1
ĐỀ 2: PHÁP LUẬT VỀ ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mục lục:
1. Khái quát về hoạt động của tổ chức tín dụng:.......................................................2
2. Pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng:............3
2.1. Các văn bản pháp luật cơ bản về bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng:.....................................................................................................................3
2.2. Nội dung các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động của các
tổ chức tín dụng:........................................................................................................4
2.3. Quy định về hoạt động chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các tổ
chức tín dụng:............................................................................................................9
2.4. Quy định về dự trữ bắt buộc: ............................................................................9
3. Một số đánh giá và kiến nghị các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong
hoạt động tín dụng :.................................................................................................11
3.1. Một số đánh giá...............................................................................................11
3.2. Kiến nghị về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng tại Việt Nam ................15
2
Mở đầu:
Tối đa hóa lợi nhuận và đảm bảo an toàn trong kinh doanh là những mục tiêu hàng đầu
của mọi doanh nghiệp, trong đó có tổ chức tín dụng. Do đặc thù và tính “nhạy cảm” trong kinh
doanh, hệ thống các tổ chức tín dụng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, song luôn
tiềm ẩn rủi ro cao và khi rủi ro phát sinh sẽ tác động sâu sắc tới mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội.
Vì vậy việc đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng. Thời
gian vừa qua, pháp luật ngân hàng nước ta đã có những thay đổi tích cực khi liên tục ban hành những
quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng trong đó có pháp luật về đảm bảo an toàn
của các tổ chức tín dụng. Qua một thời gian thi hành, các quy định này đã có những tác động khá mạnh
mẽ đến hệ thống ngân hàng trong nước, song nó cũng bộc lộ những điểm bất cập cần khắc phục.
1. Khái quát về hoạt động của tổ chức tín dụng:
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động
ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ
chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số
các nghiệp vụ sau đây:
a) Nhận tiền gửi;
b) Cấp tín dụng;
c) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
a. Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ
phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ
tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.
b. Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc
cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ
cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
c. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh
toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu,
3
thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua
tài khoản của khách hàng.
2. Pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng:
2.1. Các văn bản pháp luật cơ bản về bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng:
Để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, Quốc hội và Ngân
hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành một số những văn bản pháp luật để điều chỉnh
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Trong đó quan trọng nhất phải kể đến Luật các tổ
chức tín dụng số 47/2010/QH12 quy định rõ về các hoạt động mà tổ chức tín dụng được
phép thực hiện cũng như đưa ra những hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng tại chương VI của Luật này với các quy định về đối tượng cấm cấp
tín dụng; hạn chế cấp tín dụng; giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn, mua cổ phần; tỷ
lệ bảo đảm an toàn; dự phòng rủi ro; kinh doanh bất động sản; yêu cầu đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng điện tử; quyền nghĩa vụ của công ty kiểm soát …
Sau đó là Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (sau đây gọi tắt là Thông tư 13) quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng (TCTD) được Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành ngày 20/5/2010, có hiệu lực từ ngày
01/10/2010. Thông tư 13 gồm 22 điều, đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến mức độ
an toàn của các TCTD, trong đó có 3 điểm mấu chốt gồm: (1) Tăng tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (CAR); (2) hạn chế việc tham gia của các NHTM vào các hoạt động liên quan đến
chứng khoán và kinh doanh bất động sản; (3) Tăng cường quy định về đảm bảo khả
năng thanh khoản của các TCTD. Sau khi cân nhắc các ý kiến liên quan đến qui định tại
Thông tư 13, ngày 27/9/2010, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 13.
Liên quan đến các Thông tư này, ngày 30/8/2011, Thống đốc NHNN đã ký ban hành
Thông tư số 22/2011/TT-NHNN. Theo đó, NHNN chính thức hủy bỏ tỷ lệ cấp tín dụng
từ nguồn vốn huy động quy định tại Thông tư 13, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư
19. Bên cạnh đó, Thông tư số 22 cũng điều chỉnh hệ số rủi ro đối với một số tài sản có
bằng ngoại tệ khi tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
Về cơ bản, Thông tư 13 và các thông tư sửa đổi có liên quan đã làm rõ hơn hạn chế
về “tỷ lệ bảo đảm an toàn” được quy định tại Luật các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó là
một số các chỉ thị, thông tư được Ngân hàng nhà nước ban hành để điều chỉnh về vấn đề
4
này. Về cơ bản các quy định này được các chuyên gia kinh tế đánh giá là một bước
chuyển biến tích cực trong quá trình phát triển hệ thống tài chính Việt Nam. Mặt khác,
quá trình thực hiện các quy định trên đã có sự phản hồi từ nhiều phía xuất phát từ những
bất cập.
2.2. Nội dung các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng:
2.2.1. Hạn chế về khách hàng cấp tín dụng :
Thông tư 13 yêu cầu các tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải
xây dựng chính sách nội bộ về các tiêu chí xác định một khách hàng và “nhóm khách
hàng liên quan” và các giới hạn tín dụng áp dụng cho từng loại đối tượng này.
“Nhóm khách hàng có liên quan” là một khái niệm đã được quy định tại quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005 của Thống Đốc NHNN ban hành quy
định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng tới Thông tư
13 thì quy định này có một số điểm thay đổi. Đây là một khái niệm rất rộng và tiêu chí
chung để xác định “nhóm khách hàng có liên quan” được xác lập trên cơ sở quan hệ sở
hữu (ví dụ, một khách hàng cá nhân sở hữu tối thiểu 25% hoặc một khách hàng pháp
nhân sở hữu tối thiểu 50% vốn điều lệ của một khách hàng pháp nhân khác), quan hệ
quản trị, điều hành (ví dụ, một khách hàng cá nhân giữ chức danh chủ tịch hội đồng quản
trị, tổng giám đốc trong một khách hàng pháp nhân khác), hoặc quan hệ thành viên (ví
dụ, một công ty hợp danh và thành viên hợp danh của công ty đó cùng là khách hàng của
một ngân hàng) giữa hai hay nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với tổ chức tín dụng.
Chắc chắn là các tổ chức tín dụng sẽ gặp không ít khó khăn trong việc tuân thủ giới
hạn tín dụng áp dụng cho nhóm khách hàng có liên quan. Các ngân hàng sẽ phải cập
nhật các thông tin liên quan đến không chỉ khách hàng mà cả các khách hàng "có liên
quan” của khách hàng đó và bổ sung các thông tin này khi có thay đổi; với lượng khách
hàng ngày càng lớn thì các hệ thống quản lý dữ liệu khách hàng trong toàn hệ thống ngân
hàng hiện nay chưa sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu này. Ngoài ra, việc quản lý thông tin
giữa các chi nhánh khác nhau nằm trong cùng một ngân hàng cũng không hề đơn giản
đặc biệt khi không phải ngân hàng nào cũng có một hệ thống mạng máy tính được kết nối
hoàn chỉnh trên phạm vi toàn quốc.
Các giới hạn về tín dụng áp dụng đối với khách hàng có thể tóm tắt như sau (Điều
5
126, 127, 128 Luật các tổ chức tín dụng 2010; Điều 8 Mục 2 Thông tư 13):
Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một khách hàng không được vượt quá
25% vốn tự có. Như vậy, nếu một ngân hàng đã cấp khoản vay cho một khách hàng đạt
mức tối đa 15% vốn tự có thì ngân hàng đó chỉ có thể cấp bảo lãnh cho cùng khách hàng
tối đa 10% vốn tự có (xin lưu ý là theo quy định chung về bảo lãnh ngân hàng thì tổng số
dư bảo lãnh cho một khách hàng có thể đạt tối đa 15% vốn tự có).
Tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt
quá 50% vốn tự có.
Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một nhóm khách hàng có liên quan không
được vượt quá 60% vốn tự có.
Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30%
vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
Tổng mức cho thuê tài chính đối với một nhóm khách hàng có liên quan không
được vượt quá 50% vốn tự có của công ty cho thuê tài chính.
Đối với hoạt động cho vay và cấp bảo lãnh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
các mức giới hạn tương tự cũng được áp dụng nhưng căn cứ trên vốn tự có của ngân hàng
“mẹ” nước ngoài chứ không phải trên mức vốn tự có hoặc vốn điều lệ của chi nhánh tại
Việt Nam.
2.2.2.
Tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Tỷ lệ đảm bảo an toàn được quy định tại Điều 130 Luật các tổ chức tín dụng và được
cụ thể hóa tại Thông tư 13.
Theo Điều 130 Luật các tổ chức tín dụng:
“Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì các tỷ lệ bảo đảm
an toàn sau đây:
a) Tỷ lệ khả năng chi trả;
6
b) Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc tỷ lệ cao hơn theo quy định của Ngân hàng
Nhà nước trong từng thời kỳ;
c) Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn;
d) Trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn tự có;
đ) Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi;
e) Các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn.”
Toàn bộ các nội dung này được cụ thể hóa tại chương II của Thông tư 13. Có thể
nói, mục đích hướng tới của quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng là nhằm (1) Tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và (2) đảm bảo khả năng
thanh khoản của các tổ chức tín dụng. Điều này được thể hiện rõ qua các quy định:
-
Quy định về tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu (Mục 1 Thông tư 13):
Kế thừa quyết định 457, Thông tư 13 đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ và cụ
thể về “vốn tự có” của các tổ chức tín dụng. Theo quy định của Luật Các Tổ Chức Tín
Dụng, vốn tự có được định nghĩa bao gồm “giá trị thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự
trữ, một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân Hàng Nhà
Nước,” và vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Thông tư 13 cho phép các tổ chức tín dụng được phép xác định vốn tự có
của mình theo hai cấp, trong đó về cơ bản vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự
trữ và vốn cấp 2 là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài của tổ
chức tín dụng. Vốn cấp 1 về cơ bản gồm (i) vốn điều lệ, (ii) lợi nhuận không chia và
(iii) các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn
cấp 2 về cơ bản bao gồm (i) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín
dụng (bao gồm 50% giá trị tăng thêm đối với tài sản cố định và 40% giá trị tăng thêm
đối với tài sản tài chính), (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm
trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii)
quỹ dự phòng chung cho rủi ro tín dụng (tối đa bằng 1,25% tổng tài sản “Có” rủi ro).
Tuy nhiên, Thông tư 13 đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số điều kiện
khác, tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1 và tổng giá trị trái
phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và các công cụ nợ khác tối đa bằng 50% vốn cấp 1.
7
Việc xác định vốn tự có theo hai cấp theo Thông tư 13 sẽ cho phép các ngân hàng
thương mại trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn
dĩ trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do vậy nay các tổ chức tín
dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các tỷ lệ an toàn tính trên cơ sở vốn tự có.
Các tổ chức tín dụng phải trừ khỏi vốn tự có của mình (i) toàn bộ phần giá trị giảm đi
của các tài sản cố định hay chứng khoán đầu tư do định giá lại, (ii) tổng số vốn góp
hoặc cổ phần trong tổ chức tín dụng khác, (iii) phần góp vốn, liên doanh, mua cổ phần
của quỹ đầu tư, doanh nghiệp vượt mức 15% vốn tự có, và (iv) lỗ kinh doanh kể cả các
khoản lỗ lũy kế.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu:
Tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu
9% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” rủi ro.
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất được xác định như sau:
Tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất =
Vốn tự có hợp nhất
Tổng tài sản “Có” rủi ro hợp nhất
Trong đó:
+ Vốn tự có được xác định bằng tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 trừ đi các khoản phải
trừ quy định tại Khoản 4 Điều 6 Mục 2 Thông tư 13
+ Tổng Tài sản “Có” rủi ro quy định tại Khoản 5 Điều 6 Mục 2 Thông tư 13.
Tổng tài sản “Có” rủi ro là tổng tài sản “Có” nội bảng (bao gồm, ngoài những mục
khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay và các khoản phải đòi) và tài sản “Có”
ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục khác, cam kết bảo lãnh, cho vay, thư tín dụng và
chấp nhận thanh toán) được điều chỉnh theo hệ số rủi ro. Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ
số rủi ro cho tài sản “Có” nội bảng gồm 5 nhóm là 250%; 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy
nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với
việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá
trị ngoại bảng sang nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 250%; 100%, 50%, 20% và 0%
trước khi nhân với các hệ số rủi ro.
Tỷ lệ về khả năng chi trả: Mục 3 chương II Thông tư 13 đưa ra những quy
định rất cụ thể về quản lý, theo dõi, xử lý các tỷ lệ khả năng chi trả. Theo đó: Cuối mỗi
8
ngày, tổ chức tín dụng phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về khả
năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
1.
Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ
phải trả;
2.
Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng
đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô la
Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).
- Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn
Theo Thông tư 13 Các ngân hàng thương mại được sử dụng tối đa 80% nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Đối với các tổ chức tín dụng khác, tỷ lệ này là
85%. Nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn bao gồm tiền gửi
(không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), tiền gửi tiết kiệm của cá nhân (không kỳ
hạn hoặc có kỳ hạn dưới 12 tháng), và nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá
ngắn hạn. Tuy nhiên, tại Thông tư 22 ban hành ngày 30/8, Ngân hàng Nhà nước bỏ
luôn quy định này. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cũng bỏ những quy định về nguồn
vốn huy động tại Mục 5 của Thông tư 13 và Thông tư 19 như: tiền gửi của cá nhân dưới
các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn; tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức
bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng khác và chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng); tiền vay
của tổ chức trong nước, tiền vay của tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn 3 tháng trở lên và
tiền vay của tổ chức tín dụng nước ngoài. Cuối cùng là vốn huy động từ tổ chức, cá
nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá.
- Giới hạn góp vốn, mua cổ phần
Tổ chức tín dụng được sử dụng tối đa 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của mình để
đầu tư vào các doanh nghiệp, quỹ đầu tư, đầu tư dự án và vào các tổ chức tín dụng khác
dưới các hình thức góp vốn đầu tư, liên doanh hoặc mua cổ phần. Mức đầu tư vào một
khoản đầu tư thương mại như vậy không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh
9
nghiệp, quỹ đầu tư hoặc 11% giá trị dự án đầu tư và trong tất cả công ty trực thuộc tối
đa không quá 25% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của tổ chức tín dụng. Các trường hợp đầu
tư vượt mức quy định nêu trên phải được NHNN chấp thuận. Một điểm không rõ theo
Thông tư 13 là liệu việc các tổ chức tín dụng đang ủy thác tiền gửi của mình ở nước
ngoài theo các dịch vụ quản lý tài sản để đầu tư vào các loại chứng khoán ở nước ngoài
có chịu sự điều chỉnh của các giới hạn đầu tư nêu trên hay không. Ví dụ một ngân hàng
A trong nước ủy thác 10 triệu Đô La Mỹ cho một tổ chức đầu tư ở nước ngoài để đầu tư
vào một số loại cổ phiếu, trái phiếu và chứng khoán đầu tư khác ở nước đó theo chỉ thị
của ngân hàng A, khi đó không rõ khoản đầu tư 10 triệu Đô La Mỹ của ngân hàng A có
chịu các giới hạn góp vốn, mua cổ phần trên đây hay không. Có lẽ NHNN sẽ cần hướng
dẫn thêm về vấn đề này.
Những quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn này sẽ bảo đảm cho mức vốn của các tổ
chức tín dụng phải luôn giữ một mức ổn định nhất định để thực hiện các hoạt động ngân
hàng qua đó bảo đảm khả năng thanh khoản cho các tổ chức này.
2.3. Quy định về hoạt động chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các tổ
chức tín dụng:
Các quy định pháp luật hiện nay đã giới hạn khá chặt chẽ việc tham gia vào các hoạt
động kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các tổ chức tín dụng, nhằm tách
biệt rõ hoạt động của một ngân hàng đơn năng và đa năng, đồng thời hạn chế việc các tổ chức tín
dụng tham gia vào các hoạt động mang tính rủi ro cao trong khi khả năng quản trị rủi ro của
nhiều TCTD Việt Nam đang ở mức thấp. Theo đó, thì các tổ chức tín dụng không được phép kinh
doanh bất động sản trừ một số trường hợp luật định (Điều 133 Luật các tổ chức tín dụng), việc kinh
doanh chứng khoán cũng rất hạn chế , khi mà Tài sản “Có” gồm: Các khoản cho vay để đầu
tư chứng khoán; Các khoản cho vay các công ty chứng khoán; Các khoản cho vay nhằm
mục đích kinh doanh bất động sản có hệ số rủi ro bằng 250%.
2.4. Quy định về dự trữ bắt buộc:
Quy định về dự trữ bắt buộc là quy định của ngân hàng Trung ương dùng để điều
chỉnh chính sách tiền tệ thông qua việc dùng nó như là một công cụ để hạn chế bớt
lượng tiền lưu thông. Ngoài ra đó cũng là công cụ để NHNN thực hiện vai trò chủ đạo
của mình trong hệ thống ngân hàng và đảm bảo an toàn cho hệ thống đó. Đồng thời, lập
quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tăng khả
10
năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể ổn định và phát triển được
hoạt động kinh doanh trong trường hợp rủi ro xảy ra.
Theo đó, Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải dự phòng rủi ro
trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khoản dự
phòng rủi ro này được hạch toán vào chi phí hoạt động; Việc phân loại tài sản có, mức
trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro
trong hoạt động do Ngân hàng Nhà nước quy định sau khi thống nhất với Bộ Tài chính;
Trong trường hợp tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thu hồi được vốn
đã xử lý bằng khoản dự phòng rủi ro, số tiền thu hồi này được coi là doanh thu của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. ( Điều 131 Luật các tổ chức tín dụng).
2.5. Tham gia bảo hiểm tiền gửi Việt nam
Quy định về bảo hiểm tiền gửi là một quy định rất tiến bộ, nó bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người gửi tiền, đồng thời góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức
tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của các hoạt động ngân hàng. Hiện
nay theo quy định pháp luật, Các TCTD và tổ chức không phải TCTD được phép thực
hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng ( gọi là tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi) hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của cá nhân đều phải tham gia
bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.
Trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi
trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam có thể hỗ trợ thông qua các hình thức: cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo
hiểm; bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi được bảo hiểm;
mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản đảm bảo.
Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn
bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán, Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam sẽ tiến hành việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền. Mức tiền tối đa mà
một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam trả theo quy định của Chính phủ (tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP, ngày
24/8/2005) là 50 triệu đồng, bao gồm cả gốc và lãi.
11
3. Một số đánh giá và kiến nghị các quy định pháp luật về bảo đảm an toàn trong
hoạt động tín dụng :
3.1. Một số đánh giá
3.1.1 Điểm tích cực:
Trong thời gian đổi mới vừa qua, đặc biệt từ khi thực hiện 02 Luật về ngân hàng,
Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã quy định và ban hành nhiều quy định quan trọng
để bảo đảm an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của người gửi tiền. Các quy định đảm bảo an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng được
quy định ngay khi thành lập các tổ chức tín dụng và trong suốt quá trình tổ chức tín
dụng hoạt động. Các quy định này có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần duy trì
sự ổn định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của các
hoạt động ngân hàng. Mặt khác, xét toàn diện thì các thiết chế để bảo đảm an toàn hệ
thống các TCTD cũng có ý nghĩa nhất định trong việc bảo đảm quyền lợi của người gửi
tiền. Đây thực sự là một thành tựu quan trọng của ngành Ngân hàng trong gần 20 năm
đổi mới. Việc hình thành được các thiết chế nêu trên ở nước ta, vừa là kết quả của việc
tổng kết sâu sắc thực tiễn quá trình phát triển nhiều năm của hoạt động ngân hàng trong
nước, vừa là kế thừa một cách tích cực kinh nghiệm tổ chức, quản lý hoạt động ngân
hàng của các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Trong đó, một số thiết chế đến nay
đã đang tiến dần tới các chuẩn mực quốc tế mà có thể nói tới Thông tư 13 và các Thông
tư sửa đổi có liên quan.
Thứ nhất, quy định về giới hạn về khách hàng được cấp tín dụng (đối tượng cấp tín
dụng, tỷ lệ số vốn được cấp cho nhóm khách hàng liên quan…) đã được quy định khá
cụ thể và góp phần hạn chế sự ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của tổ chức tín dụng
qua đó bảo đảm được hoạt động bình thường của các tổ chức này.
Thứ hai, pháp luật ngân hàng đã giới hạn khá chặt chẽ việc tham gia vào các hoạt động
kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản của các NHTM, nhằm tách biệt rõ hoạt
động của một ngân hàng đơn năng và đa năng, đồng thời hạn chế việc các ngân hàng tham gia vào
các hoạt động mang tính rủi ro cao trong khi khả năng quản trị rủi ro của nhiều TCTD Việt Nam
đang ở mức thấp.
Thứ ba, về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, Điều 4 của Thông tư 13 nêu rõ, nâng tỷ lệ an toàn
vốn từ 8% lên 9% cùng với quy định về vốn pháp định tối thiểu theo Nghị định 141/2006/N
-CP (3.000 tỷ đồng) là cơ sở hết sức quan trọng để nâng cao tiềm lực tài chính của các ngân
hàng.
12
Cũng theo Điều 4 Thông tư 13, các TCTD phải thực hiện báo cáo tài chính hợp nhất theo
quy định của pháp luật, ngoài việc duy trì tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ theo quy định nói trên, phải
đồng thời duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% trên cơ sở hợp nhất vốn, tài sản của TCTD và
công ty trực thuộc (tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất).
Đây là qui định mới so với các văn bản trước đây, trong khi ngày càng nhiều các
NHTM hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, thì việc điều chỉnh này là hoàn
toàn phù hợp với xu hướng phát triển và nhằm tiến thêm một bước trong việc tuân thủ 25
nguyên tắc thanh tra cơ bản của Uỷ ban Basel.
Thứ tư, trong khoảng thời gian từ năm 2008 trở lại đây, tình hình thanh
khoản của các TCTD có nhiều bất cấp do khả năng quản lý thanh khoản của các TCTD còn
kém cũng như do sự biến động bất lợi của nền kinh tế, Luật các tổ chức tín dụng và Thông tư 13
đã đưa ra một số quy định được nhận định là mới và sát với quy định của các nước trên thế
giới, nhằm tăng cường khả năng thanh khoản và quản lý khả năng thanh khoản của từng TCTD
nói riêng và cả hệ thống nói chung.
3.1.2. Một số điểm bất cập:
Thứ nhất, việc đáp ứng được tỷ lệ an toàn theo cách tính của Thông tư 13, vốn vẫn dựa
theo nội dung của Basel 1, chưa chắc đã cải thiện được mức độ an toàn trong cơ cấu tổ chức hay
quản trị của TCTD. Cách tính CAR theo Basel 2 đã cộng cả rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp
vào mẫu số của công thức.
CAR = Vốn cấp 1 – Vốn cấp 2
≥0
Tài sản có rủi ro – rủi ro thị trường – rủi ro tác nghiệp
Trong khi đó, theo qui định tại Thông tư 13, mẫu số mới chỉ bao gồm Tài sản Có rủi ro,
nghĩa là chỉ tính đến duy nhất rủi ro tín dụng, chưa phản ánh chính xác mức độ rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong khi cả thế giới đang bắt đầu thực hiện theo lộ
trình những tiêu chuẩn mới của Basel 3 thì Việt Nam vẫn đang còn cách rất xa việc áp dụng
các tiêu chuẩn của Basel 2, đây là một điều rất đáng lo.
Bên cạnh đó, trên thực tế hiện nay ở các nước, hệ số CAR của các ngân hàng thường ở
vào mức 12%, nên việc quy định hệ số CAR ở nước ta trên 9% cũng chưa hẳn mang lại một
mức an toàn cho các NHTM.
Thứ hai, một hệ thống tài chính an toàn yêu cầu các ngân hàng có hệ số an toàn vốn tối
13
thiểu (CAR- capital adequacy ratio) đạt mức yêu cầu. Hệ số này phụ thuộc vào hai yếu tố, vốn
tự có và tổng tài sản có rủi ro. Việc NHNN yêu cầu các ngân hàng tăng vốn điều lệ lên tối
thiểu lên 3.000 tỉ đồng và tăng CAR lên 9% có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an
toàn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ và CAR tối thiểu là không
đủ, thậm chí có thể còn làm phát sinh thêm những rủi ro.
Khi các ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu, chúng buộc phải tiếp tục tăng thêm vốn hoặc sáp nhập với một ngân hàng
khác. Việc tăng vốn trong bối cảnh thị trường chứng khoán suy giảm trong một
thời gian dài và đang phục hồi từ đầu năm 2012 không hẳn là điều dễ dàng. Còn
nếu sáp nhập, về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai ngân hàng có hệ số an
toàn vốn thấp sau khi sáp nhập, hệ số này không thể tăng dù vốn điều lệ tăng.
Ngoài ra, việc tăng vốn nhằm nâng cao CAR, nếu thành công, khiến cho tổng tài
sản phải tăng lên để đáp ứng mức sinh lời kì vọng, sẽ dẫn tới các ngân hàng không
đủ khả năng quản lý, dẫn tới những rủi ro hoạt động sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới
hoạt động của họ.
Về việc tính vốn tự có, tại Điều 5 Thông tư 13 qui định, vốn cấp 1 bao gồm lợi nhuận không
chia được quy định tại Điều 2, nhưng không nhắc đến phần lợi nhuận không chia trên báo
cáo tài chính các thời điểm trong năm để tính CAR, trong khi tài sản có rủi ro để tính CAR
là dựa trên số liệu căn cứ báo cáo tài chính tại các thời điểm trong năm.
Thứ ba, là những bất cập trong quy định về hệ số rủi ro của các tài sản có trong công thức
tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu tại Điều 5 Thông tư 13.
(i) Tại khoản 5.1 về các tài sản có rủi ro bằng 0, đối với các khoản cho vay
bằng vốn tài trợ, ủy thác đầu tư theo các hợp đồng, trong đó TCTD chỉ hưởng phí ủy thác mà
không chịu rủi ro, NHNN nên xem xét bổ sung khoản mục này vào các tài sản có hệ số rủi ro
bằng 0.
Về các tài sản có hệ số rủi ro là 250% được quy định tại khoản 5.6, bao gồm các khoản cho vay
để đầu tư chứng khoán, các khoản cho vay các công ty chứng khoán và các khoản cho vay
nhằm mục đích kinh doanh bất động sản. Mặc dù, hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán
và bất động sản là những hoạt động đầu tư rủi ro cao, nhưng việc quy định một hệ số rủi ro duy
nhất ở mức cao cho tất cả các khoản vay thuộc các lĩnh vực này là chưa thật hợp lý. Chẳng hạn,
khoản cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán có mức độ rủi ro khác với cho vay cầm cố
chứng khoán; mức độ rủi ro của cho vay kinh doanh bất động sản cũng phân biệt giữa bất động
sản đã hình thành và bất động sản hình thành trong tương lai… Việc áp dụng này sẽ làm tăng
14
tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng lên rất nhiều, đặc biệt là ở các khoản cho vay bất động sản
do các khoản cho vay bất động sản chiếm khoảng 12,64% dư nợ của hệ thống TCTD, cho
vay kinh doanh chứng khoán chiếm 0,7% dư nợ của hệ thống TCTD. Như vậy, thay vì việc
yêu cầu các NHTM nâng cao chất lượng hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán và bất
động sản thì dường như Thông tư 13 có phần tập trung vào việc hạn chế hai hoạt động này, kể cả
với các hình thức có mức độ rủi ro thấp. Với một thị trường tài chính đang trên đà phát triển
như ở Việt Nam hiện nay, biện pháp này là chưa phù hợp và chỉ có tác dụng hạn chế rủi ro trong
thời gian ngắn mà không đảm bảo phát triển bền vững trong thời gian dài.
(ii) Thông tư 13 phân loại tài sản chưa chi tiết và không tính đến sự khác biệt giữa các
mức độ rủi ro riêng biệt. Đối với các khoản phải đòi, hệ số rủi ro được xác định dựa trên loại
hình tài sản bảo đảm (giấy tờ có giá, bất động sản,…) và đối tượng (chính quyền Trung ương,
chính quyền địa phương, công ty trực thuộc, các TCTD khác…) mà chưa chi tiết cho rủi ro
theo mức độ tín nhiệm của đối tác hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng, nên không phản
ánh chính xác mức độ rủi ro của các khoản tín dụng. Những khoản tín dụng đang được xếp nhóm 1
cũng có thể cùng một hệ số rủi ro với những khoản tín dụng đang được xếp nhóm 2, 3, 4, 5,
trong khi nhóm nợ của khoản tín dụng phản ánh rất sát mức độ rủi ro của khoản nợ đó. iều
này chỉ ra rằng, các ngân hàng có cùng tỷ lệ an toàn vốn nhưng có thể đang đối mặt với các loại
rủi ro khác nhau, với mức độ khác nhau.
Điều này có thể tạo động lực cho các ngân hàng trong nỗ lực làm tăng hệ số CAR
sẽ cấp tín dụng dựa trên yêu cầu về tài sản đảm bảo (chỉ là nguồn trả nợ thứ hai)
mà chấp nhận cả những khách hàng có chất lượng tín dụng không cao, do đó, làm
tăng rủi ro ngân hàng phải gánh chịu chứ không chắc chắn đảm bảo việc tăng mức
độ an toàn.
(iii) Về vấn đề bảo lãnh, trong thực tế, tỷ lệ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho
khách hàng là tương đối thấp trong tổng nghĩa vụ bảo lãnh. Do đó, việc để hệ số chuyển đổi
là 100% như trong Điều 5 là chưa phù hợp, hạn chế sự phát triển của hoạt động bảo lãnh.
Các cam kết ngoại bảng khác như tất cả các hợp đồng giao dịch ngoại tệ có hệ số rủi ro là
100%, trong khi đó một số cam kết có mức độ rủi ro rất thấp, chẳng hạn như các giao dịch ngoại
tệ với NHNN. Điều này sẽ làm hạn chế sự phát triển thị trường các sản phẩm dịch vụ mới.
(iv) Trong khoản 1.1, Điều 12 quy định, danh mục các tài sản “có” đến hạn thanh
toán trong 7 ngày (điểm d, e, g, h, l) nhưng chưa quy định về trái phiếu do Ngân hàng Chính
sách Xã hội phát hành. Vậy trái phiếu này sẽ được tính vào danh mục tài sản nào?
Thứ tư, Thông tư chưa theo sát được các hướng dẫn về an toàn hoạt động
15
ngân hàng của Ủy ban Basel, đặc biệt là Basel III. Trên thực tế, việc quy định tỷ lệ
tín dụng/vốn huy động tại Thông tư 13 đã được bãi bỏ tại Thông tư 22/2011/TTNHNN. Tuy nhiên, tại Quyết định số 254/Q -TTg phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ
thống các TCTD giai đoạn 2011- 2015” đã nhấn mạnh “kiểm soát tăng trưởng tín
dụng phù hợp với nguồn vốn về quy mô và cơ cấu kỳ hạn; từng bước giảm tỷ lệ
dư nợ tín dụng so với vốn huy động về mức không quá 90% đến năm 2015”. Đây
là một quan điểm đúng đắn và cần thiết nhằm hạn chế những rủi ro trong hoạt
động ngân hàng. Bên cạnh đó, nếu Thông tư quy định giới hạn tối thiểu tỷ lệ Vốn
tự có trên Tổng tài sản thì sẽ hợp lý hơn và phù hợp với khuyến nghị của Ủy ban
Basel trong Basel III hơn. Trên thực tế, khi tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản (gồm
tài sản nội bảng và tài sản ngoại bảng) giảm mạnh đồng nghĩa với dấu hiệu rủi ro
của ngân hàng gia tăng. Tại Việt Nam, điều này thể hiện khá rõ khi nghiên cứu
mối quan hệ giữa vốn tự có với tài sản có rủi ro và vốn tự có với tổng tài sản ngân
hàng. Cụ thể, nếu xét trên toàn hệ thống, hệ số CAR (vốn tự có/TSC rủi ro) đạt ở mức trên 9%
(đáp ứng qui định của Thông tư 13). Tuy nhiên, nếu căn cứ theo khuyến nghị của Basel III thì
sự an toàn của hệ thống NHTM về vốn cần có những đánh giá lại. Rõ ràng, tỷ lệ vốn tự có/tổng
tài sản có dấu hiệu giảm nếu xét từ năm 2008 trở lại đây, cho dù tỷ lệ vốn tự có/TSC rủi ro có
những dấu hiệu được cải thiện. Điều này thể hiện qua việc tổng tài sản ngân hàng đã gia tăng
nhanh chóng so với tốc độ tăng của vốn tự có.
3.2. Kiến nghị về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
3.2.1. Đối với quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
- Xây dựng lộ trình để hướng tới việc áp dụng tỷ lệ CAR tối thiểu ở mức 12%
theo thông lệ thế giới, và xa hơn là tiến tới việc tiếp cận thông lệ thế giới: lượng
hóa cả rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường trong hoạt động của các TCTD, áp
dụng trụ cột số 2 và số 3 của Basel 2 (theo “Financial Management and Analysis
of Projects” của ADB năm 2005, có kiến nghị rằng: hệ số CAR ở mức 8% áp
dụng với các nước OECD, còn đối với các nền kinh tế mới nổi hệ số này nên là
12%)- Xác định hệ số rủi ro phù hợp cho các loại tài sản: Với các khoản cho vay đầu tư chứng
khoán và cho vay đầu tư bất động sản, cần xem xét phân loại và xác định hệ số rủi ro khác nhau cho
các hình thức cho vay có mức độ rủi ro khác nhau. Xây dựng ma trận xác định hệ số rủi ro của
các khoản mục Tài sản Có là các khoản cho vay, trong đó xác định hệ số rủi ro theo mức độ
tín nhiệm, theo nhóm nợ của khoản vay, theo loại hình tài sản đảm bảo.
16
- Áp dụng triệt để 5 nguyên tắc của trụ cột 2 của Basel II để góp phần nâng
cao kỷ cương trong tuân thủ các quy định về giám sát an toàn ngân hàng. Theo đó,
NHNN Việt Nam cần có những bổ sung vào quy định về chức năng, nhiệm vụ của
Cơ quan Thanh tra, giám sát Ngân hàng một cách cụ thể việc thực hiện 4 trong 5
nguyên tắc của trụ cột 2 thuộc Basel II. Đó là: (i) Phải đảm bảo định kỳ thường
xuyên đánh giá chính sách của ngân hàng về vốn, sự tuân thủ của ngân hàng đối
với các tỷ lệ vốn pháp định; (ii) Kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết khi phát
hiện những bất cập trong quá trình đánh giá; (iii) Có quyền yêu cầu ngân hàng duy
trì vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định căn cứ vào đặc điểm cụ thể của thị
trường;
(iv) Có quyền can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa tình trạng vốn của ngân hàng giảm xuống
thấp hơn mức tối thiểu. Rõ ràng, theo kinh nghiệm của các quốc gia áp dụng Basel II, việc quy
định cụ thể các nguyên tắc trong trụ cột 2 của Basel II vào chức năng nhiệm vụ của Cơ quan
Thanh tra, giám sát Ngân hàng sẽ góp phần nâng cao vị thế của Cơ quan này, đồng thời đảm bảo tránh
được sự chủ quan của chủ sở hữu ngân hàng khi điều kiện thị trường đang thuận lợi.
3.2.2. Về quản trị đòn bẩy tài chính của các tổ chức tín dụng
NHNN cần bổ sung quy định về giới hạn liên quan đến đòn bẩy của các
tổ chức tín dụng. Theo đó, quy định cụ thể giới hạn tối thiểu Vốn tự có so với Tổng tài sản
trong xác định việc đủ vốn tại tổ chức tín dụng (quy định này hoàn toàn phù hợp với việc
thay thế cho tỷ lệ tín dụng/vốn huy động và theo đúng khuyến nghị tại Basel III).
Hơn thế nữa, quy định này sẽ phù hợp với xu thế phát triển của ngân hàng hiện đại
là hoạt động không chỉ hướng tới nghiệp vụ tín dụng mà còn bao gồm cả các
nghiệp vụ phái sinh (làm gia tăng tài sản ngoại bảng). Vấn đề đáng chú ý là giới
hạn vốn tự có so với tổng tài sản cần là giới hạn “động”. Do đó, các TCTD
không chỉ cần xây dựng đủ vốn dựa trên hệ số an toàn vốn tối thiểu mà còn phải
tính đến việc tăng vốn phù hợp tốc độ gia tăng tổng tài sản (gồm cả tài sản nội
bảng và tài sản ngoại bảng) của ngân hàng trong giai đoạn kinh tế ở chu kỳ thịnh
vượng, bởi việc tăng vốn trong chu kỳ thịnh vượng sẽ góp phần củng cố năng lực
của ngân hàng trong giai đoạn suy thoái.
3.2.3. Các quy định khác về an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Thứ nhất, phân tích tình huống và khả năng chịu đựng (stress-test & scenario
analysis) là những vấn đề còn rất mới với các TCTD của Việt Nam nói chung,
17
NHTM nói riêng, nên NHNN cần có nghiên cứu và đưa ra những hướng dẫn cụ
thể để giúp các TCTD cũng như NHTM thực hiện công tác này một cách có hiệu
quả.
Thứ hai, NHNN cần đưa ra các cơ chế để các TCTD có thể rót vốn cho các
công ty trực thuộc là công ty cho thuê tài chính trong các trường hợp đặc biệt để
đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ cho thị trường cho thuê tài chính trong giai đoạn
khó khăn.
Thứ ba, có hướng dẫn cụ thể cho các TCTD trong việc xử lý đối với các tỷ lệ góp vốn,
mua cổ phần, đầu tư đang vượt quá giới hạn Thông tư 13/2010/TT-NHNN và các
thông tư liên quan cho phép, trong đó nêu rõ hướng xử lý, lộ trình thực hiện.
3.2.4. Về tham gia bảo hiểm tiền gửi:
Vấn đề tham gia bảo hiểm tiền gửi của các TCTD hiện nay đang được điều chỉnh theo dự
thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi. Việc các TCTD tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc có thể xem
là một biện pháp để bảo đảm sự hoạt động bình thường của các TCTD tuy nhiên việc quy định
mức phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng , tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí
bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bằng 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các
loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi như hiện nay được
đánh giá là không hợp lý để hạn chế hiệu quả các rủi ro của hoạt động ngân hàng. Đặc
biệt là trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu như hiện nay thì vấn đề này cũng nên
được xem xét điều chỉnh cho phù hợp hơn với tình hình hiện tại.
18
Kết luận:
Bên cạnh những thành tựu đạt được sau 25 năm đổi mới, hệ thống NHTM Việt Nam
đang có những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập. Những lo ngại về nợ xấu gia
tăng, nguy cơ không đủ vốn hoạt động và chống đỡ với quy mô nợ xấu ngày một lớn và
khó dự báo có nguyên nhân sâu xa là năng lực giám sát rủi ro và quản trị doanh nghiệp
không
theo
kịp
tốc
độ
phát
triển
nhanh
chóng
về
quy mô, mạng lưới và loại hình dịch vụ. Theo đó, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng là hết
sức cần thiết nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho từng ngân hàng cũng như cả hệ thống
và nền kinh tế.
Đảm bảo an toàn hệ thống NHTM Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cần sự nỗ lực và
phối hợp của nhiều bên, từ các cơ quan quản lý vĩ mô đến bản thân các NHTM. Đối với
các cơ quan quản lý vĩ mô, vấn đề then chốt là xây dựng khung pháp lý tuân thủ theo các
chuẩn mực quốc tế, trong đó có các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, xác định lộ
trình thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống NHTM Việt Nam. Đồng
thời, cần có các biện pháp thanh tra - giám sát có hiệu quả nhằm đảm bảo các NHTM
tăng trưởng hoạt động kinh doanh nhưng không vi phạm các giới hạn an toàn.
Đối với mỗi NHTM, cần chấp hành các quy định của hệ thống luật pháp, đồng thời
phản hồi kịp thời những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Mặt khác, cần tăng
cường quản trị rủi ro, đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả, góp phần vào sự phát triển
bền vững của bản thân ngân hàng cũng như toàn hệ thống NHTM Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Định hướng và giải pháp cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015.
2. Luật các tổ chức tín dụng năm 2010
3. Thông tư 13/2010/TT- NHNN THÔNG TƯQuy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng
4. Ts. Trương Quốc Cường, Bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng Việt Nam nhìn từ
tiêu chuẩn Basel.
5. website: /> />
19
20
21
22
23
24
25