Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả sớm điều trị ung thư vòm mũi họng giai đoạn IIIVB tại bệnh viện Ung bướu Cần Thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 95 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vòm mũi họng là một trong mười bệnh ung thư hay gặp ở Việt
Nam. Bệnh là mối quan tâm từ lâu của các nhà dịch tễ học, miễn dịch sinh
học phân tử, sinh học và lâm sàng. Vì đặc điểm bệnh sinh của chúng thường
liên quan đến các yếu tố môi trường, tính di truyền cũng như với tình trạng
đáp ứng miễn dịch của bệnh nhân, tập quán thói quen và virus. Các nghiên
cứu cho thấy bệnh có đặc điểm vùng, trên thế giới hình thành 3 khu vực địa lý
có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau: khu vực có tỷ lệ mắc bệnh cao là vùng châu Á,
nước có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore với
tần suất 30-80 người/100.000 dân . Khu vực có tỷ lệ mắc bệnh trung bình và
có xu hướng tăng là vùng Bắc Phi, các nước Đông Nam Á như: Malaysia,
Indonesia, Philippine, Thái Lan và Việt Nam có tỷ lệ mắc là

5-

15/100.000 dân. Khu vực có tỷ lệ mắc bệnh thấp như Châu Âu, Bắc Mỹ có tỷ
lệ mắc bệnh là 1-5/100.000 dân .
Ở Việt Nam, ung thư vòm mũi họng là bệnh đứng đầu trong các ung
thư đầu mặt cổ. Tại Hà Nội ung thư vòm mũi họng xếp hàng thứ 6 với xuất độ
chuẩn theo tuổi 6,9/100.000 dân .Tại Thành Phố Hồ Chí Minh, ung thư vòm
mũi họng đứng hàng thứ 6 với tỷ lệ mắc bệnh chuẩn theo tuổi là 4,8/100.000
dân . Tại Cần Thơ, ung thư vòm mũi họng xếp hàng thứ 9 ở nam giới với xuất
độ chuẩn theo tuổi là 3,1/100.000 dân .
Ung thư vòm mũi họng thường được phát hiện giai đoạn muộn vì vị trí
giải phẫu khoang vòm họng nằm ở vị trí cao, sâu nên khó khám, các triệu
chứng của ung thư vòm mũi họng là triệu chứng “vay mượn” các cơ quan kế
cận như triệu chứng thần kinh, hạch cổ, đặc biệt là triệu chứng tai, mũi, họng.
Vì thế bệnh nhân đến khám chủ yếu ở giai đoạn muộn. Tại Bệnh viện K từ
2007-2011 có 4508 trường hợp ung thư vòm mũi họng điều trị, có đến 53,7%


ung thư vòm mũi họng được chẩn đoán ở giai đoạn III, IV .


2

Xạ trị là phương pháp điều trị chính và chủ yếu của ung thư vòm mũi
họng nhưng tỷ lệ thất bại do tái phát khá cao. Từ thập niên 80 việc phối hợp
hóa xạ trị đồng thời làm tăng tỷ lệ đáp ứng và kiểm soát bệnh tại chỗ tại vùng.
Tuy nhiên sự phối hợp này cũng tăng tỷ lệ độc tính điều trị cho bệnh nhân .
Trong nước có nhiều công trình nghiên cứu điều trị ung thư vòm mũi
họng bằng xạ trị đơn thuần hay phối hợp hóa xạ trị đồng thời. Bệnh viện Ung
bướu Cần Thơ đã có máy xạ trị Cobalt 60 và áp dụng hóa xạ trị đồng thời từ
năm 2010. Mỗi năm có khoảng 40 trường hợp ung thư vòm mũi họng được
điều trị xạ trị cũng như hóa trị đồng thời. Tuy nhiên ở Cần Thơ chưa có đề tài
nào nghiên cứu về vấn đề này. Với bác sĩ chuyên ngành tai - mũi - họng, tôi
muốn tìm hiểu để có thể góp phần trong công tác phát hiện, chẩn đoán và tư
vấn cho bệnh nhân nhằm giảm tỷ lệ điều trị muộn. Nay chúng tôi tiến hành
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả sớm
điều trị ung thư vòm mũi họng giai đoạn II-IVB tại bệnh viện Ung bướu
Cần Thơ” với các mục tiêu sau:
1. Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ung thư vòm mũi họng
giai đoạn II-IVB được điều trị tại bệnh viện Ung bướu Cần Thơ từ tháng
4/2013 - 6/2014.
2. Đánh giá kết quả sớm điều trị ung thư vòm mũi họng tại bệnh viện
Ung bướu Cần Thơ từ tháng 4/2013 - 6/2014.


3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược giải phẫu vùng vòm mũi họng
1.1.1. Cấu trúc giải phẫu vòm

Hình 1.1. Thiết diện đứng dọc cấu trúc vòm mũi họng
(Trích từ Bài giảng giải phẫu học tập 1)
1. Xoang bướm

6. Đốt đội

2. Mảnh nền

7. Mỏm nha C2

3. Tổ chức V.A

8. Loa vòi Eustache

4. Hố Rosenmuller

9. Khẩu cái cứng

5. Giới hạn dưới của vòm

10. Khẩu cái mềm

Vòm mũi họng là một khoang mở nằm ngay dưới nền sọ, phía sau hốc
mũi có kích thước trung bình 6 x 4 x 3cm, được bao phủ bởi một lớp biểu mô
trụ lát tầng chế tiết nhầy.
Phía trước tiếp giáp với hốc mũi qua cửa mũi sau 2 bên. Liên quan phía

trước với hốc mũi, hố mắt, xoang hàm và xoang sàng.


4

Thành trên (nóc vòm) hơi dốc về phía sau, liên tục với thành sau, được
hình thành bởi thân xương chẩm và mỏm nền xương bướm.
Thành sau là niêm mạc họng và các cân quanh họng, liên quan với
xương chẩm và đốt sống cổ 1, 2.
Các thành bên có loa vòi Eustache thông với tai giữa cách đuôi cuốn
mũi dưới 01cm, xung quanh loa vòi có tổ chức bạch huyết gọi là amiđan
Gerlach, phía trên gờ vòi nhĩ hai bên có hố Rosenmuller, xuất phát điểm
thường gặp nhất của ung thư vòm mũi họng (UTVMH)
Thành dưới vòm là phần trên của khẩu cái mềm, trải rộng từ bờ sau
xương vòm miệng đến bờ tự do của màng hầu mềm.
1.1.2. Sự dẫn lưu bạch mạch ở vòm mũi họng
Sự dẫn lưu bạch mạch của vòm mũi họng đổ vào hạch sau họng (khi
còn nhỏ) khi lớn lên thì chủ yếu đổ vào hạch cảnh trên. Vùng thấp của vòm
họng được dẫn lưu vào hạch cảnh trong nhóm trên và dưới cơ nhị thân. Hạch
dưới cơ nhị thân thường bị di căn và rất to gọi là hạch Kutner.
Hệ thống phân loại hạch cổ Robin.
Vùng đầu cổ có một mạng lưới bạch huyết rất phong phú, ung thư vòm
mũi họng cũng như các loại ung thư khác có thể di căn hạch ngay cả khi bệnh
ở giai đoạn rất sớm. Vì vậy việc nắm được giải phẫu bình thường của hạch cổ
là rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị ung thư đầu cổ.
Năm 1991 hệ thống phân loại hạch cổ Robin được đề xuất bởi nhóm
Memorial Sloan Kettering Cancer Group và được thông qua bởi ủy ban phẫu
thuật đầu cổ, tai mũi họng của Mỹ. Hệ thống này chia hệ thống hạch cổ thành
06 nhóm dựa trên ranh giới những cấu trúc có thể nhìn thấy được khi phẫu
thuật đầu cổ như: xương, cơ, mạch máu và dây thần kinh. Hệ thống hạch

Robin được chấp nhận rộng rãi bởi các nhà xạ trị khi điều trị ung thư đầu cổ.


5

Một số cấu trúc như mạch máu dây thần kinh không nhìn thấy rõ trên phim
chụp Computer Temograpphy Scanner (CT-Scan) và Magnetic Resonance
Imaging (MRI) vùng đầu cổ. Do đó xác định cấu trúc giải phẫu của các nhóm
hạch cổ trên phim CT-Scan và MRI là cần thiết cho các nhà xạ trị lập kế
hoạch điều trị tia xạ .
Năm 2003 hướng dẫn phân nhóm hạch cổ trên phim CT-Scan được
thông qua với sự đồng thuận cao của các học giả đến từ các tổ chức nghiên
cứu ung thư lớn như: European Organization for Research and Treatment of
Cancer (EORTC), Radiation Therapy Oncology Group (RTOG) , Nasopharyn
Cancer not differentiate (NCTC) .
Hệ thống phân loại hạch cổ theo Robin
Nhóm I:

Nhóm III: hạch cảnh giữa

Ia: hạch dưới cằm

Nhóm IV: hạch cảnh dưới

Ib: hạch dưới hàm

Nhóm V: hạch tam giác cổ sau

Nhóm II: hạch cảnh cao


Nhóm VI: hạch trước khí quản

Hình 1.2. Phân bố hạch vùng cổ theo Robin
(trích dẫn từ Principles and Practice of Radiation Oncology)


6

1.2. Tình hình ung thư vòm mũi họng và các yếu tố nguy cơ
1.2.1. Tình hình ung thư vòm mũi họng
- Thế giới:
Ung thư vòm mũi họng là một trong 10 loại ung thư thường gặp,
bệnh chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 0,8% các loại ung thư toàn thân, xuất độ
chuẩn theo tuổi 1,7/100.000 dân .
Tại Mỹ tỷ lệ mắc ung thư vòm mũi họng hàng năm là 0,8/100.000
dân ở nam và 0,3/100.000 dân ở nữ .
Tại châu Âu tỷ lệ mắc UTVMH hằng năm là < 2/100.000 dân và
các nước Nam Âu có tỷ lệ mắc cao hơn các nước Bắc Âu .
Ngay tại Trung Quốc mỗi năm cũng chỉ có tỷ lệ mắc bệnh ung
thư vòm mũi họng khoảng 2-3/100.000 dân trong khi đó ở Hồng Kông,
Quảng Đông có tỷ lệ mắc cao nhất từ 20-50/100.000 dân, nhất là người
sinh ra và lớn lên ở Quảng Đông .
- Tại Việt Nam, theo ghi nhận ung thư Thành Phố Hồ Chí Minh, ung
thư vòm mũi họng đứng hàng đầu trong các loại ung thư đầu mặt cổ, đứng
hàng thứ 6 ở cả 2 giới, tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 4,8/100.000 dân . Theo
ghi nhận ung thư tại Thành Phố Cần Thơ ung thư vòm mũi họng đứng
hàng thứ 9 ở nam giới, xuất độ chuẩn theo tuổi là 3,1/100.000 dân .
1.2.2. Các yếu tố nguy cơ liên quan ung thư vòm
Các nhà nghiên cứu thấy có 3 yếu tố chính góp phần trong bệnh sinh
ung thư vòm mũi họng cơ bản:

Yếu tố môi trường: sự ô nhiễm môi trường khói, bụi, hóa chất được xem
là yếu tố nguy cơ cao đối với ung thư vòm mũi họng, nhưng được nói đến
nhiều là yếu tố ăn uống. Qua nghiên cứu của Ho cho thấy tỷ lệ mắc bệnh cao
ở những người đánh cá ở Hông Kông so với những người làm công việc khác.
Tập quán ăn cá muối, chế độ ăn nghèo Vitamin, hoa quả được chứng minh


7

làm tăng tỷ lệ ung thư vòm mũi họng. Trong cá muối có chứa rất nhiều hàm
lượng Nitrosamin là chất gây ung thư trên thực nghiệm .
Virus Epstein Barr (EBV): đây là loại virus Herpès ở người, nó là tác
nhân gây bệnh lymphoma Burkitt ở trẻ em và UTVMH, người ta thấy
Epstein có mã di truyền trong Acid Deoxyribo Nucleic (ADN) được tìm thấy
tại tế bào biểu mô vòm mũi họng và các tế bào lympho B . Sự phối hợp giữa
vius Epstein-Barr và ung thư vòm mũi họng đã rất rõ ràng và được minh
chứng bằng phản ứng miễn dịch Immuno globulin Antigen/Viral Capsid
Antigen (IgA/VCA) và (Immuno globulin Antigen/Early Antigen (IgA/EA)
tăng cao ở người bị nhiễm virus Epstein-Barr, từ lâu hơn nữa sự tồn tại của
IgA, VCA, EA hiếm thấy ở người không bị ung thư vòm mũi họng .
Yếu tố di truyền: gần đây một số tác giả có báo cáo là những người
cùng huyết thống có khả năng cùng mắc bệnh ung thư vòm mũi họng nhiều
hơn so với các loại ung thư khác. Tỷ lệ này hay gặp ở thế hệ dọc (ông bà, cha
mẹ, con cái) hơn là thế hệ ngang (anh, chị, em). Tại Hông Kông số người bị
ung thư vòm mũi họng trong một gia đình chiếm 7,2%, ở Quảng Châu là
5,9%. Gần đây người ta cũng đề cập tới sự liên quan giữa ung thư vòm mũi
họng và Histocompatbility Antigen (HLA) cũng như nói đến nhiễm sắc thể
chiếm 6,3% .
Tỷ lệ tăng cao của kháng nguyên HLA-2 ở vị trí thứ nhất và sự thiếu hụt
ở vị trí thứ 2 của kháng nguyên BW 46 còn gọi là Sin 2, tạo điều kiện thuận

lợi cho ung thư vòm mũi họng xuất hiện các kháng nguyên hòa hợp tổ chức
(histocompatbility antigen-HLA) đối với ung thư biểu mô vòm mũi họng. Có
liên quan đến các yếu tố địa lý, tính mắc theo gia đình, những người mang
nhóm halotype đặc biệt, có những gen đặc hiệu mã hóa trên HLA đó là nhóm
A2, B16 và B17 .
1.3. Chẩn đoán ung thư vòm mũi họng
Chẩn đoán sớm đem lại kết quả thuận lợi trong điều trị bệnh nhân ung


8

thư vòm mũi họng. Mặc dù gần đây có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán ung thư
vòm mũi họng như nội soi, các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và chẩn đoán
huyết thanh hiện đại nhưng chỉ có khoảng 46,3% bệnh nhân ung thư vòm mũi
họng được phát hiện giai đoạn I-II .
1.3.1 Triệu chứng lâm sàng
Giai đoạn sớm:
Các triệu chứng sớm thường nghèo nàn, bệnh nhân không để ý và hay
nhầm với các bệnh lý tai mũi họng. Các triệu chứng thường là đau đầu thoáng
qua, nghẹt mũi thoáng qua hiếm khi chảy máu, các dấu hiệu này có tính chất
một bên và tăng dần, đôi khi xuất hiện hạch ở cổ ngay từ đầu, thường gặp
hạch góc hàm nhỏ, di động, không đau.
Giai đoạn muộn:
Các triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện sau 6 tháng kể từ khi xuất
hiện triệu chứng đầu tiên, do khối u phát triển tại chỗ và xâm lấn gây ra.
Các triệu chứng lâm sàng của bệnh phụ thuộc vào vị trí, mức độ xâm
lấn của khối u và tình trạng di căn xa.
Hạch cổ: đây là triệu chứng phổ biến nhất khiến bệnh nhân đi khám.
Thường gặp là hạch cổ cùng bên ở vị trí hạch cổ cao, đặc biệt là hạch cổ sau
trên (hạch cơ nhị thân) thường gặp nhất, phần lớn phát triển nhanh thành khối

hạch to, một số trường hợp có nổi hạch cổ hai bên. U ở trần vòm thường có
hạch cổ hai bên, u ở hố Rosenmuller thường có hạch cổ cùng bên. Nhưng đa
phần khi bệnh nhân đến khám, u lan rộng qua đường giữa, hay lan trần vòm
mũi họng .
Triệu chứng ở mũi: đây là dấu hiệu dễ bỏ qua hoặc chẩn đoán nhầm
sang bệnh lý khác. Biểu hiện nghẹt mũi một bên, thời kỳ đầu không thường
xuyên, thời gian sau nghẹt liên tục là do ung thư vòm lan bít cửa mũi sau,
kèm theo bệnh nhân có chảy máu mũi, xì ra nhầy lẫn máu do u hoại tử.


9

Khoảng 30% bệnh nhân có triệu chứng này , [40], .
Triệu chứng ở tai: triệu chứng thường gặp nhất là nghe kém do tràn
dịch tai giữa gây ra bởi tắc nghẽn vòi Eustache hay gặp kèm theo ù tai tiếng
trầm ở một bên, một số trường hợp chảy mủ tai do viêm tai giữa thanh dịch.
Triệu chứng ở mắt: ở giai đoạn muộn u xâm lấn rộng gây chèn ép tổn
thương dây thần kinh II, III, IV, VI, bệnh nhân biểu hiện nhìn đôi, lác mắt,
sụp mi, giảm thị lực.
Triệu chứng thần kinh: hay gặp ở giai đoạn muộn, phụ thuộc vào vị trí
xâm lấn của khối u. Tổn thương các dây thần kinh thường gặp là dây V, VI.
Các hội chứng thường gặp là:
Hội chứng khe bướm: liệt toàn bộ nhãn cầu do tổn thương các dây thần
kinh III, IV, VI và đau nhức vùng trán, ổ mắt do tổn thương nhánh mắt của
dây V.
Hội chứng đỉnh hố mắt: gây mù mắt do tổn thương ống thị giác.
Hội chứng đá - bướm hay hội chứng Zacod: liệt toàn bộ nhãn cầu, mù
mắt, liệt cơ nhai, mất cảm giác nữa bên mặt kèm theo điếc do tổn thương các
dây thần kinh II, III, IV, V, VI.
Hội chứng lỗ rách sau hay hội chứng Vernet: gây liệt họng, liệt màn

hầu, liệt thanh quản, liệt cơ ức đòn chũm, liệt cơ thang, mất cảm giác họng do
liệt các dây thần kinh IX, X, XI.
Hội chứng lồi cầu - lỗ rách sau hay hội chứng Collet - Sicard: gồm hội
chứng Vernet thêm liệt lưỡi do liệt các dây thần kinh IX, X, XI, XII.
Hội chứng Garcin: liệt 12 dây thần kinh sọ cùng bên với khối u .
Sự tiến triển ung thư vòm mũi họng
Khối u vòm họng không phát hiện sớm để điều trị kịp thời sẽ phát triển
tự nhiên theo các hướng liên quan với vị trí giải phẫu của vòm họng.
Phát triển ra trước: thông thường trong thể này khối u ở bờ trên cửa


10

mũi sau. Thường tắc mũi xuất hiện trước, nói giọng mũi, soi cửa mũi trước
thấy u sùi dễ chảy máu, u đẩy ra trước có thể gây lồi mắt
Phát triển ra phía sau: khối u có thể xâm lấn vào đốt sống cổ 1,2 làm
cứng gáy, không quay đầu được, không cúi đầu được
Phát triển xuống phía dưới: khối u lan về phía họng miệng, có thể nhìn
thấy khối u khi vén màn hầu lên, chúng ta thường gặp hội chứng Trotter gồm
có: đau dây thần kinh hàm dưới, khít hàm, điếc tai giữa, liệt màn hầu do sự
thâm nhiễm của tế bào khối u trực tiếp vào khoang màn hầu.
Phát triển ra ngoài: khối u có thể chui qua lỗ bướm khẩu cái và xâm
nhập hố chân bướm hàm gây ra tổn thương dây thần kinh hàm trên và gây
khít họng do tổn thương cơ nhai, khối u có thể phát triển dọc theo vòi nhĩ gây
ra viêm tai giữa hoặc xâm nhập hòm nhĩ và lan ra ống tai ngoài.
Phát triển lên trên: khối u có thể phát triển trực tiếp theo đường
xương, đi từ nóc vòm vào xoang bướm, mỏm xương đá, mảnh nền xương
chẩm, vào cánh lớn xương bướm, khối u có thể xâm lấn vào các dây thần
kinh gây ra các hội chứng liệt thần kinh .
1.3.2. Khám lâm sàng

Khám tổng quát đánh giá toàn trạng chung của bệnh nhân
Khám phát hiện hạch cổ di căn
Khám phát hiện các hội chứng tổn thương các dây thần kinh sọ não
Trước một bệnh nhân có những triệu chứng nghi ngờ và phải được
khám tỉ mỉ vòm mũi họng: soi vòm gián tiếp qua gương hoặc soi vòm bằng
ống soi (cứng, mềm). Qua soi vòm có thể thấy u vòm hoặc một tổ chức sùi
mủn nát, loét hoặc thâm nhiễm dễ chảy máu, đồng thời có thể sinh thiết khối
u làm chẩn đoán mô bệnh học.
Soi vòm bằng ống soi mềm: đây là phương pháp tốt nhất để đánh giá
tổn thương qua đó sinh thiết khối u một cách chính xác. Qua soi ống soi mềm


11

ta có thể phát hiện các bệnh tích khi còn nhỏ, thâm nhiễm, vết loét trợt nông ở
bề mặt niêm mạc . Soi bằng ống soi cứng: ống soi loại mũi xoang 0 o,30o, 70o.
Nội soi phóng đại để xem rõ, có thể thảo luận và hội chẩn.

Hình 1.3. Hình ảnh ung thư vòm mũi họng qua nội soi (trích dẫn từ
"Nasopharyngeal Carcinoma". Head and Neck Pathology)
Sinh thiết: Sinh thiết khối u vòm để chẩn đoán xác định ung thư vòm
mũi họng. Với đặc điểm vòm mũi họng nằm ở vị trí sâu, các tổn thương ở
dạng u sùi, hoại tử hay dạng thâm nhiễm, nên việc sinh thiết có thể bấm sinh
thiết nhiều lần mới có chẩn đoán kết quả mô bệnh học dương tính.
1.3.3. Cận lâm sàng
1.3.3.1. Chẩn đoán hình ảnh
Vai trò của chẩn đoán hình ảnh đối với ung thư vòm mũi họng là xác
định chính xác sự lan rộng của khối u nguyên phát.
- Chụp X quang qui ước: Chụp tư thế Blondeau và Hirtz. Trên phim
Blondeau chủ yếu đánh giá hình ảnh mờ khối xoang hàm một bên hoặc cả hai

bên, bờ xương thành xoang liên tục hay không liên tục, tổn thương mờ ở hốc
mũi.Trên phim Hirtz có thể thấy hình ảnh tăng vôi bất thường hoặc mất các


12

vân xương bình thường của
xương chân bướm hàm, tổn
thương rộng các lổ xương nền
sọ và mất tính liên tục của bờ
xương, tổn thương mờ các
xoang sàng. Tuy nhiên các dấu
hiệu trên chỉ có ý nghĩa định
hướng tổn thương.
- Chụp MRI đầu cổ: Hình ảnh
vòm mũi họng bình thường trên

Hình 1.4. Hình ảnh phim MRI vòm họng
bình thường trên T1 [ HYPERLINK \l
"_ENREF_81" \o "Perez Carlos, 2008
#137" 81]

chụp MRI: vòm họng có hình
chữ J đảo ngược về phía trước
là cửa mũi trước, phía dưới là
họng miệng, nóc vòm tiếp giáp
với sàn xoang bướm, phía sau
trên tiếp giáp với phần dốc
xương bướm. Đối với ung thư
vòm mũi họng, nhờ đặc điểm

đối quang của tổ chức phần
mềm ảnh của MRI ưu thế hơn
nhiều kỹ thuật khác trong chẩn
đoán và đánh giá giai

đoạn

bệnh.

Hình 1.5. Hình ảnh UTVMH giai đoạn T2

Chụp rất cao và có thể tạo hình

và hạch cổ di căn trên phim MRI.

ảnh trên nhiều mặt phẳng khác

[ HYPERLINK \l "_ENREF_81" \o "Perez

nhau nên hình MRI có giá trị

Carlos, 2008 #137" 81].

trong đánh giá tổn thương phần
Hình 1.6. Khối u vòm mũi họng xâm
lấn khoang cạnh hầu trên CT (trích
Principles and Practice of Radiation
Oncology) [85]



13

mềm, nó đặc biệt có giá trị khi chẩn đoán sự xâm nhiễm của tế bào ung thư
vào hệ thống bạch huyết ở vùng cổ. Chụp MRI cho các hình ảnh giải phẫu
9
chi tiết nhất ở T1, trong khi T2 cho ảnh có độ đối quang cao giữa các tổ chức
khác nhau, vì vậy cho phép nhận rõ giới hạn u và nhất là đánh giá xâm lấn tổ
chức phần mềm lân cận. Hình ảnh của ung thư vòm mũi họng trên phim chụp
MRI: Trên T1 khối u thường giảm tín hiệu ít và nếu tín hiệu tăng thì thường
không đồng nhất. Tổn thương giữa các phần mềm khác nhau của khối u có
thể thấy trên T1. Trên T2 các khối u thường hơi tăng tín hiệu (phù nề), đối
quang mạnh với tổ chức mở lân cận (mô mở tăng tín hiệu mạnh) . Chụp cắt
lớp điện toán đầu cổ: Chụp cắt lớp điện toán (CT-Scanner): đây là phương
pháp chụp hiện đại sử dụng tia X và hệ9scan[
thốngHYPERLINK
detetor thu thập
\l tín hiệu khác
"Laura
N. Carle,
nhau của từng điểm trong cơ thể sau đó"_ENREF_66"
tái tạo lại hình \o
ảnh
theo từng
lớp cắt.
2012 #75" 66] [ HYPERLINK \l
Phương pháp này có có thể xác định chính xác hình ảnh khối u ở vòm mũi
"_ENREF_66" \o "Laura N. Carle,
họng: kích thước, vị trí, sự lan rộng của2012
khối#75"
u và66]

tổn thương hạch vùng, nó
đặc biệt có giá trị khi đánh giá tổn thương xương nền sọ. Chụp CT - Scan
góp phần quan trọng trong đánh giá giai đoạn bệnh, tiên lượng bệnh, giúp các
nhà xạ trị lập kế hoạch điều trị tia xạ và theo dõi sau điều trị .
PET/CT: có vai trò trọng chẩn đoán chính xác giai đoạn bệnh, tầm soát
tốt di căn xa. Đồng thời giúp đánh giá chính xác thể tích xạ trị trong lúc lập kế
hoạch mô phỏng, tối ưu hóa trên mô khối u và hạn chế liều trên mô lành .
Siêu âm vùng cổ: nhầm phát hiện các tổn thương hạch vùng cổ. Siêu
âm Doppler để khảo sát mạch cảnh, mạch sống cổ khi nghi ngờ UTVMH
xâm lấn phần mềm thành bên họng, tổ chức phần mềm quanh bó mạch cảnh.
1.3.3.2. Xét nghiệm máu
Xét nghiệm huyết học: đánh giá toàn trạng bệnh nhân qua công thức


14

máu gồm: Hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết sắc tố.
Xét nghiệm hóa học: đánh giá chức năng gan, thận, đường huyết...
Các phản ứng huyết thanh tìm hiệu giá kháng nguyên kháng thể với
virus Epstein-Barr (IgA/VCA) trước, trong và sau điều trị để đánh giá tiên
lượng bệnh nhân.
1.3.3.3. Chẩn đoán mô bệnh học
Chẩn đoán mô bệnh học là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán ung thư.
Ung thư vòm mũi họng là ung thư biểu mô phát sinh từ biểu mô bề mặt
và được xếp loại theo tổ chức y tế thế giới thành ba loại mô học là: carcinôm
tế bào gai sừng hóa (WHO typ I), carcinôm tế bào gai không sừng hóa (WHO
typ II) và carcinôm không biệt hóa (WHO typ III) .
Ba loại mô học vi thể được xác định dựa trên hình ảnh chiếm ưu thế là:
Carcinôm tế bào gai sừng hóa: ở các nước tỷ lệ ung thư vòm mũi họng
thấp như Mỹ, UTVMH sừng hóa chiếm khoảng 25% tất cả các loại ung thư

biểu mô vòm mũi họng và hiếm khi xảy ra ở các bệnh nhân dưới 40 tuổi. Tuy
nhiên ở Việt Nam loại này chiếm tỷ lệ rất thấp .
Carcinôm tế bào gai không sừng hóa: có ít hoặc không sừng hóa, bao
gồm các tế bào lát tầng và đường giới hạn rõ với mô đệm xung quanh. Trong
những trường hợp điển hình u không có phản ứng xơ với sự phát triển xâm
nhập của u, các u này có thể tạo thành các nang có hoại tử kết hợp và có thể
di căn tới vùng cổ. Loại này của ung thư biểu mô ít gặp nhất và chiếm
khoảng 12% tất cả các loại ung thư biểu mô vòm mũi họng tại Mỹ. Tại Việt
Nam loại này cũng chiếm tỷ lệ thấp .
Carcinôm không biệt hóa: chiếm khoảng 63% các loại ung thư biểu mô
vòm mũi họng tại Mỹ, trong khi ở Việt Nam hầu hết các ung thư biểu mô


15

vòm mũi họng thuộc loại này. Loại ung thư biểu mô không biệt hóa cũng là
loại chiếm tỷ lệ cao nhất ở các nhóm bệnh nhân. Các loại Rigaud và
Schmincke của ung thư biểu mô vòm mũi họng tương ứng với các u có các
hình thái phát triển xâm nhập của các tế bào hợp bào hay riêng lẻ, theo thứ
tự. Các cách đặt tên này không mang ý nghĩa sinh học của bệnh. Hình thái phát
triển của loại u này nói chung không gây nên phản ứng sinh xơ của túc chủ. Sự
thiếu phản ứng sinh xơ này có thể gây khó khăn trong chẩn đoán khi các mẫu
sinh thiết nhỏ vì u có thể bị xâm nhập lan tràn của các lymphô bào vào mô bào
lành tính và dễ bị bỏ qua. Tương tự như vậy, các di căn tới hạch cổ có thể
không gây nên phản ứng xơ trong hạch bị xâm nhập .
Xét nghiệm tế bào học: đây là xét nghiệm đơn giản dễ làm và có thể
thực hiện được ở cả hai vị trí khối u vòm mũi họng và hạch cổ.
Với khối u: quệt lấy tế bào bong ở vòm họng hoặc bấm sinh thiết khối
u rồi áp lam kính vào khối bệnh phẩm sau đó nhuộm và đọc tiêu bản.
Với hạch: dùng kim nhỏ chọc hút tế bào trực tiếp lấy tế bào từ khối

hạch nghi ngờ rồi phết lên lam kính, nhuộm và đọc.
Chẩn đoán tế bào học chỉ có tác dụng giúp định hướng chẩn đoán,
không có vai trò quyết định trong chẩn đoán. Nó có vai trò nhất định trong
sàng lọc phát hiện sớm ung thư, có thể thực hiện ở tuyến cơ sở.
1.3.4. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán ung thư vòm mũi họng không đơn giản, cần phối hợp nhiều
yếu tố: triệu chứng cơ năng, triệu chứng lâm sàng, các xét nghiệm cận lâm
sàng: nội soi vòm, chụp CT-Scan, siêu âm cổ và chẩn đoán mô bệnh học.
1.3.5. Chẩn đoán giai đoạn bệnh
Hệ thống phân loại của tổ chức chống ung thư quốc tế (UICC 2002:


16

Union for International Cancer Control) .
T (Tumor): Khối u nguyên phát
Tx: không thể đánh giá được khối u nguyên phát
T0: không có bằng chứng của khối u nguyên phát
Tis: ung thư biểu mô tại chỗ
T1: u giới hạn trong vòm mũi họng
T2: u xâm lấn ra phần mềm ngoài vòm mũi họng
2a: u xâm lấn khoang miệng, hốc mũi nhưng không lan vào
khoang cận hầu
2b: u xâm lấn khoang cận hầu
T3: u xâm lấn các cấu trúc xương, các xoang cạnh mũi
T4: u xâm lấn nội sọ, các dây thần kinh sọ não, hố thái dương, hạ họng
hốc mắt, khoang cơ nhai.
N (Node): hạch vùng
Nx: không thể đánh giá được hạch lymphô vùng
N0: không có di căn hạch lymphô vùng

N1: một hay nhiều hạch cùng bên, kich thước ≤ 6cm trên hố thượng đòn
N2: hạch cổ hai bên kích thước ≤ 6cm phía trên hố thượng đòn
N3: N3a: hạch có kích thước > 6cm
N3b: hạch trong hố thượng đòn
M (Metastasis): di căn xa
M0: chưa có di căn xa; M1: có di căn xa
Xếp giai đoạn theo TNM:
Giai đoạn 0:

Tis N0M0

Giai đoạn I :

T1N0M0


17

Giai đoạn II:

IIA: T2 N0 M0 ;IIB : T1,2a N1 M0; T2b N0,1 M0

Giai đoạn III:

T1,2a,2b N2M0; T3N0,1,2,M0

Giai đoạn IV:

IVA :T4 N0,1,2M0
IV B : T bất kỳ N3 M0

IV C : T bất kỳ Nbất kỳ M1

1.4. Điều trị
1.4.1. Xạ trị
Xạ trị là phương pháp điều trị chính và chủ yếu hiện nay của ung thư
vòm mũi họng. Xạ trị có thể điều trị khỏi 70-90% ung thư vòm mũi họng giai
đoạn I, II và 45% ung thư vòm mũi họng giai đoạn III và 15% ở giai đoạn IV
.
Đã hơn 100 năm từ khi Roentgen phát hiện ra tia X năm 1895 và đến
năm 1898 Ông bà Curie báo cáo phát hiện được Radium.
Đến năm 1934, Coutard đưa ra phác đồ xạ trị với phân liều làm nền
tảng cho kỹ thuật xạ trị đến nay.
Với dòng thời gian, các chất đồng vị phóng xạ càng được sử dụng
chính xác hơn, kỹ thuật tính liều và điều trị ngày càng tinh vi hơn. Với các
kiến thức về vật lý phóng xạ, sinh học phóng xạ và kế hoạch điều trị lâm
sàng, cùng với sự phát triển về việc sử dụng vi tính trong lập kế hoạch điều
trị cho bệnh nhân, ngành xạ trị ung thư góp phần đạt được thành quả điều trị
khỏi hơn 50% ung thư mới được chẩn đoán .
Mặc dù phẫu thuật và hoá chất đều có những đóng góp nhất định, song
xạ trị vẫn là phương pháp điều trị chủ yếu và hiệu quả nhất đối với ung thư
vòm mũi họng. Xạ trị được áp dụng cho tất cả các giai đoạn của bệnh, nhằm
mục đích triệt căn. Điều trị UTVMH có hai phương pháp xạ trị được áp dụng


18

đó là xạ trị từ xa (xạ trị ngoài) bằng nguồn năng lượng photon của máy
Cobalt-60 hoặc tia X từ máy gia tốc và xạ trị áp sát bằng các nguồn có hoạt
tính phóng xạ như Radium,Cesium, hạt vàng, iridium. Hiện nay hóa xạ trị
đồng thời là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho ung thư vòm mũi họng tiến

triển tại chỗ tại vùng .
Các phương pháp xạ trị bao gồm
Xạ trị ngoài (External Beam Radiotherapy, EBRT): hay còn gọi là xạ
trị từ xa thường xạ trị vùng vòm họng, đáy sọ và vùng hạch cảnh cao góc hàm
hai bên (nơi có nguy cơ di căn hạch cao) bằng các trường chiếu hai bên đối
xứng. Xạ trị hệ hạch cổ thấp bằng trường chiếu thẳng cổ thấp. Phân liều xạ trị
thông thường là 2Gy/ngày x 5 ngày/tuần. Tổng thời gian xạ trị thường 6,5-7
tuần. Với tổng liều từ 66 - 70 Gy. Khi u đã xâm lấn xương nền sọ hoặc não
cần chú ý giới hạn trên của trường chiếu vòm họng để tránh thiếu liều (đây là
nguyên nhân chính của thất bại tại chỗ) .
Xạ trị tại chỗ: UTVMH là loại ung thư đáp ứng khá tốt với xạ trị.
Xạ trị vùng: xạ trị các vùng hạch lân cận
Chỉ định:
Giai đoạn I, IIA (T1-2N0M0): xạ trị đơn thuần tại u (66Gy) và tia dự
phòng cho hệ thống hạch cổ (45-50 Gy).
Xạ trị kết hợp với hóa trị:
Giai đoạn II, III, IVA-B (T1N1-3;T2b-T4 N bất kỳ và M0): hóa xạ trị
đồng thời, liều xạ ≥ 70Gy cho u nguyên phát, 66-70 cho di căn hạch, liều dự
phòng cho hạch cổ 2 bên nơi không có hạch là ≥ 50Gy . Sau khi điều trị hết
đợt mà còn hạch, xét khả năng phẫu thuật vét hạch. Hóa trị hỗ trợ sau xạ trị


19

còn nhiều bàn cải chưa chứng minh cải thiện sống còn toàn bộ, tăng tỷ lệ độc
tính điều trị .
Giai đoạn IVC: hóa chất điều trị tạm bợ, phác đồ có platinum. Nếu đáp
ứng hoàn toàn. Xét khả năng xạ trị tại chỗ khối u và hạch cổ.
Xạ trị áp sát: do độc tính chất cường độ thoái giảm rất nhanh trong
khoảng cách rất ngắn của những đồng vị phóng xạ, xạ trị áp sát cho phép đưa

một liều bức xạ cao vào khối u mà không gây ảnh hưởng bức xạ đáng kể nào
đến những tổ chức bình thường quanh khối u. Thông thường xạ trị áp sát
được chỉ định trong các trường hợp như sau:
Những bệnh nhân có nguy cơ thất bại tại chỗ cao cần phải được điều trị
áp sát như một điều trị thường qui. Những bệnh nhân khối u tan không hoàn
toàn sau xạ trị ngoài triệt căn, bệnh nhân khi cần thiết phải nâng liều cao vào
vòm mũi họng. Thường sau xạ ngoài 60Gy sẽ tiến hành chỉ định nâng liều
vào khối u ở vòm bằng xạ trị áp sát, có thể nâng liều thêm từ 15-20Gy.
Liều xạ vào vòm mũi họng đạt từ 66 - 75Gy tuỳ thuộc giai đoạn bệnh,
mức độ lan rộng u và thể mô bệnh học.
Liều xạ vào hệ hạch cổ từ 50 - 70 Gy, tùy thuộc các mức độ di căn
hạch, từ N0 đến N3. Liều xạ dự phòng hạch toàn cổ đạt 50Gy .
Các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh hiện đại như chụp cắt lớp vi tính
(CT- Scanner), chụp cộng hưởng từ hạt nhân không những đóng vai trò quan
trọng trong đánh giá mức độ lan rộng của tổn thương, mà còn làm cơ sở để
lập kế hoạch điều trị, nhằm làm tăng kiểm soát tại chỗ, cải thiện sống thêm.
Với những ích lợi do kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh mới đem lại, việc
lập kế hoạch xạ trị theo không gian 3 chiều, xạ trị điều biến cường độ
(Intensity Modulated Radiation Therapy: IMRT), xạ trị dưới hướng dẫn hình


20

ảnh (IGRT) có ý nghĩa tăng sống còn, giúp tập trung liều xạ tối đa vào thể tích
khối u, giảm liều mô lành .
Chỉ định của xạ trị:
Xạ trị tận gốc: đối với những bệnh nhân ung thư vòm mũi họng giai
đoạn sớm, còn khu trú tại chỗ tại vùng, có chỉ số hoạt động động cơ thể tốt,
dung nạp với tốt với xạ trị, bệnh nhân chấp nhận xạ trị.
Xạ trị tạm bợ: đối với những bệnh nhân ung thư vòm mũi họng giai

đoạn muộn, nhầm điều trị giảm triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống
cho bệnh nhân vì thời gian sống còn ngắn.
Độc tính của xạ trị:
Tại chỗ:
Da: Gây phản ứng viêm da cấp rụng lông vào khoảng tuần lể thứ 3, nổi
hồng ban, phù nề và giảm bài tiết mồ hôi vào tuần thứ 4. Vào tuần thứ 5 xảy
ra tróc da khô, sau đó thành tróc da ướt để lộ lớp bì.
Các phản ứng da mạn: viêm da mạn, xuất hiện dưới tình trạng da teo,
mất màu, khô, mất lông, những mảng giãn mao mạch và thường đi kèm tình
trạng xơ hóa dưới da, tình trạng nặng hơn là hoại tử da sau một chấn thương
nhẹ, đó là vết loét sâu khó lành, đôi khi phải ghép da.
Đường hô hấp, tiêu hóa và thực quản
Các phản ứng cấp: xuất hiện sớm vào khoảng tuần lễ thứ hai. Bắt đầu là
các mảng nổi ban sau đó là các mảng tiết dịch với màng giả, đi kèm là triệu
chứng nuốt đau, nuốt khó.
Mất khẩu vị, khô miệng do giảm thiểu nước bọt cả về lượng và chất,
đặc biệt từ tuyến mang tai. Tình trạng khô miệng tạo điều kiện cho sâu răng,
do đó trước khi xạ trị phải chăm sóc răng cẩn thận, nhổ bỏ hết các răng sâu,


21

đắp lên cung răng bột tẩm Fluor mỗi ngày và lấy cao răng mỗi 6 tháng.
Các phản ứng mạn
Thường xuất hiện sau liều xạ trị trên 65Gy dưới dạng niêm mạc trắng,
teo với những mảng giãn mao mạch. Nguy cơ chính là hoại tử niêm mạc.
Viêm niêm mạc thực quản mạn biểu hiện bằng tình trạng teo hẹp.
Khớp: gây khít hàm do xơ cứng khớp hàm, xơ cứng đốt sống cổ.
Toàn thân: Mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, nôn ói, sức khỏe suy kiệt.
Tác dụng lên hệ tạo máu: tủy xương là mô thay đổi nhanh, sau xạ trị sự

giảm bạch cầu xảy ra vào ngày thứ 5, giảm tiểu cầu giảm vào ngày thứ 10 và
giảm hồng cầu vào tháng thứ hai .
1.4.2. Điều trị hóa trị:
Kết hợp hóa trị và xạ trị đồng thời nhằm tăng hiệu quả diệt tế bào. Xạ
trị tăng nhạy xạ khi tế bào ở cuối chu kỳ G2 và chu kỳ phân chia (Mitosis).
Kháng tia nhất cuối chu kỳ S, đầu chu kỳ G2. Trong xạ trị luôn nắm vững
nguyên tắc 5R để đảm bảo tính chất tăng nhạy xạ:
Sự sửa chữa tế bào (repair): tế bào càng biệt hóa càng có khả năng sửa
chữa tốt càng kháng xạ, tế bào kém biệt hóa thì nhạy xạ hơn. Hóa trị ức chế
những tế bào bị tổn thương do xạ trị sửa chữa, làm tăng hiệu quả diệt tế bào.
Sự tái lập dân số tế bào (repopulation): ảnh hưởng bởi sự tái lập nhanh
hay chậm.
Sự phân bố oxy khối bướu (reoxygenation): xạ trị làm khối bướu thu
nhỏ lại giúp tái phân bố máu và oxy trung tâm bướu tốt hơn, giúp thuốc hóa
trị tới bướu tốt hơn làm tăng hiệu quả của hóa trị và nhạy xạ.


22

Sự tái sắp xếp chu trình tế bào (redistribution): hóa trị làm tăng đồng bộ
hóa chu trình tế bào, đưa các tế bào ở chu kỳ G 0 đi vào chu trình sinh sản.
Đồng thời làm tế bào dừng lại nhiều ở chu kỳ cuối G2 và chu kỳ M.
Khả năng nhạy xạ của bướu (radiosensitivity): phù thuộc đặc điểm của
từng loại bướu. Tế bào càng kém biệt hóa càng nhạy xạ, tế bào càng sinh sản
nhanh càng nhạy xạ.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ về ngành dược học, cùng với các
thử nghiệm lâm sàng làm thay đổi chiến lược trong điều trị UTVMH, đó là
điều trị kết hợp hóa chất và xạ trị. Kết hợp hóa chất và xạ trị bao gồm: điều trị
hóa chất tân hỗ trợ trước, hóa chất hỗ trợ sau và hóa xạ trị đồng thời.
Điều trị hóa chất tân hỗ trợ (hóa trị dẫn đầu): mục đích là làm khu trú

tổn thương, tái phân bố oxy cho bướu, tạo thuận lợi cho lập kế hoạch xạ trị.
Điều trị hóa xạ trị đồng thời: hóa chất được đưa vào cơ thể ngay trong
quá trình xạ trị nhằm tăng hiệu quả của xạ trị.
Điều trị hóa chất hỗ trợ sau: điều trị hóa chất tiến hành sau khi xạ trị,
nhằm củng cố thêm xạ trị, giảm tỷ lệ thất bại di căn xa.
Hóa trị tạm bợ trong ung thư vòm mũi họng thường không có tỷ lệ đáp
ứng cao, tỷ lệ sống còn thấp .
Trước đây người ta điều trị hóa chất thường được sử dụng cho bệnh
nhân UTVMH giai đoạn muộn khi đã có di căn xa hoặc tái phát. Những năm
gần đây người ta đã đề cập nhiều đến phối hợp hóa xạ trị đồng thời trong
nhiều loại ung thư. Nhiều thử nghiệm lâm sàng với phối hợp của cisplatin
trong phác đồ kết hợp hóa xạ trị đồng thời ung thư vòm mũi họng tỏ ra hiệu
quả với việc làm nhỏ khối u nguyên phát và hạch di căn. Đến đầu thập kỷ 90
các nhà nghiên cứu thấy việc truyền hóa chất trực tiếp làm mất cơ hội điều trị


23

bệnh nhân đến khám muộn, họ chuyển sang nghiên cứu hóa xạ đồng thời và
thu được kết quả tốt. Hóa xạ đồng thời làm tăng nhạy cảm của tế bào ung thư
đối với tia, đồng thời hạn chế tái phát và di căn. Gần đây nhiều thử nghiệm
lâm sàng sử dụng hóa xạ trị bổ trợ sau hóa trị đồng thời đem lại sự kiểm soát
tại chỗ, kéo dài thời gian sống thêm, hạn chế tái phát và di căn. Nhưng vấn
đề này chưa được thống nhất và còn nhiều bàn cải .
Ung thư vòm mũi họng, đặc biệt là thể không biệt hóa
(Undifferentiated Carcinoma Nasopharyngeal Type: UCNT) được xem là
loại ung thư nhạy cảm không chỉ với xạ trị mà còn cả với hóa trị, cả giai đoạn
tiến triển tại chỗ, tại vùng cũng như những trường hợp tái phát hay di căn.
Mặc dù tỷ lệ kiểm soát tại chỗ và tỷ lệ sống thêm đạt rất cao đối với các ung
thư vòm mũi họng (thể không biệt hóa) giai đoạn T1, T2, N0, N1 sau xạ trị

đơn thuần, thế nhưng với các tổn thương giai đoạn muộn thì tỷ lệ sống thêm
5 năm rất kém, chỉ từ 10 - 40% .


24

Thuốc sử dụng trong nghiên cứu là :
Cisplatin.
Tên khoa học là: Diammin-dichloro-platinum
Dạng thuốc: lọ tiêm 50mg
Tai biến và độc tính
Độc trên thận: có liên quan với liều. Khi bị suy thận thuốc sẽ bị tích
lũy, do đó cần phải giảm liều, ngoài ra ure và creatinin máu sẽ tăng.
Tác dụng phụ gây độc trên thính lực, có thể giảm hoặc mất thính lực.
Càng dùng lập lại thì tỷ lệ độc tính trên tiền đình ốc tai càng cao và mức độ
điếc càng nặng.
Do thuốc ức chế tủy xương dẫn đến giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu,
thiếu máu, tăng dần đến tuần thứ 3, đến tuần thứ 5- 6 thì phục hồi trở lại.
Buồn nôn và nôn: hầu như xảy ra đối với tất cả bệnh nhân sau khi
truyền hóa chất từ 1-4 giờ.
Bệnh thần kinh ngoại vi như mất cảm giác, kém nhạy cảm xảy ra khi
dùng lâu từ 4-7 tháng. Các phản ứng quá mẫn có thể xảy ra ngay sau tiêm:
phù mặt, khó thở, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp.
Chống chỉ định tuyệt đối cho người bị dị ứng với cisplatin, phụ nữ có
thai hoặc cho con bú. Chống chỉ định tương đối cho người có tổn thương chức
năng thận (nguyên tắc nếu creatinin tăng gấp 2 lần bình thường thì không
dùng cisplatin), có tổn thương thính giác.
1.4.3. Vai trò của phẫu thuật
Phẫu thuật có vai trò rất hạn chế trong điều trị UTVMH do khối u vòm
mũi họng là tổ chức nằm sâu dưới nền sọ, liền kề với rất nhiều cơ quan quan

trọng của cơ thể nên gây nhiều tai biến khi phẫu thuật. Hơn nữa xạ trị rất có


25

đáp ứng trong ung thư vòm mũi họng, phẫu thuật chỉ có ý nghĩa cắt bướu tồn
lưu, hay hạch tồn lưu sau khi xạ tri. Giúp cải thiện sống còn không bệnh và
sống còn toàn bộ .
1.5. Một số nghiên cứu ung thư vòm mũi họng trên thế giới và Việt Nam
1.5.1. Trên Thế giới
Chan và cộng sự (Hông Kông) (2002) đã so sánh kết quả điều trị hóa xạ
trị kết hợp với xạ trị đồng thời 47 bệnh nhân ung thư vòm mũi họng giai đoạn
III, IV với liều Cisplatin 100mg/m2 ngày 1, 22, 44 của quá trình xạ trị, điều trị
hóa chất bổ trợ Cisplatin, điều trị hóa chất bổ trợ Cisplatin 80mg/m 2 ngày 1 và
5FU 1g/ngày x 4 ngày vào ngày 71, 99, 127. Kết quả nhóm điều trị này được
so sánh với 47 bệnh nhân ung thư vòm mũi họng xạ đơn thuần từ năm 19901993. Kỹ thuật xạ trị là giống nhau giữa 2 nhóm. Tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn ở
nhóm hóa xạ trị đồng thời và nhóm xạ trị đơn thuần tương ứng là 96% và
79% (p=0,013). Với thời gian theo dõi trung bình là 26 tháng. Thời gian sống
thêm 3 năm không bệnh, sống thêm toàn bộ, sống thêm không tái phát u, sống
thêm không tái phát hạch, sống thêm không di căn giữa 2 nhóm tương ứng là
62% và 44% (p=0,048); 65% và 69% (p=0,93); 87% và 75% (p=0,059); 95%
và 80% (p=0,026); 75% và 70% (p=0,84). Các tác giả nhận thấy rằng hóa xạ
phối hợp trong điều trị UTVMH làm tăng kiểm soát tại chỗ, tại vùng. Tuy
nhiên trong nghiên cứu này xạ trị phối hợp không làm tăng thời gian sống
thêm cũng như tỷ lệ kiểm soát di căn xa . Lin và cộng sự (Đài Loan) (2003)
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng pha III trên 284 bệnh nhân ung thư vòm mũi
họng giai đoạn III, IV điều trị từ tháng 11 năm 1993 đến tháng 4 năm 1999,
143 bệnh nhân được xạ trị đơn thuần, 141 bệnh nhân được điều trị hóa xạ
đồng thời với Cisplatin 20mg/m2/ngày và 5FU 400mg/m2/ngày truyền liên tục



×