Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tập hk 8d bàn về phạm trù cái đẹp và ý nghĩa của nó trong đời sống tinh thần của sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.37 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU

NỘI DUNG
I/. Khái quát các quan điểm về cái đẹp
1. Quan điểm về cái đẹp trong duy tâm khách quan
Thứ nhất, mỹ học duy tâm khách quan đều coi nguồn gốc của cái đẹp
ở “thế giới ý niệm” (Platon) hay “ý niệm tuyệt đối” (Hegel). Đó là cái từ thế
giới thuần túy trừu tượng bên ngoài sự vật, truyền tính thẩm mỹ vào các sự
vật chứ không có cơ sở khách quan. Nói một cách chính xác hơn, theo họ cái
đẹp không phải là thuộc tính của vật chất mà là thuộc tính của tinh thần có
trước và quyết định tính thẩm mỹ của hiện thực.
Platon (khoảng 427- 347 TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp) coi
cái đẹp thuộc về thế giới tinh thần, nó tồn tại ở thế giới ý niệm và chi phối
cái đẹp trong tất cả các sự vật cảm tính. Ông khẳng định nguồn gốc, bản chất
và quy luật của cái đẹp là thế giới ý niệm. Theo quan điểm của Platon thì
“cái đẹp là một ý niệm có sẵn, nó sản sinh ra cái đẹp của mọi sự vật và soi
sáng cái đẹp nơi tâm hồn con người. Cái đẹp tồn tại vĩnh cửu, nó không bị
hủy diệt, không tăng không giảm, nó không đẹp ở chỗ này mà xấu ở chỗ
khác”. Đối với cái gọi là sáng tạo thẩm mỹ chẳng qua chỉ là sự “Thần nhập”
hay “sự “mách bảo” của thần linh. Tư tưởng này được các nhà thần học thời
trung cổ khẳng định lại. Đó là tư tưởng của Thomas Von Aquin (1225-1274,
nhà thần học, triết học người Ý), khi ông cho rằng: “Cái đẹp là sự nhận
thức mang lại sự thích thú. Cái đẹp chân chính là Chúa. Vì thế muốn nhận
thức được cái đẹp phải hòa mình vào Chúa”.
1


Ở một hình thức khác, Hegel (1770-1831, nhà triết học người Đức),
cho rằng “ý niệm tuyệt đối” vận động đến một trình độ nào đó thì nảy sinh
cái đẹp (cái đẹp trong nghệ thuật). Cái đẹp chính là sự thể hiện đầy đủ của ý
niệm trong một một sinh thể riêng lẻ, rằng cần phải loại bỏ cái đẹp trong tự


nhiên và nếu có cái đẹp trong tự nhiên thì nó chỉ là sự phản ánh cái đẹp tinh
thần.
2. Quan điểm về cái đẹp theo duy tâm chủ quan
Mỹ học duy tâm chủ quan cho rằng cái đẹp phụ thuộc vào ý thức chủ
quan của con người mà cụ thể hơn là ý thức chủ quan của mỗi cá nhân sản
sinh ra cái đẹp. Trong quá trình cảm thụ thẩm mỹ của các hiện tượng, sự vật
cảm tính, con người mang tính thẩm mỹ truyền vào nó và làm cho nó trở nên
đẹp. Một trong những đại diện tiêu biểu của mỹ học duy tâm chủ quan là
Immanuel Kant (1724-1804, triết gia người Đức). Theo ông, vấn đề chủ yếu
không phải cái gì là cái đẹp, mà phán đoán về cái đẹp là gì. Phán đoán về cái
đẹp là phán đoán về thị hiếu, đó là sự thưởng ngoạn thẩm mỹ của cá nhân, là
cái tự do và không vụ lợi. Cho nên, không có khái niệm về cái đẹp và cũng
không có qui tắc phán đoán về cái đẹp. Vì vậy, mỹ học duy tâm chủ quan về
cái đẹp coi tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp sẵn có trong mỗi cá nhân, là cái gì đó
gợi lên khoái cảm thẩm mỹ thì đó là cái đẹp. Ông nói: “Cái đẹp không tồn
tại trên đôi má hồng của người thiếu nữ, nó chỉ tồn tại trong mắt của những
kẻ si tình”.
3. Quan điểm về cái đẹp theo chủ nghĩa duy vật trước thế kỉ XIX
Mỹ học duy vật trước thế kỷ XIX, từ Aristoteles (384-322 TCN, nhà
bác học Hy Lạp cổ đại) đến Denis Diderot (1713 – 1784, nhà triết học duy
vật Pháp) và Tsecnusepxki (1828 – 1889, nhà triết học, mỹ học Nga) đều
khẳng định cái đẹp không phải là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối hay ý muốn
chủ quan của con người, nó không tồn tại thuần túy, mà chính là thuộc tính
2


khách quan vốn có của các sự vật và hiện tượng. Tuy nhiên, do những
nguyên nhân về mặt lịch sử thì mỹ học duy vật trước đây đã không giải thích
đúng đắn bản chất của cái đẹp.
Trước hết, họ coi bản chất của cái đẹp thể hiện ở quan hệ hình thức giữa

các yếu tố tự nhiên như vật lý, sinh học, hoá học tồn tại khách quan, có trước
con người. Chính vì vậy cái đẹp thường được coi là cái “tính có tỷ lệ”, “sự
cân xứng”, “sự hài hoà” hoặc là sự “thống nhất trong đa dạng”. Một số
nhà mỹ học Anh đã cố gắng xác định những dấu hiệu chung của cái đẹp. Ví
dụ như bố cục đẹp nhất là bố cục kim tự tháp, trong điêu khắc hình tượng
con người đẹp nhất giống như chữ S, cũng chính là hình tượng phổ biến của
các vị thần Hy Lạp.
Đáng lưu ý nhất là quan điểm của nhà mỹ học Nga Tsecnusepxki. Ông
định nghĩa cái đẹp: Cái đẹp là cuộc sống.“Một tồn tại được gọi là đẹp là tồn
tại trong đó chúng ta nhìn thấy cuộc sống đúng như quan niệm của mình,
một đối tượng đẹp là đối tượng chứng tỏ nó mang một cuộc sống hay gợi
cho chúng ta ý niệm về cuộc sống”
Các nhà mỹ học duy vật trước XIX đã tách rời tính lịch sử cụ thể của
các hiện tượng thẩm mỹ của cái đẹp khi họ đi tìm bản chất của cái đẹp ở mối
quan hệ nội tại giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tuợng
trong khi lẽ ra phải tìm cái đẹp, cũng như mọi hiện tượng thẩm mỹ khác, ở
mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng với xã hội.
4. Quan điểm hiện đại về cái đẹp của Mác – Lênin
Karl Marx (Các-mác, 1818-1883), là người đầu tiên phát hiện ra bản
chất của cái đẹp gắn liền với lao động. Cái đẹp không phải là cái vốn có.
Chưa có con người và lao động thì chưa có hiện tượng thẩm mỹ trong cuộc
sống thì chưa có cái đẹp.
3


Cái đẹp mang lại niềm hứng thú không phải chỉ cho một cá nhân riêng
lẻ nào đó mà phải mang lại hứng thú phổ biến có tính xã hội. Cái đẹp vì thế
mà tồn tại độc lập với chủ thể cá nhân. Cái đẹp gắn liền với hoạt động thực
tiễn của chủ thể, thỏa mãn được tình cảm thẩm mỹ của chủ thể do các thước
đo lý tưởng xã hội định hướng.

Quan hệ thực tiễn của con người không chỉ ở lao động mà có trong đấu
tranh xã hội. Mọi hoạt động nhằm cải thiện các quan hệ xã hội cho phù hợp
với ước mơ của mình đều gây được hứng thú thẩm mỹ.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, cái đẹp ra đời từ lao động, gắn bó chặt
chẽ với cái thật, cái tốt và cái hữu ích. Cái đẹp xuất hiện trong quan hệ thẩm
mỹ, nó có những yếu tố chung với quan hệ thẩm mỹ. Xa rời cái thật không
thể có cái đẹp. Đối lập với cái thật, cái đẹp sẽ thiếu vắng nội dung, không có
cái đẹp chân chính nào lại không có ích. Cái thật, cái tốt, cái có ích phải gắn
liền với các hình tượng sinh động mới là cái mỹ. Cái mỹ với tư cách là cái
đẹp là một cái mỹ đặc trưng bởi tính hài hòa của nó.
Cái đẹp là một phạm trù mỹ học cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong quan
hệ thẩm mỹ giữa con người với hiện thực, xuất phát từ thực tiễn, tồn tại dưới
dạng hình tượng toàn vẹn, cân xứng hài hòa gây được khoái cảm thẩm mỹ
tích cực đối với chủ thể xã hội.
II/. Các hình thức của cái đẹp
1. Cái đẹp trong tự nhiên
Tự nhiên là nơi bắt đầu của mọi cái đẹp, vẻ đẹp của mây, gió, trăng,
hoa, tuyết núi sông là nguồn cảm hứng và đồng thời là đối tượng miêu tả của
nghệ thuật, cũng như nó thể hiện tính đa dạng, phong phú, sinh động trong
quan hệ thẩm mỹ của con người.

4


Các nhà mỹ học mỹ học duy tâm không phủ nhận cái đẹp trong tự
nhiên, nhưng cho rằng: cái đẹp trong tự nhiên dù thể hiện dưới hình thức
nào, chúng vẫn là cái đẹp không chủ ý, là cái phù du, là cái đẹp không có
tinh thần, thiếu lý tưởng. Ngược lại, các nhà mỹ học duy tâm chủ quan cũng
bỏ quên cái đẹp vốn có của tự nhiên và có khuynh hướng tuyệt đối hoá tình
cảm cá nhân con người con người khi phán quyết cái đẹp của tự nhiên.

Các nhà mỹ học duy vật trước trước thế kỷ XIX đã thừa nhận cái đẹp
của tự nhiên, đó cũng là các sự vật, hiện tượng xét về các khiá cạnh vật lý,
hoá học, sinh học nhưng đó là tự nhiên không đặt trong quan hệ thực tiễn
của con người. Đồng thời, khuynh hướng sùng bái cái đẹp trong tự nhiên sẽ
dẫn đến chủ nghĩa tự nhiên trong nghệ thuật và coi nghệ thuật chỉ là sự “bắt
chước” thuần túy giới tự nhiên.
Các nhà mỹ học hiện đại cũng thừa nhận cái đẹp của tự nhiên. Nhưng
đó là quá trình con người “đồng hoá” hiện thực bằng hoạt động thẩm mỹ. Sự
đồng hoá hiện thực bằng thẩm mỹ, chính là sự hài hoà trong mối quan hệ
giữa khách thể và chủ thể, nó phụ thuộc không chỉ vào những thuộc tính tự
nhiên của các hiện tượng thiên nhiên, mà cả vào những nhân tố chủ quan,
nên nó mang dấu ấn chủ quan. Chính điều đó cắt nghĩa và lý giải đến một
giới hạn nhất định cho sự khác biệt trong những đánh giá thị hiếu thẩm mỹ
của mỗi con người. Giới hạn về sự chấp nhận được đánh giá thẩm mỹ khác
nhau sẽ bị phá vỡ khi người ta lầm lẫn vẻ đẹp của bản thân tự nhiên với quan
hệ hài hoà giữa tự nhiên và hoạt động thực tiễn của con người, khi người ta
đồng nhất vẻ đẹp của tự nhiên với cái lợi ích, với giá trị thực tiễn, với ý
nghĩa con người của các hiện tượng tự nhiên.
Như vậy, cái đẹp trong tự nhiên là cái có năng lực biểu hiện sức sống
tồn tại và phát triển, là cái có khả năng gợi mở cho con người khám phá bản
chất chân chính của mình. Nó cũng là cái có thể gợi mở sự liên tưởng, sức
5


sáng tạo và phát triển của con người làm xuất hiện ở tâm hồn con người
những rung động thẩm mỹ, những cảm xúc mê say, tích cực, khiến cho con
người khát vọng và yêu đời và muốn cống hiến nhiều hơn cho những mục
đích và lý tưởng chân chính của mình.
Cái đẹp trong tự nhiên tuy tồn tại khách quan, nhưng chỉ là một tiềm
năng, một sức sống và là đẹp theo đúng nghĩa chân chính của nó khi con

người “đồng hóa” giới tự nhiên bằng thẩm mỹ trong hoạt động thực tiễn của
con người.
2. Cái đẹp trong xã hội
Cái đẹp trong xã hội - cái đẹp trong hoạt động của con người thể hiện ở
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: lao động sản xuất, đấu tranh xã hội,
vui chơi, giải trí, thể thao, hội hè. Cái đẹp trong xã hội cũng rất phong phú,
nhiều hình nhiều vẻ, nó phối hợp được cả vẻ đẹp mầu sắc, hình dáng, cả vẻ
đẹp bên ngoài lẫn vẻ đẹp bên trong bắt nguồn từ quan niệm chính trị - đạo
đức - truyền thống- phong tục. Chẳng hạn cái đẹp của con người với tính
cách sản phẩm của tự nhiên nó mang tính vật chất, vẻ đẹp bên ngoài: Thân
thể- vóc dáng tự nhiên; nhưng con người còn là sản phẩm của xã hội là vẻ
đẹp xã hội: tinh thần, vẻ đẹp bên trong tâm hồn bộc lộ qua sự hoàn thiện về
mặt nhân cách, về lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức xã hội.
Khác với cái đẹp vốn có của tự nhiên, cái đẹp trong xã hội có liên quan
mật thiết đến các lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức. Bởi vì cơ sở đánh giá
cái đẹp trong tự nhiên liên quan tới tính qui luật và tính hợp lý của các hiện
tượng tự nhiên trong quan hệ thẩm mỹ của con người. Thì ngược lại cơ sở
đầu tiên đánh giá cái đẹp trong xã hội lại là lao động sản xuất. Cái đẹp trong
xã hội là cuộc đấu tranh để thực hiện lý tưởng thẩm mỹ, để xây dựng một xã
hội tốt hơn, đẹp hơn. Một xã hội đẹp là xã hội mà ở đó chủ nghĩa nhân đạo
6


trở thành văn hoá, văn minh và cũng là một giá trị nhân văn sâu sắc thấm sâu
đậm trong quan hệ giữa con người và con người.
Tuy dựa vào nền tảng của lao động sản xuất của xã hội, nhưng cái đẹp
trong xã hội lại phụ thuộc vào nhiều mối quan hệ phức tạp, do đó, khi đánh
giá cái đẹp trong xã hội, con người phải dựa vào hai hệ tiêu chí cơ bản: hệ
tiêu chí: Chân- thiện- mỹ và hệ tiêu chí: tính lịch sử, giai cấp, nhân dân, dân
tộc và tính thời đại trong sáng tạo và cảm thụ cái đẹp.

Hệ tiêu chí: chân- thiện- mỹ đánh giá cái đẹp trong xã hội giúp con
người phát hiện ra sự thật của cuộc sống và nhận thức đúng đắn về các mối
quan hệ thực tại của tự nhiên và xã hội, chỉ cho ta cách giải quyết các mâu
thuẫn và xung đột đó một cách có cơ sở khoa học, mang lại hiệu quả ngày
cao của quá trình cải tạo hiện thực. Thật vậy, cái chân – cái thiện – cái mỹ
đánh giá cái đẹp trong xã hội là những phương tiện tốt nhất để con người đạt
được sự hài hòa, hoàn chỉnh các phẩm chất cao qúi nhất của tâm hồn, trong
đó, sự tiếp nhận, hưởng thụ cái đẹp mang lại cho con người một một khoái
cảm tinh thần- một sự tổng hợp cảm xúc.
Hệ tiêu chí: Tính lịch sử, giai cấp, dân tộc và thời đại. Ngoài mối liên
hệ chân- thiện - mỹ, chúng ta còn phải đặt cái đẹp trong quan hệ với tính lịch
sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại. Bởi vì trong hoạt động định
hướng của con người chúng ta thấy rõ là, khởi điểm và mục đích của hoạt
động xã hội bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định, nó
xuất phát từ những nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể của mỗi một hình thái kinh tế
-xã hội cũng như các thời đại nhất định. Cho nên, quan niệm về cái đẹp cũng
thay đổi và phát triển có tính chất lịch sử và tính chất lịch sử đó thể hiện ở
tính giai cấp, tính nhân dân, dân tộc và tính thời đại.
3. Cái đẹp trong nghệ thuật
7


Nghệ thuật là thế giới của cái đẹp nó thể hiện tập trung của mọi quan hệ
thẩm mỹ. Nói cách khác, trong bất kỳ hoạt động nào của con người cũng
hướng đến sự sáng tạo ra cái đẹp, vươn đến cái đẹp nhưng không ở đâu qui
luật ấy lại bộc lộ rõ nét, không ở đâu việc sáng tạo ra cái đẹp lại chiếm một
vị trí quan trọng như trong nghệ thuật. Ở đây cái đẹp trong nghệ thuật không
chỉ là sự phản ánh tính chân thật cuộc sống hiện thực, mà còn là phản ánh
bằng tài năng sáng tạo của người nghệ sỹ. Cũng chính vì vậy, nghệ thuật
không phải nơi độc quyền sáng tạo ra cái đẹp, mặc dầu trong mọi hoạt động

sáng tạo của con người đều có hiện diện của yếu tố thẩm mỹ – yếu tố cái
đẹp; nhưng nghệ thuật là hình thái cao nhất, tập trung nhất của qui luật sáng
tạo cái đẹp trong việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và nhu cầu tinh thần nói
chung của con người.
Cái đẹp trong nghệ thuật nó đều biểu đạt qua hình tượng nghệ thuật. với
tính cách là một dạng thức phản ánh khác về chất với các hình thức phản ánh
khác của hoạt động nhận thức, - đó là sự phản ánh cô đặc tình cảm, lý trí với
cách thể hiện vừa cảm tính lại vừa cụ thể. Trong “Hiện tượng học tinh
thần”, Hegel thật có lý, khi ông chia nhận thức của con người ra làm ba
nhóm: “Triết học có phương thức nhận thức bằng khái niệm; tôn giáo nhận
thức bằng cảm niệm (biểu tượng), nghệ thuật nhận thức bằng hình tượng
(chiêm ngưỡng)”.
Hình tượng nghệ thuật, thông thường nó được phân tích ở các cấp độ
khác nhau để làm sáng tỏ ở khía cạnh phép biện chứng giữa lý tính và cảm
tính, khách quan và chủ quan, điển hình và khái quát. Việc nghiên cứu các
cấp độ tồn tại của hình tượng nghệ thuật là công việc hết sức quan trọng đối
với việc làm rõ đặc trưng của nghệ thuật. Bởi vì là cơ sở phương pháp luận
để xem xét bất cứ khía cạnh nào của hình tượng nghệ thuật, nhất là vai trò
của nghệ thuật trong đời sống tinh thần con người.
8


Đặc trựng cái đẹp trong nghệ thuật, trước hết thể hiện ở tính điển hình
của nó. Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật tồn tại như một chỉnh thể thống
nhất biện chứng giữa cái chung và cái riêng, trong đó cái chung đã được cá
biệt hóa, cái cá biệt đã được khái quát hóa, điển hình hóa. Mỗi hình tượng
nghệ thuật là một cái riêng độc đáo, là sự không lặp lại bất kỳ cái riêng nào
khác được thể hiện bằng các thủ pháp nghệ thuật khác nhau: hư cấu, tưởng
tượng, ước lệ. Nó mang tính mở và không bao giờ kết thúc.
Đặc trưng cái đẹp trong nghệ thuật còn biểu hiện ở sự thống nhất giữa

nội dung và hình thức. Chính vì vậy, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật là
cái đẹp hoàn chỉnh, tính gọt giũa, trau chuốt của các yếu tố hình thức mà
người nghệ sỹ phải góp nhặt, thâu tóm cái đẹp trong hiện thực để sáng tạo
nó trong tác phẩm nghệ thuật. Xét về nguồn gốc, về tính có trước và phong
phú thì cái đẹp trong tự nhiên, cái đẹp trong xã hội thông qua hoạt động thực
tiễn của con người đều được phản ánh dưới các hình thức khác nhau trong
hình tượng nghệ thuật- sáng tạo nghệ thuật. Sự hoàn thiện và hấp dẫn của cái
đẹp trong nghệ thuật đã từng được một nhà văn nhận xét: “Đến như văn thơ,
thi nại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem
mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được”.
Có thể dễ dàng dẫn chứng những ví dụ trong văn học nghệ thuật để
minh chứng cho sự tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Chắc hẳn không một
người Việt Nam nào là không biết đến “Truyện Kiều” (Đoạn Trường Tân
Thanh)- một kiệt tác Tiếng Việt của đại thi hào Nguyễn Du. Toàn bộ tác
phẩm là sự kết hợp tinh tế, thể hiện cả ở nội dung và hình thức. Một trong số
đó phải kể đến cách Nguyễn Du đã xây dựng nên được những hình tượng
nghệ thuật đặc trưng, in đậm trong tâm trí của người đọc: Đó là vẻ đẹp
không gì sánh bằng của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều:

9


“ Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh“ [...]
Sử dụng mọi hình ảnh miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên để ước lệ cho vẻ
đẹp của hai chị em, Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc xây dựng nên cái
đẹp viên mãn, tuyệt trầncả về dung mạo và tài năng của hai chị em Kiều.
Nếu như chúng ta xét mối liên hệ giữa nội dung và hình thức trong các
ca khúc củaTrịnh Công Sơn, thể hiện tư tưởng triết lý Phương Đông, nhất là
Phật giáo, giàu tính nhân văn, sự hướng thiện cũng như khát vọng được
sống, được yêu và luôn tìm cách trả lời những câu hỏi của thực, của ảo trong
cuộc đời, rồi như ông còn để ngỏ cho mọi người tìm cách giải đáp tiếp cho
ông những vấn đề đó.
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức cái đẹp trong nghệ thuật là
quan hệ giữa lý tưởng thẩm mỹ nhất định nhằm đánh giá các hiện tượng
thẩm mỹ của cuộc sống được diễn tả hình tượng phù hợp với bản chất của lý
10


tưởng thẩm mỹ đó. Biểu hiện cái đẹp trong nghệ thuật có liên quan đến giữa
hư cấu và hiện thực, lấy cái hư để nói cái thực, lấy cái thực để nói cái thực.
Giá trị nghệ thuật của cái đẹp là giá trị tư tưởng nằm ở cả nội dung và hình
thức. Nghệ thuật đẹp luôn có một nội phong phú và hình thức hấp dẫn. Chất
lượng nghệ thuật không thể chia cắt giữa nội dung và hình thức.
Như vậy, cái đẹp trong nghệ thuật trước hết là cái đẹp của hiện thực
cuộc sống mà nó phản ánh, là vẻ đẹp của tự nhiên, của xã hội của con người
đã được những người nghệ sỹ sáng tạo và biểu đạt bằng các cấp độ khác
nhau của hình tượng nghệ thuật bằng tính điển hình hoá, trong mối quan hệ
giữa cái chung – cái riêng, giữa nội dung – hình thức. Cái đẹp là một giá trị,
nhưng cái đẹp trong nghệ thuật là một giá trị tổng hợp của giá trị thẩm mỹ,

triết học, chính trị, đạo đức, văn hoá. Những tác phẩm nghệ thuật của nhân
loại bao giờ cũng là các tác phẩm mà ở đó bao chứa những khát vọng vươn
tới cái đẹp, cái cao thượng ở sự hoàn mỹ, ở một hình thức hấp dẫn đích thực
của nó trong các ngôn ngữ đặc thù của nghệ thuật.
III/. Ý nghĩa của cái đẹp đối với đời sống sinh viên hiện nay
Hiểu về cái đẹp và bản chất của cái đep, ta có thể nhận thấy được vai
trò to lớn của nó trong đời sống xã hội nói chung, cũng như đối với bộ phanạ
sinh viên nói riêng:
- Phạm trù “cái đẹp” tạo ra giá trị thẩm mĩ tinh thần, tạo niềm tin cho
sinh viên vào vẻ đẹp cuộc sống cũng như chính bản thân mình, tạo động lực
để chúng ta có thể làm được nhiều điêu, có được cái nhìn lạc quan trong
cuộc sống, tạo ra sức mạnh ý chí, giúp sinh viên giải quyết dễ dàng hơn
những vấn đề, những khó khăn xuất hiện trên con đường thực hiện ước mơ
của mình.
- Đối mặt với những khó khăn trong cuộc sống thường ngày, những
tiêu cực trong xã hội không phải là một việc dễ dàng với bất cứ người nào,
11


nhất là với các sinh viêc, có cuộc sống xa nhà, tự lập. Chính cái đẹp giúp
sinh viên nhìn ra mặt tích cực trong cuộc sống. Không phải lú nào cuộc sống
cũng ngập tràn màu xám xịt, mà cũng có những vẻ đẹp tuyệt vời, xuất hiện
bất cứ đâu, từ bất cứ ai. Nhờ đó sinh viên có một cuộc sống tích cực, suy
nghĩ tích cực, luôn hướng tới chân thiện mỹ.
- Khao khát đẹp đẽ, hướng tới giá trị đích thực của cái đẹp chính là cái
cao cả trong tâm hồn mỗi con người, đặc biệt là sinh viên- thế hệ trẻ với
nhiều hoài bão ước mơ. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, tinh thần
cầu tiến, khao khát đẹp đẽ, luôn phấn đấu hướng tới đỉnh cao chính là mục
tiêu, phẩm chất mà mỗi sinh viên phải có để có thể vươn tới giá trị cao đẹp,
xây dựng nước nhà phát triển cả về văn hóa, kinh tế và xã hội.


KẾT LUẬN

12



×