Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

đề xuất cơ chế bảo hiến trong luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.11 KB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 34 (2008 – 2012)

ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ BẢO HIẾN TRONG LUẬT
VIỆT NAM
Giảng viên hƣớng dẫn

Sinh viên thực hiện

Ths. ĐINH THANH PHƢƠNG

ĐẶNG THỊ NGHĨA
MSSV: 5085823
Lớp: Luật Hành chính – Khóa 34

Cần Thơ, 4/2012


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN

.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................


.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN

.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................

.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................
.................................................................................................................


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………….1
CHƢƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIẾN PHÁP VÀ BẢO HIẾN
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIẾN PHÁP………………………………...……………...4
1.1.1 Khái niệm Hiến pháp…………………………………………………..…...............4
1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của Hiến pháp……………………………........5
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI HIẾN VÀ BẢO HIẾN…………………………….......11
1.2.1 Vi hiến…………..……………………………..…………………………………....11
1.2.2 Bảo hiến……………………………………………………………………………..14

CHƢƠNG 2 THỰC TIỄN VI HIẾN VÀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN TRONG LUẬT
VIỆT NAM

2.1 THỰC TIỄN VI HIẾN Ở VIỆT NAM........................................................................22
2.1.1 Vi phạm các quy định của Hiến pháp một cách trực tiếp.....................................23
2.1.2 Vi phạm Hiến pháp một cách gián tiếp...................................................................24
2.1.3 Vi hiến do không cụ thể các quy định của Hiến pháp.............................................27
2.2 CƠ CHẾ BẢO HIẾN TRONG LUẬT VIỆT NAM..................................................28
2.2.1. Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959,1980……28
2.2.2 Cơ chế bảo hiến ở Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành………......32

CHƢƠNG 3 ĐỀ XUẤT CƠ CHẾ BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM
3.1 YÊU CẦU VỀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN…………………………………………..…...42
3.2 MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI………….....43
3.2.1 Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ…………………………………………………………43
3.2.2 Mô hình bảo hiến của các nƣớc châu Âu…………………………………….…...45
3.2.3 Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu – Mỹ………………………………..…….…48


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiến là vấn đề được coi trọng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là
đối với các nước xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiện nay,
nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, mà những đặc trưng cơ bản của nhà nước
pháp quyền là tính thượng tôn pháp luật và bảo đảm dân chủ, cho nên việc nghiên cứu
vấn đề bảo hiến ở Việt Nam càng trở nên hết sức cần thiết.
Bên cạnh đó, sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, cùng
với tiến trình hội nhập nền kinh tế quốc tế kèm theo những cam kết nhất định về việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trên mọi lĩnh vực. Và vì thế, để phù hợp với xu
hướng phát triển của xã hội, đòi hỏi phải có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
những mối quan hệ xã hội mới phát sinh. Trước tình hình đó, cần có một cơ chế bảo vệ
tính tối thượng của Hiến pháp vì “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác

phải phù hợp với Hiến pháp”1 tránh trường hợp luật này chồng chéo luật kia, luật này
mâu thuẫn với luật khác, đặc biệt là mâu thuẫn với Hiến pháp hoặc trái với Hiến pháp.
Căn cứ vào tình trạng thực tế hiện nay việc tôn trọng Hiến pháp, pháp luật vẫn còn
hạn chế từ nhận thức đến thực thi của cả công dân và cán bộ công chức; Vi phạm không
bị xử lý, do thiếu cơ chế xử lý, còn chồng chéo giữa các nhánh quyền lực. Đặc biệt,
chúng ta thiếu một cơ chế kiểm soát quyền lực – cơ chế bảo vệ Hiến pháp.
Hơn nữa, ở Việt Nam, trong những năm gần đây, đã có rất nhiều ý kiến về sự cần
thiết phải có một cơ chế hữu hiệu để bảo vệ tính tối cao của Hiến pháp. Những ý kiến
này được nêu ra tại các diễn đàn khoa học, các tạp chí như “Từ chức năng giám sát của
Quốc hội đến tài phán của Tòa án Hiến pháp” (Bùi Xuân Đức: Tạp chí Luật học số 08
năm 2007), “Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam” (Đinh Thanh
Phương: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 138 tháng 01-2009)…, các bài báo như: “Đã
đến lúc lập Tòa án Hiến pháp” (TS Lê Đăng Doanh: Báo tuổi trẻ), các bài nghiên cứu,
cũng như các văn kiện Đại hội của Đảng lần thứ X và mới đây nhất là lần thứ XI đã
khẳng định yêu cầu “Kiểm soát quyền lực”, từ đó khẳng định nhu cầu “nghiên cứu cơ
chế bảo vệ Hiến pháp” “tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền”, “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt
động lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghiên cứu cơ chế bảo hiến đã được Đảng ta chủ

1

Điều 146 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.


trương và lần sửa đổi bổ sung Hiến pháp sắp tới đây là một cơ hội lớn để chúng ta thực
hiện chủ trương đó của Đảng.
Như vậy, có thể nói cơ chế bảo hiến đã trở thành nhu cầu thực sự và thực sự thời
điểm thiết lập cơ chế bảo hiến đã chín muồi trong tình hình đất nước ta hiện nay. Đó là
những lý do mà tác giả quyết định chọn đề tài “Đề xuất cơ chế bảo hiến trong luật Việt

Nam” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Cơ chế bảo hiến là một vấn đề lớn, khó và hoàn toàn mới đối với Việt Nam, cần
phải được nghiên cứu sâu, lâu dài và cân nhắc kỹ lưỡng. Trong phạm vi nghiên cứu của
đề tài “Đề xuất cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam” tác giả chủ yếu tập trung vào
nghiên cứu tình hình bảo hiến hiện nay ở nước ta và qua đó đề xuất một mô hình bảo
hiến phù hợp với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên thực tế, hiện nay Việt Nam vẫn chưa có cơ chế bảo vệ Hiến pháp độc lập và
tình hình bảo vệ Hiến pháp hiện nay chưa đem lại hiệu quả cao nên mục đích nghiên
cứu của đề tài này là phân tích, đánh giá tình hình bảo hiến hiện nay và những ý kiến
của các chuyên gia pháp lý về vấn đề này. Thêm vào đó, qua quá trình nghiên cứu, tham
khảo kinh nghiệm quốc tế, người viết sẽ đề xuất một mô hình cơ chế bảo vệ Hiến pháp
độc lập và đem lai hiệu quả cao, nhằm giúp hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật Việt
Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận trên
tài liệu, sách vở; phương pháp so sánh đối chiếu. Đặc biệt, tác giả sử dụng chủ yếu
phương pháp phân tích đánh giá nhằm tìm ra những ưu điểm để tiếp thu và những
khuyết điểm để hạn chế đối với những mô hình bảo hiến trên thế giới cũng như những ý
kiến đề xuất về mô hình bảo hiến hiện nay ở Việt Nam.
5. Bố cục luận văn
Với đề tài là “Đề xuất cơ chế bảo hiến trong Luật Việt Nam”, ngoài phần mở đầu,
phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành ba
chương:
Chương 1: Lý luận chung về Hiến pháp và bảo hiến


Chương này chủ yếu đi sâu vào phân tích cơ sở lý luận về Hiến pháp và bảo hiến,
qua đó hiểu thêm về vi hiến và cơ chế bảo hiến.

Chương 2: Thực tiễn vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam
Trong chương này, tác giả tìm hiểu cụ thể về tình hình bảo vệ Hiến pháp hiện nay
ở Việt Nam, thực tiễn vi phạm Hiến pháp trong thời gian qua và cơ chế bảo vệ Hiến
pháp được quy định trong luật Việt Nam hiện nay như thế nào.
Chương 3: Đề xuất cơ chế bảo hiến ở Việt Nam
Với chương này, được tập trung chủ yếu ở các vấn đề: yêu cầu về cơ chế bảo hiến,
mô hình bảo hiến ở một số nước trên thế giới, đánh giá mô hình bảo hiến đã được đề
xuất và từ những cơ sở đó đề xuất mô hình cơ chế bảo hiến phù hợp trong luật Việt
Nam.
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tác giả xin chân thành cảm ơn:
- Quý thầy cô Khoa Luật – Trường Đại học Cần Thơ.
- Ths. Đinh Thanh Phương đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện để
tác giả hoàn thành luận văn này.


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIẾN PHÁP VÀ BẢO HIẾN
1.1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIẾN PHÁP
1.1.1 Khái niệm Hiến pháp
Hiến pháp là “đạo luật cơ bản của Nhà nước, do cơ quan đại diện và quyền lực
Nhà nước cao nhất ban hành hoặc sửa đổi theo một trình tự nghiêm ngặt; là văn bản có
hiệu lực pháp lý cao nhất, có ý nghĩa chính trị - pháp lý lớn. Hiến pháp quy định những
vấn đề cơ bản, quan trọng và quyết định của đời sống xã hội, như hình thức tổ chức Nhà
nước, cơ cấu và thẩm quyền của bộ máy Nhà nước, trình tự hình thành các cơ quan Nhà
nước, chính sách đối nội và đối ngoại của Nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, những nguyên tác chung nhất thể hiện mục đích xu hướng vận động của xã
hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Các quy định của Hiến pháp là những quy
định xác lập, có giá trị xuất phát điểm, chúng điều chỉnh những quan hệ xã hội quan
trọng nhất và đồng thời là cơ sở pháp luật cho tất cả các ngành luật nhằm bảo đảm tính
thống nhất của hệ thống pháp luật của một nước. Các văn bản pháp luật khác phải phù

hợp với Hiến pháp. Những văn bản trái với Hiến pháp bị xem là vi phạm Hiến pháp,
phải bị xóa bỏ”.2
“Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà
nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến
pháp”.3 Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đều đã khẳng định giá trị
pháp lý tối cao của Hiến pháp, từ những văn bản Hiến định hay những văn bản pháp
định.
Hiến pháp là một trong những loại văn bản do Quốc hội – cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân ban hành. “Việc soạn thảo, thông qua, công bố Hiến pháp, sửa đổi
Hiến pháp và thủ tục, trình tự giải thích Hiến pháp do Quốc hội quyết định”4 và “Việc
sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành”5 trong khi các văn bản khác thì chỉ cần quá nửa tổng số đại biểu tán thành.6
Song song đó điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cũng đã quy
định Hiến pháp đứng đầu trong tất cả các loại văn bản.
Vì thế, Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất do Quốc hội ban hành, điều chỉnh những
mối quan hệ xã hội chủ đạo của đất nước, Hiến pháp “quy định chế độ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ
2

Hội đồng quốc gia: Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, 2002, tr. 272 – 273.
Điều 146 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.
4
Trích khoản 1 điều 11 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
5
Trích điều 147 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.
6
Điều 88 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.
3



cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hóa mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý”.7 Hiến pháp là cơ sở của
hệ thống pháp luật của một nhà nước, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, mọi văn
bản quy phạm pháp luật khác khi ban hành phải tuyệt đối phù hợp với các quy định của
Hiến pháp.
1.1.2

Lịch sử hình thành và phát triển của Hiến pháp

Theo lịch sử, xã hội loài người đã tồn tại hơn 50 nghìn năm, nhà nước và pháp luật
cũng đã tồn tại có gần 3 nghìn năm. Trong khi đó, Hiến pháp đạo luật cơ bản của mỗi
quốc gia mới ra đời hơn 200 năm, kể từ khi có Hiến pháp của nước Mỹ năm 1787. Sự
xuất hiện của Hiến pháp gắn liền với sự khẳng định của chế độ tư bản, cùng với việc
chấm dứt hàng nghìn năm thống trị của chế độ phong kiến. Trước đó, Nhà nước của chế
độ chiếm hữu nô lệ và của chế độ phong kiến, không hề biết tới Hiến pháp.8
1.1.2.1 Lịch sử lập hiến thế giới
Thuật ngữ “Hiến pháp” đã ra đời và tồn tại từ lâu trong lịch sử, bắt nguồn từ chữ
La tinh “constitutio” với nghĩa là thiết lập, xác định, cơ cấu. Thuật ngữ này được dùng
với nghĩa là văn bản do người đứng đầu nhà nước ban hành cùng với các loại văn bản
khác. Dưới thời La Mã cổ đại đã ban hành các quy định của mình dưới hình thức Hiến
pháp có tính chất là một loại nguồn của pháp luật. Ở phương Đông cổ đại thuật ngữ
Hiến pháp được dùng với nghĩa là khuôn phép, khuôn mẫu, pháp lệnh.9
Trong xã hội phong kiến, ở một số quốc gia, nhất là ở phương Tây đã tồn tại một
số loại văn bản pháp luật kiểu Hiến pháp gọi là “hiến chương”, thể hiện sự thỏa hiệp
giữa các vương triều chuyên chế với một số lãnh địa, lãnh chúa thừa nhận một số quyền
của một số lãnh địa, thành thị… nhưng bản thân từ “Hiến pháp” thì không được sử
dụng.10
Đến thời cách mạng tư sản, Hiến pháp ra đời với tính chất là luật cơ bản gắn liền
với thời kỳ giai cấp tư sản lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến giành được quyền lực
chính trị và dùng Hiến pháp để hạn chế quyền lực của vương triều.11

Văn bản có tính chất Hiến pháp đầu tiên ra đời trong cách mạng tư sản Anh (1640
– 1654) với tên “hình thức cai quản nhà nước Anh, Xcotlen, Ailen…”, sau khi nước Hoa
Kỳ (Mỹ) được thành lập (1787), bản Hiến pháp Mỹ được thành lập, đó cũng là bản Hiến
pháp đầu tiên trong lịch sử được hiểu theo nghĩa phổ biến như ngày nay. Những bản
7

Trích lời nói đầu Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001.
Giáo trình Luật Hiến pháp của các nước tư bản, Nxb đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1998, tr. 25.
9
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình;luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.39 – 40.
10
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.39 –40.
11
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.39 –40.
8


Hiến pháp tiếp theo ra đời sau đó là Hiến pháp Ba Lan năm 1791, Hiến pháp nước Pháp
1791 và một số nước tư bản khác. Các nước xã hội chủ nghĩa sau này cũng ban hành
Hiến pháp để quy định nền tảng của chế độ xã hội chủ nghĩa và bộ máy nhà nước xã hội
chủ nghĩa.12
 Sự ra đời và pháp triển của Hiến pháp tư sản
Giai cấp tư sản vốn là một bộ phận dân cư trong giai cấp bị áp bức nên phải gánh
chịu ách thống trị của phong kiến chuyên chế. Đồng thời trong lòng xã hội phong kiến,
giai cấp tư sản lại là người đại diện cho một phương thức sản xuất mới ra đời và đang
lên rồi dần dần trở thành một giai cấp có địa vị độc lập về kinh tế, vì thế giai cấp tư sản
sớm hình thành ý thức phản kháng, chống đối lại chế độ phong kiến đã rệu rã. Giai cấp
tư sản đã đứng ra phất ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái để tập hợp quần chúng
lao động bị áp bức, bóc lột nhằm lật đổ chế độ phong kiến và nền thống trị phản dân
chủ. Khẩu hiệu lập hiến đã ra đời trong cuộc đấu tranh này của giai cấp tư sản. Và đây là

một yêu cầu tiến bộ phù hợp với đa số các tầng lớp nhân dân đang bị giai cấp phong
kiến thống trị.13
Khi đã giành được chính quyền trở thành giai cấp thống trị, Hiến pháp chính là loại
văn bản rất thích hợp mà giai cấp tư sản có thể sử dụng để thể chế hóa quyền thống trị
của giai cấp mình dưới hình thức các quy định của Hiến pháp về tự do, dân chủ, bình
đẳng và cơ chế tổ chức quyền lực nhà nước theo lối phân quyền. Chính nhờ cách tổ
chức quyền lực này mà lợi ích của giai cấp tư sản được đảm bảo. Lợi dụng ngọn cờ tự
do, bình đẳng, dân chủ được nêu cao trong cuộc cách mạng tư sản để che đậy bản chất
bóc lột vốn chứa sẵn trong nền thống trị tư sản.14
Như vậy, sự xuất hiện và tồn tại của Hiến pháp tư sản có nguồn gốc sâu xa trong
các mối quan hệ tư bản chủ nghĩa, nhất là các mối quan hệ chính trị, quan hệ kinh tế.
Hiến pháp tư sản là công cụ sắc bén của nền chuyên chính tư sản, phục vụ trước hết cho
lợi ích của giai cấp tư sản. Với sự ra đời của Hiến pháp tư sản, một chế độ chuyên chính
tư sản được xác lập. Nói theo Lênin thì “Mọi cuộc cách mạng tư sản… cuối cùng, không
có gì hơn là quá trình xây dựng một chế độ lập hiến”. Bởi vì, Hiến pháp chính là loại
văn bản rất thích hợp mà giai cấp tư sản có thể sử dụng nhằm thể chế hóa quyền thống
trị của giai cấp mình dưới hình thức các quy định Hiến pháp về tự do, dân chủ, bình
đẳng một cách chung chung và thuần túy.15
Trong quá trình phát triển, Hiến pháp tư sản trải qua hai giai đoạn sau:

12

Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.39 – 40.
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.43 – 44.
14
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.45.
15
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 16.
13



+ Giai đoạn từ đại chiến thế giới thứ II về trước: khi giai cấp tư sản mới giành được
chiến thắng, Hiến pháp ghi nhận thắng lợi có tính lịch sử của giai cấp tư sản trước giai
cấp phong kiến, quý tộc; bảo vệ quyền sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, thừa nhận ở
những mức độ nhất định các quyền tự do dân chủ của công dân.16
+ Giai đoạn bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến nay: trước ảnh hưởng
ngày càng lớn mạnh của phong trào nhân dân trong nước và của nền lập hiến xã hội chủ
nghĩa đã có những sửa đổi căn bản, Hiến pháp tư sản đã quy định tương đối đầy đủ các
quyền chính trị, kinh tế, xã hội của công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền… nhìn
chung là có nhiều điểm tiến bộ hơn.17
Tóm lại, mỗi bản Hiến pháp tư sản ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mang
theo những dấu ấn đặc thù của hoàn cảnh đó, nhưng về cơ bản các Hiến pháp tư sản đều
thể hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
 Sự ra đời và phát triển của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa
Việc xây dựng một chế độ xã hội mới với một nền kinh tế có sự điều tiết của nhà
nước; một chính quyền nhà nước và một cơ cấu sinh hoạt cộng đồng được tổ chức trên
một nền tảng dân chủ, đảm bảo lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tất
yếu đề ra yêu cầu thể chế hóa mọi mặt đời sống xã hội thành những chế định, những thể
chế cơ bản xác lập và bảo đảm một trật tự kỷ cương cần thiết cho sự phát triển.18
Mác, Ăngghen, Lênin trên cơ sở phê phán toàn diện nền lập hiến tư sản, đã chỉ rỏ
sự thắng lợi của cách mạng vô sản có nghĩa là sự thủ tiêu nhà nước và pháp luật tư sản
và sự xác lập một cơ sở lập hiến cho toàn bộ đời sống xã hội.19
Ngày 10/7/1918, tức là tám tháng sau khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng mười
thắng lợi và nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời, Hiến pháp của nước cộng hòa xã
hội Nhà nước liên bang Nga, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên được ban hành,
một nền lập hiến với những đặc thù riêng biệt, những ưu điểm tích cực, mở đầu một giai
đoạn phát triển mới của nền lập hiến thế giới.20
Hiến pháp 1918 của Cộng hòa Liên bang Nga đã thực sự trở thành hình mẫu cho
việc xây dựng Hiến pháp của các nước Cộng hòa Xô Viết khác cũng lần lượt thông qua
Hiến pháp của mình trong những năm 1919 – 1922.21


16

Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.48.
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 16.
18
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.53.
19
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 17
20
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 17.
21
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 17.
17


Nhìn lại, trong những năm 1944 – 1945, nhờ sự thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của
hồng quân Liên Xô chống lại chủ nghĩa phát xít và của cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân các nước bị nô dịch, nhiều nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu,
Châu Á ra đời và đứng vào hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn hai của nền
lập hiến xã hội chủ nghĩa bắt đầu bằng việc ban hành các Hiến pháp Bungary (1947),
Rumani (1948), Hungary (1949), BaLan (1952). Ở các nước Châu Á, Hiến pháp của các
nước dân chủ nhân dân lần lược ra đời như Hiến Pháp Việt Nam (1946), Triều Tiên
(1948), Trung Quốc (1954). Đến những năm 1960 – 1970 các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Ở đó đã ban hành các Hiến Pháp
mới thay thế , Bungary có Hiến pháp 1971, Rumani có Hiến pháp 1965…22
1.1.2.2 Lịch sử lập hiến ở Việt Nam
 Tư tưởng lập hiến trước cách mạng tháng tám năm 1945
Trước cách mạng tháng tám 1945, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến
với chính thể quân chủ chuyên chế nên không có Hiến pháp. Tuy nhiên vào những năm

đầu thế kỷ XX do ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng dân chủ Pháp năm 1789, ảnh
hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách duy tân mà Minh Trị thiên
hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới trí thức Việt Nam đã xuất hiện tư tưởng lập
hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời gian này là khuynh hướng xây
dựng nhà nước quân chủ lập hiến trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của Chính phủ Pháp
do Bùi Quang Chiêu, Phạm Quỳnh, Lê Văn Bông chủ xướng. Khuynh hướng thứ hai
của những chí sĩ yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng…
sau này là Nguyễn Ái Quốc với chủ trương giành độc lập, tự do dân tộc, tiếp đó sẽ xây
dựng Hiến pháp của Nhà nước độc lập vì không có độc lập tự do thì không thể có Hiến
pháp thực sự.23

 Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946
Ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay sau đó, ngày 03/9/1945 trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chủ Tịch đã đề ra
sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ, trong đó có việc ban hành Hiến pháp. 24

22

Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.58-59.
Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam: Lịch sử lập hiến Việt Nam,
[ngày truy cập 22-4-2012].
24
Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam: Lịch sử lập hiến Việt Nam,
[ngày truy cập 22-4-2012].
23


Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ra sắc lệnh lập ban dự thảo Hiến pháp gồm 7
người, do chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng 11/1945 ban dự thảo đã hoàn thành

công việc và Bản dự thảo được công bố cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt
Nam hăng hái tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước
bao đời của họ về độc lập và tự do. Ngày 09/11/1946, Quốc hội đã thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống. Hiến pháp được thông
qua thể hiện đúng tư tưởng chỉ đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hiến pháp
gồm 7 chương và 70 điều, thể hiện tư tưởng: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống
nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; tất cả cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo đảm
các quyền tự do dân chủ của nhân dân và xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng
suốt của nhân dân.25
Ngày 19/12/1946, 10 ngày sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp, cuộc kháng
chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến tranh mà Hiến pháp 1946 không được
chính thức công bố và tổ chức tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện
thực hiện. Tuy nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với
ban thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp năm
1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.26


Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1959

Sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh
để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ
và gian khổ. Với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền
Bắc hoàn toàn giải phóng và tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục
hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ.27
Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của mình, nhưng so với tình hình và nhiệm
vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, ngày 31/12/1959, Quốc hội
đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí
Sắc lệnh công bố Hiến pháp.28
Hiến pháp gồm 10 chương chia làm 112 điều, Hiến pháp 1959 là bản Hiến pháp
được xây dựng theo mô hình Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Nó là bản Hiến pháp xã hội

chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.

25

Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1980

Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam: Lịch sử lập hiến Việt Nam,
[ngày truy cập 22-4-2012].
26
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.75.
27
Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam: Lịch sử lập hiến Việt Nam,
[ngày truy cập 22-4-2012].
28
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.78.


Thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước ta đã hoàn toàn
độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam – Bắc, đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, tháng 9/1980, Ban chấp hành trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam đã họp kì đặc biệt để xem xét và cho ý kiến bổ sung, sửa chữa
dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thông qua. Sau một thời gian thảo luận,
Quốc hội khóa VI tại kì hợp thứ 7 ngày 18/12/1980 đã nhất trí thông qua Hiến pháp.29
Hiến pháp gồm 12 chương và 147 điều, cũng như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980
chứa đựng nhiều quy định của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và những nhận thức
cũ của chúng ta về chủ nghĩa xã hội. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng Hiến pháp 1980 là
một cái mốc quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.



Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1992

Sau một thời gian phát huy, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi
hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây
dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.30
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kì đổi mới ở nước
ta. Đẳng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của
Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các
tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa
xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu
nước mạnh, công bằng và văn minh.31
Cuối năm 1991 đầu năm 1992 Bản dự thảo Hiến pháp lần ba được đưa ra trưng cầu
ý kiến nhân dân. Trên cơ sở tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân và ý kiến của bộ
chính trị, ban chấp hành trung ương Đảng, Dự thảo Hiến pháp lần 4 đã hoàn thành và
được trình lên Quốc hội khóa VIII, tại kì họp thứ XI xem xét. Sau nhiều lần chỉnh lí và
bổ sung nhất định, ngày 15/4/1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp.32
Hiến pháp 1992 gồm 147 điều chia làm 12 chương, Hiến pháp đã đánh dấu một
giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến Việt Nam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và
vững chắc về chính trị. Hiến pháp này kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của Hiến
29

Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.88 –89.
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 25.
31
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 25.
32
Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam: Lịch sử lập hiến Việt Nam,

[ngày truy cập 22-4-2012].
30


pháp 1946, 1959, 1980, đồng thời là bản Hiến pháp vận dựng sáng tạo những quan điểm
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã
hội vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Được ban hành trong tình hình thế giới đang có
những biến động nhanh chóng, phức tạp, trước sự đổ vở của nhiều nước xã hộ chủ
nghĩa, trong điều kiện công cuộc đổi mới mặc dù đã giành được một số thắng lợi, nhưng
còn rất nhiều khó khăn. Hiến pháp 1992 là biểu hiện sự đồng tâm, nhất trí cao độ của
Đảng và nhân dân ta trong việc tiếp tục con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.33
Ngoài ra, đây còn là bản Hiến pháp thể hiện sự độc lập và tự chủ trên tiến trình
phát triển của nền triết học pháp quyền Việt Nam, một nền pháp quyền thể hiện bản sắc
dân tộc, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn với tính quốc tế và hiện đại trên cơ sở phát
triển những tinh hoa của nền văn hóa pháp lý Việt Nam và sự tiếp thu những tinh hoa
văn hóa pháp lý thế giới.34
 Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về sửa đổi,
bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992.
Để đảm bảo thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước do đại hội
Đảng lần thứ IX đề ra, tại kỳ họp thứ 09 khóa X (ngày 29/06/2001), Quốc hội đã thông
qua Nghị quyết thành lập Uỷ ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 gồm
22 thành viên do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An làm chủ tịch. Ngày 25/12/2001,
Quốc hội thông qua Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH10 để sửa đổi, bổ sung lời nói đầu và
23 điều của Hiến pháp 1992 nhằm thể chế hoá Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX.
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VI HIẾN VÀ BẢO HIẾN
1.2.1 Vi hiến
1.2.1.1 Khái niệm
Vi: vi phạm; Hiến: Hiến pháp. Vi hiến có nghĩa là hiện tượng vi phạm Hiến pháp,
trái với Hiến pháp, không phù hợp với Hiến pháp.
Hiến pháp là một bộ phận của hệ thống pháp luật quốc gia nên có thể hiểu vi phạm

Hiến pháp là một dạng của vi phạm pháp luật. Tuy nhiên do tính chất và nội dung đặc
biệt của Hiến pháp mà vi phạm Hiến pháp không hoàn toàn giống vi phạm pháp luật
thông thường. Nói cách khác, vi phạm Hiến pháp là một loại vi phạm pháp luật đặc
biệt.35
Vi phạm Hiến pháp khác với vi phạm pháp luật thông thường vì:

33

Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 30.
Phạm Thị Diệu Hiền: Tập bài giảng luật Hiến pháp Việt Nam, phần một, Cần Thơ, 2004, tr. 30.
35
Tào Thị Quyên: Vi phạm pháp luật và vi phạm Hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12, 2009, tr. 23-26,
tr. 23.
34


Thứ nhất, về mặt chủ thể, vi phạm pháp luật chỉ có thể là hành vi của một tổ chức
hay cá nhân không tuân thủ các nghĩa vụ do pháp luật quy định: không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng các quy định của pháp luật hoặc đã làm những việc mà pháp luật
ngăn cấm;36 họ là những cá nhân, tổ chức bình thường trong xã hội. Còn đối với vi
phạm Hiến pháp thì chủ thể là do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được nhà nước trao
quyền chẳng hạn như Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng...37
Thứ hai, về yếu tố lỗi, đối với vi phạm pháp luật yếu tố lỗi là trạng thái tâm lý của
một người đối với hành vi và hậu quả của hành vi đó do mình gây ra, vì thế, một người
thực hiện hành vi trái pháp luật mà không có lỗi thì không thể kết luận rằng hành vi trái
pháp luật đó là vi phạm pháp luật. Về phần vi phạm Hiến pháp, các chủ thể được nhà
nước trao quyền không những bị truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những hành vi vi
phạm pháp luật mà còn cả những hành vi không do lỗi của mình gây ra mà là do những
bất cập, những khuyết điểm, những biểu hiện thiếu trình độ và năng lực cần thiết. 38
Thứ ba, Hiến pháp có một vị trí đặc biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam - là

một một đạo luật gốc, luật mẹ, là nguồn của các văn bản pháp luật khác, các văn bản
quy phạm pháp luật khác phải dựa trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và phải phù
hợp với Hiến pháp, không được trái với Hiến pháp. Vì thế phải dựa vào Hiến pháp để
xem xét một hành vi đó có vi phạm Hiến pháp hay không, có nghĩa là Hiến pháp phải
được viện dẫn khi phán quyết các hành vi vi phạm Hiến pháp. So sánh với vi phạm Hiến
pháp thì vi phạm pháp luật được phép viện dẫn tất cả các văn bản quy phạm pháp luật
mà các chủ thể có liên quan cho là đã bị vi phạm.
1.2.1.2 Các hình thức vi hiến
 Vi hiến một cách chủ động
Đây là hình thức vi phạm khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành một
văn bản quy phạm pháp luật thuộc trách nhiệm, quyền hạn của mình đã đặt ra những
quy định trái với những quy định của Hiến pháp hoặc là trái với tinh thần của Hiến
pháp. Dạng vi phạm này trong thời gian qua xảy ra khá phổ biến và chủ yếu tập trung ở
các văn bản dưới luật.39
Nguyên nhân phát sinh ra những vi phạm này chủ yếu xuất phát từ hai lý do:

36

Hội đồng quốc gia: Từ điển bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản từ điển bách khoa, 2002, tr. 218.
Tào Thị Quyên: Vi phạm pháp luật và vi phạm Hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12, 2009, tr. 23-26,
tr.24.
38
Tào Thị Quyên: Vi phạm pháp luật và vi phạm Hiến pháp, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12, 2009, tr. 23-26,
tr.24.
39
Đinh Thanh Phương: Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
138, 2009, tr.14.
37



Thứ nhất, do các cơ quan (vi phạm) này hầu hết là các cơ quan thực hiện chức
năng quản lý, nên khi đưa ra các quy định để thực hiện việc quản lý thì luôn đưa ra
những quy định tạo nhiều thuận lợi cho công việc của mình và vô hình trung, đẩy những
bất lợi về phía người dân (đối tượng chịu sự quản lý) và vì thế mà đồng thời vi phạm các
quyền của người dân được Hiến pháp quy định.40
Thứ hai là, xuất phát từ lý do thứ nhất, các cơ quan này không cho rằng những
quy định của mình ban hành ra là vi phạm Hiến pháp và lập luận rằng, nó rất cần thiết
cho việc thực hiện các chức năng, quyền hạn của mình. Hay nói như TS. Lê Đăng
Doanh: “Đã có việc các cơ quan nhà nước cứ làm mà không nghĩ đến Hiến pháp (như
việc cấm đăng ký xe máy trước đây), việc nhiều bộ ngành làm sai luật, việc ban hành
giấy phép, điều kiện kinh doanh, hạn chế quyền kinh doanh của người dân... mà không
bị một cơ quan nào phán xét cả”.41
 Vi hiến một cách thụ động
Dạng vi phạm này thực chất là rất khó nhận thấy. Ở dạng vi phạm này thì các cơ
quan nhà nước có nghĩa vụ đã không ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để cụ
thể hóa việc thực hiện các quy định của Hiến pháp hoặc không ban hành những văn bản
quy phạm pháp luật mà theo quy định là phải ban hành.42 Bởi vì, khi thiếu luật thì không
thể hành xử theo luật mà theo chủ quan, theo quán tính của người có quyền, do đó có
nhiều vấn đề phát sinh và gây bất bình, ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ việc.
Ví dụ:
Theo quy định tại Điều 69 Hiến pháp 1992 thì công dân có quyền tự do biểu tình
theo quy định của pháp luật. Phân tích điều luật này chúng ta sẽ thấy là công dân có
quyền tự do biểu tình và muốn biểu tình thì phải tuân thủ theo các quy định của pháp
luật và muốn người dân tuân thủ các quy định của pháp luật thì phải có pháp luật để
người dân tuân theo. Nhưng thực tế, đến thời điểm hiện nay chúng ta chưa có bất kỳ văn
bản nào quy định chi tiết về việc tự do biểu tình của người dân. Do đó, quyền biểu tình
của người dân không thể thực hiện được trên thực tế. Như vậy, chúng ta thấy là khi các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm đã không ban hành một văn bản quy phạm pháp luật
thì cũng đồng nghĩa với việc vi phạm Hiến pháp.43
Theo quy định tại Điều 7 Hiến pháp 1992 thì cử tri có quyền bãi nhiệm đại biểu

Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự
40

Đinh Thanh Phương: Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
138, 2009, tr.14.
41
Đinh Thanh Phương: Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
138, 2009, tr.14.
42
Đinh Thanh Phương: Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam,Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
138, 2009, tr.14.


tín nhiệm của nhân dân. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào quy định trên thì cử tri không thể
thực hiện được quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử của mình, mà nhất thiết phải có một
văn bản quy phạm pháp luật quy định một cách cụ thể và chi tiết hơn. Và đến thời điểm
hiện nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn chưa ban hành bất kỳ văn bản nào
quy định về vấn đề này.44
1.2.2 Bảo hiến
1.2.2.1 Khái niệm bảo hiến
Quan điểm thứ nhất cho rằng, “bảo hiến (bảo vệ Hiến pháp) có thể được hiểu là
tổng hợp các biện pháp giữ gìn, chống lại sự vi phạm các nguyên tắc và quy phạm của
Hiến pháp”. Quan điểm này hiểu bảo vệ Hiến pháp theo nghĩa rộng và đã đồng nhất bảo
vệ Hiến pháp với bảo đảm Hiến pháp.45
Quan điểm khác lại coi “bảo vệ Hiến pháp là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền
ra phán quyết về tính hợp hiến hoặc bất hợp hiến của văn bản pháp luật, qua đó làm
phát sinh hệ quả pháp lý vô hiệu hóa văn bản pháp luật vi hiến”. Quan điểm này đã thu
hẹp nội hàm của khái niệm bảo vệ Hiến pháp, coi bảo vệ Hiến pháp chỉ bao gồm hoạt
động xem xét và bảo đảm tính hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật.46
“Bảo vệ Hiến pháp là tổng hợp các hoạt động được tiến hành bởi các chủ thể mà

Hiến pháp xác định thẩm quyền nhằm bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn Hiến pháp, ngăn
ngừa, chống lại và triệt tiêu hành vi vi hiến”.47
Nội hàm của khái niệm “bảo vệ Hiến pháp” ở đây chỉ bao hàm những hoạt động do
những chủ thể mà Hiến pháp đã quy định thẩm quyền (Hiến pháp xác định nhiệm vụ và
quyền hạn nhất định liên quan trực tiếp đến việc bảo đảm sự tôn trọng, giữ gìn Hiến
pháp, chống lại và triệt tiêu hành vi vi hiến) tiến hành. Bởi lẽ, Hiến pháp là văn bản
chính trị - pháp lý do nhân dân thiết lập, thể hiện chủ quyền và ý chí của nhân dân; do
đó, việc nhân dân giao cho ai chịu trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp cũng phải được thể
hiện trong Hiến pháp. Chính nhân dân xác định nhiệm vụ và quyền hạn của chủ thể tiến
hành hoạt động bảo vệ Hiến pháp bằng các quy định của Hiến pháp. Cách hiểu này sẽ
loại trừ những chủ thể trong xã hội có tham gia thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ
Hiến pháp nhưng sự tham gia đó không xuất phát từ thẩm quyền hiến định mà chỉ là

44

Đinh Thanh Phương: Vấn đề vi hiến và cơ chế bảo hiến trong luật Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
138, 2009, tr.14.
45
Tào Thị Quyên: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 24 (185), 2010, tr. 22-28, tr. 22.
46
Tào Thị Quyên: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 24 (185), 2010, tr. 22-28, tr. 22.
47
Tào Thị Quyên: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 24 (185), 2010, tr. 22-28, tr. 22.


thẩm quyền mang tính phái sinh từ Hiến pháp và được quy định bởi văn bản quy phạm
pháp luật khác.48

1.2.2.2 Vai trò của bảo hiến
Bảo hiến có thể hiểu một cách đơn giản đó chính là bảo vệ Hiến pháp, vậy tại sao
Hiến pháp lại cần phải được bảo vệ. Vì Hiến pháp là một văn bản được thông qua bởi
một trình tự thủ tục ban hành riêng với trình độ kỹ thuật lập pháp cao, trở thành một văn
bản có vị trí đặc biệt, có giá trị tối cao và thiêng liêng, Hiến pháp là mệnh lệnh của cả
dân tộc đặt ra đối với đất nước. Chính vì thế mà Hiến pháp cần phải được bảo vệ để bảo
đảm rằng bất cứ ai trong bộ máy Nhà nước, tất cả các chủ thể trong xã hội cũng đều
thực hiện theo những quy định của Hiến pháp.
Đối với người dân, những quy định của Hiến pháp phải thực sự là cơ sở pháp lý
cao nhất mà họ có thể dựa vào đó làm căn cứ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.49
Bảo vệ Hiến pháp là một yêu cầu tất yếu cần phải có để giữ vững vị trí tối thượng của
Hiến pháp. Vì thế, nếu Hiến pháp không được bảo vệ, Hiến pháp không có hiệu lực tối
cao thì đâu mới là căn cứ pháp lý cao nhất, như vậy chẳng khác nào quyền và lợi ích của
người dân bị xâm phạm, người dân sẽ lấy căn cứ ở đâu để tự bảo vệ mình khi chính
quyền và lợi ích hợp pháp đó bị xâm hại. Hiến pháp không thể có hiệu lực thấp hơn các
văn bản luật được. Do đó, có thể nói bảo vệ Hiến pháp tỉ lệ thuận với bảo vệ quyền và
lợi ích của nhân dân, bởi lẽ, Hiến pháp chính là ý chí của nhân dân.
Bảo hiến còn là một đòi hỏi, một nhu cầu mang tính nguyên tắc. Đó chính là
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Pháp chế là chế độ xã hội mà pháp luật
là cao nhất, tất cả “các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”. Nguyên tắc
này cũng được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ở Việt Nam. Trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp, cần
triệt để tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, bảo đảm tính
tối cao của hiến pháp và luật. Như vậy, nguyên tắc này đã khẳng định tính tối cao của
Hiến pháp. Đã là nguyên tắc thì phải được tuân thủ nghiêm ngặt. 50

48


Tào Thị Quyên: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 24 (185), 2010, tr. 22-28, tr. 22-23.
49
Lê Sơn: Hiến pháp chính là “đơn đặt hàng” của nhân dân đối với Nhà nước, Báo điện tử của Chính phủ nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2011, [ngày truy cập 23-11-2011]
50
Xem Tiểu luận Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, [ngày truy
cập 14-10-2011].


Pháp chế là một nguyên tắc bảo đảm cho nhà nước pháp quyền được thực hiện,
nhưng tính chất pháp quyền không chỉ đơn thuần là pháp chế - sự tuân thủ nghiêm minh
pháp luật. Tính pháp quyền còn có nội dung cơ bản là sự ngự trị của một nền pháp luật
đáp ứng yêu cầu công bằng, nhân đạo, dân chủ, minh bạch, phù hợp đạo đức và tất cả vì
con người.51 Bên cạnh đó, Hiến pháp với tính cách là đạo luật cơ bản của nhà nước có
hiệu lực tối cao đối với mọi thiết chế quyền lực trong xã hội là cơ sở pháp lý nền tảng và
là nguyên tắc không thể thiếu được của nhà nước pháp quyền52 nên các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Điều này giúp đưa luật lên vị trí tối
thượng, tạo một nhà nước pháp quyền, không cho bất cứ tổ chức, cá nhân nào đứng trên
pháp luật bao gồm các tổ chức, cá nhân không mang quyền lực nhà nước và có mang
quyền lực nhà nước. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải bị xử lý, không phân

biệt quan chức, dân thường.53
Nhà nước pháp quyền sinh ra trước hết là để ngăn ngừa sự lạm quyền của nhà nước
nói chung, các cơ quan công quyền và công chức nói riêng, ngăn ngừa sự vi phạm từ
phía nhà nước đối với các nguyên tắc của việc hành xử quyền lực, để bảo vệ các quyền
tự do của con người vì sự tiến bộ, công bằng xã hội. Dù có chỉ ra bao nhiêu đặc trưng
của nhà nước pháp quyền thì suy cho cùng cũng chỉ hướng đến mục tiêu ấy. Chính vì

vậy, trong nhà nước pháp quyền không thể thiếu hệ thống giám sát quyền lực. Khuôn
khổ cho việc vận hành quyền lực nhà nước là Hiến pháp. Sự giám sát quyền lực là để
đảm bảo cho nhà nước luôn đảm bảo tính hợp hiến trong hành động của mình. Sự giám
sát quyền lực là để chính quyền không vi phạm Hiến pháp.54
1.2.2.3 Khái niệm cơ chế bảo hiến
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời
sống chính trị của mỗi quốc gia. Bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp trong việc điều
chỉnh các quan hệ xã hội là nhu cầu cần thiết, tất yếu tại hầu hết các quốc gia trên thế
giới, trong đó có Việt Nam.
Ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp chính là nguồn gốc phát sinh
vấn đề bảo vệ, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và là cơ sở hình thành cơ chế bảo hiến.
Bởi lẽ, cơ chế bảo hiến chỉ tồn tại khi Hiến pháp có ưu thế hơn so với các văn bản quy
phạm pháp luật khác. Trước đây, trong một số tài liệu pháp lý, hoạt động bảo hiến được
51

Hoàng Thị Kim Quế: Nhận diện Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5, 2004, tr.17.
Trương Đắc Linh: Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa hoc pháp lý, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, 3/2007.
53
Nguyễn Tuấn: Cần nghiên cứu cơ chế bảo hiến, Báo điện tử Tiền phong, 2011,
[ngày
truy cập 06-02-2012].
54
Bùi Ngọc Sơn: Góp phần nghiên cứu Hiến pháp và Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr.143.
52


hiểu là sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái
niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động bảo hiến không chỉ là sự kiểm tra tính
hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm nhiệm vụ bảo đảm tính

tối cao của Hiến pháp như là nền tảng của hệ thống pháp luật quốc gia, bảo đảm các
quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà
nước.55
Khái niệm cơ chế bảo hiến vì vậy cũng có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các
thiết chế, nguyên tắc và biện pháp tổ chức và thực hiện các hoạt động giải thích Hiến
pháp; kiểm tra và giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp;
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật và điều
ước quốc tế; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của Hiến pháp về quyền con
người, quyền công dân; phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa
cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền,v.v...56
1.2.2.4 Vai trò của cơ chế bảo hiến
Một trong những vai trò cơ bản của cơ chế bảo hiến là đảm bảo để Hiến pháp được
tôn trọng và giữ vị trí tối thượng trong thực tế. Có Hiến pháp thì phải có tài phán hiến
pháp, nếu không thì Hiến pháp sẽ chỉ là những lời tuyên ngôn khó có thể đi vào cuộc
sống.57 Vì Hiến pháp là một văn bản chính trị - pháp lý cao nhất của một nhà nước do cơ
quan đại diện có thẩm quyền cao nhất của nhân dân thông qua theo một thủ tục đặc biệt,
là nền tảng pháp lý của một quốc gia. Đề cao vai trò của Hiến pháp tức là đề cao ý
nguyện cao nhất của nhân dân. Nhưng sự hiện diện của Hiến pháp chỉ là yếu tố cần chứ
chưa phải là đủ của một chế độ dân chủ, của một nhà nước pháp quyền, nếu như các cơ
quan công quyền thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vượt quyền, lạm quyền, vi
phạm thẩm quyền được Hiến pháp ghi nhận, ban hành các văn bản hoặc thực hiện các
hành vi trái Hiến pháp có khả năng hoặc thực sự đã gây thiệt hại cho công dân, cho các
tổ chức và xã hội.58
Nước ta thường xảy ra tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật mâu thuẫn,
chồng chéo nhau, vì mỗi cơ quan công quyền đều có quyền lý giải điều luật theo cách
mình cho là đúng và do quyền lợi trong nhiều trường hợp không thể đồng nhất, thậm chí
55

Đặng Văn Chiến: Vài nét về cơ chế bảo hiến và việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam,
[ngày truy cập 15-01-2012].

56

Đặng Văn Chiến: Vài nét về cơ chế bảo hiến và việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam,
[ngày truy cập 15-01-2012]
57

Hà Anh: Có thể lập Tòa án Hiến pháp? Báo điện tử Pháp luật Việt Nam, 2011,
[ngày truy cập 07-02-2012].
58
Trương Đắc Linh: Bàn về tài phán Hiến pháp và thẩm quyền của cơ quan tài phán Hiến pháp ở Việt Nam, Tạp
chí Khoa hoc pháp lý, Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, số tháng 03/2007.


còn mâu thuẫn nhau;59 Mặt khác, thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp không được tổ chức
dưới hình thức cơ quan chuyên trách, mà theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan, các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, vì thế
không tránh khỏi sự dựa dẫm, ỷ lại, hoặc mâu thuẫn, chồng chéo trong việc thực hiện
nhiệm vụ bảo hiến, dẫn tới việc hiệu lực và hiệu quả bảo vệ Hiến pháp không cao. 60 Hơn
nữa, cũng không có cơ quan nào có ý kiến gì, không khiếu kiện gì và cũng không biết
phải khiếu kiện ở đâu, vì Tòa án nước ta cho đến nay không có thẩm quyền xét xử về
các văn bản quy phạm pháp luật bị cho là trái với Hiến pháp, trái luật làm thiệt hại đến
quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân. Vì thế, để hạn chế tình trạng các văn bản quy
phạm pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo; và việc xử lý các văn bản, các hành vi vi hiến đi
vào một mối, thay vì nhiều cơ quan có thẩm quyền xử lý nhưng hoạt động không có
hiệu quả.61 Một cơ chế bảo hiến tốt chắc chắn sẽ làm được đều đó.
Cơ chế bảo hiến sẽ giám sát các cơ quan nhà nước. Tính tối cao của Hiến pháp yêu
cầu cần có sự tuân thủ của toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật, trong đó có cả các
văn bản của Quốc hội.62 Theo quy định của nước ta thì Quốc hội giám sát tối cao - giám
sát cơ quan hành pháp và tư pháp, nhưng lại không có cơ quan nào giám sát Quốc hội.63
Trong một đất nước mà dân chủ được xem là mục tiêu thì các cơ quan nhà nước đều

phải bị giám sát.64 Về mặt hành pháp, cơ chế bảo hiến Kiểm tra việc thực hiện quyền lực
nhà nước, hoạt động quản lý nhà nước nằm trong giới hạn của Hiến pháp, không vi
phạm hay hạn chế các quyền cơ bản của người dân. Không được phép thực hiện một
hành vi quản lý nhà nước, nếu nó không dựa trên cơ sở một điều luật.65
Hiến pháp, tính tối thượng của Hiến pháp không thể bị xâm phạm vì bất kỳ lí do gì.
Do đó, chúng ta cần phải có một cơ chế bảo hiến - cơ chế bảo vệ Hiến pháp. Chúng ta
xây dựng Nhà nước pháp quyền cho nên cơ chế bảo hiến trở thành một đòi hỏi tất yếu.
Nếu không có cơ chế bảo hiến hoặc có nhưng cơ chế không hiệu quả thì sẽ dẫn đến tính

59

Nguyễn Vân Nam, Tòa bảo hiến ở Việt Nam, />[ngày truy cập 09-02-2012].
60
Cẩm Vân,Cổng thông tin điện tử bộ Tư pháp: Từ nhu cầu bảo vệ Hiến pháp: có nên lập Tòa án Hiến pháp?,
[ngày truy cập 05-102011]
61
Hà Ngọc Châu: Chuyên đề về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam, [ngày truy cập 05-10-2011].
62
Đặng Minh Tuấn: Cải cách Hiến pháp Việt Nam trong xu hướng chuyển đổi, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
22, 2009, tr. 28.
63
Xem ý kiến của ông Vũ Mão - Chủ nhiệm ủy ban Đối ngoại của Quốc hội trong bài Ai huýt còi khi Hiến pháp bị
xâm phạm, Tuổi trẻ online ngày 02/10/2011.
64
Lê Đăng Doanh: Đã đến lúc lập Tòa án Hiến pháp, Báo điện tử Tuổi trẻ, 2007, [ngày truy cập 05-10-2011]
65
Nguyễn Vân Nam, Tòa bảo hiến ở Việt Nam, />[ngày truy cập 09-02-2012]


hiệu lực của Hiến pháp bị xâm hại, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền không được

đảm bảo và chúng ta sẽ không có được Nhà nước pháp quyền.66
1.2.2.5 Lịch sử hình thành cơ chế bảo hiến
Trong một số tài liệu pháp lý, người ta cho rằng tư tưởng về giám sát Hiến pháp
xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ XVII và gắn liền với hoạt động của Hội
đồng cơ mật. Hội đồng này có quyền tuyên bố văn bản do cơ quan lập pháp của các
nước thuộc địa Anh ban hành trái với luật của Nghị viện Anh hay pháp luật chung, vì
vậy văn bản đó không thể có hiệu lực và cần bị bãi bỏ.67
Cơ chế bảo hiến theo nghĩa hiện hành lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào đầu thế kỷ
19, nhưng không phải trên cơ sở Hiến pháp mà từ án lệ. Năm 1803, Chánh án Tòa án tối
cao Mỹ J. Marshall phán quyết về vụ Marbury v. Madison (Marbury kiện Madison):
“Chỉ có toà án mới có quyền và có nghĩa vụ tuyên bố cái gì được gọi là luật”, “một văn
bản luật trái với Hiến pháp không phải là luật”. Phán quyết đã xác lập quyền của Tòa án
tối cao được xem xét lại tính hợp Hiến của bất kỳ văn bản pháp luật nào của liên bang
hay của cơ quan lập pháp các tiểu bang bằng tuyên bố Hiến pháp liên bang là đạo luật
cao nhất của đất nước. Vì vậy, bất cứ văn bản luật nào do Nghị viện ban hành trái với
Hiến pháp đều có thể bị Tòa án tuyên bố là không hợp Hiến. Tiền lệ này đặt nền tảng
cho việc hình thành mô hình cơ quan bảo hiến của Mỹ với đặc điểm là việc giám sát bảo
hiến do các Tòa án tư pháp thực hiện, trong đó cao nhất là Tòa án tối cao.68
Sau Mỹ, Brazil (1891), Uruguay (1917) cũng lần lượt xác lập quyền bảo hiến của
Tòa án tư pháp.
Ở châu Âu, sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, xuất hiện một mô hình cơ quan bảo
hiến do học giả người Áo – Hans Kelsen sáng tạo với đặc điểm khác biệt so với mô hình
Mỹ. Theo đó, hoạt động bảo hiến được tách khỏi hệ thống tư pháp và do một cơ quan
chuyên trách được gọi là Tòa án Hiến pháp thực hiện. Đến nay, mô hình này đã được áp
dụng ở nhiều quốc gia, không chỉ ở châu Âu mà cả các quốc gia mới thành lập sau Đại

66

Xem Tiểu luận Bàn về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay, [ngày truy
cập 14-10-2011].

67
Chi Thanh: Lịch sử hình thành cơ quan bảo hiến, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, 2011,
[ngày truy cập 14-01-2012].
68

Nguyễn Đức Lam: Các mô hình bảo hiến trên thế giới và khả năng lựa chọn của Việt Nam,
[ngày truy cập 14-01-2012].


chiến thế giới lần thứ hai tại châu Á, châu Phi, các nước Mỹ Latin, các nước Đông
Âu…69
Ngoài ra, cùng với sự phát triển của lịch sử, một số mô hình tổ chức cơ quan bảo
hiến khác cũng được hình thành tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc
gia. Căn cứ vào một số đặc điểm trong tổ chức và hoạt động của cơ quan bảo hiến như
vị trí, tính chất của cơ quan bảo hiến trong bộ máy nhà nước, thẩm quyền của cơ quan
bảo hiến, trình tự, thủ tục trong việc xem xét vụ việc và ra phán quyết, hệ quả pháp lý từ
quyết định của cơ quan bảo hiến, có thể khái quát một số mô hình cơ quan bảo hiến như
sau: Mô hình bảo hiến kiểu Mỹ, mô hình bảo hiến châu Âu, mô hình bảo hiến hỗn hợp
và một số nước có mô hình đặc thù.70
Đến năm 2008, trong số 191 nước được khảo sát, 158 nước có các quy định liên
quan đến cơ chế bảo hiến. Trong đó, 79 nước có quy định trực tiếp trong Hiến pháp về
Tòa án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến; 60 nước quy định về cơ chế bảo hiến của tòa
án thường hoặc Tòa án tối cao; một số ít nước như Trung Quốc, Việt Nam, Miến Điện
quy định cơ quan lập pháp có thẩm quyền kiểm tra tính hợp hiến.71

69

Chi Thanh: Lịch sử hình thành cơ quan bảo hiến, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, 2011,
[ngày truy cập 14-01-2012].
70

Chi Thanh: Lịch sử hình thành cơ quan bảo hiến, Báo điện tử Đại biểu nhân dân, 2011,
[truy cập ngày 13-01-2012].
71
Nguyễn Đức Lam: Các mô hình bảo hiến trên thế giới và khả năng lựa chọn của Việt Nam,
[truy cập ngày 13-01-2012].


CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN VI HIẾN VÀ CƠ CHẾ BẢO HIẾN
TRONG LUẬT VIỆT NAM
2.1 THỰC TIỄN VI HIẾN Ở VIỆT NAM
Có thể nói, giám sát và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là một chức năng của
cơ quan bảo hiến. Trong luật thực định Việt Nam thì việc giám sát, kiểm tra theo phân
công trong hệ thống. Có nghĩa là, Quốc hội tự kiểm tra và có quyền kiểm tra các văn
bản của các cơ quan do mình trực tiếp lập ra, như Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ...; Chính phủ kiểm tra văn bản của các bộ… Nội dung kiểm tra hoàn
toàn như nhau đối với tất cả các loại văn bản không phân biệt hình thức: đánh giá tính
hợp hiến, hợp luật, nghị quyết của Quốc hội và phù hợp với tinh thần văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;72 sự thống nhất giữa văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành của cùng một cơ
quan.73
Vấn đề là cho đến nay chưa thấy một vụ bảo hiến đích thực nào được đem ra xem
xét và thẩm định trước Quốc hội,74 nhưng thực tiễn nước ta những năm qua có nhiều
luật của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng... không phù hợp,
thậm chí trái với các quy định của Hiến pháp. Ngoài ra, cũng có một số văn bản pháp
luật vừa trái với Hiến pháp hoặc luật, vừa làm hạn chế quyền hiến định của công dân.
Song song đó, tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật quy định đối lập nhau, mâu
thuẫn nhau làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân. Trước tình hình đó, vấn đề áp dụng luật trở nên khó khăn và phức tạp hơn khi
mà cùng một vấn đề, hai cách giải quyết. Sau đây là một vài minh chứng cụ thể cho tình

trạng vi hiến ở nước ta trong thời gian qua, từ lúc có bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946
đến nay, do chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát chuyên trách nên Hiến pháp bị vi phạm
khá nhiều, quyền và lợi ích của người dân bị xâm phạm không ít; và pháp luật nước ta
chưa đi vào một mối, chưa thống nhất cao đối với một vấn đề, xảy ra nhiều tình trạng
các văn bản luật chồng chéo, trái nhau.

2.1.1 Vi phạm các quy định của Hiến pháp một cách trực tiếp
72

Xem khoản 1 điều 88 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
Khoản 4 điều 88 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
74
Nguyễn Ngọc Điện: Mô hình tài phán Hiến pháp nào cho Việt Nam? Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22 (207),
2011, tr. 62-66, tr. 64.
73


×