Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

thành thị nhật bản thời cận thế qua nghiên cứu trường hợp edo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.27 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------

PHAN QUỲNH HOA

THÀNH THỊ NHẬT BẢN THỜI CẬN THẾ
(QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP EDO)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á
học Mã số: 60.31.50

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Kim

Hà Nội - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................3
Chương 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA EDO TRƯỚC
THỜI TOKUGAWA .................................................................................... 11
1.1. Sự phát triển của vùng Kanto trước khi Tokugawa Ieyasu đặt đại bản doanh
tại Edo ............................................................................................................. 11
1.2. Sau khi Tokugawa Ieyasu đặt đại bản doanh tại Edo............................... 17
1.2.1. Bối cảnh lịch sử..................................................................................... 17
1.2.2. Quy hoạch ban đầu................................................................................ 19
1.2.3. Một số chính sách ban đầu.................................................................... 24
1.2.4. Nền tảng kinh tế của Edo.......................................................................25
Chương 2: CẤU TRÚC THÀNH VÀ THỊ EDO.........................................29
2.1. Bối cảnh lịch sử........................................................................................ 29
2.1.1. Sự vươn lên của nhà Tokugawa.............................................................29


2.1.2. Sự phát triển của thành thị.....................................................................31
2.2. Cấu trúc thành Edo....................................................................................35
2.2.1. Quá trình xây dựng thành......................................................................35
2.2.2. Cách bố trí thành................................................................................... 37
2.2.3. Kiến trúc thành...................................................................................... 39
 Tháp chính......................................................................................... 40
 Tháp canh...........................................................................................43
 Cổng thành.........................................................................................44

2.3. Jokamachi Edo..........................................................................................45
2.3.1. Quá trình xây dựng jokamachi Edo.......................................................46
2.3.2. Cấu trúc jokamachi Edo........................................................................ 51

2


 Khu vực của võ sĩ............................................................................... 53
 Cơ sở tôn giáo.................................................................................... 56
 Cơ sở chính quyền.............................................................................. 60
 Khu vực buôn bán thương mại.............................................................60
 Khu vực của thị dân............................................................................ 62
 Hệ thống giao thông đường thủy..........................................................65

Chương 3: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ VÀ ĐỜI SỐNG XÃ HỘI EDO.......68
3.1. Hoạt động kinh tế của Edo........................................................................68
3.3. Đời sống xã hội Edo..................................................................................75
3.3.1. Cơ cấu xã hội.........................................................................................75
3.3.2. Cơ cấu chính quyền................................................................................79
3.3.3. Đời sống văn hóa...................................................................................82
KẾT LUẬN.....................................................................................................93

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................100
PHỤ LỤC......................................................................................................104

3


MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản luôn là chủ đề nghiên cứu, tranh
luận của nhiều học giả trên khắp thế giới. Tuy phạm vi chuyên môn, mục đích
nghiên cứu, phương pháp tiếp cận của mỗi người có khác nhau nhưng những
kết quả thu được thực sự là những đóng góp có giá trị trong việc tìm hiểu về
con người và đất nước Nhật Bản, về mô hình của Nhật Bản cũng như những
nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng cao của nền kinh tế nước này.
Không thể phủ nhận xã hội Nhật Bản có mối liên hệ hết sức chặt chẽ
với những yếu tố truyền thống. Những di sản có sức mạnh tiềm ẩn từ quá khứ
chính là động lực cho sự phát triển của Nhật Bản ngày nay. Sẽ không thể lý
giải được đầy đủ những phát triển hiện tại nếu không nghiên cứu những giá trị
truyền thống. Với cách nhìn nhận đó, cần phải nghiên cứu sâu hơn lịch sử
1

Nhật Bản, đặc biệt là thời cận thế bởi đây không chỉ là thời kỳ phát triển cuối
cùng và cao nhất của chế độ phong kiến Nhật Bản mà nó còn tạo ra những
tiền đề kinh tế - xã hội vô cùng quan trọng cho sự chuyển mình của Nhật Bản
từ phong kiến sang tư sản vào giữa thế kỷ XIX.
Vào giai đoạn chuyển giao giữa hai thời kỳ trung thế và cận thế, thành
thị Nhật Bản đã có sự phát triển bùng phát. Những điều kiện xã hội đặc thù
của Nhật Bản mà nguyên nhân chủ yếu là quyền lực của các lãnh chúa địa
phương được khẳng định cùng với nhu cầu cần phải có các công trình kiến
1


Có nhiều cách phân kỳ lịch sử Nhật Bản nhưng luận văn này sử dụng cách phân kỳ như

sau: Thời cổ đại (từ khi nhà nước Yamato ra đời cho đến hết thời kỳ Heian năm 1185), thời
trung thế (từ khi Mạc phủ Kamakura thành lập năm 1185 đến khi Mạc phủ Muromachi sụp
đổ năm 1573), thời cận thế (bắt đầu từ thời kỳ Azuchi - Momoyama năm 1573 đến hết
thời Tokugawa năm 1868)


trúc kiên cố để chống lại sức công phá của vũ khí phương Tây đã tạo nên cơ
sở cho sự xuất hiện của nhiều thành luỹ có quy mô lớn. Đây chính là phần cốt
lõi để rồi từ phần “thành” đã xuất hiện “thị” và khả năng cuốn hút các luồng
di cư, nhu cầu tìm đến các thành thị với nhiều mục tiêu khác nhau.
Thành thị Nhật Bản thời cận thế được hình thành từ nhiều cơ sở khác
nhau. Sự phát triển của mỗi thành thị vừa phụ thuộc vào những biến đổi
chung vừa thể hiện những điều kiện chính trị, kinh tế, tôn giáo và nhiều nhân
tố xã hội riêng biệt khác. Vào thời cận thế, thành thị đã vươn lên giữ vai trò
chủ đạo trong các hoạt động kinh tế và chính trị. Sự phát triển của kinh tế
công-thương và nhu cầu tiêu dùng cao trong các thành thị đã cuốn hút một lực
lượng lao động dư thừa lớn trong nông thôn đồng thời đẩy nhanh quá trình đô
thị hóa ở Nhật Bản. Với một lực lượng xã hội tương đối đông đảo, dựa vào
nền tảng của kinh tế công-thương nghiệp, các tầng lớp thị dân chính là những
người đã sáng tạo ra dòng văn hóa mới mang đầy chất thành thị. Họ đồng thời
là những người đón nhận những tư tưởng mới, quan điểm khoa học từ châu
Âu du nhập vào xã hội Nhật Bản. Thành thị đã tạo nên những động lực phát
triển nội tại, hết sức căn bản của Nhật Bản không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà
còn cả trong tư tưởng và chiều sâu văn hoá. Và lần đầu tiên trong lịch sử Nhật
Bản, những nhân tố tư sản đã xuất hiện, hội tụ thành lực lượng vật chất mạnh
mẽ, làm rung chuyển thể chế phong kiến để rồi đi tới lật đổ chế độ này. Đó là
một trong những nhân tố đưa Nhật Bản thoát khỏi vòng quay truyền thống

của xã hội châu Á để trở thành một cường quốc công nghiệp đầu tiên ở khu
vực.
Thời Tokugawa, loại hình jokamachi (thành thị được thành lập xung
quanh tòa thành của lãnh chúa) vừa là dạng thức phổ biến, lại vừa giữ vai trò
quan trọng nhất trong các loại hình thành thị thời bấy giờ. Và Edo là một
jokamachi cận thế điển hình. Thời cận thế, Edo không những có tốc độ phát


triển và quy mô dân số lớn nhất Nhật Bản mà còn là thành thị lớn của thế giới.
Đến năm 1800, thành thị này là một trong 70 thành thị trên thế giới, trong đó
có 5 thành thị ở Nhật Bản, có dân số 100.000 người. Edo cũng đồng thời là
một trong 20 thành thị (trong đó 3 thành thị ở Nhật Bản) có dân số trên
300.000 người. Điều đáng chú ý là, Edo là thành thị duy nhất đạt đến quy mô
dân số trên 1 triệu người vào đầu thế kỷ XIX. Khi tìm hiểu những nguyên
nhân dẫn đến sự phát triển “thần kỳ” của Nhật Bản trong những năm 19601970, một số nhà nghiên cứu đã chú ý đến vai trò của thành thị Nhật Bản.
Điều có thể thấy được là, so với các nước công nghiệp Tây Âu, Nhật Bản là
quốc gia có quá trình công nghiệp hóa muộn nhất nhưng lại đạt được trình độ
hiện đại hóa sớm và cao nhất ở phương Đông. Từ hiện thực đó người ta đã
chú ý đến mối liên hệ giữa quá trình đô thị hóa thời cận thế với sự phát triển
của Nhật Bản hiện đại. Trong khi đi sâu tìm hiểu vai trò của Edo truyền
thống, các nhà nghiên cứu đã rất chú ý đến quá trình hình thành, phát triển
của Edo, cấu trúc xã hội, kinh tế cũng như ảnh hưởng rộng lớn của nó đối với
sự phát triển chung của Nhật Bản.
Xuất phát từ nhận thức như vậy, luận văn đã chọn đề tài: “Thành thị
Nhật Bản thời cận thế (qua nghiên cứu trường hợp Edo)” để làm định hướng
nghiên cứu. Mục tiêu của luận văn:
1.

Nghiên cứu thành thị Nhật Bản cận thế để hiểu lịch sử, xã hội Nhật


Bản.
2. Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của thành thị và nguyên
nhân, động lực dẫn đến quá trình hình thành, phát triển đó.
3. Nghiên cứu thành thị để hiểu thêm chủ trương, chính sách của chính quyền
Edo và vai trò của thành thị đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.


4. Nghiên cứu thành thị để hiểu đặc điểm, cấu trúc xã hội đô thị, các luồng di
dân, các hoạt động kinh tế, quan hệ xã hội, đời sống văn hóa, giáo dục.
5. Nghiên cứu thành thị để lý giải vì sao Nhật Bản có thể tiếp nhận, phát triển
các khuynh hướng tư tưởng mới, đó chính là điều kiện căn bản để Nhật Bản
có thể tiến hành công cuộc cải cách và cải cách thành công.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhật Bản từ lâu đã là đối tượng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều học giả trên thế giới.
Từ đầu thế kỷ XVII, để phục vụ cho việc truyền giáo, nhiều giáo sĩ
châu Âu đã bắt đầu tìm hiểu về Nhật Bản. Có thể kể đến những công trình nổi
bật thời kỳ này như “Từ điển Bồ - Nhật” (xuất bản năm 1603 ở Nagasaki),
“Lịch sử Thiên chúa giáo ở Nhật Bản” của Xavier de Charlevoix năm 1715,
“Lịch sử Nhật Bản với diện mạo của nó ở Vương quốc Siam 1690-1692” của
Engebert Kaempfer xuất bản năm 1727 và cuốn “Nippon” của Philipp Franz
von Siebold (1796-1866) viết khoảng năm 1832-1852. Những cuốn sách này
được ra đời trong bối cảnh Nhật Bản đóng cửa đất nước với mục đích giới
thiệu đảo quốc phương Đông này với người châu Âu.
Từ cuối thế kỷ XIX, nhiều cuốn sách nghiên cứu liên quan đến xã hội,
văn hóa Nhật Bản đã lần lượt xuất hiện do nhu cầu tìm hiểu về nền văn hóa
Nhật Bản được khích lệ ở châu Âu. Những cuốn sách này đặt nền tảng cho
việc xây dựng ngành Nhật Bản học ở châu Âu sau này. Từ những tư liệu do
các công ty Đông Ấn để lại, nhiều học giả đã biên soạn những tác phẩm có

giá trị, chứa đựng nhiều thông tin khoa học quí báu như “The English Factory
in Japan 1613-1623” (của Anthony Farrington xuất bản năm 1991), “The
Deshima Diaries Marginalia 1700-1740” (của J.L. Blusse, Paul van der Velde
và Rudofl Bachofner ấn hành năm 1992), “A History of Christianity in Japan”


(của Otis Cary). Ở Nhật Bản, một số trường đại học, viện nghiên cứu cũng tổ
chức sưu tập, biên soạn các tư liệu lịch sử trong đó nổi bật là “Tokugawa
kinreiko” (1959) và “Law and Justice in Tokugawa Japan” (1985).
Cải cách Minh Trị thành công đã thu hút đông đảo giới nghiên cứu cả
trong lẫn ngoài Nhật Bản. Những công trình xuất bản trong giai đoạn đầu thế
kỷ XX ít nhiều có khuynh hướng ngợi ca những thành tựu to lớn mà Nhật Bản
đạt được nhờ Cải cách Minh Trị. Những công trình của họ đã để lại những
đóng góp to lớn trong việc đi sâu nghiên cứu khách quan hơn về lịch sử Nhật
Bản nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng.
Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, một số trung tâm nghiên cứu Nhật
Bản được mở tại Mỹ để phục vụ mục tiêu chiếm đóng Nhật Bản cũng như
chính sách châu Á của Mỹ. Từ cuối những năm 1950, giới nghiên cứu Mỹ bắt
đầu tập trung vào một số vấn đề khoa học cơ bản như: thể chế chính trị, lịch
sử, kinh tế, xã hội học... Xu hướng nghiên cứu chuyên sâu này ngày càng gia
tăng và cũng thịnh hành ở châu Âu và bản thân nước Nhật. Việc áp dụng
những quan điểm, phương pháp nghiên cứu mới đã đem lạo nhiều thành tựu
khoa học mới mẻ trong những công trình xuất bản thời kỳ 1960 – 1980. Có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Japan: The story of a Nation”,
“Japan: Tradition and Transformation”, “East Asian Civilization” của Edwin
O. Reichauer, giáo sư Đại học Harvard; và một số tác phẩm của John W. Hall,
chuyên gia về lịch sử chính trị Nhật Bản như “Japan from Prehistory to
Modern Times”, “Studies in the Institutional History of Early Modern Japan”
và 4 tập “The Cambridge History of Japan”... Những công trình này đều có độ
khái quát cao và tính định hướng lớn.

Ở Việt Nam, trước năm 1975, một số tác giả ở miền Nam như Đào
Trinh Nhất, Trần Minh Tiết, Đoàn Văn An... đã viết về Minh Trị duy tân, con
người và giáo dục Nhật Bản. Trong khi đó, ở miền Bắc, tìm hiểu Nhật Bản


mới chỉ dừng lại ở các vấn đề ngoại giao hay giáo trình cho học sinh, sinh
viên. Dưới tác động của công cuộc Đổi mới, sau năm 1986, việc nghiên cứu
Nhật Bản ở Việt Nam có nhiều tiến triển. Trong đó, một số tác phẩm nổi bật
như “Lịch sử giáo giục thời Minh Trị” của Nguyễn Văn Hồng hay “Lịch sử
Nhật Bản” của nhóm tác giả Phan Ngọc Liên, Đinh Ngọc Bảo... Các công
trình không chỉ trình bày những vấn đề căn bản trong lịch sử - văn hóa Nhật
Bản mà còn gợi mở nhiều hướng nghiên cứu mới chuyên sâu. Những năm gần
đây, nhiều nhà khoa học trong nước cho ra đời nhưng chuyên khảo về kinh tếxã hội như Nguyễn Văn Kim với “Nhật Bản với châu Á - những mối liên hệ
lịch sử và chuyển biến kinh tế xã hội” tập trung chủ yếu nghiên cứu Nhật Bản
thời Tokugawa.
Riêng về đề tài thành thị Nhật Bản, trước đây đã có rất nhiều học giả
nghiên cứu vấn đề này và đạt được một số thành tựu đáng kể. Có thể kể ra
một số học giả Nhật Bản như Ono Koji với “Nghiên cứu jokamachi cận thế”
(近世城下町の研究), Ishii Susumu với “Thành và jokamachi” (城と城下町)
hay Naito Akira với “Edo và thành Edo” (江戸と江戸城), Hitoshi Mogi với
“Lịch sử phát triển của Edo 1600-1860” (A History of the Development of
Edo 1600-1860), Yoshida Nobusuke với “Cấu trúc hai thành phần của
jokamachi vĩ đại Edo” (巨大城下町江戸の分節構造 )… Còn ở Việt Nam,
không thể không kể đến bài viết “Thành Edo và những đặc điểm phát triển
của thành thị Nhật Bản thời Tokugawa” của Nguyễn Văn Kim trong “Nhật
Bản với châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế xã hội” và
một số công trình khác nữa như các tác phẩm nghiên cứu lịch sử, văn hoá
Nhật Bản…
Tuy cách tiếp cận và quan điểm khoa học của các tác giả có nhiều điểm
khác nhau nhưng những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước đã



giúp tác giả Luận văn có một cái nhìn khái quát, khách quan hơn về nội dung
và bản chất của vấn đề nghiên cứu để từ đó tiếp tục đi sâu vào đề tài của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục tiêu đề ra, Luận văn đã chọn Edo thời Tokugawa (hay còn gọi
là thời Edo,1600 – 1868) làm đối tượng nghiên cứu cụ thể để từ đó có thể rút
ra những đặc điểm chung của thành thị Nhật Bản thời cận thế.
Luận văn tập trung vào các vấn đề sau:
1. Quá trình hình thành, phát triển của Edo đến trước thời Tokugawa
2. Cấu trúc thành và thị Edo thời Tokugawa
3. Hoạt động kinh tế – đời sống xã hội của Edo thời Tokugawa.
Luận văn sẽ cố gắng Việt hoá những thuật ngữ tiếng Nhật, tuy nhiên
với những thuật ngữ quen thuộc hoặc trường hợp không có thuật ngữ tiếng
Việt tương đương xin được giữ nguyên ở dạng phiên âm.

4. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài lịch sử nên phương pháp lịch sử, phân tích mối liên hệ
giữa các sự kiện lịch sử đồng đại và lịch đại luôn là dòng mạch chính trong
nội dung luận văn. Mặt khác, những phương pháp nghiên cứu khác như
phương pháp so sánh, phương pháp xã hội học cũng được vận dụng.
Để phân tích khách quan hơn các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội trong
bối cảnh xã hội Edo, luận văn đã vận dụng phương pháp cấu trúc vào nghiên
cứu. Từ việc coi sự phát triển của thành thị là một hệ thống, do nhiều bộ phận
kinh tế - xã hội cấu thành, luận văn không chỉ tập trung phân tích ảnh hưởng
của hệ thống đối với từng thành tố mà còn đi sâu xem xét sự tác động tương
hỗ giữa các thành tố cũng như ảnh hưởng trở lại của từng thành tố đối với
toàn bộ hệ thống trong sự chuyển biến của Nhật Bản thời Tokugawa.



5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn tập trung vào 3 chương:
Chương 1: Sự hình thành và phát triển của Edo trước thời Tokugawa
Chương 2: Cấu trúc thành và thị Edo
Chương 3: Hoạt động kinh tế và đời sống xã hội Edo
---------------------------------Trước hết, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS.
Nguyễn Văn Kim, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành Luận
văn này.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa
Đông phương, những người đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong ba
năm học Cao học vừa qua.
Lời cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với gia đình đã
động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian học tập vừa
qua.
Xin chân thành cảm ơn!


Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA EDO
TRƯỚC THỜI TOKUGAWA
1.1. Sự phát triển của vùng Kanto trước khi Tokugawa Ieyasu đặt
đại bản doanh ở Edo
2

Người ta thường viết rằng, khi Tokugawa Ieyasu (1542-1616) quyết
định đóng bản doanh ở Edo thì đây vẫn còn là một vùng đất nhỏ hẹp và hoang
vắng. Cư dân ở đây chỉ có một vài làng nhỏ sống bằng nghề đánh cá. Nhưng
trên thực tế, Edo là một vùng đất đã sớm được nói đến trong các tư liệu lịch

sử. Quá trình phát triển của Edo gắn liền với sự bồi tụ tự nhiên và việc khai
phá đồng bằng Musashi. Đây là vùng đất ẩm, trũng và đã được ghi trong
Manyoshu (万葉集,Vạn diệp tập), bộ sử thi nổi tiếng của Nhật Bản viết vào
thế kỷ VIII. Tư liệu đầu tiên viết về Edo là vào thế kỷ VII nói đến địa danh
Huchu, một phần của thành Edo về sau [9, tr. 374]. Vào thế kỷ XII thì tên gọi
Edo mới xuất hiện. Một số nhà nghiên cứu cho rằng “Edo” có thể bắt nguồn
từ ngôn ngữ của người Ainu có nghĩa là “Cửa sông” hay “Cửa vịnh” và như
vậy Edo ngay từ đầu đã được coi là một không gian tương đối rộng lớn.
Nhưng cũng có thuyết cho rằng, vào thế kỷ XII, Edo Shiro Shigetsugu đã đến
khai phá vùng đồng bằng ven biển này. Vì lẽ đó mà về sau Edo đã được đặt
theo tên của vị lãnh chủ này. Edo Shiro Shigetsugu cũng cho dựng quán ở đây
nhưng ông xây dựng nó như thế nào hay cấu trúc ra sao thì không ai biết được
vì không có tư liệu lịch sử về công trình này.

2

Tokugawa Ieyasu (1542 – 1616) là người khai sáng triều đại Tokugawa (1600 – 1868)


Vào cuối thế kỷ XII, sau khi được Thiên hoàng tấn phong chức shogun,
Yoritomo đã xây dựng một chính quyền quân sự và quyết định rời bản doanh
về Kamakura và Edo chỉ cách Mạc phủ của chính quyền Kamakura 50 dặm về
phía Bắc. Như vậy, đồng bằng Musashi trở thành khu vực phụ cận, chuẩn bị
những điều kiện cho sự hình thành trung tâm chính trị thứ hai của Nhật Bản.
Trong thời gian đó, một số tuyến giao thông nối liền Kyoto và đồng bằng
Kansai đã được thiết lập và chính quyền Kamakura đã quản lý trực tiếp toàn
bộ đồng bằng Kanto. Khi Mạc phủ Muromachi được thiết lập, tuy chính
quyền này lập trị sở ở Kyoto nhưng Kanto đã trở thành một khu vực tương
đối phát triển. Bước sang thế kỷ XV – XVI, Kanto đã là nơi tập trung nhiều
lãnh chúa có thế lực. Trong khoảng 2 thế kỷ, Edo chịu sự quản lý của nhiều

hào tộc và lãnh chúa khác nhau. Vào đầu thế kỷ XV, Ota Sukenaga (1432 –
1486) vốn là một chư hầu của Uesugi – người nhận chức cai quản vùng Kanto
Kanto kanryo (関東官僚,Quan Đông quản lãnh) ở Kamakura - là người

cai

quản vùng Edo (sau này ông xuất gia, lấy hiệu là Dokan nên ông vẫn được
biết đến với cái tên Ota Dokan). Ông tiếp quản Edo vào năm 1456. Hậu duệ
của Edo Taro vẫn sinh sống tại đó những do họ không muốn gây chiến với gia
tộc Uesugi nên đã từ bỏ lãnh địa của mình, thậm cả cái tên Edo và rút lui khỏi
sông Tamagawa và di chuyển tới làng Kitami. Ota đã định cư tạm thời gần
Shinagawa, có thể là Gotenyama ngày nay, trong khi ông tìm kiếm một vị trí
thích hợp hơn với kế hoạch của mình. Truyền thuyết kể rằng ông lưỡng lự
giữa một vài quả đồi xung quanh Akabane, Oji và Surugadai để xây thành.
Cuối cùng, ông đã quyết định chọn một quả đồi gần con đường lên phía Bắc
gọi là Chiyoda. Những người nông dân vốn cư ngụ một phần ở đây đã được
di dời sang các làng khác và công việc xây dựng thành bắt đầu. Thành được
khởi công xây dựng vào năm 1456 đến ngày 8 tháng 4 năm 1457 thì hoàn
thành.


Về thành Edo do Ota xây dựng, vì không có sử liệu trực tiếp nên khó
có thể có những thông tin chính xác về toà thành này. Tuy nhiên, do Ota
không chỉ là võ sĩ mà còn là văn nhân nên một thi sĩ vốn là bạn của Ota đã
miêu tả thành Edo thời kỳ này trong các bài thơ của mình [35, tr. 34].
Toà thành có 3 vòng thành là thành chính nejo (子城, tử thành), thành
giữa chujo (中城, trung thành) và thành ngoài gaijo (外城, ngoại thành). Có
rất nhiều giả thuyết về vị trí của các vòng thành này so với các vòng thành
thời Tokugawa. Trong “Thành Edo” (江戸城), tác giả Komatsu Kazuhiro đã
nêu một giả thiết về cấu trúc, vị trí của các vòng thành như sau: thành chính

và thành giữa hiện nay là vòng thành chính (honmaru, 本丸) và thành ngoài
hiện nay là vòng thành thứ hai (ni no maru, 二の丸). Còn Naito Akira trong
“Edo và thành Edo” (江戸と江戸城) lại cho rằng về sau thành giữa là vòng
thành chính còn lại là vòng thành thứ hai.
Toà thành được bao quanh bởi một hệ thống luỹ cao chừng 30m. Hệ
thống hào xung quanh do nối với một mạch nước nên lúc nào cũng đầy nước.
Cổng thành ở những nơi trọng yếu có tường đá ở hai bên và hệ thống cầu kéo
làm bằng gỗ lớn. Ngoài ra trong toà thành còn có 20 toà tháp canh và 5 cổng
đá. Ở thành giữa, ngoài quán của Ota Dokan còn có nơi ở của võ sĩ, tháp canh,
hàng rào phòng thủ và nhà kho… Ngoài ra ở phía Tây thành còn có nơi để
ngắm tuyết trắng trên đỉnh núi Phú Sĩ gọi là Fukumiyukisai (含雪斎,

Hàm

tuyết trai), phía Đông có nơi nhìn ra vịnh dưới chân thành gọi là Hakusentei
(拍船庭, Phách thuyền đình), phía Bắc có nơi để ngắm núi Tsukuba gọi là
Tsukubasantei (筑波) còn ở gần rừng mai có một phòng sách gọi là Kadukitei
(香月庭, Hương nguyệt đình).
Đó là những thông tin còn đến ngày nay về thành Edo của Ota Dokan
được ghi chép lại trong các tư liệu văn học thời bấy giờ.


Vào khoảng năm 1458, tiếp bước cha mình, Ota đã xuất gia và lấy tên
là Dokan nhưng ông không chấm dứt cuộc sống nhập thế của mình. Ông sinh
sống tại Edo trong 30 năm và dần dần chinh phục toàn bộ đồng bằng Musashi.
Đồng thời, ông đã mở rộng tòa thành, tàu thuyền cũng như cổng thành, đem
về gạo, trà, cá, đồng, sắt và vũ khí. Khu vực này rất gần biển và có nhiều
nhánh sông Tone chảy ra để đổ vào vịnh Edo. Có nhiều đầm lầy và ao hồ, ở
giữa đó tụ họp lại thành làng Takarada và Iwada. Vẫn có thể tìm thấy tên của
một số làng khác ở xung quanh tòa thành ở thủ đô ngày nay như Hibiya,

Sakurada, Shiba, Mita và Iigura. Một thị trấn nhỏ bắt đầu hình thành từ phía
Đông của công sự phòng thủ ban đầu. Đó chính là Edo.
Ota cho xây dựng đền Hachiman trên đồi Ichigaya. Tiếp theo
Hachiman, một ngôi đền thứ hai dường như được xây dựng sau đó để tỏ lòng
tôn kính gia đình Ota. Ota Dokan sống tại thành Edo trong khoảng 30 năm.
Trong 30 năm đó, trái với tình hình hỗn loạn ở Kyoto do xảy ra loạn Onin
(1467 - 1477), thành Edo của Ota lại khá yên bình nên đã thu hút rất nhiều
nhân tài, học giả về đây [35, tr. 35].
Tuy nhiên đến năm 1486, Ota qua đời, họ Uesugi cũng bị đánh bại và
mất quyền cai quản Kanto vào tay họ Hojo. Vào năm 1524, Hojo Ojitsuna đã
đánh bại Uesugi Tomo tại Kawagoe và chiếm thành Edo. Tòa thành sau đó rơi
vào tay của Ashikaga Shigeuji no Koga, nhưng lại được trả cho dòng họ Hojo.
Họ Hojo đóng bản doanh ở Odawara còn đại diện của họ tại Edo là Toyama
Shirobyoe Kaganao. Năm 1563, chắt của Ota Dokan đã tìm cách lấy lại tòa
thành này nhưng thất bại và thành Edo vẫn thuộc về gia đình Hojo cho đến
khi dòng họ này chống lại Hideyoshi và bị đánh bại dẫn đến diệt vong. Lúc
bấy giờ Edo chỉ là một thành nhỏ nên một lần nữa Edo lại mất vị trí của mình.
Khi Ieyasu xây dựng Edo thì vùng đất này chỉ còn lại một số làng xóm và một
thành nhỏ đã hoang tàn. Cư dân lúc đó được chia ra làm 25 kori, mỗi kori bao


gồm 2 hoặc 3 sato (làng). Theo truyền thống Nhật Bản mỗi sato như vậy
thường có từ 40 đến 50 hộ, mỗi hộ có từ 20-30 người. Như vậy, dân số Edo
đầu thế kỷ XVII chỉ khoảng 112.500 người [12, tr. 375].
Trước thời Tokugawa, khu vực xung quanh vịnh Edo là vùng đất nông
nghiệp rất màu mỡ với một nguồn cung cấp nước đầy đủ để tưới tiêu từ sông
Tone. Ngôi làng sau này trở thành đô thị Edo nằm giữa vùng đất hình dẻ quạt
này và ở cuối vịnh Edo. Về địa hình, khu vực này bao gồm những quả đồi
bằng phẳng với các dòng chảy phụ từ sông Tone. Khu vực này cũng có các
tuyến đường bộ chính chạy theo hướng Bắc-Nam và khả năng tiếp cận hoàn

toàn với biển thông qua vịnh Edo. Tuy nằm trong không gian của một vùng
châu thổ tương đối rộng lớn, nhưng cũng có thể coi Edo là vùng bán sơn địa
với nhiều sườn đồi thoai thoải chạy dọc theo hướng Bắc - Nam. Ngoài địa thế
phòng ngự mang tính chiến lược, nằm giáp vịnh và được bồi lấp bởi sông
Tone, khu vực này cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định cho canh tác
nông nghiệp, khả năng khai thác biển và trung điểm của hệ thống giao thương
trên cả nước. Do đó, việc Tokugawa quyết định chuyển trung tâm chính trị tới
Edo là khá hợp lý ngay cả theo các lý thuyết hiện đại. Lịch sử kể rằng các
thuộc hạ của Ieyasu đã không tán thành quyết định định đô tại Edo của ông.
Bởi khi đó, Kamakura, đại bản doanh của tướng quân Yoritomo trước đây,
hay thậm chí Odawara, nằm dưới chân núi hướng ra một vịnh rộng lớn với
một tòa thành khá kiên cố, dường như là những sự lựa chọn thích hợp hơn.
Trong khi đó, ở Edo chỉ có vài trăm hộ gia đình, chủ yếu là dân chài và nông
dân. Công sự phòng thủ ở đây cũng không đủ lớn và ở trong tình trạng xuống
cấp trầm trọng. Đã 130 năm qua đi kể từ khi Ota và nhà Hojo có những nỗ lực
ít ỏi nhằm duy trì công trình này. Ngoại trừ các quả đồi Ushigome, Ueno và
Kanda, khu vực này chủ yếu là đầm lầy và bị nước biển che phủ mỗi khi thủy


triều dâng cao. Nhưng đặc điểm khiến Ieyasu hài lòng ở Edo chính là địa hình
bằng phẳng và khả năng kiến tạo những điều mới mẻ ở đây.

Hình 1.1: Bản đồ Edo năm 1457
(Nguồn: Hitoshi Mogi, A historical study of the Devolopment of Edo 1600 – 1860,
A Thesis presented to The Faculty of the Graduate School, Cornell University)

1.2. Sau khi Tokugawa Ieyasu đặt đại bản doanh tại Edo


1.2.1. Bối cảnh lịch sử

Sự sụp đổ của Mạc phủ Muromachi và toàn bộ quyền lực của chính
quyền trung ương vào thời chiến tranh Onin (1467 – 1477) đã mở ra một kỷ
nguyên thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt chính trị và xã hội Nhật Bản. Đến
thế kỷ XV – XVI, lợi dụng sự suy yếu của chính quyền Muromachi, các tập
đoàn phong kiến địa phương càng gia sức củng cố và khuếch trương thế lực
của mình. Tham vọng giành quyền lực chính trị và đất đai đã đẩy xã hội Nhật
Bản đến cuộc nội chiến hết sức tàn khốc. Sau khi đánh bại nhà Uesugi, nhà
Hojo đã nắm quyền cai quản vùng Kanto và đặt căn cứ ở Odawara. Họ Hojo
này bắt đầu nổi lên từ khoảng năm 1500.
Quá trình thống nhất đất nước đạt được nhờ ba nhà lãnh đạo tài ba,
người này tiếp tục sự nghiệp của người kia. Người đầu tiên là Oda Nobunaga
(1534-1582),

một daimyo (大名, đại danh, tức lãnh chúa) ở vùng phía Đông

Kyoto, đã thu phục kinh đô năm 1568. Xu hướng chung của thời kỳ Oda
Nobunaga tiến hành thống nhất đất nước là daimyo mạnh hơn khuất phục
được các daimyo yếu hơn.
Sau khi Nobunaga bị sát hại, sự nghiệp thống nhất đất nước của Oda
Nobunaga vẫn được tiếp tục nhờ một viên tướng vĩ đại dưới quyền ông ta là
Toyotomi Hideyoshi (1536-1589). Nhờ công của Hideyoshi, sau nhiều thế kỷ
chiến tranh, cuối cùng Nhật Bản lại trở thành một quốc gia thống nhất về
chính trị.
Trong quá trình thực hiện mục đích thâu tóm quyền hành, thống nhất
đất nước của mình, Toyotomi Hideyoshi đã có những cử chỉ thân thiện với
Hojo. Nhưng khi bị khước từ, ông quyết ra tay chống lại họ này đến cùng. Ba
đạo quân (với tổng số là hai mươi vạn), đã xuất phát từ Kyoto và tiến theo
nhiều đường về căn cứ của Hojo ở Odawara. Năm 1590, Odawara thất thủ
vào tháng bảy và họ Hojo cũng bị mất quyền cai trị vùng Edo [12, tr. 164].



Sau những thoả thuận chính trị giữa Toyotomi Hideyoshi và Tokugawa
3

Ieyasu , từ năm 1590 vùng Edo và rộng hơn là khu vực đồng bằng Kanto đã
thuộc về thế lực của dòng họ Tokugawa. Tokugawa Ieyasu chính thức đến
đóng bản doanh quân sự tại Edo vào đầu tháng 8 năm 1590. Tại đây, ông đã
cho xây dựng một tòa thành của riêng mình và Sakakibara Yasumasa là người
nhận trách nhiệm này. Còn Ina Tadasugu được Ieyasu bổ nhiệm làm daikan
(代官,đại quan), một chức quan khâm sai, của chính quyền ở Kanto và ông đã
giúp Ieyasu cai quản Edo rất hiệu quả.
Trong giai đoạn này, Hideyoshi vẫn là người đứng đầu Nhật Bản, một
thực tế mà chắn hẳn Ieyasu không thể quên. Do vậy, mặc dù có tham vọng rất
lớn nhưng ông đã không làm gì khiến Hideyoshi phải nghi ngờ. Ông vẫn
thường xuyên bị buộc phải rời Edo đến sống ở Kansai. Tuy nhiên, bên cạnh
Ieyasu vẫn có những cố vấn đáng tin cậy như Honda Yasushige, Sakakibara
Yasumasa và Ii Naomasa, giúp ông thực hiện những khát vọng của mình. Ở
Kansai nhưng tâm trí Ieyasu luôn hướng về Edo và ông vẫn thường xuyên
theo dõi những thay đổi ở đó.
Năm 1594, ông được quay trở về Edo và giám sát công cuộc cải tạo,
xây dựng ở đây. Tuy nhiên, Ieyasu không thể dành tất cả các nguồn vật lực
trong lãnh địa của mình cho công cuộc này bởi cùng lúc Hideyoshi lại cho
xây dựng lại thành Fushimi gần Kyoto và tất cả các lãnh chúa đều phải đóng
góp xây dựng tòa thành đó. Ieyasu đã gửi gỗ từ các khu rừng của núi Fuji và
đá từ núi Izu đến để xây dựng thành Fushimi.
Tuy đã thống nhất sơn hà, nhưng là người có tham vọng to lớn,
Hideyoshi vẫn chưa nguôi giấc mộng bá đồ, định dùng lực lượng quân sự
hùng hậu của mình để chinh phục Trung Quốc và bắt các nước Nam Thái
Bình Dương triều cống. Năm 1592, Hideyoshi đưa 160.000 quân sang đánh
3


Khi đó, Tokugawa Ieyasu vẫn là chư hầu của Toyotomi Hideyoshi


Triều Tiên nhằm lấy đường tiến vào Trung Quốc. Quân của Hideyoshi ban
đầu tiến như thế chẻ tre, nhưng sau khi bị viện binh Trung Quốc đánh chặn,
mặt khác thuỷ quân bị các thuyền của Triều Tiên đánh phá, cuối cùng phải rút
về. Năm năm sau (1597), Hideyoshi lại đưa quân sang đánh Triều Tiên,
nhưng khi chiến cuộc chưa ngã ngũ thì phải rút quân về vì Hideyoshi đột ngột
qua đời (1598) [14, tr. 47].
Trong những ngày cuối đời, Hideyoshi đã nhờ Ieyasu và 4 daimyo thân
cận khác phò tá con trai mình là Toyotomi Hideyori (1593-1615) khi đó mới
5 tuổi. Lợi dụng tình hình đó, với ưu thế của một lãnh chúa mạnh nhất, Ieyasu
đã tìm mọi cách tiêu diệt các daimyo đối địch để giành quyền lực về tay mình.
Năm 1600, tại Sekigahara đã diễn ra một trận quyết chiến giữa một bên là liên
quân ủng hộ Toyotomi Hideyoshi với một bên là lực lượng do Tokugawa
Ieyasu cầm đầu. Thắng lợi ở Sekihagara đã đưa Ieyasu trở thành nhân vật có
thế lực nhất trên vũ đài chính trị Nhật Bản.
Chính sách của Ieyasu là làm sao biến Edo không chỉ thành một kinh
đô quân sự và hành chính, mà cả về kinh tế, văn hoá của Nhật Bản. Nhiều dải
đất rộng lớn được cho khẩn hoang, nhiều khu vực được ban cấp để dựng dinh
trang cho các lãnh chúa nhỏ, rồi kho lương được lập ra để cung cấp cho
thương nhân, tiểu chủ kéo nhau đến từ Kyoto và Osaka do sức thu hút của
kinh đô mới. Và Edo đã được xây dựng trong bối cảnh đó.
1.2.2. Quy hoạch ban đầu
Năm 1590, khi Tokugawa Ieyasu đến Edo, người ta mới phát hiện ra
rằng, thành Edo do Ota Dokan xây dựng đã xuống cấp trầm trọng. Thay vì
tường đá, những công trình bảo vệ chung quanh thành chỉ là những bờ cỏ và
quán bên trong không hơn gì một nông trại. Vì thế một kế hoạch mới đã được
lập ra để mở rộng và củng cố lại thành.



Trong suốt thời kỳ xây dựng này, Ieyasu đã biến Edo thành một trung
tâm chính trị của miền Đông Nhật Bản. Thành cổ do Ota Dokan xây dựng
gồm ba khu có bờ đất bao quanh. Ieyasu đã chọn một trong những khu thành
này làm vòng thành chính (hon-maru) của ông. Hai khu thành còn lại là vòng
thành thứ hai (ni-no-maru). Hào cạn cũ xung quanh căn cứ này được lấp lại
để gia tăng diện tích cho thành và một hào bên ngoài được đào để mở rộng
công trình bảo vệ. Một vòng thành phía Tây (nishi-no-maru, 西の丸) cũng
được xây dựng thêm trong thời gian này. Công việc phải ngừng lại khi
Toyotomi Hideyoshi, người đang cai trị toàn bộ Nhật Bản từ thành Osaka, ra
lệnh xây dựng thành Fushimi.
Ngay cả trước khi Tokugawa Ieyasu thống trị Nhật Bản, những người
quản lý đã tổ chức Edo như là trung tâm chính trị của toàn bộ đất nước. Vấn
đề chủ yếu đầu tiên mà họ phải đối mặt là việc phân chia đất đai cho những
người sẽ cùng với Ieyasu tới thành mới này. Sự phân chia này được tiến hành
với hai cân nhắc chính: thứ nhất là phân chia đất đai cho các quan chức và
thuộc hạ của Tokugawa, và thứ hai là việc bố trí khu vực buôn bán kinh
doanh của thành thị này [17, tr. 24].
Edo hoàn toàn được bao quanh bởi đầm lầy và các vùng trũng (xem
hình 1.1). Để cải tạo khu vực đầm lầy này, người ta đào một con kênh để rút
nước khỏi đầm và sử dụng đất từ hố đào để lấp các vùng trũng ở phía Đông
của tòa thành. Dosan-bori là con kênh đầu tiên nối vịnh Edo với tòa thành và
nó là tuyến giao thông trực tiếp từ biển vào thành. Các nhà quản lý quyết định
phát triển khu vực phía ngoài làm nơi ở cho các quan chức tầng lớp cao hơn
thuộc gia đình quý tộc và khu vực gần thành hơn cho những người thuộc tầng
lớp thấp hơn.
Trong vòng 13 năm kể từ khi Tokugawa vào Edo đến khi chính thức là
người thống trị Nhật Bản, Edo đã phát triển khá nhanh chóng. Những khu vực



mới phát triển được xây dựng theo hình bàn cờ. Khu vực kinh doanh buôn
bán bao gồm Honcho, Kojimachi, Akasaka, Ushigome và Shiba. Phía Bắc tòa
thành chỉ là nơi cư trú của các quan lại, ví dụ khu Bancho dành riêng cho tầng
4

lớp hatamoto (旗本, kỳ bản) . Phía Bắc, Tây và Nam của tòa thành bên trong
bán kính khoảng 2km được khoanh vùng làm nơi ở.
Khu vực trung tâm buôn bán của Edo gồm phần lớn là đầm lầy được
lấp lại nên khó có thể tìm được nguồn nước từ giếng. Do đó người ta cho xây
dựng các đường ống dẫn nước từ Inokashira nằm cách rìa Tây - Nam của
thành 20km. Khu vực phía Nam thành lấy nước từ Tameike. Vào năm 1594,
Senju Ohashi, cây cầu lớn nhất của Senju, được xây qua sông Sumida phục vụ
giao thông từ phía Đông và cầu Rokugo được dựng trên sông Tama vào năm
1600 để thuận tiện cho việc đi lại từ phía Nam. Sau khi những cây cầu này
được hoàn thành, người ta xây dựng lại tuyến đường bộ chính từ vị trí trước
đây ở phía Bắc tòa thành tới vị trí mới dọc theo biển qua Shinagawa, Shiba và
phía Nam thành tới Senju Ohashi.
Vùng bờ sông phát triển dọc theo con kênh đầu tiên, Dosan-bori, và là
khu vực chứa gỗ và những khu giải trí được biết đến dưới cái tên Yanagibashi.
Phần này của thành là khu vực bên trong cảng Edo, còn khu vực ngoài cảng
dành cho các tàu lớn đi biển nằm dọc theo vịnh Edo, mà hiện nay là khu
Yaesu và sông Sumida.
Trong thời kỳ đầu phát triển với tư cách jokamachi của daimyo
Tokugawa Ieyasu, Edo khác biệt với những jokamachi điển hình thời kỳ này
ở tổ chức không gian của nó. Những jokamachi điển hình thời kỳ này, như
Hikone và Matsumoto, thường gồm một tòa tháp chính (tenshukaku, 天守閣,

4


Các chư hầu trực tiếp của Tướng quân, có vị trí thứ hai sau các daimyo


5

thiên thủ các) của daimyo ở trung tâm và những khu vực xung quanh mở
rộng dần theo thứ tự tầm quan trọng của các tầng lớp xã hội, theo đó tầng lớp
nào càng quan trọng thì càng ở gần lãnh chúa. Trong khi đó, vào thời kỳ đầu,
Edo không có tenshukaku. Tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị mới bị
chậm lại vào năm 1594 khi Hideyoshi yêu cầu Ieyasu tham gia xây dựng lại
thành Fushimi. Các hoạt động xây dựng thành Edo bị cắt bớt và kế hoạch xây
tenshukaku cũng bị hoãn lại.
Ngoài ra, sự phân bố các tầng lớp bên trong thành thị cũng đi ngược lại
những tiêu chuẩn thời kỳ đó. Ở Edo, những thuộc hạ càng quan trọng thì lại
càng ở xa tòa thành. Những thuộc hạ có đẳng cấp cao hơn được bố trí ở
Ogawaramachi, Kojimachi, Aoyama, Honjo, Maruyama và Shitaya, xa hơn
nơi ở của những thuộc hạ cấp thấp hơn, những người được bố trí sống ở phía
Nam Hirakawa. Sự phân bố này bắt nguồn từ những cân nhắc có tính chiến
lược thực dụng của Ieyasu coi trọng việc bảo vệ đồng bằng Kanto hơn là bộ
phận bên trong thành thị và đặc điểm địa hình của một khu vực châu thổ bị
phân mảng cao độ khiến không thể xắp xếp những tầng lớp này cùng trong
một khu vực rộng lớn. Do vậy, vào thời kỳ đầu, những cân nhắc về thực tế địa
hình và chiến lược đã ảnh hưởng đến thiết kế đô thị của Edo, khiến nó thiếu đi
tính biểu tượng thường thấy ở một jokamachi thời kỳ này.
Mặt khác, kế hoạch ban đầu xây dựng Edo dưới thời Tokugawa có tính
biểu tượng mạnh mẽ của mô hình cổ xưa. Edo được thiết kế theo thuật phong
thủy được sử dụng ở kinh đô của Trung Quốc như thành Trường An, Lạc
Dương và Heian-kyo của Nhật Bản. Vị trí của những đô thành cổ này được
quyết định dựa trên lòng tin vào các thế lực thiện và ác trong vũ trụ. Thuật
phong thủy đã phát triển qua hàng thế kỷ ở Trung Quốc và du nhập vào Nhật

5

Tenshukaku (Thiên thủ các) là được dùng làm tháp quan sát, trụ sở chỉ huy, kho vũ khí và

đôi khi làm nơi ở của lãnh chúa – biểu tượng cho quyền lực của vị chủ thành.


Bản. Điều này thể hiện rất rõ ở các đô thành của Nhật Bản như Fujiwara-kyo
và Heijo-kyo, nhưng Heian-kyo, được xây dựng vào cuối thế kỷ VIII, là áp
6

dụng những nguyên lý này của Trung Quốc toàn diện hơn cả.

Nguyên lý trung tâm của thuật phong thủy là vai trò của “shishin” (四
神 , Tứ thần), Bạch Hổ - Huyền Vũ - Thanh Long - Chu Tước. Trong đó,
byakko ( 白虎 , Bạch Hổ) thống trị phương Tây và ứng với một con đường;
gembu ( 玄 武 , Huyền Vũ) gắn với phương Bắc và ứng với một ngọn núi;
seiryu (青龍, Thanh Long) thống trị phương Đông và gắn với một con sông;
suzaku (朱雀, Chu Tước) thống trị phương Nam và gắn với đầm lầy hoặc một
cái ao. Nghiên cứu trường hợp Edo thời kỳ đầu, có thể thấy rõ dấu ấn của
thuyết tứ thần này. Phía Nam Edo là vịnh Edo, ứng với Chu Tước; tuyến
đường Tokaido chạy theo hướng Tây Nam ứng với biểu tượng Bạch Hổ;
Hirakawa, một con sông nhỏ chảy ngay phía Đông thành, ứng với Thanh
Long; và cuối cùng, một vùng đất đắp nổi ở khu vực Kojimachi phía Tây
thành ứng với Huyền Vũ. Trên thực tế, về mặt địa hình, cũng hiếm có trường
hợp nào đáp ứng đầy đủ điều kiện về “tứ thần” theo phong thủy, và trong
trường hợp Edo thì thành thị này bị lệch 45 độ về phía Tây.
Người ta thấy nhiều điểm tương đồng về hình thái học giữa Edo và
Heian-kyo. Sự tương đồng khá lớn này là do những tham vọng chính trị của
Tokugawa. Tại Edo, Ieyasu đã đặt nền tảng cho một kinh đô trong tương lai

ngay cả khi ông vẫn còn là chư hầu của Hideyoshi.
1.2.3. Một số chính sách ban đầu

6

Học tập theo mô hình thành - đô như thành Lạc Dương nhà Ngụy, thành Trường An nhà

Đường bên Trung Quốc

24


Sau khi Tokugawa dời Suruga tới Edo, ông đã phát triển thành này với
những đặc trưng đáng chú ý. Ông biết rằng không nên phát triển Edo chỉ như
một tiền đồn quân sự như các thành thị khác mà còn là trung tâm chính trị và
kinh tế của miền Đông Nhật Bản [17, tr. 26].
Chính sách đầu tiên của Tokugawa là giữ lại các cư dân gốc của khu
vực này và ghép họ với những người mới đến từ Suruga. Những người cũ chủ
yếu là nông dân và ngư dân, có thể cung cấp thực phẩm cho những người
trong thành thị; những người đến sau phần lớn lại là võ sĩ và quan chức, thợ
thủ công và thương nhân phục vụ cho tầng lớp võ sĩ. Chính sách này khá
thành công và sự tăng trưởng dân số do nó đem lại đã mở ra nhiều khả năng
phát triển kinh doanh. Đặc biệt những thương nhân từ khu vực Kansai, với
mong muốn tìm kiếm cơ hội, được khuyến khích tăng cường các hoạt động
kinh doanh buôn bán. Dân số tăng nhanh với tốc độ đáng kinh ngạc. Trước
năm 1600, chỉ có một vài làng làm nông nghiệp mà đến năm 1608 dân số đã
lên đến 600.000 người chỉ tính riêng trong thành.
Về mặt hành chính, sự điều hành dân sự cũng cần thiết để ngăn không
để xảy ra tình trạng lộn xộn. Năm 1600, những người đứng đầu chính quyền
đã chọn ra ba người, Teruya Tozaemon, Naraya Ichiemon và Kitamura Yahei

làm Machi-doshiyori (町年寄, đinh niên ký) (các nhà chức trách dân sự). Đây
là bộ máy tự cai trị đầu tiên của thường dân trong thành Edo. Những nhà chức
trách dân sự này sau đó đã trở thành trung tâm trong hoạt động chính trị của
Edo vào thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, vào thế kỷ XVII, hệ thống này vẫn chưa
được phát triển đầy đủ. Nhiệm vụ của những nhà chức trách này là phân chia
đất đai được phân loại để dùng cho

chính quyền và điều chỉnh quy hoạch đô

thị. Dưới Machi-doshiyori là các Nanushi (名主, danh chủ, tức là một nhóm
sở hữu và đầu cơ đất đai). Có khoảng 20 Nanushi trong thời kỳ này.


×