Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.05 KB, 35 trang )

Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Lớp: Nghiệp vụ ngân hàng trung ương 9
Chủ đề: Các biện pháp kiểm soát lạm phát của ngân hàng
nhà nước Việt Nam giai đoạn 2000-2010
Nhóm thực hiện: Nhóm 9
Thành viên:
Đinh Thế Phú
Hà Thị Bích Phương
Bùi Trí Quân
Lê Thị Như Quỳnh
Tạ Hồng Sơn
Bùi Trọng Tài

1


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

MỤC LỤC

Chương I: Điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu kiềm chế lạm
phát của NHNN.
1.1.KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT
1.1.1.Khái niệm lạm phát
1.1.2.Đo lường lạm phát
1.1.3.Phân loại lạm phát
1.1.4.Nguyên nhân lạm phát
1.1.5.Tác động của lạm phát
1.2.ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CÚA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT


1.2.1.Tổng quan chính sách tiền tệ
1.2.1.1.Khái niệm chung về chính sách tiền tệ
1.2.1.2.Mục tiêu chính sách tiền tệ
1.2.1.3.Các công cụ của chính sách tiền tệ

Chương II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu
kiềm chế lạm phát ở Việt Nam.
2.1. GIAI ĐOẠN 2000 - 2003
2.1.1. Diễn biến lạm phát:
2.1.2. Nguyên nhân
2.1.3. Biện pháp của NHNN
2.2. GIAI ĐOẠN 2004 – 2006
2.2.1. Diễn biến của lạm phát
2.2.2. Nguyên nhân
2.2.3. Giải pháp của NHNN
2


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

2.3. GIAI ĐOẠN NĂM 2007
2.3.1. Diễn biến lạm phát
2.3.2. Nguyên nhân
2.3.3. Biện pháp của NHNN
2.4. GIAI ĐOẠN NĂM 2008
2.4.1.Diễn biến lạm phát
2.4.2. Nguyên nhân
2.4.3. Biện pháp của NHNN
2.5. GIAI ĐOẠN 2009
2.5.1..Diễn biến lạm phát

2.5.2.Nguyên nhân giảm tỉ lệ lạm phát
2.5.3. Biện pháp của NHNN
2.6. GIAI ĐOẠN 2010
2.6.1.Diễn biến lạm phát
2.6.2. Nguyên nhân lạm phát
2.6.3. Biện pháp của NHNN
2.7. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT CỦA
NHNN TRONG GIAI ĐOẠN 2000 – 2010

3


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

CHƯƠNG I
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN
VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1.1.KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT
1.1.1.Khái niệm lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức gía chung. Điều
này không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải
tăng lên theo cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Một nền kinh
tế có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm, nếu như giá cả của
các hoàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lam phát cũng có thể định nghĩa là sự duy giảm sức mua trong nước của
đồng nội tệ. Trong bối cảnh lạm phát thì một đơn vị tiền tệ chỉ có thể mua được
ngày càng ít hàng hóa và dịch vụ hơn. Hay nói một cách khác, khi có lạm phát,
chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều đồng nội tệ hơn để mua một giỏ hàng hóa và
dịch vụ cố định.
1.1.2.Đo lường lạm phát

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép
đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
-Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người
tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn
4


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

-Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu
-Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một
cá nhân so với thu nhập
-Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn
(thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn
-Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách
có lựa chọn.
-Chỉ số điều chỉnh GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội:
Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP
của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay
GDP thực
-Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI).
Thông thường, thì người ta thường sử dụng hai loại chỉ số giá cả đầu để tính
lạm phát, đặc biệt là CPI.
Cuối cùng, lạm phát thường được đo bằng chỉ số %, tức là tỷ lệ lạm phát (%)
giữa hai thời điểm t0 và t1 là bằng mức tăng giá cả hàng hoá bình quân giữa hai thời
điểm, chia cho giá ban đầu và nhân với tỷ lệ %:
Pt1 − Pto

Tỷ lệ lạm phát (t0 và t1 ) = Pto
x 100%

1.1.3.Phân loại lạm phát
Nếu phân loại lạm phát theo mức độ của tỷ lệ lạm phát, các nhà kinh tế
thường phân biệt 4 loại lạm phát: thiểu phát, lạm phát thấp, lạm phát cao (lạm phát
phi mã) và siêu lạm phát.
a.

Thiểu phát
Thiểu phát trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Không có tiêu chí
chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì được coi là
5


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm
một năm trở xuống được gọi là thiểu phát.
b.

Lạm phát vừa phải
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ dưới 10 phần trăm một năm.
Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước
được. Đó là mức lạm phát mà bình thường nền kinh tế phải trải qua và ít gây tác
động tiêu cực đến nền kinh tế

c.

Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)

Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ
số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm
phát.
d.

Siêu lạm phát

Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được
chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế
ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa
là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi
1.1.4.Nguyên nhân lạm phát
a.Theo trường phái tiền tệ
- Trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: ‘lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ’. Theo quan điểm của trường phái này thì cho rằng
lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
b.Theo trường phái Keynes
- Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tiềm năng. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi
6


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản xuất
được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Trong thực tế, khi xảy ra
lạm phát cầu kéo, thì lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng
kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá.


Hình 1.2 – Mô hình AD –AS giải thích lạm phát do cầu kéo
-

Lạm phát do chi phí đẩy

Ngay cả khi sản lượng chưa đạt đến tiềm năng nhưng vẫn có khả năng xảy ra
lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm phát này được gọi là lạm
phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp. Các
cơn shock giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ bản (xăng dầu,
điện...) là nguyên nhân chủ yếu khiến cho đường AS dịch chuyển lên trên. Tổng cầu
không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.

7


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Hình 1.3 – Mô hình AD –AS giải thích lạm phát do chi phí đảy

-

Lạm phát do tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Tỷ
giá giữa tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì
hàng hoá càng lên giá. Và đến lượt mình, giá hàng hoá kéo tỷ giá lên nhanh hơn,
gây ra tình trạng lạm phát. Suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có
thể quy về sự gia tăng của cung ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thoả
thuận với nhau rằng có yếu tố tâm lý trong khuynh hướng kéo hàng hoá lên theo

tỷ giá trong khi lạm phát đã hình thành và khuynh hướng này rất phổ biến trong
khu vực xuất nhập khẩu
1.1.5.Tác động của lạm phát
-Thứ nhất là làm cho tiền tệ không còn giữ được chức năng thước đo
giá trị
-Thứ hai, tiền tệ và thuế là 2 công cụ quan trọng nhất để nhà nước
điều tiết nền kinh tế đã bị vô hiệu hóa
-Thứ ba, phân phối lại thu nhập
-Thứ tư, kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hóa, bất động sản, vàng
bạc…gây ra tình trạng khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
-Thứ năm, xuyên tác bóp méo các yếu tố của thị trường -Thứ sáu, sản xuất
phát triển không đều, vốn chạy vào những ngành nào có lợi nhuận cao.
-Thứ bảy, ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày
càng giảm về ặt giá trị.
-Thứ tám, đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của
ngân hàng bị phá vỡ, ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong
xã hội.
8


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

-Thứ chín, đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về
hàng tiêu dùng và buộc nhân dân phải giảm khối lượng hàng tiêu dùng
1.2.ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CÚA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VỚI MỤC TIÊU KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1.2.1.Tổng quan chính sách tiền tệ
1.2.1.1.Khái niệm chung về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là hệ thống biện pháp của một nhà nước trong lĩnh vực
lưu thông tiền tệ, nhằm điều hành khối lượng cung và cầu tiền tệ bằng các biện

pháp như phát hành tiền, chống lạm phát, dự trữ pháp định và quản lí dự trữ ngoại
tệ, tái chiết khấu các kì phiếu và lãi suất, chính sách lãi suất... để đáp ứng kịp thời
nhu cầu giao dịch, ổn định sức mua của đồng tiền, phát triển sản xuất, kinh doanh
trong một giai đoạn nhất định
1.2.1.2.Mục tiêu chính sách tiền tệ
a. Về mục tiêu cuối cùng:
Mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ sự phát
triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở mức
mong muốn. Hiện nay hầu hết NH TW các nước đều theo đuổi mục tiêu cuối
cùng của CSTT là ổn định giá cả ở mức hợp lý, bởi vì suy cho cùng sự ổn
định giá cả sẽ hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
b. Về mục tiêu trung gian:
IMF đã chia mục tiêu trung gian thành 3 loại:
+ Mục tiêu trung gian là tổng tiền (M1 hoặc M2, hoặc D-tín dụng nền kinh
tế): Phản ứng chính sách trong mục tiêu tổng tiền là khi mức tăng tiền vượt mức
mục tiêu phải tăng lãi suất, và khi mức tăng tiền dưới mức mục tiêu phải hạ lãi
suất.
+ Mục tiêu trung gian là tỷ giá: Là điều hành CSTT hướng về tỷ giá mục
tiêu. Mục tiêu này thường được thực hiện trong điều kiện là nền kinh tế mở và
CSTT của nước chọn mục tiêu trung gian là tỷ giá phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
9


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

của nước neo tỷ giá. Phản ứng chính sách khi theo đuổi mục tiêu này là khi tỷ giá
thấp hơn so với mục tiêu thì phải tăng lãi suất, và ngược lại khi tỷ giá cao hơn mục
tiêu thì phải hạ lãi suất.
+ Mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường: Lựa chọn lãi suất là mục tiêu
trung gian đồng nghĩa với sự hạn chế tác động của sự biến động mức cầu tiền đến

tổng cầu của nền kinh tế. Khi NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là lãi suất thị
trường thì không thể đồng thời chọn tổng tiền là mục tiêu trung gian, do vậy khi đó
NHTW phải chấp nhận sự giao động tăng hoặc giảm tổng tiền để duy trì mức lãi
suất theo mục tiêu.
c. Mục tiêu hoạt động:
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ, nghĩa là NHTW có thể tác động
hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu
trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Cũng như mục tiêu
trung gian, mục tiêu hoạt động cũng được chia thành hai loại mục tiêu:
+ Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ: Nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất
ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng
+ Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ: Tức là kiểm soát tiền cơ bản
(MB), hoặc các cấu thành của nó, gồm Dự trữ quốc tế ròng, Dự trữ của các
NHTM, hoặc Net tài sản có trong nước trên bảng cân đối của NHTW.
1.2.1.3.Các công cụ của chính sách tiền tệ
Gồm có 6 công cụ sau:
a. Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung
ương đối với các Ngân hàng thương mại.
Khi NHTW cần tăng thêm lượng tiền cho lưu thông, họ sẽ hạ thấp lãi suất tái cấp
vốn xuống. Điều này khuyến khích các NHTM đến NHTW để vay vì giá cả tín
dụng giảm, mặt khác khối lượng tín dụng được cấp tăng lên. Ngược lại, khi NHTW
cần giảm khối lượng tiền trong lưu thông, họ sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn lên. Lúc
10


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

này, một mặt làm tăng chi phí tín dụng lên nhằm hạn chế các NHTM có ý định vay,
mặt khác làm giảm khối lượng tín dụng được cấp xuống nếu NHTM vẫn quyết
định vay. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là người cho vạy cuối cùng, kiểm tra

chất lượng tín dụng của các ngân hàng thương mại, bơm tiền ra lưu thông theo
mức độ đã được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh
tế.
b. Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô
hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho
vay) của các Ngân hàng thương mại.
Thông qua công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động tới cả khối lượng
và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó tác động đến khả năng cung
ứng tín dụng và khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại. Khi lạm
phát cao, NHTW nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng cho vay và khả năng thanh
toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ giảm), khối lượng tín dụng
trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất tăng, đầu tư giảm do đó
tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Ngược lại nếu ngân hàng
trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả năng tạo tiền, thì cung về
tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên, khối lượng tín dụng và khối
lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu hướng mở rộng khối lượng
tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm
phát tăng). Công cụ DTBB mang tính hành chính áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực
và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong
trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi các công cụ thị trường mở tái
chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều hoà mức cung tiền tệ cho nền
kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ
lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt
khác khi sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc
11


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một

ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không
ngừng cũng gây nên tình trạng không ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử
dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát
ít được sử dụng trên thế giới (đặc biệt là những nước phát triển , có nền kinh tế ổn
định)
c. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương
mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ.
Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, NHTW có thể thu hẹp tín
dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát. Ngược lại, khi
NHTW mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, dẫn tới tăng khối lượng tiền tệ, mở
rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả năng thanh khoản
của các ngân hàng thương mại. Trong nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng trung
ương điều khiển cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng thông qua "giá cả" mua
và bán trái phiếu. Tất cả những cuộc can thiệp vào khối lượng tiền bằng công cụ
thị trường mở đều được tiến hành dường như là lặng lẽ và vô hình, "không can
thiệp thô bạo", điều khiển mạnh mà không chứa đựng "một chút mệnh lệnh". Đây
là công cụ cực kỳ quan trọng của NHTW, và được coi là vũ khí sắc bén nhất đem
lại sự ổn định kinh tế nói chung, ổn định lạm phát nói riêng.
d. Công cụ lãi suất tín dụng: là tổng thể những chủ trương chính sách và
giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường
tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay, cầm cố
giấy tờ có giá....) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng, NHTW thực hiện quản
lý gián tiếp lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Khi
muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế,
phù hợp với mục tiêu, chính sách tiền tệ từng giai đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông
qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ chức tín dụng.
12



Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động
đến lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế.
Thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với
nền kinh tế, như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi
suất, trần lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch giữa lãi suất bình quân… Thực chất
là NHTW quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ
chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức
tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về
kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý.
Vì vậy, lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền
tệ trong việc điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Lãi suất không trực
tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhưng sự tăng hay giảm
lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm suản suất. Do đó nó là một công
cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm.
e. Công cụ hạn mức tín dụng: khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của
các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung
ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền
kinh tế.
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp
mang tính hành chính của NHTW để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của
hệ thống tổ chức tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra. Qua sử dụng hạn mức tín dụng,
NHTW điều chỉnh khả năng tạo tiền của các NHTM phù hợp với trình độ phát
triển của nền kinh tế. Tránh tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu
thông, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho từng NHTM. NHTM chỉ
được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng được quy định.
Nếu NHTM cho vạy vượt quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị sử phạt.
13



Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu
thông. Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, NHTW có thể kiểm soát khá chặt chẽ
tổng lượng tiền trong cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao và các công cụ gián tiếp khác tỏ
ra kém hiệu quả.
f. Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ
và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan
hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu
ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước
Nhằm phát huy tính hiệu quả trong việc ổn định thị trường tài chính và nâng
cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá nước ngoài,
việc lựa chọn một chính sách tỷ giá hối đoái thích hợp cũng đã và đang là vấn đề
được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tăng trưởng có nhiều dấu hiệu
chưa bền vững và tình hình lạm phát gia tăng. Về mặt lý thuyết, tỷ giá hối đoái tác
động đến tăng trưởng kinh tế thực thông qua các nhân tố của sản xuất (vốn và lao
động), đầu tư và tăng năng suất lao động. Điều này được phản ánh qua mức tăng
trưởng thương mại quốc tế. Đồng thời, tỷ giá hối đoái thay đổi cũng làm thay đổi
mức giá tương đối của hàng hoá và dịch vụ bằng đồng tiền trong nước và đồng tiền
nước ngoài. Do đó, tỷ giá sẽ có ảnh hưởng nhất định đến tăng trưởng kinh tế và ổn
định vĩ mô, nhưng mức độ ảnh hương phụ thuộc nhiều cơ cấu hàng xuất - nhập
khẩu và vào cơ chế tỷ giá được áp dụng tại từng thời kì.

14



Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CSTT CÚA NHNN VỚI MỤC TIÊU KIỀM
CHẾ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2010
2.1. GIAI ĐOẠN 2000 - 2003
2.1.1. Diễn biến lạm phát:
Lạm phát trong giai đoạn này khá ổn định ở mức thấp thậm chí giảm phát ở
mức -0.5%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu phục hồi trở lại sau khi chịu
ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 nhờ có việc áp dụng các
biện pháp thông qua nới lỏng tín dụng và các biện pháp khuyến khích đầu tư của
nhà nước. Chi tiêu công của chính phủ tăng mạnh qua các năm và thâm hụt ngân
sách của chính phủ ở gần mức 5% GDP (con số mà các tổ chức quốc tế khuyến cáo
là mức mất an toàn). Cán cân thương mại quốc tế trở lại tình trạng thâm hụt từ năm
2002.
15


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

2.1.2. Nguyên nhân:
Nguyên nhân từ cú sốc cầu
Giá hàng nông sản trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là giá lương
thực, cà phê, hạt tiêu, hạt điều làm thu nhập của nông dân giảm mạnh, ảnh hưởng
tới sức mua hàng công nghiệp. Cơ cấu tăng trưởng kinh tế giữa khu vực công
nghiệp và nông nghiệp là không hợp lý, làm cho thu nhập và theo đó là sức mua
của nông dân, là bộ phận dân cư lớn nhất nước không tăng lên được .
Hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam chất lượng thấp khó cạnh tranh tới hàng
nhập khẩu trong khi hàng nhập khẩu đặc biệt từ Trung Quốc tràn ngập thị trường
thì cầu hàng nội địa sụt giảm mạnh. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ Châu Á , trong khi nước ta đang duy trì ổn định tỉ giá thì các đồi tác thương
mại trong khu vực phá giá đồng tiền làm cho nhiều mặt hàngtrong nước đắt hơn
hàng ngoại, chúng ta lâm vào thế cạnh tranh không thuận lợi so với bên ngoài.
Điều đó dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại từ năm 2002
Một hệ quả khác của cuộc suy thoái và giảm phát toàn khu vực đó là đầu tư
sụt giảm mạnh với đầu tư nước ngoài giảm trung bình khoảng 24%/ năm. Điều này
cũng tác động tiêu cực đến tổng cầu
Nguyên nhân tiền tệ
Có một điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là mặc dù tiền tệ và tín dụng
tăng rất nhanh (30-40%) và tỉ giá VNĐ phá giá mạnh khoảng 36% trong giai đoạn
1997-2003 nhưng lạm phát vẫn khá thấp. Mối tương quan giữa tiền tệ/ tín dụng và
lạm phát thể hiện mối tương quan yếu trong giai đoạn này. Như vậy có thể đánh
giá trong giai đoạn này thực thi chính sách tiền tệ sẽ có hiệu quả hơn cho mục đích
tăng trưởng nền kinh tế đặc biệt trong tình trạng lạm phát tương đối thấp.
2.1.3. Biện pháp của NHNN

16


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Trong hoàn cảnh lạm phát thấp, tổng cầu ổn định, tương quan giữa tiền tệ và
lãi suất nhỏ thì việc thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ có tác động tích cực đến
sản lượng của nền kinh tế và vẫn giữ lạm phát ở mức hợp lý
Công cụ lãi suất
Năm 2000, NHNN bỏ lãi suất trần, chuyển sang điều hành theo lãi suất cơ
bản, tạo điều kiện cho cung- cầu về vốn theo cơ chế thị trưòng và các NHTM chủ
động hơn trong kinh doanh. Ngày 24/5/2001 TTCP đã ban hành Nghị quyết số
05/NQ-CP quy định lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước giảm xuống
còn 5,4%/ năm. Riêng lãi suất cho vay ngân hàng phục vụ người nghèo đồi với khu

vức III là 5,4%/năm và đối với khu vực khác là 6%/năm .
Chính phủ và NHNN ban hành các văn bản nhằm nới lỏng các điều kiện vay
vốn cho khu vực nông thôn. Qua đó làm tăng cung tiền, thúc đẩy đầu tư và sự lưu
chuyển của vốn trong nền kinh tế.
2.2. GIAI ĐOẠN 2004 – 2006
2.2.1. Diễn biến của lạm phát
Lạm phát trong giai đoạn này có xu hướng tăng cao sau giai đoạn 2000-2003
ổn định ở mức thấp trở lại với tỉ lệ 9.5% trong năm 2004 cao hơn so với mục tiêu
6% mà chính phủ đặt ra.
2.2.2. Nguyên nhân:
Nguyên nhân từ cầu kéo
Mặc dù thâm hụt ngân sách so với GDP đã thấp hơn so vói thời kì trước
nhưng xét về tuyệt đối thì thu chi ngân sách thể hiện xu hướng tăng đều và có tác
động làm tăng tổng cầu đẩy giá cả tăng.
Ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 đã qua, nền kinh tế
thế giới phục hồi trở lại kéo tổng cầu lên, đặc biệt là cầu mặt hàng nông sản xuất
khẩu có xu hướng tăng mạnh, thâm hụt cán cân vãng lai giảm. Các nhà đầu tư cả
trong và ngoài nước lạc quan với sự phát triển của nền kinh tế tăng khối lượng đầu
tư đặc biệt giai đoạn này thấy rõ sự tăng lên trong vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.
Các yếu tố này làm gia tăng tổng cầu áp lực lạm phát xuất hiện.
17


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Nguyên nhân từ cú sốc cung
Cú sốc cung do sản lượng sản xuất sụt giảm mạnh do ảnh hưởng thiên tai và
bệnh dịch. Đặc biệt với nhóm hàng thực phẩm chỉ số giá tăng mạnh, nếu CPI
chung chỉ tăng 9.5% thì giá lương thực thực phẩm tăng 15.5% và lạm phát ph thực
phẩm là 5.2% năm 2004

Nguyên nhân tiền tệ
Mối quan hệ giữa tiền tệ tín dụng và lạm phát đã cho thấy mối tương quan rõ
rang, khi tiền tệ và tín dụng tăng thì lạm phát cũng tăng theo. Ngoài ra tiền lương
danh nghĩa tăng và phát hành tiền mới thay thế làm cho tốc độ chu chuyển tiền
giảm NHNN bơm ra thị trường một số tiền lớn để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
đang trên dà tăng trưởng

2.2.3. Giải pháp của NHNN
NHNN lại bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất tăng lên chút
ít và giữ cố định tỷ giá từ năm 2004. Bộ Tài chính và NHNN cũng tiếp tục can thiệp
vào lãi suất bằng những biện pháp gián tiếp thay vì sử dụng chính sách tiền tệ
(Camen, 2006).
Mặc dù có thể thấy tốc độ tăng trường tín dụng đã kìm lại không cho tăng
nhưng vẫn nằm ở mức cao và các biện pháp này chỉ có tác dụng làm lạm phát giảm
nhẹ chứ không thể đưa lạm phát về mức thấp.
2.3. GIAI ĐOẠN NĂM 2007
2.3.1. Diễn biến lạm phát
Lạm phát năm 2007 có mức tăng đột biến, tăng 12,63%, cao hơn mức 6.6%
của năm 2006, đồng thời lạm phát bình quân cũng tăng từ mức 7,45% lên mức
8,3%.
Điều đặc biệt là nếu như năm 2006 lạm phát CPI và lạm phát LTTP giảm
18


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

còn lạm phát phi LTTP lại tăng thì năm nay cả ba chỉ tiêu là lạm phát CPI, lạm
phát LTTP và lạm phát phi LTTP đều có mức tăng cao hơn cùng kỳ.
Bên cạnh đó, khác với các năm trước, nếu như CPI tăng mạnh nhất chủ yếu
tập trung vào tháng 1 và tháng 2 là các tháng trong dịp Tết Nguyên đán thì năm

nay lạm phát lại tăng cao nhất vào tháng 11 (1,23%) và tháng 12 (2,91%), cao hơn
cả mức 1,05% của tháng 1/07 và mức 2,17% của tháng 2/07.

2.3.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân cầu kéo
Tổng cầu tăng mạnh do ảnh hưởng tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Vốn đầu
tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 khỏang 461,9 nghìn tỷ đồng, tăng +15,8%;
riêng, khu vực Nhà nước chiếm 43,3% tổng vốn đầu tư, tăng: + 8,1%, cũng các chỉ
tiêu trên lần lượt với Khu vực ngoài Nhà nước: 40,7% và + 24,8%, với khu vực có
FDI là : 16% và +17,1%.
Nguyên nhân từ cú sốc cung: chi phí đẩy
Giá các đầu vào sản xuất tăng mạnh. Giá xăng dầu: Trong năm 2007 đã điều
chỉnh tăng giá xăng, than và điện với chỉnh giá xăng dầu 5 lần, trong đó tăng 3 lần
và giảm 2 lần, tính chung mức tăng 23,8%, cao gấp 2 lần so với mức tăng 10,5%
của năm 2006; làm tăng chi phí đầu vào của nhiều ngành
19


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Nguyên nhân về tiền tệ:
Nguồn ngoại tệ chảy vào Việt nam tăng mạnh so với các năm trước gây áp
lực lên đồng nội tệ và góp phần làm gia tăng lạm phát(FDI:4.6 tỉ, ODA: 2 tỉ, kiều
hối: 5 tỉ)
Trong 7 tháng đầu năm 2007, NHNN đã cung tiền đồng mua 9,1 tỷ USD
nhằm tăng dự trữ ngoại hối. Với việc đó NHNN đã bơm khoảng 145 nghìn tỷ đồng
ra thị trường, mặc dù thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở NHNN
đã rút về được hơn 90 nghìn tỷ đồng. Như vậy, thực chất chỉ trong 7 tháng đầu năm
2007 NHNN đã đưa vào lưu thông một khối lượng tiền mặt khổng lồ, cung tiền M2
tăng 47% còn tăng trưởng tín dụng 54%. Đây chính là nguyên nhân chính làm gia

tăng tốc độ lạm phát trong năm 2007.
Tốc độ tăng M2 tính dồn từ năm 2005 đến năm 2007 trên 100%, trong khi
đó GDP tích luỹ khoảng 25%. Như vậy tốc độ tăg M2 tính trong 3 năm gần nhất đã
gấp 4 lần tốc độ tăng GDP, đây là con số quá cao so với bình quân tại các nước
trong khu vực (thông thường không quá 2,5 lần).
2.3.3. Biện pháp của NHNN
Công cụ lãi suất
NHNN công bố như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là
6,5%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm, lãi suất qua đêm, lãi suất tiền gửi tại
NHNN nhằm ổn định lãi suất thị trường.
Lãi suất thị trường liên ngân hàng mặc dù có biến động mạnh trong vài ngày
giữa tháng 11/2007, song, nhìn chung, mặt bằng lãi suất trong năm ổn định: lãi suất
huy động và cho vay của TCTD vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ so
với cuối năm 2006, tạo điều kiện cho việc huy động vốn và đầu tư cho tăng trưởng
kinh tế. Khắc phục lạm phát từ phía cung thông qua hỗ trợ sản xuất và kiểm soát
bong bóng tài sản thông qua kiểm soát hạn chế cho vay phi sản xuất
20


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Công cụ dự trữ bắt buộc
Từ giữa năm 2007, lạm phát có xu hướng tăng mạnh, NHNN đã điều chỉnh
tăng tỷ lệ DTBB gấp 1,5-2 lần (áp dụng từ tháng 6/2007) để hút tiền về, kiểm soát
tăng trưởng ổng phương tiện thanh toán
Đơn vị %
1. Tỷ lệ DTBB: ( %)

2006


+ VND
+ Ngoại tệ
Từ 12 đến dưới 24 + VND
+ Ngoại tệ
tháng
2. L/s tiền gửi DTBB
+ VND
DTBB
+ Ngoại tệ
+ VND
Phần vượt DTBB
+ Ngoại tệ
Dưới 12 tháng

2007

5
8
2

10
10
4

2

4

1,2
0

0
1,0

1,2
0
0
1,0

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm cho hệ số nhân tiền giảm, điều này làm
giảm lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên với tốc độ phát triển cao của thị trường tiền
tệ, chính điều này đã giúp cho qui mô thị trường tiền tệ mở rộng và ổn định, không
để xẩy ra những cú sốc về lãi suất và tỷ giá trước những biến động khó lường của
tình hình thị trường tài chính quốc tế.
Công cụ tỷ giá
Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm (VND lên giá nhẹ),
trong bối cảnh lạm phát gia tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất
VND và ổn định thị trường tiền tệ. Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái
danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
2.4. GIAI ĐOẠN NĂM 2008
2.4.1.Diễn biến lạm phát
21


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát tăng mạnh, từ tháng 7 giảm dần và
đạt mức âm vào 3 tháng quý IV. Tính chung cả năm, chỉ số giá tiêu dùng tăng
19,89. Trong đó, cả lạm phát nhóm Lương thực thực phẩm (LTTP) và phi LTTP
đều tăng mạnh so vơ năm 2007, tương ứng từ 18,92% lên 31,86% và từ 7,8% lên

10,05%. Theo đó, nhóm LTTP đã có tác động lớn đến mức tăng của lạm phát

2.4.2. Nguyên nhân
Lạm phát năm 2008 ở mức cao là tổng hòa của các loại nguyên nhân, cả chi
phí đẩy, cầu kéo, lạm phá tiền tệ và cộng thêm yếu tố tâm lý.
Nguyên nhân từ cầu kéo
Giai đoạn 6 tháng đầu năm cầu hàng hóa tăng khá cao do thị trường chứng
khoán kém sôi động hơn trước, thị trường bất động sản cũng đóng băng nên một
lượng tiền đã đổ vào thị trường hàng tiêu dùng, chuyển thành tích trữ hàng hóa,
khiến giá hàng hóa tăng.
Nguyên nhân từ cú sốc cung
Về chi phí đẩy, giá nguyên liệu đầu vào hồi quý 1/2008 tăng rất cao, ví dụ
thép, vật liệu xây dựng... tăng giá liên tục do chịu sự tác động từ giá thế giới.
Cụ thể là việc tăng giá dầu đã ảnh hưởng đến giá cả nhiều mặt hàng như
thép, xi măng, lương thực... Đặc biệt là lúc đó, thị trường thế giới thiếu lương thực.
22


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Do đó, gạo từ mức giá 400-500 USD/tấn đã tăng đến hơn nghìn, thậm chí 1.200
USD/tấn.
Cung hàng hóa giảm do bất lợi thời tiết: trận lũ lụt ở Hà nội năm 2008, thiên
tai xảy ra ở miền trung đã làm sản lượng cung ứng nền kinh tế sụt giảm
Nguyên nhân tiền tệ
Tiền tệ thì đúng là nguyên nhân dẫn tới lạm phát trong năm 2008 vì năm
2007 trước đó, khi lượng USD vào nhiều theo kênh FII (đầu tư gián tiếp - PV) thì
các ngân hàng đã phải đưa một lượng tiền mặt ra để đối ứng, giữ vững tỷ
giá. Nhưng mặt khác, động thái đó lại làm mất giá đồng tiền nội tệ. Sau này, Ngân
hàng Nhà nước đã có một loạt động thái thu tiền về bằng tăng dự trữ bắt buộc, bán

trái phiếu... nhưng cũng không thể thu ngay về được. Lượng tiền trong lưu thông
còn rất lớn gây áp lực lạm phát. Cung tiền và tín dụng mặc dù mức tăng giảm
mạnh chỉ còn 20% nhưng không đủ để kéo lạm phát xuống.
2.4.3. Biện pháp của NHNN
Các công cụ CSTT được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng
vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế va thị trường, điều hành linh hoạt tỷ
giá theo tín hiệu thị trường. Trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, 6 tháng
cuối năm 2008, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT bằng các giải pháp linh hoạt
để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động ngăn ngừa nguy cơ suy
giảm kinh tế.
Công cụ dự trữ bắt buộc
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008 NHNN điều chỉnh
tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VND và
ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD (trừ NH Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam, và một số TCTD hợp tác và NHTMCP nông thôn). Đồng thời mở rộng
diện phải DTBB đối với loại tiền gửi kỳ hạn từ 24 tháng trở lên (trước đây chỉ bao
gồm tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng) nhằm nâng cao khả năng
23


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

điều tiết công cụ DTBB . Những tháng cuối năm, để hỗ trợ các TCTD tăng cường
cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh
giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 10% - 6% và tiền gửi
bằng ngoại tệ từ 11% xuống 9% - 7%.
Công cụ lãi suất: Cùng với việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB, năm 2008 NHNN
linh hoạt điều chỉnh lãi suất tiền gửi DTBB bằng VND của các TCTD tại NHNN:
điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi DTBB từ 1,2%/năm lên 3,6% - 5% - 10%/năm, và
điều chỉnh giảm từ 10%/năm xuống 9% - 8,5%/năm.

2.5. GIAI ĐOẠN 2009
2.5.1..Diễn biến lạm phát
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2009 so với cùng kỳ chỉ tăng 6,52%; chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2009 so với năm 2008 tăng 6,88%; thấp hơn nhiều so với
mức tăng tương ứng của năm 2008 là 19,89% và 22,97%. Trong đó phải nhận thấy
sự giảm giá mạnh mẽ của nhóm hàng lương thực thực phẩm

2.5.2.Nguyên nhân giảm tỉ lệ lạm phát
24


Các biện pháp kiểm soát lạm phát của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010

Nguyên nhân từ cú sốc cung
Giá nguyên liệu trên thị trường thế giới hạ nhiệt. Khủng hoảng tài chính thế
giới đã, đang và sẽ còn đẩy giá cả hàng hoá thế giới chìm vào cơn sốt lạnh rất sâu,
cho nên thị trường trong nước không thể không hạ nhiệt theo thị trường thế giới.
Việc giá nguyên liệu nhập khẩu sẽ còn tiếp tục giảm mạnh trong thời gian tới sẽ
làm triệt tiêu nguyên nhân gây lạm phát đặc biệt quan trọng này.
Nguyên nhân từ cú sốc cầu
Xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, những thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ
yếu của nước ta sẽ “chạm đáy” với mức tăng trưởng “âm” 0,1% trong năm 2009
sắp tới, trong khi năm 2008 ước tính vẫn còn tăng 1,8%; năm 2007 tăng 4,5%; năm
2006 tăng 7,5%...
Tiếp theo, trong điều kiện suy thoái kinh tế còn kéo dài, tâm lý “thắt lưng
buộc bụng” của một bộ phận rất lớn dân cư sẽ mạnh hơn và điều này cũng khiến
sức mua xã hội giảm.
2.5.3. Biện pháp của NHNN
Công cụ dự trữ bắt buộc
Ngay từ đầu năm 2009, để hỗ trợ các TCTD tăng cường cung ứng vốn cho

nền kinh tế, chống suy giảm kinh tế, NHNN đã 2 lần điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB
bằng VND đối với kỳ hạn dưới 12 tháng: từ 6% - 5% - 3% và 1 lần điều chỉnh
giảm từ 2%-1% đối với kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; riêng đối với
Tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ được giữ nguyên như năm 2008, ở mức 7% đối
với tiền gửi dưới 12 tháng, 3% đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên, để duy trì ổn
định lãi suất ngoại tệ. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tỷ lệ
DTBB bằng ngoại tệ là 6% đối với tiền gửi dưới 12 tháng, 2% đối với tiền gửi từ
12 tháng trở lên.
Đối với lãi suất tiền gửi DTBB bằng VND, NHNN điều chỉnh giảm từ 8,5%3,6%-1,2%/ năm. Lãi suất đối với tiền gửi vượt DTBB bằng ngoại tệ giảm từ
25


×