Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện cẩm xuyên tỉnh hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.22 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

HOÀNG VĂN CHƯƠNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

HOÀNG VĂN CHƯƠNG

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Minh Quân


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình khoa học nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Minh Quân. Các số liệu
và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn
không trùng với các công trình khác.
Tác giả luận văn

Hoàng Văn Chƣơng


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm
ơn Ban Chủ nhiệm Khoa và các cô giáo, thầy giáo Khoa Khoa học chính trị,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập; xin chân thành cảm
ơn PGS.TS. Lê Minh Quân đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi nghiên cứu,
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Hà Tĩnh; Huyện
ủy, HĐND, UBND Huyện Cẩm Xuyên đã động viên, tạo điều kiện về thời gian
và cung cấp thông tin giúp tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu hoàn thành
đề tài này.
Xin cảm ơn sự quan tâm, cổ vũ, chia sẻ của gia đình, anh em, bạn bè
đã giúp tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Mặc dầu đã có nhiều cố gắng, song trong luận văn này vẫn còn có
những thiếu sót, tôi mong nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô và bạn
bè đồng nghiệp để có thể sửa chữa và hoàn thiện luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn

Hoàng Văn Chƣơng

ii


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG ..................................................... 4
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng .................... 4
1.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ......................................... 25
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY ......... 30
2.1. Thực trạng tổ chức cơ sở đảng ở đảng bộ huyện Cẩm Xuyên hiện nay ............ 30
2.2. Thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở các xã, thị trấn trong
huyện Cẩm Xuyên hiện nay ...................................................................................... 41
Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY ................................................................................. 59
3.1. Những quan điểm về nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở
huyện Cẩm Xuyên hiện nay ...................................................................................... 59
3.2. Những giải pháp về nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
các xã, thị trấn ở huyện Cẩm Xuyên hiện nay .......................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 77
PHỤ LỤC

iii



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

Hội đồng nhân dân

HTNV

Hoàn thành nhiệm vụ

HTTNV

Hoàn thành tốt nhiệm vụ

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc



Quyết định

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở Đảng

THCS

Trung học cơ sở


THPT

Trung học phổ thông

TSVM

Trong sạch vững mạnh

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

iv


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng,
luôn luôn chăm lo xây dựng và phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, coi đó là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, là nơi đề xuất, đồng thời là
nơi triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị, lãnh đạo tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Vấn đề đặt ra hiện nay là năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng
có sự khác nhau nên thực tế có nơi Đảng bao biện làm thay, có nơi Đảng và

chính quyền chồng chéo, bị chính quyền lấn át dẫn đến vai trò lãnh đạo không
được thể hiện, làm cho một số cơ sở đảng trở nên yếu kém, làm giảm vai trò
hạt nhân lãnh đạo, uy tín và niềm tin đối với quần chúng nhân dân. Trong khi
đó các thế lực thù địch luôn âm mưu chống phá, nhằm mục đích xóa bỏ vai
trò lãnh đạo của đảng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trước tình
hình đó, để đảm bảo cho sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, là nền tảng, hạt
nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở cần thiết phải nâng cao năng lực lãnh đạo của
tổ chức cơ sở đảng.
Đảng bộ huyện Cẩm Xuyên (tỉnh Hà Tĩnh) có 51 đảng bộ, chi bộ cơ sở
trong đó 27 đảng bộ xã, thị trấn; 24 đảng bộ, chi bộ khối cơ quan. Bên cạnh
những kết quả lãnh đạo, chỉ đạo đã đạt được, thì tổ chức cơ sở đảng ở huyện
Cẩm Xuyên không tránh khỏi những mặt hạn chế trong lãnh đạo, chưa đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng có
nơi bị mờ nhạt, giảm sút, không thể hiện được vai trò lãnh đạo. Nhận thức
những hạn chế và tầm quan trọng của vấn đề này, tôi chọn đề tài “Nâng cao
năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà
Tĩnh hiện nay” làm Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
1


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ trước đến nay, ở nước ta đã có khá nhiều đề tài, công trình, luận án
tiến sỹ, luận văn thạc sỹ và nhiều bài viết về đổi mới nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Các công trình đều nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau, khai trên trên nhiều khía cạnh. Như đề tài nâng cao
nâng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình
hiện nay ở Thành phố Tuyên Quang; Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng – bài viết của Phó giáo sư, tiến sỹ Võ
Văn Phúc trên Tạp chí Cộng sản… và rất nhiều sách, nhiều bài viết, kể cả văn
kiện đại hội Đảng củng đề cập vấn đề này. Tuy nhiên, vấn đề nâng cao năng

lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh là vấn
đề mới mẻ, chưa được nghiên cứu, nhất là từ góc độ Chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn - cơ bản, cần thiết và có
liên quan - về tổ chức cơ sở đảng và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, luận văn xác định những quan điểm và giải pháp nâng cao năng lực
lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số cơ sở lý luận về tổ chức cơ sở đảng và năng lực lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng.
Làm rõ thực trạng năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở huyện
Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
Nêu một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay và những
năm tới.

2


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu là năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng các
xã, thị trấn ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Khách thể nghiên cứu
là đảng bộ các xã, thị trấn ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. Phạm
vi nghiên cứu là các tổ chức cơ sở đảng các xã, thị trấn ở đảng bộ huyện Cẩm
Xuyên trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Các vấn đề được tiếp cận nghiên cứu
từ góc độ của Chính trị học - nâng cao năng lực của tổ chức cơ sở đảng cũng
có nghĩa là nâng cao khả năng thực thi quyền lực chính trị (quyền lãnh đạo)
của một loại hình tổ chức quyền lực chính trị, mà ở đây là ở cơ sở (ở huyện
Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh).

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam; cơ sở thực tiễn là tổ chức và
hoạt động của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ huyện Cẩm Xuyên.
Sử dụng các phương pháp chuyên nghành, liên ngành của chính trị học
như: phân tích, tổng hợp, lô gic, lịch sử, điều tra xã hội học, v.v..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn công tác xây dựng Đảng, chính
quyền và hệ thống chính trị ở địa phương và có thể ở phạm vi rộng lớn hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 6 tiết.

3


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Tổ chức cơ sở đảng và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng
C.Mác, Ph.Ăngghen chưa dùng thuât ngữ “tổ chức cơ sở đảng” mà mới
dùng thuật ngữ “chi bộ”. Sau một thời gian xây dựng Đảng Công nhân dân chủ
- xã hội Nga, V.I.Lênin mới dùng thuật ngữ “tổ chức cơ sở đảng”. Khái niệm tổ
chức cơ sở Đảng lần đầu tiên ra đời tại Đại hội III Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga (25/4/1905). Đại hội xác nhận “Mỗi tổ chức Đảng cho tới chi bộ
công nhân cơ sở của Đảng phải được xác định thành phần và nhất định phải ổn
định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương”. Trong bài viết “Tiến tới
thống nhất”, V.I.Lênin đã chỉ rõ “Những điều kiện khách quan đòi hỏi rằng
những chi bộ công nhân phải làm cơ sở của Đảng” [44, tr. 251-295].

Hồ Chí Minh, người sáng lập rèn luyện Đảng ta, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng đã nhấn mạnh: Đảng ta có một tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ
Trung ương đến cơ sở, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, vì vậy phải
được thành lập, được tổ chức tại các đơn vị cơ sở. Người nói “ở mỗi xửơng
máy, hầm mỏ, xí nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, nông thôn, địa đôi
- có 3 đảng viên trở lên thì lập một chi bộ” [49, tr. 242].
Khái niệm tổ chức cơ sở đảng được ghi trong Điều lệ Đảng Cộng Sản
Việt Nam, qua các kỳ đại hội có sự điều chỉnh về nội dung và ý nghĩa của nó.
Tại Điều 21 Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam (Khóa XI) quy định: “Tổ chức
cơ sở đảng là tổ chức được thành lập tại đơn vị cơ sở hành chính, sự nghiệp,
kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy quận, huyện, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh, v.v..
4


1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp ủy huyện). Ở cơ quan, doanh nghiêp, hợp tác
xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có từ ba
đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ
trực thuộc đảng ủy cơ sở); cấp ủy cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định việc
tổ chức đảng đó trực thuộc cấp ủy cấp trên nào cho phù hợp; nếu chưa đủ ba
đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh
hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở có các
tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ
cơ sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
5. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được

cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.”
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở.
Mô hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hay đảng bộ cơ sở) phụ thuộc vào số lượng
đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp quyết định.
Theo V.I.Lênin, tổ chức cơ sở đảng là tổ chức cơ bản của Đảng, là
điểm tựa để Đảng làm chủ trong mọi tình huống, là nơi giáo dục rèn luyện,
phân công công việc, quản lý và sàng lọc đảng viên; là nơi Đảng liên hệ chặt
chẽ với quần chúng, tập hợp giáo dục, lãnh đạo quần chúng thực hiện lý
tưởng của Đảng.
5


Khi trở thành Đảng cầm quyền, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của
Đảng, hạt nhân chính trị ở tất cả các địa bàn, các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong các tổ chức, các hội và hiệp hôi quần chúng, lãnh đạo thi đua xã hội chủ
nghĩa, áp dụng khoa học kỷ thuật xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tổ chức cơ sở
đảng kiểm nghiệm, khẳng đinh sự đúng đắn của đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm có giá trị để Đảng sửa
đổi, bổ sung và đề ra chủ trương, chính sách mới đúng đắn, hoàn chỉnh hơn.
Theo Hồ Chí Minh, tổ chức cơ sở đảng là tổ chức cơ bản, là nền tảng,
nền móng của Đảng; là nơi tiến hành giáo dục, phân công công việc, kiểm tra,
quản lý đảng viên, kết nạp đảng viên, đưa người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi
Đảng; là nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; là “dây chuyền”, “cây cầu” nối liền
Đảng với quần chúng; trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng vào quần
chúng, tuyên truyền, giáo dục, lãnh đạo quần chúng thưc hiện; là nhân tố
quyết định trên thực tế đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực; trực
tiếp uốn nắn những lệch lạc trong hoạt động của quần chúng và các tổ chức,

các đoàn thể ở cơ sở; nơi kiểm nghiệm đường lối, chủ trương, chính sách,
đóng góp kinh nghiệm cho Đảng; đảm bảo cho kinh tế - xã hội ở cơ sở phat
triển theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa, phát triển và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
luôn chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Hệ thống tổ chức cơ sở đảng về
cơ bản được tổ chức song trùng với hệ thống hành chính Nhà nước. Tổ chức
cơ sở đảng là cấp cuối cùng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là cấp nhỏ nhất
nhưng có số lượng nhiều nhất. Để tiếp tục tiếp tăng cường và nâng cao hiệu
quả lãnh đạo toàn diện, trong sự nghiệp đổi mới, để đáp ứng yêu cầu của Việc
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách đối
ngoại mở rộng của Đảng nên ngoài các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ

6


chức, các đơn vị cơ sở hành chính xã, phường, thị trấn), các đơn vị sự nghiệp,
cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, quân đội, công an, trong các tổ chức hội,
v.v. còn có các loại hình tổ chức cơ sở đảng ở các đơn vị doanh nghiệp tư
nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2. Chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
1.1.2.1. Chức năng của tổ chức cơ sở đảng
Từ khi có chính quyền, Đảng là người thiết lập hệ thống chính trị,
lãnh đạo hệ thống chính trị đó và là một bộ phận của hệ thống chính trị đó.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa dù được thành lập ở loại hình nào, chi bộ
cơ sở hay đảng bộ cơ sở, tổ chức cơ sở đảng đều có hai chức năng đó là: chức
năng hạt nhân chính trị ở cơ sở và chức năng xây dựng nội bộ Đảng.
Với chức năng là hạt nhân chính trị, tổ chức cơ sở đảng là nơi bảo
đảm tính chất lãnh đạo chính trị của Đảng trên tất cả các lĩnh vưc hoạt động
của đơn vị cơ sở. Tính chất lãnh đạo chính trị được biểu hiện ở các mặt sau:

- Trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị và nắm vững
đặc điểm của địa phương, đơn vị, tổ chức cơ sở để đề ra mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ công tác, biện pháp thực hiện taị cơ sơ. Nắm vững tâm tư
nguyện vọng của quần chúng nhân dân phản ánh cho Đảng và Nhà nước để
định ra đường lối chủ trương, chính sách đúng đắn.
- Định hướng xây dựng tổ chức và hoạt động của chính quyền, các
đoàn thề, các tổ chức kinh tế, xã hội theo đúng quan điểm của Đảng, pháp luât
của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên đồng thời lãnh đạo thực hiện có
hiệu quả.
- Định hướng tư tưởng, chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân trên cơ sở chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; uốn nắn kịp thời

7


những lệch lạc, ngăn chặn những tiêu cực, khẳng định và ủng hộ nhân tố mới
trong hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và các tổ chức quần
chúng tại cơ sở; phát động và lãnh đạo các phong trào thi đua xã hội chủ
nghĩa của quần chúng cơ sở.
Chức năng xây dựng nội bộ Đảng được thể hiện trên các mặt sau:
- Củng cố kiện toàn toàn hệ thống tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên, kết nạp đảng viên mới. Thực
hiện tốt chế độ sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và sự
đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng.
- Kiểm tra đảng viên chấp hành cương lĩnh chính trị, đường lối, Điều
lệ Đảng và chính sách, pháp luật, nghị quyết của cấp trên và cấp mình.
- Trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tham
gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước,

nghị quyết của cấp trên.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội bộ. Tổ
chức cho quần chúng tham gia xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của cấp trên và cấp mình;
tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng
Theo qui định tại điều 23, Điều lệ Đảng sản Việt Nam (Khóa XI), tổ
chức cơ sở đảng có năm nhiệm vụ cơ bản sau:
1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước; đề
ra nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và
tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn

8


luyện và quản lý cán bộ đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển
đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra
giám sát tổ chức Đảng và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng. Đảng ủy cơ sở

nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp ủy quyền thì được quyết định kết nạp và
khai trừ đảng viên.
Mỗi loại hình tổ chức cơ sở đảng có chức năng, nhiệm vụ cụ thể
khác nhau do có những đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chính
trị và tình hình quần chúng khác nhau. Vì vậy, Ban Bí thư Trung ương đã ban
hành nhiều qui định về chức năng nhiệm vụ cụ thể cho từng loại hình cơ sở
đảng. Ban bí thư Trung ương từ khóa IX, X, XI đã ban hành các qui định sau:
- Qui định số 94/ QĐ-TW ngày 3-3-2004 về chức năng nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở phường
- Qui định số 95/ QĐ-TW ngày 3-3-2004 về chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở xã, thị trấn
- Qui định số 96/QĐ-TW ngày 22-3-2004 về chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước
- Qui định số 97/QĐ-TW ngày 22-3-2004 về chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong các đơn vị sự nghiệp

9


- Qui định số 98 QĐ/TW ngày 22-3-2004 về chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong cơ quan.
- Qui định số 99/QĐ-TW ngày 4-6-2004 về chức năng, nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong các doanh nghiệp có vốn nhà nước liên doanh với
nước ngoài.
- Qui định số 100 QĐ-TW ngày 4-6-2004 về chức năng nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp tư nhân.
- Qui định 108, 109, 110, 111,112,113,114,115-QĐ/TW ngày
20/8/2004 về chức năng nhiệm vụ của chi bộ, đảng bộ cơ sở trong đơn vị
chiến đấu; cơ quan quân sự huyện; cơ quan quân đội; đơn vị nghiên cứu cứu
khoa học - công nghệ; đơn vị quản lý cơ sở vật chất, kỷ thuật tài chính; học

viện - nhà trường; doanh nghiệp quân đội; bệnh viện quân đội
- Qui định 124,125,126-QĐ/TW ngày 28-9-2004 về chức năng nhiệm
vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sỏ trong đơn vị chiến đấu tập trung; đơn vị trinh sát
điều tra; đơn vị trại giam, trại tạm giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng
trong công an
- Qui định 140, 141-QĐ/TW ngày 16-5-2005 về chức năng nhiệm vụ
của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong công ty cổ phần có vốn nhà nước; doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Qui định 163, 164-QĐ/TW ngày 15-4-2006 về chức năng, nhiệm
vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong trường học, bệnh viện ngoài công lập;
hợp tác xã.
- Qui định 165/QĐ-TW ngày 21-4-2006 về chức năng nhiệm vụ của
chi bộ, đảng bộ cơ sở trong cơ quan báo chí.
Như vậy, ngoài những qui định chung, thì mỗi lại hình tổ chức cơ sở
đảng Ban Bí thư Trung ương sẽ có những qui định về chức năng, nhiệm vụ cụ
thể, phù hợp và nghiên cứu để có những qui định đối với một số loại hình tổ
chức cơ sở đảng có tính chất đặc thù.
10


1.1.3. Khái niệm năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực, theo Từ điển Tiếng Việt, là khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; là phẩm chất tâm lí
và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó
với chất lượng cao. Năng lực, theo nhà tâm lý học người Nga Cơvaliốp, là
một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính cá nhân con người đáp ứng
những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt động có kết quả cao.
Với cách hiểu trên, năng lực lãnh đạo là khả năng, điều kiện chủ quan
hoặc tự nhiên sẵn có của chủ thể lãnh đạo để thực hiện có hiệu quả một mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể. Năng lực lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện một cách

toàn diện từ năng lực xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, đến năng
lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện, động viên, tập hợp quần chúng, kiểm tra,
giám sát toàn bộ công việc của Đảng, làm cho đường lối, chủ trương của
Đảng luôn phản ánh được yêu cầu khách quan, thể hiện mối quan hệ gắn bó
mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là tổng hợp các thuộc tính cơ
bản của người lãnh đạo, nhằm đáp ứng những yêu cầu và hoạt động của tổ
chức cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả. Năng lực lãnh đạo gồm hai
yêu tố: năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ chức thực hiện.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, như vậy, thể hiện ở phẩm
chất chính trị, uy tín, lập trường, quan điểm vững vàng, tinh thần dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm của tập thể cán bộ lãnh đạo. Nó còn biểu
hiện ở chổ biết khai thác tiềm năng, thế mạnh của đơn vị mình và các lĩnh
vực liên quan, biết sử dụng đội ngũ chuyên gia giỏi, sự giúp đỡ của cấp trên
và sự ủng hộ của công nhân viên chức để hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan,
đơn vị.
11


1.1.4. Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng
Năng lực tư duy lý luận (năng lực nhận thức) là tri thức toàn diện,
khả năng nhận thức quan điểm, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng,
chính sách pháp luật Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát hiện
những mâu thuẫn, những vấn đề mới để vân dụng sáng tạo, khoa học, phù
hợp thực tiễn, có hiệu quả. Là khả năng liên kết tri thức các lĩnh vực, các
ngành nghề, bộ phận phong phú đa dạng thành một chỉnh thể ở mức đọ khái
quả cao. Đồng thời phân định được tính đặc thù, riêng biệt của các loại lĩnh
vực, bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo vùa mang tính lịch sử cụ thể vùa mang
tính khái quát tổng hợp. Là khả năng biến những tri thức đã lĩnh hội được
thành các chủ trương, nghị quyết, chương trình kế hoach hành động đúng

đắn làm biến đổi hiện thực. Năng lực tư duy lý luận của tổ chức cơ sở đảng
có giá trị định hướng đúng đắn hoạt đông nhận thức và hoạt động thực tiễn
của tổ chức cơ sở đảng. Cơ sở của năng lực tư duy lý luận là chủ nghĩa Mác
- Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, là tri thức của nhân loại là thực tiễn của địa
phương cơ sở
Năng lực tổ chức là khả năng đề ra chủ trương, phương hướng công tác
đúng của Đảng bộ, tổ chức thực hiện chủ trương, phương hướng công tác
đúng của đảng bộ, tổ chức thực hiện chủ trương, phương hướng đó tại cơ sở
đạt hiệu quả cao; kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện
các chủ trương công tác của đảng bộ. Là năng lực tổ chức vận hành bô máy
hệ thống chính trị, các bộ phận, các lực lượng, tập hợp, tổ chức cho cán bộ,
đảng viên, vận động quần chúng nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ hiệu quả.
1.1.5. Những nhân tố quy định và ảnh hưởng đến năng lực lãnh
đạo của tổ chức cơ sở đảng
Nhân tố hay yếu tố là những điều kiện, những cơ sở, những tiền đề
cần thiết gây ra, tạo ra cái gì đó. Trong cấu trúc của một sự vật hiện tượng
12


nhất định, bao gồm nhiều nhân tố hay yếu tố cấu thành. Trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng cũng như hoạt động của con người,
v.v. hiện diện một loạt các nhân tố hay yếu tố nối tiếp nhau. Các nhân tố, yếu
tố là hết sức phong phú, để nhận biết các nhân tố, yếu tố cần có một hệ thống
tiêu chí để phân biệt. Để nhận biết các nhân tố, yếu tố thì cần có các phương
pháp tiếp cận khác nhau. Giữa các nhân tố hay yếu tố cũng có sự chuyển hóa
lẫn nhau, sự phân biệt các nhân tố, yếu tố chỉ có tính chất tương đối.
Một là, nhân tố về lịch sử - xã hội:
Lịch sử phát triển của mỗi quốc gia, dân tôc, mỗi giai cấp, tầng lớp xã
hội đều chịu sự ảnh hưởng chi phối của các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội
và lịch sử. Các nhân tố lịch sử - xã hội này ảnh hưởng ở những mức độ khác

nhau đến hoạt động chính trị, một lĩnh vực hoạt động chính trị quan trọng của
con người trong xã hội có giai cấp, có chính trị và Nhà nước.
Dân tộc ta, qua các thời kỳ từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến Đại Việt rồi
Việt Nam ngày nay, đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử lâu dài có thể sánh vai
cùng các quốc gia, dân tộc hình thành sớm trên thế giới. Trong lịch sử đó,
mặc dù phải trải qua ngàn năm Bắc thuộc đất nước vẫn chói sáng với những
cuộc khởi nghĩa vũ trang, nhiều anh hùng dân tộc với tinh thần quật cường,
quật khởi, nêu cao ý chí tinh thần độc lập dân tộc. Từ khi có Đảng ra đời,
dẫn đường, chỉ lối dân tộc ta lại càng rạng danh, khẳng định vị thế của mình
trên thế giới. Có được lịch sử vẻ vang đó, chính là nhờ dân tộc ta có truyền
thống yêu nước nông nàn, tinh thần đoàn kết dân tộc và truyền thống đánh
giặc giữ nước anh hùng bất khuất. Những nhân tố quan trọng này đã thấm
nhuần, ngấm sâu đối với mỗi con người Việt Nam. Nhìn lại lịch sử đấu tranh
dựng nước và giữ nước chúng ta càng khẳng định ý nghĩa to lớn của giá trị
truyền thống lịch sử - xã hội, cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.

13


Trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập sâu quốc tế, Việt Nam vẫn là một
quốc gia có lợi thế địa kinh tế, địa chính trị và văn hóa. Trong bối cảnh có
nhiều thuận lợi và khó khăn thách thức lớn đan xen, việc phát huy sức mạnh
lịch sử - xã hội, phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong sự
nghiệp đổi mới là vấn đề cần thiết, được quan tâm lãnh đạo của Đảng ta, bởi
lẽ đây là những nhân tố được vun đắp và xây dựng nên bởi một bề dày lich sử
với bao thế hệ cán bộ, đảng viên, người dân Việt Nam. Các giá trị truyền
thống trong Đảng càng có ảnh hưởng trực tiếp, quan trọng đến mỗi cán bộ,
đảng viên càng tăng thêm vai trò, sức mạnh lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.
Tuy nhiên, cũng cần khắc phục những măt trái của nhân tố lịch sử - xã hội

như tính chất họ hàng, dòng tộc, cục bộ địa phương, gia trưởng, độc đoán,
thói quen, tập quán cũ đã ăn sâu trong mỗi cán bộ đảng viên, đây chính là
những nhân tố gây cản trở sự phát triển và làm giảm năng lực lãnh đạo của
Đảng với nhân dân.
Hai là, nhân tố về tổ chức, cán bộ và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng:
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng, bảo
đảm sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng. Thuật ngữ “tổ chức” (organization)
bắt nguồn từ chữ Hy lạp (organon) có nghĩa là công cụ, dụng cụ. Khái niệm
công cụ ở đây, chỉ chức năng chung của các loại hình tổ chức: tổ chức chính
trị, tổ chức xã hội, tổ chức đoàn thể, v.v. thực tế cho đến nay, tuỳ góc độ nhìn
nhận khác nhau mà người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau. ở phương
diện chung nhất có thể nhận thấy rằng tổ chức luôn phản ánh hình ảnh của xã
hội, là sợi dây liên kết, gắn bó con người, các thành viên lại với nhau, thành
các nhóm các bộ phận xã hội tồn tại và hoạt động trên cơ sở mục tiêu chung,
có sự qui định của pháp luật. Vì vậy, khái niệm tổ chức được hiểu như sau: Tổ
chức là một nhóm xã hội (một tập thể) bao gồm những cá nhân được tập hợp
theo sự phân công lao động thống nhất về mục đích và hành động chặt chẽ,
trên cơ sở pháp qui qui định.
14


Cán bộ là một xưng danh, xuất hiện trong đời sống xã hội nước ta
mấy chục năm gần đấy, để chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng,
lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, gắn bó với nhân dân,
phục vụ cho sự nghiệp cao cả, giành độc lập tự do cho nhân dân. Trong từ
điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là “người làm công tác nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể, người làm công tác có
chức vụ”.
Công tác tổ chức, cán bộ là công tác đối với con ngưới, đối với các
nhân cách khác nhau. Đây là nhân tố tác động, rất quan trọng, bảo đảm cho

vai trò lãnh đạo của Đảng nói chung cũng như tổ chức cơ sở đảng nói riêng.
Tuy nhiên, đây cũng là một công việc khó khăn, đòi hỏi phải có tính khoa học
và nghệ thuật cao.
Xét quan điểm tích cực về thủ lĩnh chính trị trong lịch sử phương Tây
như: Xê-nô-phôn, Pla-tôn, oogruxtanh, Mongtetxkow v.v. thì thủ lĩnh chính
trị phải là người thông thái, người biết chỉ huy, là người giỏi thuyết phục, biết
vì lợi ích chung, biết tập hợp mà nhân lên sức mạnh của mọi người, biết đưa
ra những quyết định đúng ở những thời điểm bước ngoặt, phải đặt uy quyền
vào phục vụ nhân dân, lấy công bằng làm gốc, từ thiện làm ngọn, cầm quyền
làm gánh nặng, địa vị cao nhất, cũng là nguy hiểm và nặng nề nhất. Họ phải
biết quốc gia với những đòi hỏi sai lạc của nhân dân, có đủ khả năng lực, có
tài, có đức tham gia vào bộ máy quyền lực nhà nước.
Xét những quan điểm tích cực về thủ lĩnh chính trị trong lịch sử tư
tưởng Chính trị phương Đông, chúng ta thấy điểm chung là đi tìm mẫu hình
lý tưởng. Khổng Tử cho rằng Người cai trị dân phải có đức độ, công bằng, độ
lượng, vì nhân hậu nên được lòng dân, thành thực nên trăm họ tín nhiệm, cần
mẫn nên thành công, công bằng nên mọi người vui vẻ. Thủ lĩnh phải tu
dưỡng, phấn đấu không ngừng để trở thành người có đủ: Trí, Nhân, Trung,

15


Nghĩa, Tín để hoàn thành, xứng đáng là người cai trị dân, có trách nhiệm làm
gương cho dân và phải giáo hóa dân, tạo niềm tin cho dân; Mạnh Tử cũng cho
rằng kẻ cai trị phải có đức, có tài; Hàn Phi Tử lại đề ra mục tiêu chuẩn thủ
lĩnh chính trị là phải biết đề cao pháp luật, hiểu đạo và cai trị theo đạo. Mặc
Tử cũng cho rằng thủ lĩnh phải là người vui với lợi ích của thiên hạ, trừ cho
thiên hạ, phép tắc kỷ cương, đối xử tốt đẹp với mọi người xung quanh.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, từ phương Tây đến phương Đông, tiêu
chí bao quát nhất đối với thủ lĩnh chính trị là đạo đức, trí tuệ và sức khỏe, biết

thu phục nhân tâm, biết tổ chức và phát huy sức mạnh cộng động, nếu loại trừ
những hạn chế, thì những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
V.I.Lênin ngay từ ngày đầu thành lập Nhà nước Xô viết, đã rất coi
trọng công tác tổ chức, theo ông lĩnh vực trọng yếu nhất của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tức là nhiệm vụ tổ chức và khi đường lối, chính sách đã
được xác định, phương hướng đã được thông qua thì nhiệm vụ tổ chức thực
hiện phải đặt lên hàng đầu và “điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn
thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc
lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt”.
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam trong quá
trình lãnh đạo cách mạnh đã xác định vị trí, vai trò của công tác tổ chức cán
bộ. Người khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi việc, muốn việc thành công
hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Phát triển tư tưởng đó, Đảng ta luôn coi trọng công tác tổ chức cán bộ
và xem đấy là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng
nước ta. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh, đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp, là
mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy các cuộc cải
cách có ý nghĩa cách mạng. Đại hội X của Đảng tiếp tục xác định, đổi mới tổ
chức, bộ máy và công tác cán bộ; Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ

16


cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững
vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ
công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; có cơ chế, chính sách phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng người có
đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có
khuyến điểm nghiêm trọng.
Tổ chức và cán bộ có sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ, nhưng lại

có mối quan hệ chặt chẽ và sự tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau
trong quá trình tồn tại và phát triển. Đối với tổ chức cơ sở đảng, công tác tổ
chức và cán bộ là nhân tố quan trọng nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ
chức cơ sở đảng, nếu tổ chức tốt và có đội ngũ cán bộ tốt thì tổ chức đảng
mạnh, nếu một trong hai yếu tố đó yếu hoặc cả hai đều yếu thì sẽ gây ảnh
hưởng đến vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng đó
suy yếu dần, đồng thời có nguy cơ đánh mất vai trò hạt nhân lãnh đạo chính
trị. Trong công tác lãnh đạo của Đảng có một nội dung rất quan trọng là Đảng
lãnh đạo toàn diện công tác lãnh đạo tổ chức, cán bộ và lãnh đạo toàn thể hệ
thống chính trị thông qua công tác tổ chức và cán bộ.
Ba là, nhân tố nhận thức về Đảng và xây dựng tổ chức cơ sở đảng:
Nhận thức mới về Đảng và đổi mới nhận thức trong xây dựng chỉnh
đốn Đảng là nhân tố trọng tâm nhằm đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhận thức là điểm khởi đầu quan trọng, nhận thức đúng mới đổi mới đúng,
nhận thức mới về Đảng là căn cứ đổi mới, chỉnh đốn Đảng, vấn đề trung tâm
của sự nghiệp đổi mới nước ta. Từ bài học thành công và thất bại của các
Đảng Cộng sản trên thế giới, trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã có quan điểm, nhận thức đúng về Đảng, về
vai trò lãnh đạo của Đảng và đưa ra một hệ thống quan điểm ngày càng hoàn
chỉnh về Đảng và công tác xây dựng Đảng.

17


Khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo trong thời kỳ mới,
Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đổi mới và chỉnh đốn là
yêu cầu khách quan, gắn chặt với nhau, không thể chỉnh đốn nếu không đổi
mới, không thể đổi mới mà không chỉnh đốn. Đổi mới không phải làm cho
Đảng biến màu, biến chất mà làm cho Đảng càng giữ vững bản chất, tăng

cường sức chiến đấu của Đảng, đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Nhận thức mới của Đảng ta còn thể hiện ở sự khẳng định lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của cách mạng Việt Nam. Đảng ta kiên trì và làm phong phú
thêm chủ nghĩa Mác-Lênin qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, biểu hiện rõ
trong đường lối đổi mới, không khô cứng, giáo điều mà là một hệ thống tư
tưởng sống động, có khả năng kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, không từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân
chủ, Đảng ta nhận thức đầy đủ hơn, phát triển nhân tố ảnh hưởng tích cực
thực hiện nền dân chủ hóa một cách rộng rãi; xây dựng một nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Đảng có quyền lực chính trị, nhưng không
để trở thành quan quyền, đây là nhận thức mới nhất, sâu sắc nhất của Đảng ta,
v.v..
Điều nổi bật trong nhận thức mới của Đảng ta là nhận thức hoàn thiện
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, coi đây là nhân tố quan trọng nhằm
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Ngay từ đầu mới thành lập đã được nhân
dân ủng hộ, yêu thương, đùm bọc. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa
vào dân để xây dựng Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng đã
biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy tính tích cực của quần chúng
nhân dân, giữ mối quan hệ chặt chẽ với dân như cá với nước. Trong lúc khó
khăn nhất, Đảng ta lại nhờ nhân dân mà tồn tại và phát triển. Đảng ta luôn coi

18


dân là nhân tố quyết định tạo nên thắng lợi của cách mạng, “dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đảng ra đời từ nhân dân (giai cấp công nhân và nhân dân lao động) và
phục vụ nhân dân, đảng viên là những phần tử ưu tú trong nhân dân, trưởng
thành từ phong trào của dân, gắn bó và phát huy sức mạnh toàn dân tộc đó là

bài học cách mạng quan trọng cũng là nhân tố bảo đảm cho sự lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng một khi Đảng ta
xa dân, không được dân ủng hộ giúp đỡ thì sự nghiệp cách mạng sẽ gặp khó
khăn, vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ mất hiệu lực, thậm chí Đảng phải chịu
nhiều tổn thất, sai lầm nghiêm trọng. Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng,
Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo thông qua cương lĩnh, chiến lược,
các định hướng chính sách và các chủ trương công tác; bằng công tác tuyên
truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng phải giới thiệu những đảng viên ưu tú, có đủ năng
lực và phẩm chất vào hoạt động trong cơ quan lãnh đạo chính quyền, đoàn
thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị.
Nhờ những nhân tố mới trong nhận thức và đổi mới xây dựng chỉnh
đốn Đảng, thời gian qua vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng được củng
cố, giữ vững và phát huy, các tổ chức cơ sở đảng đã cơ bản xứng đáng là vai
trò hạt nhân lãnh đạo chính trị. Cụ thể hóa được đường lối đổi mới toàn diện
của Đảng và chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, quốc phòng, an
ninh, tập trung xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, tôn trọng
quy luật khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí. Năng lực lãnh đạo
tổ chức cơ sở đảng có mặt được nâng cao, nhất là lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo
Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi; đội ngũ đảng viên phát triển cả về số
lượng và chất lượng, thu hút được lực lượng trẻ ưu tú phấn đấu vào Đảng để
cống hiến và trưởng thành.
19


×