Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

quản lý thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế huyện thuận thành, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
---------------***-------------

TRỊNH THỊ VÂN ANH

QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI CÁC HỘ KINH DOANH CÁ
THỂ TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN THUẬN THÀNH,
TỈNH BẮC NINH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được bảo vệ một học vị
khoa học hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn
trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn


Trịnh Thị Vân Anh

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page i


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân.
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS Lê Hữu Ảnh, người thầy đã
trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, thực hiện nghiên cứu đề
tài và hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân trọng gửi lời cảm ơn đến Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Quý
thầy cô Khoa Kế toán và QTKD, Bộ môn Tài chính đã giúp đỡ tôi hoàn thành quá
trình học tập và thực hiện Luận văn của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo, các đồng nghiệp đang công tác tại Cục
thuế tỉnh Bắc Ninh, UBND huyện Thuận Thành, Chi cục thuế, Chi cục thống kê
huyện Thuận Thành, các ban ngành địa phương cùng với các hộ kinh doanh trên địa
bàn huyện đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp thông tin cần thiết cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên và giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình học tập và thực hiện Luận văn này.
Tôi xin chân thành cám ơn./.

Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Trịnh Thị Vân Anh


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Danh mục bảng

vi

Danh mục hình, sơ đồ

viii

Danh mục chữ viết tắt

ix


MỞ ĐẦU

1

1
1.1

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

2

1.2.1

Mục tiêu chung

2

1.2.2

Mục tiêu cụ thể

2

1.3


Phạm vi nghiên cứu

2

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THUẾ HỘ
KINH DOANH CÁ THỂ

3

2.1

Cơ sở lý luận về quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể

3

2.1.1

Những vấn đề chung về thuế

3

2.1.2

Những nội dung cơ bản về quản lý thuế

11


2.1.3

Hộ kinh doanh cá thể và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

14

2.1.4

Nội dung quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

21

2.1.5

Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế đối với hộ
kinh doanh

32

2.2

Cơ sở thực tiễn về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

35

2.2.1

Các công trình nghiên cứu có liên quan

35


2.2.2

Kinh nghiệm và bài học thực tiễn

36

3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

45

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

45

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iii


3.1.1

Điều kiện tự nhiên

45


3.1.2

Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội

45

3.1.3

Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi
trường

3.1.4

49

Khái quát về sự phát triển của hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn
huyện Thuận Thành.

51

3.2

Giới thiệu về Chi cục Thuế huyện Thuận Thành

52

3.2.1

Chức năng, nhiệm vụ


52

3.2.2

Đặc điểm tổ chức bộ máy

55

3.2.3

Kết quả hoạt động

59

3.3

Phương pháp nghiên cứu

61

3.3.1

Khung phân tích

61

3.3.2

Phương pháp thu thập và xử lý


62

3.3.3

Phương pháp phân tích thông tin

63

3.3.4

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá công tác quản lý đối với hộ kinh
doanh cá thể trên địa bàn

64

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

66

4.1

Thực trạng công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại
Chi cục Thuế huyện Thuận Thành

4.1.1

66


Quy trình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa
bàn huyện Thuận Thành

66

4.1.2

Công tác quản lý kê khai, đăng ký thuế và phân loại hộ cá thể

69

4.1.3

Công tác cấp mã số thuế, quản lý danh bạ hộ kinh doanh

72

4.1.4

Công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa
bàn huyện Thuận Thành

74

4.2

Đánh giá công tác quản lý thuế qua điều tra các nhóm hộ

86


4.2.1

Những thông tin chung về chủ hộ kinh doanh

86

4.2.2

Quản lý căn cứ tính thuế

89

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv


4.2.3

Đánh giá của hộ về quản lý thuế và các khoản thuế phải nộp

4.2.4

Đánh giá của hộ về sự công bằng đối với công tác quản lý thuế

91

trong điều kiện suy thoái kinh tế
4.3


93

Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công
tác quản lý thuế trên địa bàn huyện Thuận Thành

4.3.1

95

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý đăng ký, kê khai thuế và
phân loại hộ

95

4.3.2

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế hộ kinh doanh

96

4.3.3

Nâng cao công tác quản lý nợ đọng

97

4.3.4

Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động thu thuế


98

4.3.5

Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế

99

5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

100

5.1

Kết luận

100

5.2

Kiến nghị

101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


103

Page v


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

3.1

Giá trị sản xuất và cơ cấu kinh tế của huyện (2011-2013)

47

3.2

Giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo ngành nghề (2011-2013)

47

3.3

Số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn huyện Thuận Thành
(2011-2013)

3.4


49

Tình hình quản lý hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện
Thuận Thành

51

3.5

Cơ cấu tổ chức cán bộ của Chi cục qua 3 năm (2011-2013)

56

3.6

Tổng hợp số thu tại Chi cục Thuế Thuận Thành (2011-2013)

60

4.1

Phân loại hộ kinh doanh cá thể theo phương pháp nộp thuế

71

4.2

Số lượng hộ kinh doanh phân theo ngành nghề trên địa bàn
huyện Thuận Thành năm 2011 – 2013


4.3

72

Tình hình cấp mã số thuế hộ kinh doanh tại Chi cục Thuế
Thuận Thành

73

4.4

Công tác quản lý doanh thu, mức thuế đối với hộ khoán

75

4.5

Kết quả điều tra doanh thu năm 2013

76

4.6

Doanh thu và mức thuế khoán bình quân của hộ kinh doanh
năm 2013

78

4.7


Tổng hợp dự toán thu ngân sách năm 2011-2013

80

4.8

Kết quả thu nộp thuế hộ kinh doanh cá thể

81

4.9

Tổng hợp kết quả thu thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể năm
2011 – 2013

81

4.10 Tổng hợp nợ đọng thuế của hộ kinh doanh cá thể

83

4.11 Phân loại tiền nợ thuế theo tuổi nợ đến năm 2013

84

4.12 Kết quả kiểm tra hộ nghỉ kinh doanh

85


4.13 Thông tin chung về chủ hộ

88

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vi


4.14 Tổng hợp số lương lao động, doanh thu, mức thuế đang thực hiện
và mặt bằng kinh doanh

90

4.15 Tổng hợp chung đánh giá của hộ về quản lý thuế và các khoản
thuế phải nộp

92

4.16 Tổng hợp đánh giá của hộ về sự công bằng trong công tác quản lý
thuế trong điều kiện suy thoái kinh tế

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

94

Page vii


DANH MỤC HÌNH, SƠ ĐỒ


Hình 3.1

Bản đồ hành chính huyện Thuận Thành

46

Sơ đồ 3.1

Tổ chức bộ máy Chi cục Thuế huyện Thuận Thành

57

Sơ đồ 3.2

Khung phân tích

61

Sơ đồ 4.1

Quy trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

68

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page viii



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GTGT

: Giá trị gia tăng

KBNN

: Kho bạc Nhà nước

MB

: Môn bài

NSNN

: Ngân sách Nhà nước

NQD

: Ngoài quốc doanh

TNCN

: Thu nhập cá nhân

TNDN

: Thu nhập doanh nghiệp

TTĐB


: Tiêu thụ đặc biệt

UBND

: Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ix


1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thuế là một trong những công cụ quan trọng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của
mỗi quốc gia. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, thuế không chỉ là nguồn
thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ điều tiết thu nhập, thực hiện bình
đẳng công bằng xã hội mà thuế còn có vai trò thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển, góp phần tăng trưởng nhanh nền kinh tế.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước,
chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải cách cơ chế quản lý thuế theo
hướng tạo hành lang pháp luật trong chính sách thuế, quản lý thuế, nâng cao trách
nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà
nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế phù hợp với lộ trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Nhờ đó, số thu từ thuế tăng đều qua các năm, luôn trở thành nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển
của đất nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường của cả nước, Đảng ta
luôn coi trọng thành phần kinh tế tư nhân, luôn tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi
để các thành phần kinh tế cùng phát triển và thực tế những năm qua với một cơ chế
đơn giản, năng động lực lượng hộ kinh doanh cá thể của cả nước đã không ngừng

lớn mạnh, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên công tác quản lý thuế nói chung và quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể nói riêng vẫn còn tồn tại những mặt còn hạn chế, thiếu sót như: vẫn
còn tồn tại tình trạng người nộp thuế trốn, lậu thuế, thất thu thuế, khả năng khai thác
nguồn thu chưa sát với tiềm năng, công tác quản lý thuế còn yếu kém ở một số lĩnh
vực, chưa đẩy mạnh ứng dụng tin học vào công tác quản lý thuế. Bên cạnh đó, ý
thức về trách nhiệm đối với thuế của người nộp thuế nói riêng và người dân nói
chung chưa tốt. Từ đó làm giảm hiệu quả quản lý của một số sắc thuế, ảnh hưởng
đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Tình hình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế huyện
Thuận Thành những năm qua đã đạt được những thành tích nhất định. Tuy nhiên

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1


công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn còn gặp nhiều điều
bất cập, từ việc đăng ký thuế, xác định doanh thu, tính thuế đến việc thu thuế, kiểm
tra, thanh tra thuế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, tình trạng thất thu, nợ đọng
khá phổ biến, vẫn còn bỏ sót hộ chưa đưa vào quản lý, doanh thu chưa sát thực tế.
Trong khi hộ kinh doanh cá thể ngày càng phát triển nhanh cả về số lượng lẫn quy
mô và là thành phần không thể thiếu trong các hoạt động kinh tế của địa bàn nói
riêng và trên nền kinh tế quốc dân nói chung. Do đó, Chi cục Thuế huyện Thuận
Thành cần tăng cường công tác quản lý thuế nhằm quản lý tốt các đối tượng này,
không bỏ sót nguồn thu, hạn chế thấp nhất hiện tượng thất thu thuế.
Xuất phát từ thực tế cũng như tính cấp thiết của việc kiểm soát nguồn thu từ các
hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn, tôi lựa chọn đề tài: “Quản lý thuế đối với các hộ kinh
doanh cá thể tại Chi cục Thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh” để làm luận văn
thạc sĩ của mình.


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng tình hình quản lý thuế đối với hộ
kinh doanh cá thể trên địa bàn để đề xuất giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao hiệu
quả trong công tác quản lý, nhằm chống thất thu thuế hộ kinh doanh cá thể trên địa
bàn huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế và quản lý thuế đối với hộ
kinh doanh cá thể.
- Đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể
tại Chi cục Thuế huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn.

1.3 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn trong lĩnh vực quản lý thu thuế
hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục Thuế huyện Thuận Thành từ năm 2011 đến năm
2013. Các giải pháp từ năm 2014 đến năm 2020.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ THUẾ
HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
2.1 Cơ sở lý luận về quản lý thuế hộ kinh doanh cá thể
2.1.1 Những vấn đề chung về thuế
2.1.1.1 Khái niệm về thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn

chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác độ nghiên cứu có nhiều
khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn
nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu,
chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo quan niệm
của Ph.Ăngghen: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp
của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá..." (Mac - Ăngghen, 1962).
Với quan điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì quyền lực Nhà
nước. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một Nhà nước có giai
cấp (một giai cấp giành được quyền thống trị) thì thuế thực ra là khoản đóng góp bắt
buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp không phải là giai cấp
cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cai
trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công dân và sẽ bằng nhiều cách để tránh thuế
và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà kinh tế có quan điểm xã
hội trong việc củng cố lập trường đấu tranh giai cấp ( Tổng cục thuế, 2011).
Bên cạnh đó, cũng có những quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận
trên các bình diện khác nhau. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh
Chrisopher Pass and Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho
rằng: Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận
được của các cá nhân hay doanh nghiệp, trên việc chi tiêu về hàng hóa và dịch vụ
và trên tài sản ( Tổng cục thuế, 2011).
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu trong cuốn
"Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ Makkollhell and Bruy-M (1993), dựa trên cơ
sở đối giá như sau: "Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc bằng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3


hàng hóa, dịch vụ) của các công ty hoặc các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong

sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hóa, dịch vụ nào cả, khoản tiền
đó không phải là tiền phạt mà tòa án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật".
Trong quan điểm này người ta chỉ nhìn nhận thuế trên giác độ các đối tượng nộp
thuế và đối tượng chịu thuế, không nói đến việc sử dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể
hiện việc đánh thuế như là một nghĩa vụ công dân của các doanh nghiệp và hộ gia
đình với đất nước mình đang kinh doanh hoặc sinh sống. Các quan điểm này cũng
chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định
( Tổng cục thuế, 2011).
Trên giác độ phân phối thu nhập định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ
tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ( Tổng cục thuế, 2011).
Trên giác độ người nộp thuế thì : Thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc
mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
( Tổng cục thuế, 2011).
Trên giác độ kinh tế học thì: Thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó Nhà
nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang
khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà ( Tổng cục
thuế, 2011).
Những khái niệm về thuế nêu trên mới chỉ nhấn mạnh một chiều theo quan
niệm của từng góc độ khác nhau nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất
của thuế. Đến nay tuy chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế, nhưng các nhà
kinh tế đều thống nhất cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế, thì định nghĩa về
thuế phải nêu bật được các khía cạnh sau:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà
nước với các pháp nhân và thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp.
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách
quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt – việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 4


theo mệnh lệnh của Nhà nước.
- Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã
được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung.
Trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau, thì
một định nghĩa về thuế vẫn còn đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế
thị trường, điển hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze trong Giáo trình tài chính
công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm
về thuế như sau: Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với Nhà nước; không mang tính chất
đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho
các nhu cầu chi tiêu công cộng ( Tổng cục thuế, 2011).
2.1.1.2 Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu
trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử
dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung, nhằm sử dụng cho mục đích công
cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như: phí, lệ phí, tiền
phạt, giá cả. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong nền kinh tế
thị trường như sau:
- Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc thuế
là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng hiện
vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền kinh
tế phi thị trường. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hóa bằng tiền đã
làm cho thuế phát triển, và ngược lại việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã
góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người

nộp thuế trong trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra
thành tiền để thanh toán tiền nợ thuế.
- Luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong hiến pháp Đạo luật gốc của một quốc gia. Mặt khác, tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở
chỗ Nhà nước không thực hiện thu thuế một cách tùy tiện mà phải dựa trên những
cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ
quan quyền lực Nhà nước ban hành. Theo quan điểm này công dân không có quyền
từ chối trả thuế, cũng không có quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của
mình mà chỉ có quyền chấp hành.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình
thức động viên tài chính cho NSNN.
- Luôn gắn liền với thu nhập
Nhà nước thực hiện thu thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm
xã hội và thu nhập quốc dân, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người
nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một
sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế.
- Không hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng
+ Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá.
Về mặt pháp lý thuế không phải là giá cả của dịch vụ cung cấp. Vì vậy người
nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách viện cớ là Nhà
nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. Họ cũng không thể đòi hỏi số tiền thuế
do họ nộp phải phân bổ cho dịch vụ công này hay hoạt động khác.
+ Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được dùng phục vụ trực tiếp
cho người nộp thuế. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng

hóa, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình thì mới nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp
thuế sẽ nhận được một phần các hàng hóa, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung
cấp cho cả cộng đồng, phần giá trị mà người nộp thuế được hưởng không nhất thiết
phải tương đồng với khoản thuế mà họ nộp cho Nhà nước ( Tổng cục thuế, 2011).
2.1.1.3. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà
nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua các hoạt động thu thuế Nhà

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


nước tập trung được các của cải xã hội từ đó hình thành nên quỹ ngân sách Nhà
nước và thực hện các chính sách kinh tế xã hội.
- Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách hình
thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công cộng đó là
NSNN. NSNN được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác nhau, trong tất cả các nguồn
thông thường số thu từ thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số thu NSNN. Đây
là nguồn thu ổn định nhất được kế hoạch hóa tốt trên cơ sở dự báo kế hoạch và tiềm
năng phát triển kinh tế của đất nước trong mỗi năm.
- Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch
lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị
trường càng phát triển thì sự phân hóa giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày
càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của
sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp
nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ
thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân

cư gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vậy Nhà nước phải can thiệp vào quá trình phân
phối thu nhập, của cải xã hội và thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng
để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế TNCN với việc sử dụng thuế suất lũy
tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công
bằng xã hội.
- Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất
kinh doanh, đảm bảo thực hiện tốt quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời
sống kinh tế, xã hội .
Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn đề cơ bản của nền kinh tế (sản
xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân loại, cơ chế thị trường
thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7


thích tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã
hội hoá sản xuất, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất.
Bên cạnh những ưu điểm đó, cơ chế thị trường có nhược điểm là gây cho xã
hội những lãng phí về lao động, tài nguyên, vốn dẫn đến độc quyền thủ tiêu cạnh
tranh. Với cơ chế phân phối qua thị trường thường khoét sâu hố ngăn cách giữa
người giầu và người nghèo, tạo sự bất ổn định về kinh tế xã hội.
Từ những ưu, nhược điểm đó cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước vào
quá trình kinh tế - xã hội để phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường và hạn
chế tối đa những nhược điểm của chúng. Để quản lý, điều hành vĩ mô nền kinh tế xã
hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ như: Kế hoạch hoá, pháp luật, các chính sách
tài chính tiền tệ. Trong các công cụ trên thì chính sách tài chính tiền tệ đóng vai trò
quan trọng nhất và thuế là một công cụ quan trọng trong chính sách tài chính tiền tệ,

thuế được nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò quản lý vĩ mô kinh tế xã hội.
- Thuế kích thích sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm.
Để thực hiện các mục tiêu này, một trong những công cụ quan trọng mà nhà
nước sử dụng là chính sách thuế. Nội dung điều tiết của thuế gồm hai mặt: Kích
thích và hạn chế. Nhà nước đã sử dụng chính sách thuế một cách linh hoạt trong
từng thời kỳ nhất định, bằng việc tác động vào cung - cầu nhằm điều chỉnh chu kỳ
kinh doanh - một đặc trưng vốn có của nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế suy thoái, tức là khi đầu tư ngừng trệ, sản xuất và tiêu dùng
đều giảm thì nhà nước dùng thuế để kích thích đầu tư và khuyến khích tiêu dùng.
+ Bằng việc giảm thuế đánh vào sản xuất, giảm thuế đối với hàng sản xuất
ra để khuyến khích tạo lợi nhuận, kích thích việc đầu tư vào sản xuất.
+ Bằng việc giảm thế đánh vào tiêu dùng nhằm khuyến khích tiêu dùng.
+ Để hạn chế và gây áp lực đối với việc lưu giữ vốn không đưa vào đầu tư,
có thể tăng thuế đánh vào thu nhập về tiền gửi tiết kiệm và thu nhập về tài sản dự
trữ, từ đó sẽ khuyến khích việc đưa vốn vào đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Khi nền kinh tế hưng thịnh, để ngăn chặn nguy cơ một nền kinh tế “nóng”
phát triển dẫn đến lạm phát và khủng hoảng thừa thì nhà nước dùng thuế để giảm
tốc độ đầu tư ồ ạt và giảm bớt mức tiêu dùng của xã hội. Song việc tăng thuế phải

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


được xem xét trong một giới hạn cho phép để đảm bảo vừa tăng nguồn thu cho
NSNN vừa điều chỉnh cơ cấu ngành nghề hợp lý.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của thuế có ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế, đến việc điều tiết kinh tế thị trường của Nhà nước. Thông qua thuế, Nhà
nước thực hiện định hướng phát triển sản xuất. Chính sách thuế có định hướng phân
biệt, có thể góp phần tạo ra sự phát triển cân đối hài hoà giữa các ngành, các khu

vực, các thành phần kinh tế, làm giảm bớt chi phí xã hội và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường xảy ra các chu kỳ kinh doanh đó là chu kỳ dao
động lên xuống về mức độ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát, sự ổn định nền kinh tế với
tình trạng có đầy đủ công ăn việc làm, lạm phát ở mức thấp để thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng bền vững là hướng phấn đấu nỗ lực của mọi chính phủ nhằm san bằng
chu kỳ kinh doanh, đưa giá cả về mức ổn định.
- Thuế thực hiện vai trò tái phân phối các nguồn tài chính, góp phần đảm
bảo công bằng xã hội.
Kinh tế thị trường làm ra tăng sự phân hoá giàu nghèo, sự phân hoá này có
những khi bất hợp lý và làm giảm tính hiệu quả kinh tế - xã hội. Do vậy, cần phải có
những biện pháp phân phối lại của cải xã hội nhằm hạn chế sự phân hoá này, làm
lành mạnh xã hội.
Nhà nước dùng thuế để điều tiết phần chênh lệch giữa người giàu và người
nghèo, thông qua việc trợ cấp hoặc cung cấp hàng hoá công cộng. Thông qua thuế
thu nhập, Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh vĩ mô trong lĩnh vực tiền lương và
thu nhập, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo và tiến tới công bằng xã hội. Một khía
cạnh khác của chính sách thuế nhằm điều chỉnh thu nhập là các khoản thuế đánh
vào tiêu dùng: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng.
Với những hàng hóa dịch vụ thiết yếu việc giảm thuế sẽ có lợi cho người
nghèo hơn và sự chênh lệch về thu nhập cũng được giảm bớt. Trái lại những mặt
hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần phân phối lại một bộ phận thu nhập
của người giàu trong xã hội. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ thuế để điều chỉnh thu
nhập, mức thu nên xây dựng hợp lý tránh tình trạng điều tiết quá lớn làm giảm khát

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


vọng làm giàu của nhà kinh doanh và giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của

đất nước.
- Thuế là công cụ kiềm chế lạm phát.
Nguyên nhân của lạm phát có thể do cung cầu làm cho giá cả hàng hoá tăng
lên hoặc do chi phí đầu vào tăng. Thuế được sử dụng để điều chỉnh lạm phát, ổn
định giá cả thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì Nhà nước dùng thuế để điều chỉnh
bằng cách giảm thuế đối với các yếu tố sản xuất, giảm thuế thu nhập để kích thích
đầu tư sản xuất ra nhiều khối lượng sản phẩm nhiều hơn. Đồng thời tăng thuế đối
với hàng hoá tiêu dùng để giảm bớt cầu. Nếu lạm phát do chi phí tăng, gia tăng thất
nghiệp, sự trì trệ của tốc độ phát triển kinh tế, giá cả đầu vào tăng, nhà nước dùng
thuế hạn chế tăng chi phí bằng cách cắt giảm thuế đánh vào chi phí, kích thích tăng
năng suất lao động.
- Thuế góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và tạo điều kiện hoà nhập
nền kinh tế thế giới.
Bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước tránh khỏi sự cạnh tranh khốc liệt
từ bên ngoài được coi là hết sức cần thiết đối với các nước. Điều này được thể
hiện rõ nét thông qua thuế xuất nhập khẩu. Để kích thích sản xuất trong nước phát
triển, kích thích sản xuất hàng hoá xuất khẩu, Nhà nước đánh thuế rất thấp hoặc
không đánh thuế vào hàng xuất khẩu. Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá đã qua
chế biến, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Đánh thuế nhập khẩu thấp đối với
hàng hoá máy móc thiết bị trong nước chưa sản xuất được và đánh thuế nhập khẩu
cao đối với hàng hoá máy móc thiết bị trong nước đã sản xuất được hoặc hàng hoá
tiêu dùng xa xỉ.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế đang phát triển mạnh mẽ ở trong khu
vực và trên thế giới. Sự ưu đãi, các hiệp định về thuế, tính thông lệ quốc tế của
chính sách thuế có thể làm gia tăng sự hoà nhập kinh tế giữa một số quốc gia với
khu vực và cộng đồng quốc tế.
Trước sự đổi mới mạnh mẽ của cơ chế thị trường đòi hỏi hàng loạt các chính
sách kinh tế, tài chính phải thay đổi cho phù hợp, trong đó có chính sách thuế khoá.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 10


Kỳ họp thứ XI Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua hai luật thuế quan trọng là Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/01/1999 thay thế cho Luật thuế doanh thu, lợi
tức. Vấn đề đặt ra là ngành thuế cũng như người sản xuất kinh doanh phải nắm
vững và thực hiện nghiêm chỉnh 2 luật thuế này giúp cho Thuế ngày càng có sức
khả thi, hiệu quả hơn trong nền kinh tế thị trường ( Tổng cục thuế, 2011).
2.1.2 Những nội dung cơ bản về quản lý thuế
2.1.2.1 Khái niệm
Quản lý thuế là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và có nhiều
cách quan niệm khác nhau. Mỗi quan niệm đều nhìn nhận quản lý thuế ở một góc
độ, phạm vi khác nhau và với mục đích, ý nghĩa thực tiễn khác nhau. Dù vậy theo
chúng tôi, các quan niệm về quản lý thuế đều có các điểm chung là:
+ Đều đề cập đến các nội dung của khâu hành pháp về thuế,
+ Đều đề cập đến sự tác động của chủ thể quản lý lên người bị quản lý bằng
các phương thức, phương tiện nào đó nhằm đạt mục đích nhất định. Chủ thể quản lý
là Nhà nước (mà trực tiếp là cơ quan thuế các cấp). Người bị quản lý là các tổ chức
và cá nhân có nghĩa vụ về thuế. Mục đích quản lý là để người nộp thuế và các người
có liên quan phải thực hiện tốt nghĩa vụ luật định về thuế của mình. Phương tiện
quản lý là sử dụng các qui định về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế với bộ máy,
đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất cần thiết để quản lý.
Quản lý nhà nước về thuế là thuật ngữ dùng để chỉ tổng thể các khâu lập
pháp, hành pháp và tư pháp về thuế, còn quản lý thuế gồm những hoạt động có tổ
chức trong bộ máy Nhà nước, thuộc lĩnh vực hành pháp và tư pháp về thuế của cơ
quan thuế các cấp, với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định nhằm thực
hiện chính sách thuế đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Theo nghĩa rộng,
quản lý thuế là hoạt động nhằm đảm bảo sự thực thi nghiêm chỉnh pháp luật về

thuế thông qua sự tự giác của chính người nộp thuế và sự hỗ trợ của cơ quan thuế và
các cơ quan Nhà nước có liên quan.
Như vậy, ta có thể định nghĩa khái quát về quản lý thuế như sau: "Quản lý
thuế là việc nhà nước sử dụng các phương tiện, cách thức, biện pháp nhằm thực

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


hiện việc thu thuế sao cho đạt hiệu quả, đúng mục tiêu, mục đích đề ra trong việc
xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ." ( Luật quản
lý thuế số 78/2006/QH11, 2006).
2.1.2.2 Nội dung quản lý thuế
Theo quy định của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 thì nội
dung quản lý thuế bao gồm 8 nội dung và được phân thành 3 nhóm, cụ thể như sau:
Nhóm 1: Các thủ tục hành chính thuế, đảm bảo các điều kiện cho người nộp
thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, bao gồm các nội dung:
Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm
thuế; xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.
Nhóm 2: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về thuế của cơ quan quản lý thuế
đối với người nộp thuế, bao gồm: quản lý thông tin về người nộp thuế; kiểm tra
thuế, thanh tra thuế.
Nhóm 3: Các chế tài bảo đảm các chính sách thuế được thực thi có hiệu lực,
hiệu quả bao gồm: cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm
pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
2.1.2.3 Nguyên tắc quản lý thuế
Theo quy định tại Điều 4, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006
và Luật số 21/2012/QH13, ngày 21/11/2012 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật quản lý thuế, thì nguyên tắc quản lý thuế cụ thể như sau:

- Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Nộp thuế theo quy
định của pháp luật là nghĩa vụ và quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
- Việc quản lý thuế được thực hiện theo quy định của luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan.
- Việc quản lý thuế phải đảm bảo công khai, minh bạch, bình đẳng, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.
- Áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế
+ Việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế bao gồm: thu thập
thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế; xây dựng các bộ tiêu chí quản lý

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; đề xuất, áp dụng các biện
pháp quản lý thuế;
+ Cơ quan quản lý thuế quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh
giá rủi ro về thuế, mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, lựa chọn đối tượng
kiểm tra thanh tra về thuế và hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong quản lý thuế.
- Áp dụng biện pháp ưu tiên khi thực hiện các thủ tục về thuế đối với hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu nếu người nộp thuế đáp ứng đủ các tiêu chí sau:
+ Không vi phạm pháp luật về thuế, về hải quan trong hai năm liên tục
+ Thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật
+ Thực hiện thủ tục hải quan, thủ tục thuế điện tử
+ Tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê
+ Có kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hằng năm theo mức quy định
2.1.2.4 Vai trò của quản lý thuế
+ Giúp nhà nước kiểm soát việc nộp thuế của người nộp thuế. Với vai trò

kiểm tra, giám sát, vai trò của nhà nước về quản lý thuế định hướng, sửa chữa những
sai sót trong quá trình thực hiện các luật thuế dù vô tình hay cố ý sai phạm, đều phải
duy trì bình đẳng xã hội trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
+ Giúp nhà nước quản lý được bộ máy thu thuế.
Một mặt, đảm bảo bộ máy quản lý thuế vận hành trơn tru, không sai sót. Mặt
khác, xuất phát từ lợi ích cá nhân của những con người trong bộ máy quản lý thu
thuế của nhà nước hám lợi sẵn sàng bắt tay với người nộp thuế nhằm giúp họ trốn
thuế và thu những mối lợi bất chính làm thất thu cho ngân sách, hoặc cố tình gây
khó dễ, sách nhiễu để vòi vĩnh.
+ Hướng dẫn người nộp thuế, thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ
nâng cao ý thức người dân trong việc chấp hành các luật thuế, đảm bảo việc thực hiện
các luật thuế được nghiêm chỉnh.
Mặt khác, việc xử lý các sai phạm đảm bảo nghiêm minh, đúng người, đúng việc
nhằm răn đe những đối tượng vi phạm, đồng thời làm gương cho các đối tượng khác.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13


2.1.3 Hộ kinh doanh cá thể và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
2.1.3.1 Khái quát về hộ kinh doanh cá thể
a) Khái niệm hộ kinh doanh cá thể
- Theo Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 về đăng ký kinh doanh
thì “Hộ kinh doanh” được gọi là “Hộ kinh doanh cá thể” và được định nghĩa như
sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử
dụng không quá 10 lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.”
- Hiện nay theo quy trình 2248/QĐ-TCT ngày 28/12/2012 V/v ban hành quy

trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh thì: “Hộ kinh doanh là hộ gia đình, cá
nhân, nhóm cá nhân thực hiện sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng
chịu thuế theo quy định tại các Luật thuế hiện hành hoặc có thu nhập chịu thuế theo
quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân”.
Trong đó, hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán (hộ khoán): là cá
nhân, nhóm cá nhân kinh doanh không đăng ký kinh doanh hoặc có đăng ký kinh
doanh không đăng ký thuế; không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ; cá nhân, nhóm cá nhân kinh doanh khai thác tài nguyên thủ
công, phân tán lưu động không thường xuyên (theo quy định tại Khoản 1, Điều 21,
Thông tư số 156/2013/TT-BTC, ngày 06/11/2013).
b) Đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể
Hộ kinh doanh cá thể mang tính chất của một hộ gia đình, thể hiện ở tính tư
hữu về tư liệu sản xuất người chủ kinh doanh tự quyết định từ quy trình sản xuất
đến phân phối tiêu thụ, do đó mang tính tự chủ cao, sử dụng lao động là những
người trong gia đình. ( Phan Lưu Ngọc, 2012).
Quy mô nhỏ lẻ, điều kiện áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến hạn chế,
quản lý chủ yếu dựa theo kinh nghiệm.
Số lượng hộ kinh doanh lớn, đa dạng về đối tượng, hình thức hoạt động,
ngành nghề, địa bàn và thời gian hoạt động
Ý thức tuân thủ pháp luật thuế còn thấp

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 14


Mặt khác, kinh tế hộ cá thể rất linh hoạt, nhạy bén trong kinh doanh dễ dàng
chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường và nền kinh
tế. Có một tiềm năng to lớn về trí tuệ, sáng kiến, được phân bổ rộng rãi ở mọi nơi, mọi
lúc. Có kinh nghiệm quản lý, tổ chức sản xuất và những bí quyết sản xuất truyền thống

ðýợc tích luỹ từ nhiều thế hệ, qua ðó cho phép phát huy những ngành nghề truyền
thống ðể tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu xã hội và xuất khẩu.
Kinh tế hộ cá thể đã tận dụng được lực lượng lao động dồi dào, giải quyết
được công ăn việc làm cho nhiều lao động dư thừa, thu hút nhiều thành phần xã hội
tham gia. Do đó hoạt động của thành phần kinh tế này ngày càng trở nên quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân.
c) Vị trí của hộ kinh tế cá thể
Sự tồn tại nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế là một
tất yếu khách quan, bởi vì nền kinh tế ở các nước chậm và đang phát triển là nền
kinh tế có lực lượng sản xuất kém phát triển với nhiều trình độ khác nhau. Tương
ứng với các trình độ đó là các hình thức sở hữu, tổ chức sản xuất thích hợp. Chính
việc thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế, từ đó khai thác
tốt các tiềm năng nhằm phát triển lực lượng sản xuất cho đất nước.
Từ cơ sở lý luận và thực trạng của nền kinh tế nước ta, đại hội Đảng toàn
Quốc lần thứ VII đã khẳng định "Thành phần kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ ở
nước ta là kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân
và kinh tế tư bản Nhà nước".
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận thành phần kinh tế cá thể tồn tại
độc lập trong nền kinh tế, với chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện cho nền
kinh tế cá thể phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác.
d) Vai trò của hộ kinh tế cá thể
Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thì kinh tế cá thể giữ vai trò hết sức quan trọng và
chiếm một vị trí nhất định trong nền kinh tế quốc dân.
Trong thời gian vừa qua, thành phần kinh tế này đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Nó đóng vai trò quan trọng trong sản xuất hàng hoá và cung cấp hàng

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 15



×