc chẽ. Lễ là đạo, khác với hội là đời.
Trong lễ bao giờ cũng phải có tế. Tế bao gồm những nghi thức theo quy định
như y phục, phẩm phục, hia hài, mũ mang cho đến việc tế thần được tổ chức như thế
nào. Thường thực hiện tế là những cụ cao niên, phúc đức được dân làng chọn ra, trong
đó có một người làm chủ tế. Khi thực hiện tế lễ thường có các nghi thức sau: Đọc tế
văn, dâng hương, dâng rượu trắng, dâng lễ vật. Lễ vật được dâng tế thường là những
sản phẩm của địa phương như xôi, bánh chưng, hoa quả, hương nến. Có những địa
phương có lễ vật độc đáo, liên quan đến nhân vật được thờ.
Các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với những nghi thức nghiêm túc,
trọng thể mở đầu ngày hội theo thời gian và không gian.
Phần nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử,
hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại, một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển xã hội.
Nghi thức tế lễ nhằm bày tỏ lòng tôn kính với các bậc thánh hiền và thần linh,

cầu mong được thiên thời, địa lợi, nhân hòa và sự phồn vinh hạnh phúc.
Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn hóa thiêng liêng,
một giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước khi chuyển sang
phần xem hội.
1.1.1.2. Hội
Tiếng Việt năm 2002 viết: “Hội là cuộc vui chung cho đông đảo ngời tham dự
theo phong tục hoặc dịp đặc biệt”.
Hội thường được tổ chức nhân dịp kỷ niệm một sự kiện trọng đại nào đó liên
quan đến nhiều người. Hội mang tính cộng đồng, bao gồm các trò diễn, các cuộc đua
tài, các trò chơi, văn nghệ giải trí. Phần hội có thể thêm bớt, thay đổi tùy theo cấu trúc
lễ hội.
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

3

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Phần hội bao giờ cũng vui nhất, thu hút đông người nhất trong một lễ hội và
phần hội này ở mỗi làng, xá, mỗi vùng miền diễn ra một khác khiến cho lễ hội vô cùng
phong phú và đặc sắc.
Phần hội thường diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng
đồng, văn hóa dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế lịch sử,
xã hội và thiên nhiên. Trong hội, thường có những trò vui, những đêm thi nghề, thi hát,
tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa. Tất cả những gì tiêu biểu cho
một vùng đất, một làng xã được mang ra phô diễn, mang lại niềm vui cho mọi người.
Các chàng trai, cô gái đi hội là cái cớ để gặp nhau, tìm nhau. Phần hội thường gắn liền

với tình yêu, giao duyên nam nữ nên có phong vị tình.
Hội làng người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất tiêu
biểu cho xã hội nông thôn Việt Nam và truyền thống của người Việt Nam. Tại lễ hội
này người ta thường diễn lại những sinh hoạt thường niên do nhu cầu tồn tại và phát
triển cộng đồng, mặt khác cũng là cân bằng sinh thái và tâm lý của người lao động
nông nghiệp.
Mặc dù quy mô lễ hội khác nhau (có hội làng, hội vùng và hội cả nước), nhưng
đều phải có một làng làm gốc, đăng cai. Hội làng là lễ hội tổ chức theo đơn vị làng.
Làng là tổ chức thuần Việt và là cơ cấu gốc của xã hội cổ truyền. Bản sắc dân tộc ở
từng làng quy tụ thành bản sắc dân tộc của Việt Nam. Nước là sức mạnh tổng thể của
làng, cũng như làng là gốc của nước.
Từ rất lâu, những ngôi đình đã dựng mốc cho chuẩn mực văn hóa và định hình
cho đời sống tâm linh và đạo đức cho từng thành viên trong làng. Mỗi làng đều có
đình thờ Thành Hoàng. Thành Hoàng có thể là ông tổ của một nghề truyền thống nào
đó. Cũng có thể là những anh hùng dân tộc có công đánh giặc giữ nước, là người xuất
thân từ làng hoặc là người của nơi khác nhưng hóa than ở làng, có công lao với làng,
được dân tôn thờ làm Thành Hoàng. Những ngày mất, ngày sinh của Ngài trở thành
ngày hội để dân làng nhớ ơn, đến nơi đình làng bái vọng, chiêm ngưỡng tưởng niệm,
tạ ơn công đức. Đình làng là nơi hàng năm diễn ra lễ thần và hội làng – gọi chung là lễ
hội.
1.1.1.3. Lễ hội
Theo Từ điển Tiếng Việt thì đó là cuộc vui tổ chức chung, có các hoạt động lễ
nghi mang tính văn hóa truyền thống của dân tộc. Ví dụ như hội đền Hùng, hội đón
xuân.
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là
một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc là một
dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại: ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại
truyền thống, hoặc để giải phóng những nổi lo âu, biểu lộ những khát khao, ước mơ
mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được. Lễ hội gồm có hai phần: phần nghi lễ và
phần hội.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

4

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Trong lễ hội thì sự phân chia giữa lễ và hội chỉ là tương đối. Thực tế nhiều khi
trong lễ lại bao hàm cả tính chất hội. Ví dụ trò diễn trong lễ hội chẳng hạn ta không thể
khẳng định một cách chắc chắn rằng trò diễn là lễ hay là hội mà chỉ có thể nói trò diễn
là điểm giao thoa giữa lễ và hội mà thôi.
Lễ hội là một phần của di sản văn hóa phi vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể
được UNESCO sử dụng trong Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể.
Nói đến văn hóa phi vật thể là nói đến ý thức về bản sắc và sự kế thừa của cộng đồng.
1.1.2. Đặc điểm và vai trò của lễ hội
Lễ hội nói chung, lễ hội cổ truyền nói riêng là một thuộc tính của văn hóa người
Việt, là nhu cầu tinh thần, là văn hóa cộng đồng lâu đời, thể hiện nhu cầu tâm linh
không thể thiếu được trong tư duy và sinh hoạt của nhân dân, chủ yếu là ở nông thôn.
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì hội (hay lễ hội) là một công đoạn của sản xuất nông
nghiệp, là kết thúc một chu kỳ sản xuất cũ, mở đầu một chu kỳ mới. Lễ hội có từ xa
xưa, khi chưa có Nhà nước. Lễ hội đáp ứng được những nhu cầu thưởng thức các giá
trị văn hóa, tinh thần cho người nông dân. Lễ hội phản ánh đặc điểm tín ngưỡng,
phong tục tập quán, sự phân tầng xã hội, vai vế trong làng xã qua tế lễ, rước xách, chia
phần. Lễ hội thể hiện khát vọng của người nông dân mong cho mưa thuận gió hòa,
mùa màng tươi tốt, con cháu đầy đàn, nhân khang vật thịnh; nó cũng thể hiện sự khát
khao vươn tới cái đẹp của người nông dân. Lễ hội là sự hỗn dung của các tầng văn hóa
trong tiến trình lịch sử. Bởi lễ hội dân gian của mỗi cộng đồng dân cư là biểu hiện cao

nhất, tập trung nhất văn hóa của mỗi cộng đồng về ăn, mặc, tín ngưỡng, phong tục tập
quán, tâm linh, các hình thức nghệ thuật, ca múa, rước xách – tức là không gian mạnh,
thời gian mạnh, là những rung cảm tinh tế của tinh thần cộng đồng làng xã; là yếu tố
cao nhất trong yếu tố phi vật thể của làng xã.
Từ lâu, lễ hội dân gian được nhìn nhận như một “bảo tàng sống” về những nét
đẹp văn hóa của cư dân bản địa. Là nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những
sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nơi phản ánh tâm thức người Việt, dù là tộc
người nào, một cách chân thực nhất.
Đầu tiên, lễ hội dân gian là nơi lưu giữ nhiều tín ngưỡng dân gian. Không có tín
ngưỡng không thành lễ hội. Theo GS. Ngô Đức Thịnh – Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam thì: “Trong số 8.000 lễ hội ở Việt Nam,
có đến 7.000 lễ hội là lễ hội truyền thống, gắn với tín ngưỡng, thờ phụng thần linh, anh
hùng dân tộc, tổ tiên”. Tín ngưỡng của lễ hội dân gian Việt Nam được biểu hiện dưới
nhiều dạng như: thờ cúng Thành Hoàng, thờ Mẫu, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các ông
Tổ nghề của người Việt, thờ cúng Thần Nông của các đồng bào dân tộc phía Bắc, thờ
cúng Yang của người thiểu số Tây Nguyên… Ngoài ra, các tín ngưỡng dân gian còn
tiềm ẩn trong các trò diễn như tín ngưỡng thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần
Nước… mặc dù đôi khi sự tiềm ẩn đó khiến ta khó nhận diện các tín ngưỡng cổ xưa
ấy. Có thể nói, lễ hội dân gian chính là nơi đáp ứng nguyện vọng tín ngưỡng của nhân
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

5

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

dân, chính vì thế lễ hội là phương thức hiệu quả nhất để bảo tồn và lưu truyền những

tín ngưỡng dân gian quý giá của dân tộc.
Thứ hai, lễ hội dân gian còn có vai trò phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc. Lễ hội của mỗi dân tộc chẳng những gắn với tín
ngưỡng mà còn đi liền với phong tục tập quán và thói quen lao động sản xuất. Điều đó
thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, các vị thần linh, ôn lại các truyền thống đã qua,
hướng con người trở về với tự nhiên, trở về với nguồn cội của dân tộc (như lễ hội Đền
Hùng, lễ hội Gióng…). Tạo nên những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc. Chính vì
thế, lễ hội dân gian được xem như một “bảo tàng sống”, thể hiện đầy đủ, rõ nét về sắc
thái văn hóa, bản sắc văn hóa của từng địa phương trong cả nước.
Thứ ba, lễ hội dân gian còn đáp ứng nhu cầu cân bằng đời sống tâm linh và đời
sống trần tục, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở
địa phương như: lễ hội Dinh Thầy Thím, Cầu Ngư ở Bình Thuận, chùa Bà ở Bình
Dương, Núi Bà Đen ở Tây Ninh, Miếu Bà Chúa Xứ ở An Giang… Thông qua đó, lễ
hội dân gian truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu đời, yêu chân lý, trọng
cái thiện, tính nhân đạo và nhân văn được thấm nhuần. Đó cũng chính là lý do mà lễ
hội dân gian được ví như “một mạch nước ngầm xuyên thời gian, nuôi dưỡng đời sống
tinh thần của con người Việt”.
Thứ tư, lễ hội còn là biểu trưng cho sức mạnh cố kết của cộng đồng. Lễ hội dân
gian chính là môi trường để người dân thể hiện sự đoàn kết, sự gắn kết với cộng đồng,
là sợi dây liên kết giữa những cá nhân lại với nhau tạo thành sức mạnh tập thể. Không
có lễ hội của một cá nhân mà lễ hội của một cộng đồng. Với lễ hội Việt Nam thì cộng
đồng tiêu biểu nhất là cộng đồng làng, tùy theo mỗi nơi tập hợp thành một vùng. Ví dụ
lễ hội Trường Yên, hoặc hội Lim, hội Gióng cho đến Quốc lễ như lễ hội Đền Hùng.
Trong lễ hội, bao giờ người ta cũng cố kết với nhau, biểu trưng sức mạnh dân tộc.
Cuối cùng, lễ hội đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của người
dân. Trong lễ hội truyền thống, không có người trình diễn cho người khác xem. Mọi
người cùng tham gia, cùng sáng tạo, cùng hưởng thụ, hòa đồng với nhau trong lễ hội.
Đó là lúc con người hòa đồng với thần linh, với tự nhiên. Mặc dù đi lễ hội người ta
thấy “tả tơi”, nhưng ai cũng vui vì người ta tìm thấy cái gì đó trong lễ hội, tìm thấy sự
hòa đồng, một nhu cầu, khát vọng của bản chất con người. Đó là một tinh thần rất cao

cả của lễ hội, người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ
nhân thật sự trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.
Trong tất cả các loại hình văn hóa thì lễ hội là một sinh hoạt tổng hợp bao gồm
các mặc tinh thần và vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật, linh thiêng
và đời thường. Ngoài ra, lễ hội còn là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc
biệt, có sức hấp dẫn và lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội, trở thành một nhu cầu, một
món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của con người. Trong thời
điểm lễ hội, mọi người đều hướng về cái thiêng, cái thiện. Văn hóa lễ hội từ đây mà
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

6

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

hình thành. Vì thế có thể nói lễ hội có một vị trí quan trọng trong cuộc sống văn hóa
tinh thần của con người là một sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong cuộc sống xã
hội.
1.1.3. Phân loại lễ hội
Trên nền chung của tín ngưỡng nông nghiệp, tín ngưỡng thờ thành hoàng và cơ
cấu tổ chức làng xã, hội làng thể hiện các sắc thái khác nhau ở từng cộng đồng cư dân
(nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp), từng vùng địa lý cảnh quan (đồng bằng,
trung du, ven biển), từng vùng hay tiểu vùng văn hóa. Thế nên trên đất nước ta có
nhiều loại hội (lễ hội) như hội nông nghiệp, hội ngư nghiệp, hội lịch sử, hội phồn thực
giao duyên, hội thi tài, hội văn nghệ giao duyên…
Có nhiều cách phân chia lễ hội. Giáo sư Đinh Gia Khánh phân hội lễ thành hai
loại: Loại lễ hội vốn có nguồn gốc tôn giáo (xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp

và tôn giáo ra đời) và loại hội lễ vốn không có nguồn gốc tôn giáo (có từ rất lâu đời
như hội lễ phồn thực, lễ hội nông nghiệp). Hai hội lễ này có tác động qua lại lẫn nhau.
Tiến sỹ Nguyễn Quang Lê (2001) khi phân chia lễ hội thì lấy các đặc điểm không gian
tổ chức hội làm tiêu chí phân loại lễ hội dân gian cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ. Bao
gồm các loại lễ hội: Hội đền, hội đình, hội chùa.
1.1.4. Tiềm năng du lịch của lễ hội
Các chuyên gia của tổ chức Du Lịch Thế Giới khi làm dự án VIE/89/003 đã
đánh giá Việt Nam có tiềm năng du lịch rất lớn, trong đó lễ hội dân gian được xem
như một bộ phận của tiềm năng ấy.
Lễ hội dân gian vừa là nơi lưu giữ những nét đẹp văn hóa độc đáo vừa là nơi ôn
lại và phát huy những nét đẹp văn hóa văn nghệ dân gian, phản ánh những giá trị văn
hóa cao đẹp của một dân tộc. Có thể nói đối với du lịch, lễ hội dân gian chẳng những
góp phần giới thiệu hình ảnh đất nước, con người, những bản sắc riêng biệt đối với thế
giới, mà còn đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu và khám phá những nét văn hóa bí ẩn, thú
vị của du khách.
Mặc khác, nơi mở hội đôi khi là các danh lam thắng cảnh, một môi trường giàu
tính văn hóa. Chính địa điểm mở hội, đáp ứng các tiêu chuẩn một điểm du lịch. Cho
nên, những địa phương có lễ hội dân gian gắn với danh lam thắng cảnh thường là nơi
mà ngành du lịch có doanh thu cao. Chưa kể, những lễ hội dân gian của nước ta luôn
mang bản sắc của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, chẳng hạn như: lễ hội mùa xuân
ở miền Bắc, lễ hội Kate của người Chăm ở miền Trung, lễ hội Đâm Trâu của đồng bào
Tây Nguyên hay lễ hội Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ. Những nét đặc trưng này luôn có sức
hút đối với du khách đến từ những nước công nghiệp hóa lâu đời. Cuộc sống sẽ thúc
đẩy nhu cầu du lịch của con người, họ có xu hướng tìm về những nơi có cảnh quan
thiên nhiên đẹp đẽ, kỳ thú, với những lễ hội dân gian truyền thống. Vả lại, tự trong sâu
thẩm tâm thức mỗi người dân Việt vẫn có nhu cầu đi hội để thực thi những tín ngưỡng
dân dã, hướng về nguồn cội và thể hiện những khát khao, cầu mong một cuộc sống
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

7


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

bình an cho bản thân, cho gia đình và cho cộng đồng. Đó là khi du khách đến với lễ
hội dân gian, tâm thế lễ hội khiến con ngời trở nên khác thường, họ cầu xin thế lực
siêu nhiên thỏa mãn những khát vọng của mình, do vậy người ta thường không tiếc
tiền của, thời gian, sức lực. Mang lại nguồn lực không nhỏ cho ngành du lịch địa
phương. Qua đó có thể thấy, lễ hội dân gian có tác dụng hữu hiệu đối với ngành du
lịch không chỉ hôm nay mà cả ngày mai, ở cả hai mặc: giới thiệu văn hóa và kinh
doanh. Song, dù thế nào lễ hội dân gian vẫn luôn là sản phẩm văn hóa đặc biệt có sức
hấp dẫn và thu hút du khách, bởi đó là thế giới tâm linh, là nhu cầu thiêng liêng của
mỗi người, mỗi dân tộc.
1.1.5. Các yếu tố của lễ hội ản h hưởng đến việc thu hút khách du lịch
Yếu tố thời gian của lễ hội: Các lễ hội không phải diễn ra quanh năm mà chỉ tập
trung trong thời gian ngắn. Các lễ hội nhìn chung thường diễn ra vào mùa xuân. Có lẽ
ở thời điểm bắt đầu mỗi năm mới, con người càng có nhu cầu thông qua các lễ hội dân
tộc để nạp lại năng lượng sống bản năng nhằm tiếp tục “chiến đấu với đời”. Không chỉ
riêng đối với người Việt Nam, “tháng giêng là tháng ăn chơi”, một cái tháng giêng đã
có tới 91 lễ hội diễn ra trên phạm vi cả nước. Người Nga có “Maxlenisa”, người
Braxin có “Cacnavan”, người Lào có Bumpimay, người Campuchia có Chon Chnam
Thmay (lễ hội té nước…).
Có lễ hội được tiến hành trong khoảng một hai tháng, nhưng cũng có lễ hội diễn
ra trong một vài ngày. Trong thời gian lễ hội, khách du lịch (trong nước, quốc tế) tới
rất đông (với nhiều mục đích khác nhau, trong đó có cả mục đích du lịch). Sau khi hội
tan hầu như không còn du khách nữa.
Quy mô của lễ hội: Các lễ hội có quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Có lễ hội diễn ra

trên địa bàn rộng và có lễ hội chỉ bó rộng trong một địa phương nhỏ hẹp. Điều này rõ
ràng ảnh hưởng đến hoạt động du lịch và nhất là khả năng thu hút du khách.
Các lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử – văn hóa. Điều đó cho
phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội vào mục đích du lịch. Di tích và lễ hội là hai
loại hình hoạt động văn hóa sóng đôi và đan xen ở nước ta. Lễ hội gắn với di tích. Lễ
hội không tách rời di tích. Có thể nói di tích là dấu hiệu truyền thống được đọng lại,
kết tinh lại ở dạng cứng, còn lễ hội là cái hồn và nó chuyển tải truyền thống đến cuộc
đời ở dạng mềm, phần mềm.
1.2. Tín ngưỡng ở Đình Nam Bộ
1.2.1. Khái quát về đình ở Nam Bộ
Đình là cơ ngơi riêng biệt, gắn liền với chính quyền làng xã, thờ thần Thành
hoàng được chính quyền thừa nhận. Thần Thành hoàng được hiểu như là vị thần gọi
đúng tên là Bổn Cảnh Thành hoàng, vị thần của khu vực này. Và Thành hoàng là vị
thần cai quản thành quách, thành trì. Thời xưa, mỗi làng xã được bố trí phòng thủ với
lũy tre, sự canh tuần của dân trai tráng trong làng. Nói chung, thời xưa, chi phí tổ chức

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

8

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

tế lễ xuất từ trong ngân quỹ làng xã, từ địa tô của đất công điền, thêm sự đóng góp của
số người khá giả, tự nguyện.
Đình là cơ ngơi công cộng, được nhà nước bảo quản và tài trợ. Trong thời gian
Pháp đô hộ, đình làng vẫn giữ được chức năng quan trọng là bảo vệ phần nào tục lệ cổ

truyền, góp phần gìn giữ sự thống nhất đất nước.
Đình làng còn giữ vài chức năng tượng trưng như:
- Là nhà hát của làng, thời xưa cũng như ngày nay, nói đến lễ cầu an ở đình là
nói đến hát bội. Trước đình, dành một mặt bằng để xây cái “võ ca”, võ tức là vũ, theo
nghĩa miếu vũ, kiểu nhà không có vách. Võ ca nhìn thẳng vào bàn thờ Thần ở chánh
điện, vì hát bội là để “cúng” thần (dân cúng) như khi cúng con heo, nhang đèn, hoa
quả và cũng để cúng Trời Đất.
- Là kiểu sân vận động, ngày Kỳ Yên (cầu an) tổ chức đánh võ, kéo dây để biểu
dương sức mạnh của thanh niên ngày càng dồi dào, khi vào vận hội mới.
- Là nơi thờ các vị tổ sư ngành nghề thủ công.
- Thờ các vị thần quen thuộc, liên quan đến sinh kế địa phương, thí dụ như ông
Quan Công, bà Chúa Xứ, Cá ông, ông Bổn, ông Thần tài, nhất là nơi có dân chài lưới,
có người Hoa.
- Thờ Chiến sĩ trận vong, hy sinh vì Tổ quốc.
- Thờ các vị tiền hiền, hậu hiền có công khai phá, xin hợp thức hóa làng xóm
với chính quyền.
- Nội dung lớn, bao quát vẫn là thờ Tổ quốc, thần Thành Hoàng là đại diện của
nhà Vua, vua là con của trời, trời là khí âm, khí dương, Tổ quốc là giang san, sơn hà
xã tắc.
Thêm bàn Hội đồng nhằm thờ các vị thần ở vùng chung quanh làng, hoặc thần
Mục đồng (chăn trâu là nghề ích lợi cho nhà nông) các vị Ngũ hành… Đình làng mang
ý nghĩa tổng hợp, vì vậy ít khi mời nhà sư đến tụng kinh cầu an, thêm lễ xây chầu
mang ít nhiều đến tính cách của đạo Lão (vẽ bùa trừ ma quỷ), lời lẽ trong văn tế nhắc
đến kỷ cương xã hội, tức là đạo Khổng.
Nói chung, việc tham dự lễ hội đình làng đã ăn sâu trong tiềm thức của người
Việt. Ông nội đi đình làng, dắt theo con cháu, ông nội mất, con cháu đi dự, vì ông nội
mình đã đi. Dự lễ hội là hình thức báo hiếu. Vả lại đây không hẳn là một tôn giáo mà
chỉ là tập quán, dự một buổi hay mươi phút là đủ rồi. Lễ hội đình làng mang tính chất
thế tục: cúng với heo, vịt, tức là những món mặn, không chay, lại còn cúng với rượu,
không rượu không ra lễ hội (vô tửu bất thành lễ), người tham dự được khuyến khích ăn

mặc sang trọng, lòe loẹt (khác với lễ Phật Đản, ăn chay). Trong lời khấn, có thể cầu
xin làm ăn phát đạt, làm giàu nhanh chống. Vì dính líu đến cuộc sống thế tục, trai gái
có thể cầu xin được yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của gia đình.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

9

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Lễ hội Cầu An là dịp con người trở lại đời sống hồn nhiên. Con nhà lành, ngày
thường ít được giao thiệp tự do, hoặc đi chơi một mình, nhưng dịp lễ hội, nhất là về
đêm hát bội thì tha hồ đi chơi khuya với bạn bè.
Dịp tham dự lễ hội Kỳ Yên, nhất là vào mùa Xuân là cơ hội bồi dưỡng tình
đoàn kết giữa người trong thôn xóm lân cận, không phân biệt giàu nghèo, vì trước
Thần thánh, Trời Đất, con người trong phút giây trở thành bình đẳng.
Người Việt Nam thấy bức xúc khi đình làng bị xúc phạm, cây to bị đốn, sân
đình bị cỏ dạy mọc lan tràn, mái đình sụp đổ, hoặc kẻ gian dám đánh cắp những vật tư
cần thiết để cúng tế như trống, chiêng, lư, chân đèn. Người nào vô tình hoặc cố ý
phóng uế bừa bãi trong khuôn viên đình làng luôn luôn bị dư luận lên án. Người giữ
đình (ông từ) không chăm sóc quét trước đình, quên thắp nhang, nhậu nhẹt say sưa thì
dân làng có quyền trực tiếp rầy la.
Đình trở thành “nhân cách”, là thể diện của làng. Bởi vậy, thời kháng Pháp rồi
chống Mỹ, khi giặc đóng đồn trong đình, cho máy bay ném bom... luôn luôn gặp sự
phản ứng của dân. Nhiều người chỉ nhớ bóng dáng ngôi đình thời thuở bé, rồi đi học,
ra nước ngoài nhưng về già, dịp Tết bổng thấy nao nao, nhớ cây đa đình làng, với

những giây phút lân lân khó tả.
Đình làng trở thành dấu ấn ăn sâu vào tiềm thức. Yêu đình làng là yêu bà con
họ hàng, chòm xóm, yêu đất nước. Vì vậy, dự lễ hội ở đình làng là nhu cầu lớn. Ngày
nay, vài người cố phân biệt, đánh giá đình làng về hình thức, về kiến trúc, năm thành
lập, thậm chí tra cứu sắc phong của nhà vua. Công việc khoa học ấy rất cần, nhưng
người dân ít tha thiết gì đến công trình nghiên cứu ấy.
Nói chung đình ở Nam Bộ không xưa, nhưng là đất bị thực dân xem là thuộc
địa (như một tỉnh của nước Pháp) nên người dân đã đề cao, trân trọng ngôi đình, đó là
nơi nương tựa duy nhất về tinh thần tượng trưng có tính thống nhất của dân tộc, gắn
liền Bắc Nam, nơi có những đình làng cổ kính hơn, thờ Trời, thờ Đất, thờ nhà vua, vì
sắc phong thần ở đình (tuy ít ai biết chữ Hán để đọc) cần có con ấn của vua, màu son
hình vuông là được.
Phần lớn sắc phong ở Nam Bộ, ngay cả Sài Gòn và nơi có đình xưa như Gò
Vấp (Hạnh Thông Tây) đều được ban hàng loạt vào năm thứ năm đời Tự Đức (1852).
Không thể suy luận đình ấy, sắc thần ấy quá mới, không xứng đáng là di tích so với
vùng Huế hay đồng bằng sông Hồng. Thật ra, nếu đọc chữ nghĩa trong sắc, ta thấy ghi
rõ: “y cựu phụng sự”, nghĩa là cứ tiếp tục tổ chức tế lễ, như lúc trước khi có sắc năm
Tự Đức thứ năm ấy.
Chi tiết này xác nhận:
- Đình đã có từ trước ngày nhận sắc đời Tự Đức. Việc phong sắc mới, đời Tự
Đức chỉ là hình thức kiểm tra, ban quyết định mới như ngày nay ta thay đổi giấy chủ
quyền xe gắn máy, theo mẫu mới, nhưng đã có xe từ trước.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

10

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

- Ta thấy việc phong sắc đời Tự Đức mang ý nghĩa chính trị lớn. Từ đời vua
trước (Thiệu Trị) âm mưu để xâm lược các nước vùng Á Đông đã rõ ràng. Người Anh
đã chiếm Singapore, gây sự với nhà Mãn Thanh ở Trung Hoa để chiếm những vị trí
thuận lợi trên đường sang Nhật, sang Trung Hoa. Từ trước, ở Indonesia, thực dân Hà
Lan đã mua bán, cướp tài nguyên thiên nhiên. Đoán trước sự xâm lăng tất yếu của
Pháp, vua Tự Đức đã cảnh giác, các quan ở triều đình bày ra sáng kiến phong sắc cho
đình làng ở Nam Bộ để giữ gìn sự gắn bó với triều đình. Giặc chiếm cứ Nam Bộ thì
sắc thần nhắc nhở cho người dân rằng đất nước đã thống nhất từ trước. Thậm chí
những vùng đất mới trưng khẩn chưa định hình cũng phong cho sắc thần.
Đặc biệt ở Nam Bộ, sắc phong ít ghi tên vị thần (trừ đôi ba trường hợp Nguyễn
Cư Trinh, Nguyễn Hữu Cảnh...) hoặc sắc phong đời Pháp thuộc (như Phan Thanh
Giản, Thoại Ngọc Hầu) còn đa số đều ghi chức vụ suông Bổn Cảnh Thành Hoàng là
đủ, với tước vị chẳng hạn như Đôn ngưng chính trực...
Ở đồng bằng sông Hồng, Trung Bộ là đất xưa, với nhiều công thần là người
thật, nên có miếu thờ danh nhân, có khi lại trở thành cơ ngơi với chức năng thờ Bổn
Cảnh Thành Hoàng. Theo quan niệm chính thống thời phong kiến, vua là thiên tử (con
của Trời), vua được Trời giao cho mạng lịnh cai trị dân. Nếu vua cai trị không xong,
thiếu năng lực, thiếu tư cách thì trời sẽ rút lại sự ủy quyền ấy, để thay đổi, với triều đại
mới (cách mạng, theo nghĩa xưa). Khi thiên tai hạn hán, dân đói, vua phải ăn năn hối
lỗi với trời và đúng kỳ hạn, vua phải đích thân đứng ở đàn Nam Giao để tế Trời.
Làng xã, thời xưa, được xem như một khu vực với “đất lề quê thói” phong tục
tập quán đặc thù “phép vua thua lệ làng” nhưng vẫn thống nhất trong cả nước qua việc
tôn thờ Trời và Đất, từ vua đến dân.
Đi dự lễ hội ở đình làng, người dân mang theo cảm giác mơ hồ thờ Trời và Đất
được cụ thể hóa qua đứa con là nhà vua thời phong kiến. Dân làng chỉ được phép bày
tỏ sự kính trọng Trời Đất (theo quan niệm âm dương) qua sự trung gian của một đại
diện của nhà vua (Bổn Cảnh Thành hoàng), vị đại diện này được nhà vua nhìn nhận

sắc phong, gọi nôm na là sắc thần.
1.2.2. Tín ngưỡng thờ Thần Thành Hoàng ở đình Nam Bộ
Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần
này dù có hay không có họ tên và lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng
là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ
nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.
Thành hoàng xuất phát từ chữ Hán: Thành là cái thành, hoàng là cái hào bao
quanh cái thành; và khi ghép chung lại thành một từ dùng để chỉ vị thần coi giữ, bảo
trợ cho cái thành.
Vì là vùng đất mới, nên ở Nam Bộ nhiều đình làng, thần chỉ có tên là Bổn cảnh
Thành hoàng hay Thành hoàng Bổn cảnh. Theo sách Minh Mạng chính yếu, quyển thứ
12, năm Minh Mạng thứ 20 (1839), thì nhà vua đã chuẩn y lời tâu của Bộ Lễ xin hạ
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

11

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

lệnh cho các địa phương lập thêm thần vị Bổn cảnh. Đây là chức vụ mới, lúc trước
không phổ biến. Lê Phục Thiện, người dịch sách trên chú giải: Thành hoàng là vị thần
coi một khu vực nào. Bổn cảnh là cõi đất nơi mình được thờ. Nhà văn Sơn Nam cho
biết bởi đây là dạng viên chức được vua ủy quyền trừu tượng, trong rất nhiều trường
hợp, không phải là con người lịch sử bằng xương bằng thịt. Do vậy, đa phần không có
tượng mà chỉ thờ một chữ "thần" và thường cũng chỉ có mỹ hiệu chung chung là
"Quảng hậu, chính trực, đôn ngưng" (tức rộng rãi, ngay thẳng, tích tụ).
Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần

hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần
một thịnh... Còn ở trong văn học Việt, theo các nhà nghiên cứu, thì việc thờ Thần
hoàng được đề cập lần đầu tiên ở bài Chuyện thần Tô Lịch trong sách Việt điện u linh.
Cũng theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng phụng sự một vị Thần hoàng;
có làng thờ hai ba vị, có làng thờ năm bảy vị, gọi chung là Phúc Thần. Phúc Thần có
ba hạng:
- Thượng đẳng thần là những thần danh sơn Đại xuyên, và các bậc thiên thần
như Đông thiên vương, Sóc thiên vương, Sử đồng tử, Liễu Hạnh công chúa...Các vị ấy
có sự tích linh dị, mà không rõ tung tích ẩn hiện thế nào, cho nên gọi là Thiên thần.
Thứ nữa là các vị nhân thần như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo...Các vị này khi
sanh tiền có đại công lao với dân với nước; lúc mất đi, hoặc bởi nhà vua tinh biểu công
trạng mà lập đền thờ hoặc bởi lòng dân nhớ công đức mà thờ. Các bậc ấy đều có sự
tích công trạng hiển hách và họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong làm Thượng
đẳng thần.
- Trung đẳng thần là những vị thần dân làng thờ đã lâu, có họ tên mà không rõ
công trạng; hoặc là có quan tước mà không rõ họ tên, hoặc là những thần có chút linh
vị, tới khi nhà vua sai tinh kỳ đảo võ, cũng có ứng nghiệm thì triều đình cũng liệt vào
tự điển, mà phong làm Trung đẳng thần.
- Hạ đẳng thần do dân xã thờ phụng, mà không rõ sự tích ra làm sao, nhưng
cũng thuộc về bực chính thần, thì triều đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ
đẳng thần.
Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, theo Sơn Nam thì các hạng tà thần tuyệt
nhiên không có, họa chăng chỉ là vài am miếu dựng lên nơi có người chết oan ức vì tai
nạn xe cộ, đắm thuyền, hùm tha sấu bắt; cúng sơ sài, không tế lễ.
Nơi thờ phụng: Theo nhà học giả Nguyễn Văn Tố, thì khởi đầu đình chỉ là cơ
ngơi để dân làng hội họp, là nơi dành để treo những sắc lệnh và huấn dụ của nhà vua.
Để thờ phụng Thần hoàng, nhiều làng lập miếu thờ. Rồi theo lệ ngày sóc (mùng 1) và
ngày vọng (ngày rằm) dân làng đến miếu để làm lễ Vấn (theo nghĩa kính viếng). Miếu
này còn gọi là "nghè", nơi gìn giữ sắc thần. Ngày tế lễ, dân làng rước sắc thần từ miếu
đến đình để cử hành việc tế lễ, sau đó đưa trở về miếu. Để đơn giản hóa, sau nhiều

làng chỉ xây một cái đình lớn, phía ngoài làm nơi hội họp (đình), phía trong là miếu...
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

12

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Vai trò và ý nghĩa: Như trên đã nói, thần Thành hoàng dù có hay không có họ
tên, lai lịch; và dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng
của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa
phương đó. Vai trò trên của thần còn có ý nghĩa hơn nữa, nhất là đối với những cư dân
từ miền ngoài vào khai khẩn vùng đất hoang Nam Bộ, vì lẽ họ đã gặp không ít khó
khăn do thiên tai địch họa, do thú dữ hoành hành... Điều đó có nghĩa, thần Thành
hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có thể giúp
cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm
ổn định, thịnh vượng.
Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm ý muốn tạo lập một thiết
chế văn hóa - tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm xóa bỏ dần tầm ảnh
hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà Nguyễn, cứ ba năm xét
ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, có lẽ đoán trước thời nguy khốn của
đất nước trước thực dân Pháp, cho nên vua Tự Đức đã sai cấp đồng loạt 13.069 sắc
phong cho cả nước (nhiều nhất là ở Nam Bộ), cùng với việc “Quốc điển hóa” sự thờ
phụng; cũng chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên.
1.3. Thờ Phật ở chùa Nam Bộ
1.3.1. Khái quát về chùa ở Nam Bộ
Nói đến chùa, là nói đến Phật. Trong tâm trí người Việt đã hiện ra tư tưởng từ

bi, bác ái, khoan hồng, không hờn giận, không chấp nhất. Tuy nhiên, ta thấy đạo pháp
được trường tồn, góp vào sự xây dựng dân tộc nhờ có kỷ cương, nhiều khi nghiêm
khắc. Không thể bừa bãi, tùy tiện, nếu muốn chứng minh mình có giáo dục, muốn bảo
lưu những đức tánh nói trên để truyền lại cho thế hệ sau. Trong giới bình dân, lắm khi
khôi hài nói “ăn chùa”, “của chùa”, tức là ăn không trả tiền, mượn rồi đánh cấp luôn.
Trong thực tế, từ bi, bác ái là ý tưởng tích cực như “lá lành đùm lá rách”, “xóa đói
giảm nghèo”, giúp đỡ đồng bào bị thiên tai lũ lụt... Nhịn ăn, nhịn mặc để giúp đồng
bào đang gặp khó khăn hơn mình, tuy không giải quyết hoàn toàn, nhưng tạo cho
người đang gặp hoạn nạn có sự phấn chấn, chịu cực khổ để xây dựng lại nhà cửa, hạnh
phúc gia đình, vượt khó khăn. Đi lễ chùa, trên nguyên tắc là do sự tự nguyện, cổng tam
quan luôn luôn rộng mở, miễn là ta có lòng thành. Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Vì
vậy, đạo Phật trọng con số ba. Thông thường, lạy ba lạy trước Phật đài. Không ai chấp
nệ cách lạy, có thể lạy theo thói quen như lạy ở bàn thờ ông bà, điều quan trọng là cái
Tâm: lúc lạy đang nghĩ gì, lòng dạ được trong sạch không, có nghĩ đến việc từ bi, bác
ái, hoặc sự phấn đấu để vượt lên sự ích kỷ cá nhân không? Khi đọc kinh tập thể, việc
xá, lạy đã được qui định theo tiếng chuông, mọi người đều làm giống nhau, dần dần
thành thói quen. Đi chùa để tìm sự thư thái cho tâm hồn, giải tỏa phiền muộn hoặc cầu
xin điều gì riêng, tùy người. Thông thường, từ mồng một Tết đến rằm tháng Giêng,
nhiều người thích đi chùa, cúng chút ít tiền, hoặc hoa quả để tỏ lòng thành. Tháng
Giêng, tuy không là Phật tử, người Việt thấy mình có phận sự đi chùa, khấn vái, thấp
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

13

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH


nhang một lần. Đó là cử chỉ để nhớ đạo đức dân tộc trong ấy có lòng yêu Tổ quốc. Đi
chùa tháng Giêng còn là thái độ đoàn kết với đồng bào thôn xóm, phố phường, hẹn
nhau sẽ cố gắng giữ thái độ lạc quan, cùng tô điểm cho đất nước phồn vinh hơn, nhất
là sự ổn định gọi là cảnh thanh bình. Mỗi năm, thường có ba ngày rằm lớn là rằm
tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười âm lịch, gọi Tam ngươn (nguyên) gồm Thượng
nguyên, Trung ngươn, Hạ ngươn được nhiều người chú ý vì mang tính nhân bản khá
cao. Ngày xá tội vong nhân, tương truyền các cửa ngục đều mở ra, người bị giam giữ
tha hồ rong chơi, tìm tự do, rồi trở vào ngục. Nhiều người dịp ấy bày cúng đơn sơ
trước sân với thức ăn đơn giản như: trái cây, mía, bánh ngọt. Người chết oan ức, vì tai
nạn, vất vưởng, không được những người cai quản cõi Âm lưu ý dịp ấy cũng được ăn.
Nhiều nơi cúng gạo, muối. Sau khi cúng, thức ăn được bố thí cho trẻ con được gọi đùa
là “cô hồn sống”. Ngày tưởng nhớ những người bất hạnh, chết ở “đầu bãi cuối gành,
hùm tha sấu bắt”. Nam Bộ là vùng đất mới khẩn hoang, nhiều người chẳng biết mồ mả
của ông nội, ông ngoại, hoặc chú bác ở đâu, thêm những năm chiến tranh dai dẳng,
nhiều người chết vì bom đạn, vì tai nạn giao thông... Về nghi thức mà xét, nếu những
thức ăn dâng cúng cho thần thánh, cho ông bà đều là món sạch, để người cúng “cộng
hưởng” với người khuất mặt, lấy sự may mắn, thì cúng cô hồn tháng Bảy mang ý
nghĩa khác. Đó là những món ăn bị ô uế (ma quỷ đã ăn rồi), nếu ăn là gặp xui xẻo,
nhưng vứt bỏ thì phí phạm. Thời xưa, ở nông thôn, lũ trẻ chăn trâu được ưu tiên ăn
uống những món ấy mà không sao cả, vì chúng là “con của ông Thần nông”. Ở thành
thị, ta quan niệm trẻ con ngây thơ ở hàng xóm giành giựt nhau cũng phải, vì chúng đều
vô tội. Đúng ý nghĩa xưa, rằm tháng Bảy là lễ Vu Lan, với sự tích đức Mục Liên nhờ
các sư cùng tụng niệm để cho mẹ được nhẹ tội. Đối với người kinh doanh lớn nhỏ, từ
rằm tháng Mười âm lịch trở về sau, là dịp tạ ơn Trời, Phật, Thánh thần. Lúc đầu năm
đã xin ân huệ thì cuối năm dù thành công hay thất bại cũng nhớ ơn, với lập luận: Ta
làm ăn phát tài, dồi dào sức khỏe nhờ sự phò trợ của đấng Thiêng liêng, nếu như năm
vừa qua làm ăn không khá, sức khỏe yếu kém thì chẳng qua ta thiếu đức, gặp năm xui
xẻo... Ngày mồng Năm tháng Năm âm lịch, gọi Tết Đoan Ngọ, ở Nam Bộ không dùng
tên gọi ấy, gọi cúng mồng Năm tháng Năm, cúng bánh ú, có góc nhọn, chẳng ai cần
tìm hiểu sự tích ông Khuất Nguyên bên Trung Hoa quá mơ hồ, xa xôi. Cúng bánh ú

gói với nếp, hoặc bánh ú nước tro. Thật ra, cúng lấy lệ nơi đô thị hóa, nhiều gia đình
gồm thế hệ trẻ đã bỏ lệ cúng này mà không thấy mặc cảm. Ở thôn quê, nơi còn miễu
thờ Thần nông, buổi lễ được cử hành khá nghiêm túc, gồm người lớn tuổi. Dân ta
chuộng thực tế, mượn ngày Đoan Ngọ này để sẵn dịp bày lễ Hạ Điền, bắt đầu vào vụ
mùa. Theo lệ xưa, mùa mưa xứ nhiệt đới khởi đầu vào tháng Tư, cụ thể là mồng Tám
tháng Tư, nếu hôm ấy chưa mưa thì gọi là mưa đến muộn. Rồi tháng sau, tháng năm
Âm lịch bắt đầu cày ruộng, tượng trưng. Từ sau 1975, ta đã tăng vụ, việc gieo cấy thay
đổi, tùy địa phương, không như hồi mỗi năm một vụ. Âu cũng là dịp để khuyến nông,
nhắc nhở nông dân nên cố gắng giữ lấy nghề, với niềm lạc quan.
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

14

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

1.3.2. Thờ Phật ở Chùa Nam Bộ
Đạo Phật du nhập vào nước ta khoảng những năm đầu Công nguyên, đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng có sức sống lâu dài nhất và song hành cùng dân tộc
trong mọi thời đại. Chính vì vậy, văn hóa Phật giáo ảnh hưởng rất sâu rộng đến đời
sống văn hóa của dân tộc. Đạo Phật đã thích ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử và văn hóa
của dân tộc, hòa nhập cùng dân tộc như nước với sữa, đã trở thành một tôn giáo rất
gần gũi, thân thương với dân tộc và con người Việt Nam.
“Mái Chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”.
(Ca dao Việt Nam)
Có thể nói, đây là sự hòa mình của Đạo Phật, là quá trình Đạo Phật dần dần

được Việt Nam hóa, biến thành một phần của cơ thể văn hóa và xã hội Việt Nam. Vì
thế, Đạo Phật trong đời sống văn hóa dân tộc là máu và thịt, là tim và óc trong một cơ
thể của một con người.
Ngược dòng lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, giữa lúc xã hội Ấn
Độ đang rối ren, nhân dân cơ cực lầm than, bởi chế độ phân chia đẳng cấp hết sức
khắc nghiệt, Thái tử Tất Đạt Đa, một Thái tử có lòng vị tha rộng lớn, chiêm nghiệm về
nỗi khổ ở đời, đã quyết định hy sinh đời sống vương giả, để tìm cách giải thoát đau
khổ cho nhân loại. Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia nước Ca tỳ
la vệ, xứ Ấn Độ. Sau năm năm tầm đạo, sáu năm tu khổ hạnh, bốn mươi chín ngày
ngồi thiền định đưới gốc cây Bồ đề, Ngài đã thành bậc chánh đẳng chánh giác, hiệu là
Thích Ca Mâu Ni.
Đạo Phật quan niệm bản thể của vũ trụ là chân như, có có, không không. Các
hiện tượng là vô thường, luôn luôn chuyển động. Trong sự sống có cái chết, chết là
điều kiện cho sự sinh thành mới. Và con người ở trong vòng luân hồi sinh tử.
Vào những năm đầu Công nguyên khi nước ta đang nội thuộc Trung Quốc, Phật
giáo đã dung hòa với hệ tư tưởng và tín ngưỡng dân tộc. Dựa vào các sử liệu, hiện nay
hầu hết các sử gia đều đồng ý với những điểm cơ bản như sau:
- Đạo Phật đã đến Việt Nam trước hết là đường biển, theo bước chân của các
doanh nhân và tăng sĩ Ấn Độ.
- Đạo Phật được truyền đến Việt Nam trước khi đến Trung Hoa, cũng như trong
giai đoạn khai sinh, Phật giáo Việt Nam cũng đã hưng thịnh hơn Phật giáo Trung Hoa
cùng thời.
Đến thế kỷ thứ II đã có một nền Phật giáo và Phật học hưng thịnh tại Việt Nam,
nghĩa là đạo Phật đã truyền bá trước đó khá lâu, ít nhất cũng phải hàng trăm năm
trước, nghĩa là ít nhất cũng vào khoảng thế kỷ thứ nhất hay sớm hơn. Trong “Lĩnh
Nam Chích Quái” của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, truyện Nhất Dạ Trạch - còn gọi là
truyện Chử Đồng Tử - đã viết: “Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ được
người con gái là Tiên Dung Mỵ Nương, đến tuổi mười tám dung mạo đẹp đẽ nhưng
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)


15

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

Công chúa chỉ mải mê vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Hồi đó ở làng Chữ Xá, cạnh
sông lớn có người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, Tiên Dung gặp
Chử Đồng Tử trong một tình huống thật đặc biệt và cho đó là duyên trời định nên hai
người kết duyên chồng vợ. Bây giờ ở núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, Đồng Tử
lên am chơi gặp tiểu tăng là Ngưởng Quang (còn gọi là Phật Quang) giác ngộ cho
Đồng Tử, Đồng Tử trở về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung và Tiên Dung giác ngộ…”
Một sử liệu khác chứng minh rằng đạo Phật đã đến và đã hưng thịnh ở Việt
Nam trước khi du nhập và phát triển tại Trung Quốc được ghi trong “Thiền Uyển Tập
Anh Ngữ Lục”, chuyện trong một lễ Trai Tăng vào ngày rằm tháng hai năm 1096, tại
Kinh thành Thăng Long, bà Hoàng Thái Hậu Phù Cẩm Linh, tức Vương Phi Ỷ Lan hỏi
Thiền sư Trí Không (sau được tôn làm Thông Biện quốc sư): “Đạo Phật đến nước ta
hồi nào?” Các vị sư ngồi im lặng, riêng Thiền sư Trí Không đã trả lời như sau: “Xét
chuyện Đàm Thiên pháp sư, ta thấy từ đời Tùy Cao Tổ, Phật pháp được nâng đỡ rất
nhiều. Vua Văn Đế nói: “Ta muốn làm chùa Tháp ở Giao Châu để cho phước được
thấm nhuần đại thiên thế giới…”. Pháp Sư Đàm Thiên liền tâu: “Giao Châu có đường
thông với Thiên Trúc (Ấn Độ). Khi Phật giáo mới tới Giang Đông chưa đầy đủ thì ở
Thủ Phủ Luy Lâu của Giao Châu đã có tới hai mươi ngôi chùa, độ được hơn 500 vị
Tăng già và dịch được 15 cuốn Kinh rồi. Như vậy, Phật giáo được truyền đến Giao
Châu trước khi đến Giang Đông”.
Lịch sử thế giới đã chứng minh rằng hầu hết các Tôn giáo được truyền bá bằng
con đường chính trị, được áp đặt bằng vũ lực, bằng chiến tranh hoặc làm công cụ cho
các thế lực xâm lược. Ngược lại, đã hai mươi sáu thế kỉ qua, trên bước đường truyền

bá khắp thế giới, Phật giáo chưa bao giờ để lại một vết máu. Điều đó xuất phát từ bản
chất từ bi, vô ngã, vị tha của đạo Phật, bởi vì đạo Phật ra đời vì cuộc đời.
Trước khi Phật giáo du nhập, nước ta đã có một hệ thống tín ngưỡng, phong tục
trong dân gian vô cùng phong phú. Người Việt quan niệm rằng: “Ông Trời ở trên cao
có thể nhìn thấy mọi việc dưới đất, biết trừng phạt kẻ làm ác, giúp đỡ kẻ làm lành. Ông
Trời có những thuộc hạ gần xa. Gần thì có ông Sấm, bà Sét, xa có Sơn Tinh, Thủy
Tinh, thần núi Tản Viên, thần cây đa, ông Táo, ông Địa… Linh hồn con người không
hẳn là bất diệt, nhưng có thể tồn tại một thời gian khá lâu quanh quẩn bên xác người
chết và có thể ở chung với người thân thích còn sống trong một thời gian để che chở,
bảo hộ.” (Nguyễn Lang - Việt Nam Phật giáo Sử luận, tập I, trang 50).
Khi Phật giáo vào Việt Nam, tuy giáo lý nhà Phật không chấp nhận có một
đấng ở trên cao, có thể nhìn thấy mọi vật dưới đất, nhưng thuyết nhân quả nghiệp báo
của đạo Phật phù hợp với quan niệm ông Trời trừng phạt kẻ ác, thuyết luân hồi phù
hợp với quan niệm tồn tại sau khi xác thân tiêu hoại. Vì vậy, Phật giáo ứng hợp ngay
với quan niệm văn hóa nhân gian. “Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng phương
tiện hòa bình chứ tuyệt nhiên không phải là công cụ cho những thế lực xâm lược.
Cùng với phương châm từ, bi, hỷ, xả, trí tuệ, vị tha và nền giáo lý phù hợp với tín
BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

16

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

ngưỡng truyền thống, nên đạo Phật thấm vào nền văn minh Giao Châu tự nhiên và dễ
dàng như nước thấm vào lòng đất” (Nguyễn Lang - Việt Nam Phật giáo Sử luận). Như
thế, ngay từ buổi mới du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã hòa quyện, hội nhập trong

lòng dân tộc. Khi đất nước trải qua ngàn năm Bắc thuộc, Phật giáo cùng chung số phận
khổ nhục, đau thương, ẩn nhẫn, chịu đựng. Đến nửa thế kỷ thứ X, khi dân tộc vùng lên
giành độc lập thì tức khắc Phật giáo đã cùng dân tộc đồng hành xây dựng, phát triển
quê hương. Rồi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần là thiên sử anh hùng ca dài bốn trăm
năm mươi năm, chẳng những chứng minh tinh thần độc lập, hào hùng, bất khuất của
dân tộc mà đồng thời khẳng định tinh thần gắn liền Đạo pháp với dân tộc của Phật giáo
Việt Nam, là điểm son, là dấu ấn truyền thống đặc thù của Phật giáo Việt Nam trong
lòng dân tộc.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

17

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN
2.1. Khái quát về huyện Mỹ Xuyên
2.1.1. Tổng quan
Huyện Mỹ Xuyên là một huyện đồng bằng nằm ở phía Nam của tỉnh Sóc Trăng
có vị trí giáp ranh như sau: phía Bắc giáp Thành phố Sóc Trăng, huyện Mỹ Tú và
huyện Châu Thành; phía Đông giáp huyện Trần Đề; phía Tây giáp huyện Thạnh Trị,
Mỹ Tú và tỉnh Bạc Liêu; phía Nam giáp huyện Vĩnh Châu và tỉnh Bạc Liêu.
Về hành chánh, huyện bao gồm thị trấn Mỹ Xuyên và 10 xã:
Bảng 1: Thống kê các xã và thị trấn huyện Mỹ Xuyên
STT

1

Tên xã

Diện tích

Gia Hòa 1

27,66 km²

2

Tham Đôn

49,3 km²

3
4
5
6
7

Gia Hòa 2
Hòa Tú 1
Hòa Tú 2
Ngọc Đông
Ngọc Tố

23,14 km
31,86 km²

35,1 km²
35,71 km²
27,78 km²

8

Đại Tâm

9
10

Thạnh Phú
Thạnh Quới

47,79 km²
51,44 km²

11

Thị trấn Mỹ
Xuyên

14,95 km²

Mật độ dân
số (1999)
7292 người

Ghi chú


Xã này nằm giáp các xã: Đại Tâm,
14552 người Phường 10, Mỹ Xuyên, Thạnh Thới
Thuận, Ngọc Đông, Hòa Tú 1, Thạnh
Phú.
6783 người
7763 người
9109 người
8867 người
8342 người
Là một xã có 8 ấp thuộc huyện Mỹ
Xuyên
18727 người
19841 người
Thị trấn này nằm giáp các xã: phường
18936 người 3, 4, 9, 10, Tài Văn, Thạnh Thới An,
Thạnh Thới Thuận, Tham Đôn.

(Nguồn: tổng hợp từ trang vi.wikipedia.org)
Huyện Mỹ Xuyên có địa hình đồng bằng phù sa châu thổ, đất phù sa có tầng
đốm rỉ. Có sông Mỹ Thanh ở rìa phía Nam huyện, nhiều sông nhỏ như Nhu Gia, Du
Thơ...
Về giao thông: thì có quốc lộ 1A qua phía Tây Bắc huyện dài 26,5 km. Ngoài ra
còn có tỉnh lộ 11 và 7 tuyến đường huyện dài 88,4 km qua 21 cầu. Đường thuỷ 265 km
trên sông Mỹ Thanh và hệ thống kênh rạch.
Huyện Mỹ Xuyên còn có các di tích lịch sử văn hoá như: đình Hoà Tú đã được
công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia; bia Phú Lợi (Hoà Tú I), đình Thần Chợ Cũ (thị
trấn Mỹ Xuyên) được Ủy ban Nhân dân tỉnh công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)


18

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


TÌM HIÊU LỄ HỘI ĐÌNH, CHÙA NGƯỜI KINH TẠI HUYỆN MỸ XUYÊN VÀ ĐÁNH
GIÁ KHẢ NĂNG KHAI THÁC DU LỊCH

tỉnh. Huyện cũng đầu tư xây dựng xong bia chứng tích chiến tranh và nhà bia truyền
thống...
Về đặc sản ở huyện Mỹ Xuyên thì có món đặc sản nổi tiếng là bánh phồng tôm
Bãi Xàu và bánh cóng Xài Cà Nả, bún gỏi dà.
2.1.2. Lịch sử
Mỹ Xuyên là tên làng thuộc tổng Định Chí, hạt Sóc Trăng từ ngày 18 – 04 –
1893, được thành lập do sáp nhập làng Vĩnh Xuyên với một phần làng Hoà Mỹ, một
phần làng Thạnh Lợi. Từ ngày 01 – 01 – 1900, hạt Sóc Trăng đổi thành tỉnh Sóc
Trăng. Năm 1916, làng Mỹ Xuyên thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Châu Thành, tỉnh
Sóc Trăng. Nơi đây có chợ Bãi Xàu - một thương cảng lớn vào bậc nhất Nam kỳ thời
xưa, được nhiều người biết đến với giống gạo ngon nổi tiếng. Theo các nhà nghiên
cứu, "Bãi Xàu" có nguồn gốc từ tiếng Khmer là "Srok bày chau" có nghĩa là "cơm
sống".
Ngày 07 – 03 – 1974, làng Mỹ Xuyên thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Bãi Xàu,
tỉnh Sóc Trăng. Ngày 01 – 01 – 1950, tổng Nhiêu Khánh thuộc quận Châu Thành. Sau
năm 1956, Mỹ Xuyên là xã thuộc quận Châu Thành, tỉnh Ba Xuyên, đồng thời nhận
thêm phần đất của làng Hoà Thuận vừa giải thể. Ngày 13 – 01 – 1958, quận Châu
Thành đổi thành quận Mỹ Xuyên, gồm có 2 tổng với 9 xã: tổng Nhiêu Khánh có 4 xã,
tổng Nhiêu Hoà có 5 xã. Quận lỵ đặt tại xã Mỹ Xuyên. Ngày 27 – 08 – 1962, dời quận
lỵ đến Bãi Xàu và đổi tên là Trang Kỉnh.
Sau 30 – 04 – 1975, Mỹ Xuyên là huyện của tỉnh Hậu Giang. Ngày 16 – 09 –
1989, huyện Mỹ Xuyên được xác định các đơn vị hành chánh trực thuộc, gồm thị trấn

Mỹ Xuyên và 15 xã: Tài Văn, Đại Tâm, Tham Đôn, Viên An, Thạnh Thới An, Viên
Bình, Thạnh Thới Thuận, Thạnh Phú, Hoà Tú 1, Hoà Tú 2, Ngọc Đông, Ngọc Tố, Gia
Hoà 1, Gia Hoà 2, Thạnh Quới. Ngày 26 – 12 – 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành
Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Huyện Mỹ
Xuyên thuộc tỉnh Sóc Trăng.
2.1.3. Kinh tế
Mỹ Xuyên là huyện thuần nông, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp với cây trồng
chính là lúa. Với địa hình chủ yếu là đất nhiễm mặn, với 2 vùng nước mặn - lợ và
ngọt, Mỹ Xuyên xác định phải tập trung cho công tác chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi. Huyện đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức nhiều lớp tập huấn về
kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi gia súc gia cầm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi nhằm nâng cao kiến thức về chăn nuôi và trồng trọt cho nhiều hộ gia đình. Từ
năm 2005 đến năm 2008, toàn huyện đã tổ chức được trên 150 lớp tập huấn về các mô
hình nuôi thủy sản nước mặn, nước ngọt, mô hình sản xuất lúa sạch chất lượng cao
xuất khẩu, mô hình trồng rau an toàn và kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm... cho bà
con nông dân.

BÙI THỊ NGỌC THƠ (6086571)

19

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


×