Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.6 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 33
Đề tài:

HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

Giáo viên hướng dẫn:
Trương Thanh Hùng
Bộ môn Luật Tư pháp

Sinh viên thực hiện:
Trần Hồng Ca
MSSV: 5075010
Lớp Luật Tư pháp 1-K33

CẦN THƠ, NĂM 2011


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………


………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………



NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………….


MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu.........................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu ...........................................................................................2
4. Mục tiêu nghiên cứu ..........................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................2
6. Bố cục đề tài......................................................................................................3
Chương 1
Khái quát chung về hòa trong tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự ..................................4
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự .......4
1.1.2. So sánh hòa giải với thỏa thuận.................................................................6
1.1.3. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại Ủy
ban nhân dân .........................................................................................................8
1.2. Nguyên tắc và phạm vi hòa giải trong tố tụng dân sự...............................13
1.2.1. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự ................................................13
1.2.2. Những trường hợp không được tiến hành hòa giải ..................................14
1.2.3. Những trường hợp không tiến hành hòa giải được ..................................16
1.3. Lược sử hòa giải trong luật tố tụng dân sự Việt Nam...............................17

1.3.1. Giai đoạn 1945- 1960..............................................................................17
1.3.2. Giai đoạn 1960-1989 ..............................................................................19
1.3.3. Giai đoạn 1989-2005 ..............................................................................20
1.3.4. Giai đoạn 2005 đến nay ..........................................................................22
1.4. Chế định hòa giải trong pháp luật một số nước ........................................23
1.4.1. Chế định hòa giải trong pháp luật Pháp ...................................................23


1.4.2. Những ưu điểm và nhược điểm của chế định hòa giải trong pháp luật Việt
Nam với Pháp......................................................................................................24
1.5. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự và sự cần thiết của việc nghiên
cứu chế định hòa giải.........................................................................................26
1.5.1. Ý nghĩa của hòa giải trong tố tụng dân sự ...............................................26
1.5.2. Sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định hòa giải .................................27
Chương 2
Pháp luật hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
2.1. Thủ tục trước phiên hòa giải......................................................................29
2.1.1. Thông báo về phiên hòa giải ...................................................................29
2.1.2. Thành phần phiên hòa giải ......................................................................35
2.2. Thủ tục tại phiên hòa giải ..........................................................................42
2.2.1. Nội dung phiên hòa giải ..........................................................................42
2.2.2. Biên bản hòa giải ....................................................................................47
2.3. Thủ tục sau phiên hòa giải ........................................................................51
2.3.1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự ..........................51
2.3.2. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự .............56
2.4. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm
và phiên tòa phúc thẩm .....................................................................................60
2.4.1. Tại phiên tòa sơ thẩm..............................................................................60
2.4.2. Tại phiên tòa phúc thẩm .........................................................................64
Kết luận .............................................................................................................68



Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mối quan hệ giữa người với người đã tồn tại và phát triển từ lâu. Các mối
quan hệ này là tự nhiên, đa chiều và đa lợi ích. Ngày nay, các mối quan hệ dân sự
ngày càng phát triển đa dạng và phong phú về cả số lượng và nội dung các quan hệ.
Các chủ thể trong các mối quan hệ dân sự đó mâu thuẫn về lợi ích là điều không thể
tránh khỏi. Khi đó, các bên có thể lựa chọn các phương thức khác nhau để giải
quyết tranh chấp sao cho có lợi cho mình nhất. Tuy nhiên, các bên thường lựa chọn
Tòa án để giải quyết tranh chấp.
Tòa án là cơ quan duy nhất được trao quyền xét xử ở Việt Nam. Quyết định,
bản án có hiệu lực của Tòa án được đảm bảo thi hành bởi quyền lực nhà nước. Đó
là lý do mà các bên thường lựa chọn Tòa án để giải quyết tranh chấp. Trong quá
trình giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án có nhiệm vụ hòa giải để các đương sự thỏa
thuận giải quyết tranh chấp. Đây là nguyên tắc được ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật tố
tụng dân sự 2004. Chế định hòa giải là chế định được kế thừa trong pháp luật tố
tụng dân sự từ thời kỳ trước. Đồng thời, chế định này cũng là được học hỏi từ hệ
thống pháp luật phát triển từ lâu đời.
Tỷ lệ hòa giải thành tại Tòa án cao hơn so với các hình thức hòa giải khác.
Hòa giải thành tại Tòa án mang lợi ích cho cả Tòa án và các đương sự trong vụ án.
Hòa giải thành còn góp phần phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Tuy nhiên trong
quá trình hòa giải cũng xuất hiện nhiều khó khăn, xuất phát từ phía quy định của
luật cũng như chủ quan của từng Tòa án khi áp dụng pháp luật.
Để có những nhìn nhận đầy đủ và rõ ràng về chế định hòa giải trong tố tụng
dân sự, và góp phần hoàn thiện chế định trong thực tiễn, người viết chọn đề tài
“Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hòa giải trong tố tụng dân sự đã tồn tại trong hệ thống pháp luật nước ta từ
rất sớm. Nó được quy định trong những văn bản tố tụng đầu tiên của nước ta. Chế
định này đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự bởi vì nó góp
phần giải quyết tranh chấp nhanh chóng và tiết kiệm. Tuy nhiên, các đề tài nghiên
cứu về chế định này chưa nhiều. Các tạp chí chuyên ngành cũng có những bài viết,
bài bình luận của các luật sư, chuyên gia luật, Thẩm phán. Các bài viết này đã phản
ánh được một số điểm hạn chế cơ bản của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự
cũng có những giải pháp đề xuất để hoàn thiện chế định này. Về các đề tài nghiên
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 1


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
cứu của sinh viên Khoa Luật, Đại học Cần Thơ, từ khóa 30 trở về sau chỉ có một đề
tài nghiên cứu về hòa giải tại Tòa án. Đề tài này cũng phản ánh được những ưu
điểm và nhược điểm điển hình của luật thực định. Đồng thời, đề tài này cũng làm rõ
quy định về thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Tuy nhiên, về phần thực
tiễn áp dụng của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự thì đề tài nghiên cứu nói trên
chưa làm rõ, cũng như các giải pháp đề xuất để nâng cao hiệu quả của công tác hòa
giải trong tố tụng dân sự.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
chế định hòa giải. Cụ thể, người viết sẽ nghiên cứu các điều 180, 181, 182, 183,
184, 185, 186, 187, 188 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và những quy định pháp luật
liên quan để làm rõ chế định hòa giải trong tố tụng dân sự. Đồng thời, người viết
cũng so sánh với các quy định pháp luật trong các thời kỳ trước và so sánh với chế
định này trong pháp luật Pháp. Bên cạnh đó, người viết cũng nghiên cứu tình hình
áp dụng của chế định này trong thực tiễn. Người viết sẽ nghiên cứu nhiều về tình

hình áp dụng chế định hòa giải trong tố tụng dân sự được áp dụng tại tòa án nhân
dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này người viết mong muốn làm rõ những quy định của
pháp luật về chế định hòa giải trong tố tụng dân sự trong luật thực định Việt Nam.
Đồng thời, cũng so sánh chế định này với các giai đoạn phát triển trong pháp luật
Việt Nam để rút ra những ưu và nhược điểm của pháp luật thực định. Người viết
cũng tìm hiểu tình hình áp dụng chung của chế định hòa giải trong tố tụng dân sự.
Cụ thể, người viết thực tập thực tế tại Tòa án nhân dân huyện Thới Bình để có
những kinh nghiệm thực tế trong việc áp dụng chế định hòa giải. Thông qua đó,
người viết tìm ra những bất cập trong quá trình áp dụng chế định này. Từ đó, người
viết tìm ra những biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế này và nâng cao tỷ lệ
hòa giải thành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở những kiến thức đã học trong trường, người viết vận dụng ,
thu thập và tổng hợp tài liệu có liên quan để chứng minh làm rõ vấn đề. Mặt khác,
khi thực hiện luận văn này người viết còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như:
- Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin;
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 2


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
- Thu thập số liệu và thống kê số liệu;
- Phương pháp phân tích luật viết;
- Phân tích, so sánh, tổng hợp.
6. Bố cục đề tài

Đề tài được bố cục thành 2 chương. Trong Chương 1, người viết tập trung
làm rõ khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự, và so sánh với thỏa
thuận và các hình thức hòa giải khác. Đồng thời, người viết cũng có tìm hiểu lược
sử phát triển của hòa giải trong tố tụng dân sự từ năm 1945 đến nay, so sánh với chế
định hòa giải trong luật của Pháp. Thêm vào đó, Chương 1 cũng phân tích về
nguyên tắc và phạm vi khi tòa án tiến hành hòa giải. Cuối Chương 1 là ý nghĩa của
hòa giải và sự cần thiết của việc nghiên cứu chế định hòa giải trong tố tụng dân sự.
Tiếp theo, Chương 2 người viết tập trung làm rõ quy định của luật thực định
về chế định hòa giải. Qua đó, người viết đưa ra những ưu điểm và nhược điểm của
chế định này. Đồng thời, Chương 2 cũng tìm hiểu về tình hình áp dụng chế định hòa
giải nói chung, cũng như thực tế áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Thới Bình.
Cuối chương, người viết so sánh giữa hòa giải trong tố tụng dân sự với thỏa thuận
tại phiên tòa sơ thẩm, và tại phiên tòa phúc thẩm.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 3


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÒA GIẢI TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến trong đời sống dân
sự. Hòa giải cũng được tiến hành trong tố tụng và ngoài tố tụng. Dù là hòa giải
trong tố tụng hay ngoài tố tụng thì mục đích cũng là giải quyết tranh chấp trong đời
sống dân sự. Tuy nhiên, các hoạt động hòa giải này cũng có những điểm khác biệt
nhất định. Trong đó, hòa giải trong tố tụng dân sự là hình thức hòa giải do Tòa án
tiến hành và mang lại hiệu quả cao nhất. Chế định này đã tồn tại từ rất sớm, ngay từ

khi nước ta được độc lập thì việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải đã được quan
tâm. Nguyên nhân là hòa giải giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng và
tiết kiệm. Bên cạnh đó, việc hòa giải thành cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân và góp phần phát triển kinh tế, xã hội cho đất nước.
1.1. Khái niệm hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải và hòa giải trong tố tụng dân sự
- Khái niệm và đặc điểm của hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay
nhiều bên bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của
bên thứ ba1. Như vậy, hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham
gia của bên thứ ba, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh
chấp để tìm ra giải pháp nhằm chấm dứt xung đột, bất hòa. Từ định nghĩa trên thì
hòa giải có một số đặc trưng cơ bản.
Trước hết, hòa giải chỉ tiến hành khi có tranh chấp giữa hai bên. Nếu không
có tranh chấp thì hầu như hai bên không có mâu thuẫn về lợi ích. Trong khi đó, hòa
giải là một hình thức để điều hòa lợi ích của các bên trong tranh chấp. Do đó, việc
tiến hành hòa giải tiến hành mà không có tranh chấp sẽ không có ý nghĩa.
Đồng thời, hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa giải phải
có sự xuất hiện của chủ thể thứ ba. Bên thứ ba đóng vai trò trung gian hỗ trợ cho
các bên. Các bên trong tranh chấp thường mong muốn lợi ích của mình được đảm
bảo. Do đó, các bên ít đạt được tiếng nói chung khi không có sự hỗ trợ của bên thứ
ba. Bên thứ ba sẽ phân tích, giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp mà các bên có thể chấp
nhận được. Bên cạnh đó, bên thứ ba có thể đưa ra giải pháp để thuyết phục các bên.
1

Hội đồng biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản từ điển
Bách khoa Hà Nội, quyển 2 trang 319

GVHD: Trương Thanh Hùng


SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 4


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
Để hoạt động hòa giải có hiệu quả, bên thứ ba này phải là người không có quyền và
lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp.
Cuối cùng, trong hòa giải thì các bên trong chấp có quyền quyết định và tự
do định đoạt để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi các bên lựa chọn
phương pháp giải quyết tranh chấp thì không ai có quyền can thiệp vào quyết định
của các bên. Tuy nhiên, nếu cả hai bên trong tranh chấp đều muốn bảo vệ quyền và
lợi ích mình tuyệt đối thì không thể giải quyết được tranh chấp. Vì vậy, các bên
trong tranh chấp phải nhượng bộ nhau một ít để tìm ra giải pháp cân bằng lợi ích
giữa các bên. Từ đó, tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và đạt hiệu quả.
- Khái niệm và đặc điểm hòa giải trong tố tụng dân sự
Hòa giải là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật tố tụng dân sự. Cụ thể,
nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS).
Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án dân sự
và tạo điều kiện để các bên thỏa thuận với nhau giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc
này dựa trên cơ sở quyền tự do thỏa thuận giữa các chủ thể trong luật dân sự và đã
được cụ thể hóa trong chương XIII BLTTDS, bao gồm 8 điều luật quy định về trình
tự, thủ tục hòa giải tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, thì Tòa án phải tiến hành hòa giải để
các bên đạt được thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Hòa giải trong tố tụng dân sự
là một trường hợp đặc thù của hòa giải nói chung. Do đó, hòa giải trong tố tụng dân
sự cũng mang những đặc điểm chung của hoạt động hòa giải. Tuy nhiên, hoạt động
này cũng mang những đặc trưng riêng của hoạt động trong tố tụng dân sự.
Một là, hòa giải trong tố tụng dân sự chỉ được tiến hành khi giải quyết vụ án
dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự được áp dụng để giải quyết các vụ án dân sự và
việc dân sự. Tuy nhiên, khi giải quyết việc dân sự thì Tòa án không tiến hành hòa

giải bởi vì trong việc dân sự thì không có yếu tố tranh chấp. Việc dân sự chỉ là yêu
cầu của bên đưa ra yêu cầu về việc Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự
kiện pháp lý đã phát sinh. Đối với vụ án dân sự, các đương sự tranh chấp với nhau
về quyền và lợi ích hợp pháp. Do đó, hòa giải được tiến hành nhằm tìm ra giải pháp
giải quyết tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung.
Hai là, bên thứ ba đóng vai trò trung gian hòa giải là Tòa án. Tòa án có
nhiệm vụ tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về giải pháp giải quyết
tranh chấp. Đồng thời, Tòa án cũng có nhiệm vụ giúp đỡ, hỗ trợ các bên tìm ra giải
pháp có lợi nhất cho các bên. Tòa án là cơ quan được trao quyền xét xử. Tuy nhiên,
khi tiến hành hòa giải vụ án dân sự thì Tòa án chỉ đóng vai trò trung gian. Do đó,
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 5


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
Tòa án không được dùng mệnh lệnh ép buộc các bên chấp nhận giải pháp mà Tòa
án đưa ra để giải quyết vụ án. Sự lựa chọn cách thức chấm dứt tranh chấp là quyền
của đương sự. Khi các đương sự đã lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp thì
Tòa án phải tôn trọng nếu thỏa thuận các bên lựa chọn không vi phạm điều cấm của
pháp luật và trái đạo đức xã hội.
Cuối cùng, khi Tòa án tiến hành hòa giải thành thì sẽ có tính ràng buộc cao
hơn đối với các bên. Sau bảy ngày kể từ ngày hòa giải thành thì Tòa án sẽ ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự. Trong thời hạn bảy ngày này mà
các bên không thay đổi ý kiến thì kết quả hòa giải thành sẽ ràng buộc các bên. Nếu
bên có nghĩa vụ không tự nguyện thi hành thì bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan
thi hành án cưỡng chế thi hành.
Tóm lại, hòa giải trong tố tụng dân sự là hoạt động hòa giải vụ án dân sự
được tiến hành bởi Tòa án, nhằm giúp các đương sự tìm ra giải pháp giải quyết

tranh chấp có lợi cho các bên.
1.1.2. So sánh hòa giải với thỏa thuận
* Khái niệm và đặc điểm của thỏa thuận
Thỏa thuận là một phương pháp giải quyết tranh chấp mà các bên trong tranh
chấp cùng bàn bạc, thống nhất ý chí và đi đến một biện pháp giải quyết tranh chấp
có lợi nhất cho các bên. Trong quan hệ pháp luật dân sự, nguyên tắc tự do thỏa
thuận luôn được tôn trọng. Do đó, khi quan hệ dân sự xảy ra tranh chấp thì các bên
có quyền tự do thỏa thuận để giải quyết tranh chấp.Đây là hình thức giải quyết tranh
chấp phổ biến mà các bên trong tranh chấp thường lựa chọn trước khi áp dụng các
biện pháp giải quyết tranh chấp khác.
- Thỏa thuận mang một số đặc điểm cơ bản sau:
Trước hết, thỏa thuận là phương pháp giải quyết tranh chấp chỉ có các bên
trong tranh chấp. Do đó, các bên chủ động hơn trong quá trình giải quyết tranh
chấp. Các bên có thể dễ dàng thương lượng được thời gian và địa điểm giải quyết
tranh chấp. Bên cạnh đó, thỏa thuận chỉ có các bên trong tranh chấp nên các bên
thoải mái trao đổi ý kiến, quan điểm của mình mà vẫn đảm bảo được tính bí mật
trong tranh chấp. Đặc biệt, đối với các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thì
việc giữ bí mật trong tranh chấp là cần thiết, nếu không nó sẽ ảnh hưởng đến uy tín
của các bên trong tranh chấp.
Đồng thời, các bên trong tranh chấp cũng có quyền quyết định và quyền tự
định đoạt khi tiến hành thỏa thuận. Đây là quyền cơ bản của các bên trong quan hệ
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 6


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
pháp luật dân sự. Không bên nào được lừa dối, ép buộc bên kia chấp nhận giải pháp
mình đưa ra.

Cuối cùng, thỏa thuận được tiến hành ngoài tố tụng và trong tố tụng. Thỏa
thuận tiến hành ngoài tố tụng là giai đoạn giải quyết tranh chấp khi các bên chưa
khởi kiện vụ án tại Tòa án. Khi đó, các bên tự nguyện thỏa thuận để giải quyết tranh
chấp. Thỏa thuận trong tố tụng là các bên tiến hành thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Nhìn chung, thỏa thuận đạt được
trong tố tụng sẽ có giá trị pháp lý cao hơn do nó được đảm bảo thi hành bởi cơ quan
thi hành án.
* So sánh thỏa thuận với hòa giải
- Thỏa thuận và hòa giải đều là một trong những phương pháp giải quyết
tranh chấp trong đời sống dân sự. Do đó, cả hai phương pháp này đều có những đặc
điểm chung.
Trước hết, khi hòa giải và thỏa thuận thì các bên trong tranh chấp đều có
quyền quyết định và tự định đoạt. Đây là quyền cơ bản của các bên trong quan hệ
dân sự. Do đó, khi giải quyết tranh chấp thì các bên cũng có quyền tư do thỏa thuận
để giải quyết tranh chấp. Vì vậy, các bên trong tranh chấp phải nhượng bộ và cân
bằng lợi ích giữa các bên thì việc giải quyết tranh chấp mới mang lại hiệu quả cho
các bên.
Đồng thời, cả hai hoạt động giải quyết tranh chấp này đều được tiến hành
trong tố tụng và ngoài tố tụng. Thỏa thuận và hòa giải ngoài tố tụng chủ yếu phụ
thuộc vào sự chủ động và thiện chí của các bên để tiến hành giải quyết tranh chấp
cũng như thi hành các biện pháp đã đạt được. Đối với thỏa thuận và hòa giải trong
tố tụng, pháp luật quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục tiến hành cũng như các biện
pháp thi hành các thỏa thuận đã đạt được. Như vậy, hoạt động giải quyết tranh chấp
bằng thỏa thuận và hòa giải trong tố tụng có giá trị pháp lý cao hơn hoạt động thỏa
thuận và hòa giải ngoài tố tụng.
- Thỏa thuận và hòa giải là hai phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau
nên nó cũng có những khác biệt nhất định. Điểm khác biệt nổi bật nhất của hai hình
thức giải quyết tranh chấp này là số chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh
chấp. Đối với thỏa thuận, khi giải quyết tranh chấp thì chỉ có các bên tham gia vào
quá trình thương lượng, đàm phán để tìm ra biện pháp chấm dứt mâu thuẫn. Trong

khi đó, khi giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, ngoài các bên là chủ thể chính trong
tranh chấp thì còn có sự tham gia của chủ thể thứ ba đóng vai trò trung gian. Sự
tham gia của chủ thể này vừa là ưu điểm vừa là nhược điểm của hòa giải. Do đó,
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 7


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
phụ thuộc vào loại tranh chấp, cũng như mối quan hệ giữa các bên mà các bên chọn
giải pháp phù hợp để giải quyết tranh chấp của mình nhanh chóng, hiệu quả và có
lợi nhất cho các bên.
1.1.3. So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại
Ủy ban nhân dân (UBND)
* So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải cơ sở
- Khái quát chung về hòa giải cơ sở:
Hòa giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên đạt được
thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh
chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân phòng ngừa, hạn chế vi
phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư2.
Hòa giải cơ sở được tiến hành theo 4 nguyên tắc được ghi nhận trong Pháp
lệnh 09/1998/PL-UBTVQH10 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Một là, hòa giải cơ sở phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục tập quán của nhân dân. Người
dân có thể làm những điều mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, nó phải được thực
hiện trong khuôn khổ của đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Bên cạnh đó, việc tiến hành hòa giải ở cơ sở không được trái với phong tục tập
quán, đạo đức xã hội. Đây cũng chính là nguyên tắc xuyên suốt trong pháp luật dân
sự nói chung. Do đó, khi giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ

dân sự thì nguyên tắc này cũng phải được tôn trọng.
Hai là, hòa giải cơ sở phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên; không bắt
buộc, áp đặt các bên tranh chấp tiến hành hòa giải. Hòa giải cơ sở không phải là thủ
tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Do đó, các bên trong
tranh chấp có quyền lựa chọn có tiến hành hòa giải ở cơ sở hay không. Khi đã lựa
chọn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cơ sở, các bên vẫn có quyền lựa chọn giải
pháp có lợi nhất. Tổ hòa giải hoặc hòa giải viên không được ép buộc các bên lựa
chọn bất kỳ giải pháp nào.
Ba là, hòa giải phải được tiến hành khách quan, công minh, có lý, có tình;
giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích của công cộng. Bí mật đời tư của cá
nhân được pháp luật bảo vệ. Do đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp thì quyền
2

Điều 1 Pháp lệnh 09/1998/ PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 về tổ chức và hoạt động hòa giải ở
cơ sở

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 8


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
này của cá nhân cũng phải được tôn trọng. Kết quả hòa giải cơ sở là sự thỏa thuận
giữa các bên tranh chấp, không phải là bản án, quyết định của Tòa án hay cơ quan
nhà nước khác. Vì vậy, sự thỏa thuận này không được ảnh hưởng đến quyền lợi của
người khác, cũng như lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
Cuối cùng, cơ quan có trách nhiệm tiến hành hòa giải phải kịp thời, chủ
động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác

có thể xảy ra và đạt được kết quả hòa giải. Nguyên tắc này góp phần hạn chế những
hậu quả xấu cho tình làng nghĩa xóm. Mối quan hệ giữa các bên trong tranh chấp
cũng giảm bớt căng thẳng.
Hòa giải cơ sở luôn được khuyến khích để giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn
ở thôn, làng, ấp, xóm. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định những trường hợp không
được tiến hành hòa giải ở cơ sở vì tính chất quan trọng của tranh chấp, mâu thuẫn.
Theo đó, Pháp lệnh quy định ba trường hợp mà tổ hòa giải ở cơ sở không được tiến
hành hòa giải:
Trước hết, tổ hòa giải không được tiến hành hòa giải đối với tội phạm hình
sự. Chỉ có Tòa án có thẩm quyền ra đưa ra hình phạt đối với tội phạm. Tuy nhiên,
đối với các vi phạm pháp luật hình sự thuộc các trường hợp khởi tố theo yêu cầu
của bị hại mà người này không yêu cầu hoặc đã rút yêu khởi tố,và cũng không bị xử
lý vi phạm hành chính thì có thể tiến hành hòa giải ở cơ sở. Chẳng hạn, các hành vi
cố ý gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác…mà thiệt hại xảy ra
chưa lớn thì có thể hòa giải ở cơ sở.
Đồng thời, trường hợp hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý hành chính cũng
không được tiến hành hòa giải ở cơ sở. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
thuộc về các cơ quan hành chính và cán bộ hành chính có thẩm quyền. Tổ hòa giải
hoặc hòa giải viên chỉ là tổ chức xã hội ở địa phương không có thẩm quyền, cũng
như không được giao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Do đó, tổ hòa giải
hoặc hòa giải viên không được tiến hành hòa giải đối với các loại vi phạm pháp luật
này.
Trường hợp cuối cùng không được tiến hành hòa giải cơ sở là các vi phạm
pháp luật và các tranh chấp mà theo quy định của pháp luật thì không được tiến
hành hòa giải. Theo hướng dẫn của văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh 09/1998,
có bốn trường hợp mà theo quy định của pháp luật không được tiến hành hòa giải ở
cơ sở, bao gồm kết hôn trái pháp luật, gây thiệt hại đến tài sản nhà nước, tranh chấp
phát sinh từ giao dịch trái pháp luật, tranh chấp về lao động.

GVHD: Trương Thanh Hùng


SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 9


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
- So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự với hòa giải cơ sở
Hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải cơ sở đều là trường hợp cụ thể của
hòa giải nói chung. Do đó, cả hai trường hợp này đều mang những đặc điểm chung
của hòa giải nói chung. Trước hết, hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải cơ sở
đều là hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống dân sự. Tức là các
bên trong quan hệ pháp luật nội dung đã có mâu thuẫn về lợi ích. Mối quan hệ giữa
họ cần có một biện pháp để điều hòa lợi ích giữa các bên. Đồng thời, cả hai hình
thức hòa giải này đều có sự tham gia của chủ thể thứ ba. Chủ thể này đóng vai trò
trung gian, giúp đỡ các bên giải quyết tranh chấp. Cuối cùng, các bên tranh chấp có
quyền quyết định và tự định đoạt khi tiến hành giải quyết tranh chấp bằng hòa giải.
Tuy nhiên, các bên trong tranh chấp phải biết cân bằng lợi ích của nhau thì hoạt
động giải quyết tranh chấp này mới mang lại hiệu quả.
Dù vậy, hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt nhất định. Nguyên
nhân là do hai hình thức này được tiến hành ở hai giai đoạn khác nhau trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Các điểm khác biệt bao gồm:
Trước hết, hòa giải cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải
quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống dân sự. Nó là thủ tục hòa giải ngoài tố
tụng. Việc có lựa chọn tiến hành hòa giải ở cơ sở hay không là quyền của các bên
trong tranh chấp. Theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện tại, hòa
giải cơ sở không phải là thủ tục bắt buộc để Tòa án tiến hành thụ lý hay không thụ
lý đơn khởi kiện của đương sự. Trong khi đó, hòa giải trong tố tụng dân sự là một
thủ tục bắt buộc được tiến hành tại Tòa án. Theo đó, Tòa án phải tiến hành hòa giải
tất cả vụ án dân sự mà mình đã thụ lý giải quyết, trừ các trường hợp không được
tiến hành hòa giải và không tiến hành hòa giải được. Nếu Tòa án không tiến hành

hòa giải thì xem như vi phạm thủ tục nghiêm trọng. Đây là một trong những căn cứ
để Tòa án cấp trên hủy án.
Đồng thời, hai hình thức hòa giải này còn khác nhau ở phạm vi hòa giải. Hòa
giải trong tố tụng dân sự có phạm vi rộng hơn hòa giải ở cơ sở. Hòa giải trong tố
tụng dân sự tiến hành đối với tất cả các loại tranh chấp đã khởi kiện tại Tòa án, bao
gồm các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
động. Tuy nhiên, hòa giải ở cơ sở thường tiến hành đối với các tranh chấp nhỏ về
dân sự và hôn nhân, gia đình.
Cuối cùng, hiệu lực của kết quả hòa giải thành đối với hai hình thức này
cũng khác nhau. Đối với hòa giải ở cơ sở, việc thi hành thỏa thuận giữa các bên
được thực hiện trên cơ sở tự nguyện giữa các bên là chính. Tổ viên Tổ hòa giải
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 10


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
động viên, thuyết phục các bên thực hiện thỏa thuận3. Trong trường hợp một bên
muốn kéo dài việc giải quyết tranh chấp thì xem như mục đích của hòa giải ở cơ sở
không đạt được. Ngược lại, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại
phiên hòa giải được đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành án. Nếu bên có nghĩa vụ
không tự nguyện thi hành quyết định, bên có quyền có thể yêu cầu cơ quan thi hành
án cưỡng chế thi hành. Không phải mọi quyết định của Tòa án đều được thi hành.
Tuy nhiên, nhìn chung việc thi hành quyết định của Tòa án có tính khả thi cao hơn
vì pháp luật quy định rõ ràng, cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành quyết định công
nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự trong luật thi hành án dân sự.
* So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải tại Ủy ban nhân dân
- Khái quát chung về hòa giải tại Uỷ ban nhân dân (UBND)
UBND là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. UBND thực hiện chức

năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp phần đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất
trong bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở.4 Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện chức năng của mình thì UBND cũng tiến hành hòa giải đối với một
số tranh chấp nhất định. Việc thực hiện chức năng này của UBND chưa được thống
nhất và quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Các quy
định điều chỉnh chức năng hòa giải ở UBND nằm rải rác trong các văn bản quy
phạm pháp luật, mà chủ yếu là Luật đất đai 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
luật này.
Theo đó, khi giải quyết các tranh chấp đất đai thì hòa giải tại UBND cấp xã
nơi có đất tranh chấp là thủ tục bắt buộc (Điều 135 Luật đất đai 2003). Đây là thủ
tục phải được tiến hành trước khi các bên yêu cầu Tòa án nhân dân hoặc UBND có
thẩm quyền giải quyết. Thời hạn để UBND tiến hành hòa giải là 30 kể từ ngày nhận
được đơn. Việc hòa giải thành ở UBND góp phần giảm bớt gánh nặng cho Tòa án
trong việc giải quyết các tranh chấp đất đai. Kết quả hòa giải thành mà có thay đổi
hiện trạng về ranh giới, chủ sử dụng đất thì UBND cấp xã gởi biên bản hòa giải
thành đến Phòng tài nguyên và môi trường hoặc Sở tài nguyên và môi trường để
giải quyết theo quy định của pháp luật. Tức là làm cho thỏa thuận giữa các bên khi
tiến hành hòa giải có hiệu lực pháp luật. Như vậy, kết quả hòa giải ở UBND cũng
có cơ chế để thi hành cho dù nó chưa được đầy đủ và cụ thể.

3

Điều 14, pháp lệnh 09/1998 / PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 về tổ chức và hoạt động hòa giải
ở cơ sở

4

Điều 2 luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003

GVHD: Trương Thanh Hùng


SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 11


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
- So sánh hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải ở UBND
Hòa giải trong tố tụng dân sự và hòa giải ở UBND là các trường hợp cụ thể
của hòa giải nói chung. Do đó, hai hình thức này có mang những nét tương đồng
nhất định. Đầu tiên, cả hai hình thức giải quyết tranh chấp này đều mang những đặc
trưng cơ bản của hòa giải. Đồng thời, điểm tương đồng của hai hình thức hòa giải
này là thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết tranh chấp. Trong quá trình giải
quyết vụ án thì Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các
bên thỏa thuận với nhau. Đối với tranh chấp đất đai, các bên tranh chấp muốn khởi
kiện tại Tòa án hoặc yêu cầu UBND cấp có thẩm quyền giải quyết thì trước tiên các
bên phải thông qua hòa giải ở UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp. Nếu các bên
không thông qua giai đoạn này thì Tòa án và UBND cấp có thẩm quyền sẽ không
thụ lý giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, hai hình thức này cũng có những điểm khác biệt do đây là hai
trường hợp khác nhau của hòa giải. Cụ thể:
Trước hết, chủ thể đóng vai trò trung gian hòa giải trong hai hình thức này là
khác nhau. Tòa án đóng vai trò trung gian trong hoạt động hòa giải trong tố tụng
dân sự khi giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý. Hòa giải ở UBND thì chủ thể đóng vai
trò trung gian là UBND cấp xã khi giải quyết tranh chấp đất đai. Do chủ thể tiến
hành hòa giải là khác nhau nên trình tự, thủ tục trong quá trình hòa giải cũng khác
nhau. Theo đó, pháp luật quy định về trình tự, thủ tục khi tiến hành hòa giải trong tố
tụng dân sự rõ ràng và cụ thể. Trong khi đó, trình tự, thủ tục hòa giải tại UBND
không được quy định chặt chẽ, chỉ được quy định tại Điều 135 Luật đất đai 2003 và
Điều 159 Nghị định 181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai.
Đồng thời, hai hình thức hòa giải này còn khác nhau ở phạm vi hòa giải. Hòa

giải trong tố tụng dân sự áp dụng đối tất cả các loại tranh chấp đã được thụ lý tại
Tòa án. Trong khi đó, hòa giải ở UBND chỉ bắt buộc khi giải quyết tranh chấp đất
đai. Đối với các loại tranh chấp khác thì các bên cũng có thể yêu cầu UBND cấp xã
hòa giải nhưng đó không phải là thủ tục bắt buộc.
Cuối cùng, hiệu lực pháp luật của kết quả hòa giải thành của hai hình thức
này cũng khác nhau. Đối với hòa giải trong tố tụng dân sự, trình tự thủ tục thi hành
quyết định công nhận sự thỏa thuận được quy định đầy đủ và cụ thể trong luật thi
hành án dân sự. Ngược lại, kết quả hòa giải thành ở UBND chưa được quy định rõ
ràng về cách thức thi hành. Luật đất đai chỉ quy định cách thức thi hành đối với kết
quả hòa giải thành làm thay đổi ranh giới đất và chủ sử dụng đất, các vấn đề còn lại

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 12


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
chưa được quy định cụ thể. Do đó, việc thi hành kết quả hòa giải thành phụ thuộc
vào ý chí của các bên.
1.2. Nguyên tắc và phạm vi hòa giải trong tố tụng dân sự
1.2.1. Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự
Hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án (trừ trường hợp không được tiến hành hòa giải hoặc không tiến hành hòa
giải được). Hòa giải thành ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các đương
sự. Do đó, việc tiến thành hòa giải phải tiến hành theo những nguyên tắc nhất định
và đúng pháp luật. Hòa giải không thể được tiến hành một cách tùy tiện. Điều 180
BLTTDS 2004 quy định về các nguyên tắc hòa giải. Các nguyên tắc đó bao gồm:
Trước tiên, hòa giải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện thỏa
thuận của các đương sự, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực bắt buộc các

đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình. Nguyên tắc này dựa
trên quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự trong pháp luật tố tụng dân
sự nói chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự có quyền thỏa thuận
với nhau về phương án giải quyết tranh chấp. Đồng thời, nguyên tắc tự do thỏa
thuận cũng là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ pháp luật nội dung. Trong quan hệ
pháp luật dân sự, tự do thỏa thuận luôn được tôn trọng. Thỏa thuận giữa các bên chỉ
có hiệu lực pháp luật khi nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Với vai trò trung gian
hòa giải, Tòa án có thể giải thích về các quy định pháp luật có liên quan, về tình và
lý trong vụ án. Tòa án cũng có thể đưa ra những biện pháp hợp lý, hợp tình và có lợi
cho các bên để các bên lựa chọn. Tuy nhiên, việc chấp nhận hay không chấp nhận
là quyền của các đương sự. Trong quá trình xét xử, giải quyết vụ án như thế nào là
việc Hội đồng xét xử quyết định theo quy định của pháp luật. Theo đó, bản án có
hiệu lực pháp luật buộc các bên phải thi hành. Ngược lại, trong quá trình hòa giải
thì Tòa án chỉ đóng vai trò trung gian. Tòa án không được dùng mệnh lệnh hoặc các
biện pháp khác buộc các bên phải chấp nhận phương án do Tòa án đề nghị.
Tiếp theo, các đương sự có quyền tự do thỏa thuận nhưng nội dung các thỏa
thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là nguyên tắc xuyên suốt
trong các quan hệ pháp luật dân sự. Nội dung của tranh chấp là các quan hệ pháp
luật dân sự. Do đó, nguyên tắc này cũng cần phải được tôn trọng. Các bên có thể
thỏa thuận các biện pháp có lợi cho mình nhưng biện pháp đó không được trái với
quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, nếu các đương sự bắt buộc phải thỏa
thuận đúng với quy định pháp luật thì ở đây quyền thỏa thuận của các đương sự
không được đảm bảo. Khi đó, kết quả thỏa thuận của các đương sự không được trái
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 13


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng

với quy định pháp luật thì việc cho phép các bên thỏa thuận tại phiên hòa giải xem
như không có ý nghĩa. Do đó, Điều 180 quy định nội dung thỏa thuận giữa các
đương sự không được trái pháp luật là chưa phù hợp và dễ dẫn đến cách hiểu sai.
Như vậy, cụm từ “…không được trái pháp luật…” ở điểm b khoản 2 Điều 180
BLTTDS cần được thay thế bằng cụm từ “... không được vi phạm điều cấm của
pháp luật…”. Trong đó, điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật
không cho phép các chủ thể thực hiện những hành vi nhất định5. Bên cạnh đó, thỏa
thuận của các đương sự cũng không được trái đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là
những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được
cộng đồng tôn trọng và thừa nhận6. Trong các quan hệ pháp luật dân sự, các bên
phải tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Do đó, khi các bên thỏa
thuận giải quyết tranh chấp thì nguyên tắc này cũng cần phải được tôn trọng. Dù
vậy, những chuẩn mực được gọi là đạo đức xã hội cũng thay đổi trong các giai đoạn
lịch sử và không được quy định cụ thể như các quy phạm pháp luật. Do đó, đạo đức
xã hội rất khó xác định và cũng gây khó khăn cho những người áp dụng pháp luật.
Hai nguyên tắc trên là hai nguyên tắc cơ bản mà Tòa án, cũng như các đương
sự phải tôn trọng khi tiến hành hòa giải tại Tòa án. Bên cạnh đó, Tòa án cũng như
các đương sự phải chủ động, tích cực để hoạt động hòa giải trong tố tụng đạt hiệu
quả cao, giải quyết vụ án nhanh chóng.
1.2.2. Những trường hợp không được tiến hành hòa giải
Hòa giải là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ
án dân sự. Tuy nhiên, cũng có trường hợp mà Tòa án không được tiến hành hòa
giải. Nếu hòa giải những vụ án này thì kết quả hòa giải có thể sẽ trái với những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Cụ thể, BLTTDS 2004 quy định các trường hợp
không được tiến hành hòa giải ở Điều 181. Theo đó, có hai trường hợp mà Tòa án
không tiến hành hòa giải khi thụ lý giải quyết vụ án.
Trường hợp đầu tiên không được tiến hành hòa giải là yêu cầu đòi bồi
thường đến tài sản của Nhà nước. Tài sản của Nhà nước được hiểu là tài sản thuộc
hình thức sở hữu nhà nước.7 Theo đó, tài sản của Nhà nước bao gồm đất đai, rừng
tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn

nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình
5

Điều 128 Bộ luật dân sự 2005
Điều 128 Bộ luật dân sự 2005
7
Theo hướng dẫn của Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, hướng dẫn thi hành các quy định
trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS.
6

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 14


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao,
quốc phòng, an ninh cùng các tài sản do pháp luật quy định. Nhà nước thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với loại tài sản này.
Thiệt hại đến tài sản của Nhà nước được hiểu là các trường hợp tài sản Nhà
nước bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm
nghĩa vụ dân sự hay do các hành vi khác gây thiệt hại cho tài sản nhà nước. Yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại của Nhà nước là quan hệ pháp luật phát sinh giữa hai chủ
thể là bên gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước và bên được nhà nước giao sử
dụng tài sản và có yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp gây
thiệt hại đến tài sản của nhà nước đều không được tiến hành hòa giải. Theo hướng
dẫn của Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các
quy định trong phần thứ hai của BLTTDS (Nghị quyết 02/2006), khi thụ lý giải

quyết các vụ án yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản nhà nước thì Tòa án cần phân
biệt hai trường hợp:
Một là, trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức,
đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp do Nhà nước thực
hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này thì các
đơn vị được nhà nước giao tài sản không được quyền tự chủ, và định đoạt tài sản.
Do đó, các đơn vị này không có được quyền chủ sở hữu đối với tài sản được giao.
Nếu Tòa án tiến hành hòa giải các vụ án này và các bên có quyền thỏa thuận với
nhau thì có thể gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước. Vì vậy, để tránh tiêu cực
trong quá trình thỏa thuận giữa các bên, pháp luật tố tụng dân sự không cho phép
các bên thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc không cho phép
hòa giải không loại trừ các biện pháp khắc phục, hạn chế thiệt hại hoặc sự tự
nguyện bồi thường thiệt hại của bên gây ra thiệt hại. Đây là các yếu tố mà Tòa án
cân nhắc việc ra bản án của mình tại phiên tòa.
Hai là, trường hợp tài sản của Nhà nước được đầu tư vào doanh nghiệp nhà
nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của chủ sở hữu
khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà
doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu
trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Đây là trường hợp Tòa án vẫn tiến hành hòa giải trong quá trình thụ lý giải
quyết vụ án. Trong trường hợp này, khi giao tài sản cho các doanh nghiệp, Nhà
nước đã giao cho doanh nghiệp có quyền chủ sở hữu đối với tài sản đó. Do đó, các
doanh nghiệp này có quyền thỏa thuận với bên gây ra thiệt hại các phương án giải
quyết tranh chấp.
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 15



Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
Trường hợp thụ lý giải quyết những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp
luật hoặc đạo đức xã hội, Tòa án cũng không được tiến hành hòa giải đối với trường
hợp này. Đối với những vụ án loại này, Tòa án thường giải quyết theo hướng vô
hiệu các giao dịch. Khi đó, quyền và nghĩa vụ các bên sẽ không được pháp luật thừa
nhận. Khi tiến hành hòa giải nếu các bên thỏa thuận theo hướng tiếp tục thực hiện
giao dịch thì sẽ trái với nguyên tắc khi tiến hành hòa giải. Tuy nhiên, khi các bên có
tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã
hội, Tòa án vẫn tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp.
BLTTDS 2004 chỉ ghi nhận hai trường hợp Tòa án không được tiến hành
hòa giải. Trong khi đó, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989 còn ghi
nhận thêm hai trường hợp mà Tòa án không được tiến hành hòa giải. Đó là trường
hợp hủy hôn nhân trái pháp luật và các yêu cầu dân sự khác liên quan đến quyền
nhân thân của cá nhân. Trong Pháp lệnh 1989 không phân biệt khái niệm vụ án dân
sự và việc dân sự. Tuy nhiên, theo Điều 28 BLTTDS 2004 thì yêu cầu hủy hôn nhân
trái pháp luật là một yêu cầu về hôn nhân và gia đình. Các yêu cầu dân sự thì Tòa án
không tiến hành hòa giải bởi vì yêu cầu dân sự chỉ là việc yêu cầu Tòa án công nhận
hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý, không có tranh chấp. Do đó, BLTTDS
không liệt kê hai trường hợp này vào các trường hợp không được tiến hành hòa giải
là hợp lý.
1.2.3. Những trường hợp không tiến hành hòa giải được
Những trường hợp không tiến hành hòa giải được là các trường hợp theo quy
định của pháp luật thì Tòa án sẽ tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau mà việc hòa giải
không thể diễn ra. Đó là những trường hợp không tiến hành hòa giải được quy định
tại Điều 182 BLTTDS 2004. Theo đó, có 3 trường hợp không tiến hành hòa giải
được, bao gồm:
Trường hợp đầu tiên là bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn cố tình vắng mặt. Bị đơn là người bị cho rằng đã xâm phạm hoặc tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ với nguyên đơn. Do đó, khi đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ

hai mà bị đơn vẫn cố tình vắng mặt thì bị đơn được xem như là không muốn thỏa
thuận với nguyên đơn để giải quyết vụ án. Quy định này hạn chế sự trốn tránh, kéo
dài thời gian để gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của bị đơn. Trong trường
hợp này bị đơn tất nhiên phải được triệu tập đúng theo quy định của pháp luật.8 Nếu
bị đơn vắng mặt lần thứ hai mà có lý do chính đáng thì không thuộc trường hợp
8

Như thế nào là triệu tập đúng quy định pháp luật sẽ được trình bày ở phần 2.1.1

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 16


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
không tiến hành hòa giải được. Khi đó, Tòa án sẽ hoãn phiên hòa giải. Tuy nhiên, bị
đơn sẽ có nghĩa vụ chứng minh lý do chính đáng của mình.
Đối với nguyên đơn, khi Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì nguyên đơn xem như từ bỏ quyền khởi kiện của mình. Khi đó, Tòa án sẽ áp
dụng điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Quy định này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn. Khi nguyên đơn
đưa ra yêu cầu khởi kiện tại Tòa án mà cố tình trì hoãn sẽ gây những thiệt hại nhất
định cho bị đơn. Đặc biệt, trong quá trình giải quyết vụ án có áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời thì bị đơn còn bị ảnh hưởng lớn hơn.
Đồng thời, khi đương sự không thể tham gia phiên hòa giải vì có lý do chính
đáng cũng là trường hợp không tiến hành hòa giải được. Khi rơi vào trường hợp này
thì đương sự làm đơn gởi cho Tòa án và trình bày lý do. Khi đó, Tòa án sẽ lập biên
bản không tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi tiến
hành hòa giải trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định phương án giải

quyết tranh chấp. Do đó, khi mà họ không thể thực hiện quyền của mình thì việc
tiếp tục hòa giải của Tòa án không có ý nghĩ. Đồng thời, việc tiếp tục hòa giải còn
có thể gây khó khăn cho các đương sự và kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
Trường hợp cuối cùng Tòa án không tiến hành hòa giải được là trường hợp
đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân
sự. Trong vụ án ly hôn, Tòa án sẽ hòa giải theo hướng đoàn tụ. Nếu hòa giải đoàn tụ
không thành thì Tòa án hòa giải thuận tình ly hôn. Việc đoàn tụ hay thuận tình ly
hôn phải do các đương sự tự mình quyết định vì đây là quyền nhân thân không thể
chuyển giao được. Đối với các quyền tài sản, đương sự có thể thực hiện quyền của
mình thông qua người đại diện hoặc người giám hộ. Trong khi đó, người mất năng
lực hành vi dân sự là người không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình và đã có quyết định của Tòa án tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân
sự. Người mất năng lực hành vi dân sự đồng thời cũng không có năng lực tố tụng
dân sự. Do đó, họ không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa án. Như vậy,
BLTTDS quy định đây là trường hợp không tiến hành hòa giải được là hợp lý.
1.3. Lược sử hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn 1945- 1960
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đánh dấu sự phát triển mới của
nước ta. Từ đây, nước ta trở thành một nước độc lập. Để thực hiện tốt chức năng
quản lý nhà nước, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật đầu
tiên điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh. Trong đó, các văn bản điều chỉnh
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 17


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
vấn đề tố tụng được ban hành để giải quyết tranh chấp phát sinh trong đời sống xã
hội. Các văn bản đó bao gồm Sắc lệnh 13 ngày 24/01/1946 Sắc lệnh tổ chức Tòa án

và các ngạch Thẩm phán của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng
hòa (Sắc lệnh 13), Sắc lệnh 51 ngày 17/4/1946 Sắc lệnh ấn định thẩm quyền các
Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án của Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh 51), Sắc lệnh 85 ngày 22/5/1950 Sắc lệnh cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hòa (Sắc lệnh 85) và các văn bản khác có liên quan. Trong các sắc lệnh này
đều có điều chỉnh vấn đề hòa giải khi giải quyết tranh chấp của Tòa án.
Hệ thống Tòa án nước ta tổ chức theo Sắc lệnh 13 và Sắc lệnh 51 bao gồm
Ban tư pháp xã, Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm. Theo đó, Ban
tư pháp xã có trách nhiệm tiến hành hòa giải tất cả các việc dân sự và thương sự.
Khi tiến hành hòa giải thành thì Ban tư pháp xã lập biên bản hòa giải thành. Sắc
lệnh 13 chưa quy định rõ trình tự thủ tục tiến hành hòa giải cũng như hiệu lực của
biên bản hòa giải thành. Tiếp đến, Sắc lệnh 51 bước đầu quy định về hiệu lực của
biên bản hòa giải thành. Biên bản hòa giải thành của Ban tư pháp xã chỉ có hiệu lực
tư chứng thư. Tức là nó chỉ có hiệu lực đối với các bên. Đồng thời, Sắc lệnh 51
cũng có quy định Tòa án sơ cấp phải thử hòa giải khi nhận được đơn khiếu kiện về
dân sự và thương sự. Tuy nhiên, biên bản hòa giải thành của Tòa án sơ thẩm có hiệu
lực cao hơn biên bản hòa giải thành của Ban tư pháp xã. Biên bản này có hiệu lực
như công chứng thư. Ngoài ra, Sắc lệnh 51 còn quy định trước khi tiến hành giải
quyết tranh chấp ở Tòa đệ nhị cấp đều phải đưa về cho Tòa án sơ cấp hòa giải trước.
Trong ba sắc lệnh ban hành trong giai đoạn 1945-1960 điều chỉnh lĩnh vực tố
tụng, Sắc lệnh 85 quy định rõ ràng, chi tiết hơn hai sắc lệnh còn lại. Theo đó, Tòa
án nhân dân cấp huyện (Tòa án sơ cấp theo các sắc lệnh trước đó) tiến hành hòa giải
các vụ việc dân sự và thương sự (trừ trường hợp mà pháp luật không cho phép các
bên điều đình). Tuy nhiên, Sắc lệnh cũng chưa quy định rõ ràng trường hợp nào là
trường hợp không được tiến hành hòa giải. Đó có thể là các trường hợp liên quan
đến các giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội. Biên bản
hòa giải thành có hiệu lực là một công chính chứng thư và có thể được chấp hành
ngay. Hiệu lực của biên bản hòa giải thành giống như bản án sơ thẩm vì nó có thể
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể

từ ngày phòng biện lý nhận được biên bản hòa giải thành. Người bị thiệt hại do kết
quả hòa giải thành cũng có 15 ngày để kháng cáo kể từ ngày biết được biên bản hòa
giải thành hoặc sự chấp hành của biên bản.
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 18


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
Tóm lại, trong giai đoạn 1945-1960, các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh lĩnh vực tố tụng nói chung còn ít và chưa có sự phân biệt giữa tố tụng dân sự
và tố tụng hình sự. Nguyên nhân là do giai đoạn này nước ta mới giành được độc
lập, nhiệm vụ chính của giai đoạn này là giữ vững nền độc lập của miền Bắc và giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, hòa giải trong tố tụng dân sự
luôn được chú trọng và được quy định trong các sắc lệnh nêu trên. Các văn bản quy
phạm pháp luật ban hành sau quy định rõ ràng và cụ thể hơn các văn bản ban hành
trước đó. Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật thời kỳ này còn ít, quy định
chưa rõ ràng, cụ thể về các vấn đề cơ bản như thông báo hòa giải, nội dung hòa giải,
tiến hành phiên hòa giải. Nhưng nó cũng đủ khả năng để giải quyết tranh chấp phát
sinh trong giai đoạn này.
1.3.2. Giai đoạn 1960-1989
Giai đoạn này được đánh dấu bằng sự ra đời của Luật tổ chức Tòa án nhân
dân 1960, sau đó là Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1980. Hệ thống Tòa án được tổ
chức thống nhất và chặt chẽ hơn, bao gồm Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân
dân địa phương. Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp tại Tòa án chưa được thống nhất trong văn bản cụ thể, mà nằm chủ
yếu nằm trong các Thông tư do Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Các quy phạm
pháp luật điều chỉnh vấn đề hòa giải trong tố tụng dân sự chủ yếu nằm trong hai
Thông tư của Tòa án nhân dân tối cao, bao gồm Thông tư 3-NCLP ngày 03/3/1966

của Tòa án nhân dân tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn, Thông tư số 25TATC ngày 30/11/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn công tác hòa giải.
Theo đó, hòa giải tại Tòa án là giai đoạn bắt buộc trong quá trình giải quyết
vụ án dân sự. Pháp luật tố tụng thời kỳ cũng có quy định những trường hợp ngoại lệ
mà Tòa án không được tiến hành hòa giải. Đây là những trường hợp mà theo quy
định của pháp luật là các bên không được tiến hành điều đình. Các trường hợp mà
Tòa án không được tiến hành hòa giải bao gồm:
Trước hết, trong các vụ án hôn nhân và gia đình thì Tòa án không được tiến
hành hòa giải trong một số trường hợp. Các trường hợp này chủ yếu là các quan hệ
nhân thân giữa các đương sự trong vụ kiện. Trường hợp đầu tiên là các vụ kiện ly
hôn mà một bên mất trí. Trong quan hệ pháp luật này, các bên phải tự mình quyết
định, không thể chuyển giao cho người khác. Do đó, khi mà một bên trong quan hệ
mất trí thì không thể tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau giải quyết vụ
án. Bên cạnh đó, việc tiêu hôn và những tranh chấp về thân phận con người cũng là
trường hợp mà Tòa án không được tiến hành hòa giải. Việc tiêu hôn xuất phát từ
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 19


Đề tài: Hòa giải trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng
quan hệ hôn nhân trái pháp luật. Thân phận con người không thể giải quyết bằng
việc thỏa thuận giữa các bên, mà nó phải được chứng minh bằng cơ sở khoa học.
Khi đó, bản án, quyết định của Tòa án mới phản ánh được sự thật khách quan.
Trong các quan hệ hôn nhân, Tòa án cũng không tiến hành hòa giải đối với trường
hợp thuận tình ly hôn.
Tiếp theo, đối với các tranh chấp về kinh tế, tài sản mà nội dung của các giao
dịch bắt nguồn từ giao dịch bất hợp pháp thì Tòa án cũng không được tiến hành hòa
giải. Đây là các giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong giao dịch này sẽ không được pháp luật thừa

nhận và bảo vệ. Do đó, các bên không có quyền thỏa thuận với nhau để giải quyết
tranh chấp. Đồng thời, Tòa án cũng không được tiến hành hòa giải đối với các vụ
kiện dân sự do Viện kiểm sát khởi tố.
Trừ các trường hợp không được tiến hành hòa giải như trên, Tòa án sẽ tiến
hành hòa giải đối với các vụ kiện dân sự phát sinh tại Tòa án. Quyết định công nhận
sự thỏa thuận giữa các đương sự sẽ có hiệu lực như một bản án sơ thẩm. Do đó,
quyết định này sẽ bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quy định này
làm cho việc giải quyết vụ án kéo dài thêm, trong khi đó các bên đã thỏa thuận giải
quyết vụ án. Nếu một trong các bên lợi dụng quy định này để kéo dài việc giải
quyết vụ án thì sẽ làm cho việc giải quyết vụ án kéo dài thêm mà không mang lại
hiệu quả.
1.3.3. Giai đoạn 1989 - 2005
Ngày 07/11/1989 Hội đồng nhà nước đã ban hành Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự. Đây là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên thống nhất các
các quy định về giải quyết vụ án dân sự. Pháp lệnh này quy định về trình tự, thủ tục
giải quyết vụ án từ giai đoạn khởi kiện đến khi ra bản án. Trong đó, thủ tục hòa giải
trong tố tụng dân sự có nhiều điểm khác biệt so với thời kỳ trước.
Hòa giải trong tố tụng dân sự không phải là chế định mới trong pháp luật tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chế định hòa giải được quy định rõ
ràng, chi tiết hơn. Theo đó, Tòa án bắt buộc phải tiến hành hòa giải trước khi mở
phiên tòa sơ thẩm đối với tất cả vụ án dân sự, trừ trường hợp không được tiến hành
hòa giải quy định tại Điều 43 Pháp lệnh. Pháp lệnh chưa có sự phân biệt giữa vụ án
dân sự và việc dân sự, chỉ gọi chung là vụ án dân sự. Tuy nhiên, hòa giải cũng chỉ
có thể tiến hành đối với những vụ án có tranh chấp, mâu thuẫn trong quan hệ pháp
luật nội dung. Đối với những trường hợp không có tranh chấp trong quan hệ pháp
luật nội dung, Pháp lệnh đã liệt kê vào các trường hợp không được tiến hành hòa
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Trần Hồng Ca
Trang 20



×