Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI - SO SÁNH GIỮA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, ĐỨC VÀ MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.91 KB, 17 trang )

Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUND, THỤY ĐIỂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
Người hướng dẫn khoa học:
KHOA LUẬT
ĐẠI HỌC LUND

ĐẠI HỌC LUẬT
TP. HỒ CHÍ MINH

GS.TS. PER-OLE TRÄSKMAN
PGS.TS. NGUYỄN THÁI PHÚC

LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH

Phản biện 1: PGS. TS. Christoffer Wong
BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA CỦA

Phản biện 2: GS. TS. Hồ Trọng Ngũ

NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI - SO SÁNH GIỮA LUẬT TỐ

Phản biện 3: GS. TS. Terttu Utriainen

TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, ĐỨC VÀ MỸ
Chuyên ngành: Luật quốc tế và Luật so sánh
Mã số: 62.38.60.01

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Nhà nước, tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
Vào hồi 13 giờ 30 ngày 25 tháng 11 năm 2011



TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Có thể tìm hiểu luận án tại:
-

Thư viện Quốc gia Việt Nam

-

Thư viện Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh

-

Thư viện Khoa Luật Đại học Lund Thụy Điển

Tp. Hồ Chí Minh - 2011


NHỮNG BÀI BÁO KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2010), “Tìm hiểu mô hình tố
tụng thẩm vấn và những kiến nghị hoàn thiện mô hình
tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý
(số 6/2010)
2. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Bảo đảm quyền có
người bào chữa trong tố tụng hình sự Mỹ”, Tạp chí Khoa
học Pháp lý (Số 4/2011)
3. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Những kiến nghị hoàn

thiện pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm
quyền có người bào chữa”, Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp (số 23/2011)


1

2

MỞ ĐẦU

động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó, nhấn mạnh

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo đảm quyền con người và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
tố tụng hình sự (TTHS) là vấn đề đang được các quốc gia quan tâm.
Tuy nhiên, một trong những khó khăn mà các nước gặp phải trong
quá trình hoàn thiện pháp luật là bảo đảm sự cân bằng giữa các mục
tiêu của TTHS, đó là việc cân bằng giữa nhiệm vụ xử lý tội phạm và
duy trì tính nghiêm minh của pháp luật với việc bảo đảm và không vi
phạm các quyền tố tụng của người bị buộc tội. Thực tiễn cho thấy, ở
không ít các quốc gia, quyền tố tụng của người bị buộc tội, trong đó
có quyền có người bào chữa (NBC) vẫn chưa được bảo đảm trọn vẹn,
thậm chí bị vi phạm.
Tại Việt Nam, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy vẫn còn
tồn tại tình trạng oan sai, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, cụ thể là quyền có NBC trong vụ án hình sự. Thực tế
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do những quy
định của pháp luật chưa thực sự thống nhất, còn chồng chéo, mâu


việc mở rộng hơn nữa quyền của NBC và của người bị buộc tội. Đây
là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảm đảm tính công bằng của
pháp luật nói chung và bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội
nói riêng.
Tuy nhiên, để tiến trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực TTHS
đạt hiệu quả cao, việc mở rộng hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và hoạt động TTHS nói riêng là một tất
yếu khách quan và phù hợp với xu thế hội nhập pháp luật. Với mong
muốn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC, tác giả đã lựa chọn
và thực hiện nghiên cứu ở bậc tiến sỹ với đề tài: “Bảo đảm quyền có
NBC của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Đức và Mỹ” (Guarantee of the accused person’s right to
defense counsel - A comparative study of Vietnamese, German and
American Criminal Procedure Law). Theo tác giả, đề tài cần thiết
được nghiên cứu bởi những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
Thứ nhất, giống với Đức và Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế

thuẫn. Mặc dù Bộ luật TTHS Việt Nam đã trải qua nhiều lần sửa đổi,
bổ sung, tuy nhiên cũng mới chỉ khắc phục được phần nào những bất

giới, Việt Nam rất chú trọng việc xây dựng và hoàn thiện các quy

cập còn tồn tại. Chính vì vậy, quyền và lợi ích pháp lý của người bị
buộc tội vẫn chưa được bảo đảm trọn vẹn, thậm chí còn bị vi phạm.

người bị buộc tội, trong đó bảo đảm quyền có NBC là vấn đề quan

Trước tình hình đó, Nhà nước đã có những động thái thể hiện rõ
quyết tâm sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật


quyền có NBC của ba quốc gia là cần thiết và có cơ sở.

TTHS nói riêng. Tương tự nhiều nước trên thế giới, Việt Nam đã và
đang tiến hành cuộc cải cách tư pháp toàn diện về tư pháp hình sự.

nhận quyền có NBC là quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội và

Nghị Quyết số 08/NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị Quyết số
49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính Trị đã chủ trương một trong

có một số điểm bất cập trong các quy định đó cần phải được phân

những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách đó là mở rộng hoạt

phạm pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm các quyền tố tụng của
tâm hàng đầu. Do đó, việc tìm hiểu, so sánh cơ chế pháp lý bảo đảm
Thứ hai, luật tố tụng hình sự của Việt Nam, Đức và Mỹ đều ghi
cần thiết phải bảo đảm. Bên cạnh những thành công về mặt lập pháp,
tích, làm sáng tỏ và cần được hoàn thiện. Đối với Việt Nam, những


3

4

khó khăn, vướng mắc trong nhận thức cũng như trong thực tiễn áp

tội được bảo đảm như thế nào trong TTHS của Việt Nam, Đức và


dụng những quy định này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy,

Mỹ.

đề tài nghiên cứu có thể gợi mở một số nội dung của luật cần được
hoàn thiện.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
vẫn có những khoảng cách nhất định đáng lo ngại so với những quy
định của pháp luật. Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
những người tiến hành tố tụng cũng như NBC vẫn còn nhiều hạn chế
và bất cập. Điều này đã ảnh hưởng, thậm chí gây thiệt hại đến quyền
lợi của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng. Chính vì vậy, những
giải pháp khắc phục hợp lý cần sớm được nghiên cứu.
Thứ tư, việc nghiên cứu so sánh pháp luật TTHS của Việt Nam
và một số quốc gia khác về bảo đảm quyền có NBC là một yêu cầu
cần thiết và đúng đắn, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
Điều này sẽ giúp cho Việt Nam có nhiều cơ hội tìm hiểu và học hỏi
có chọn lọc những kinh nghiệm xây dựng, sửa đổi, bổ sung và áp
dụng luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền có NBC. Trên cơ sở đó,
Việt Nam có thể hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo
đảm quyền có NBC, nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy
tố và xét xử vụ án hình sự.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đặt ra hai mục đích: Thứ nhất là nghiên cứu
pháp luật Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC của
người bị buộc tội. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên cứu tập
trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những quy định của
pháp luật TTHS hiện hành và những tài liệu phản án thực tiễn bảo
đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và Mỹ. Những công việc này
được tiến hành nhằm trả lời câu hỏi quyền có NBC của người bị buộc


Mục đích thứ hai của luận án là đề xuất những giải pháp phù
hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành
về bảo đảm quyền có NBC, góp phần nâng cao hiệu quả của quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng tốt nhiệm vụ xử lý tội phạm
và bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Với hai mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những
nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu so sánh các quan điểm khoa học, quan
điểm lịch sử về đảm bảo quyền có NBC và làm rõ cơ sở lý luận
chung về bảo đảm quyền này trong TTHS.
Thứ hai, làm sáng tỏ nội dung những quy định hiện hành của
pháp luật quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm
quyền có NBC trong sự so sánh để thấy được những điểm tương
đồng và khác biệt, đồng thời lý giải sự tương đồng và khác biệt. Bên
cạnh đó, phân tích và chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế
của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC.
Thứ ba, tìm hiểu và đánh giá thực trạng bảo đảm quyền có NBC
ở Việt Nam, Đức và Mỹ trong sự so sánh để thấy được những hiệu
quả và khó khăn trong việc áp dụng pháp luật ở mỗi quốc gia.
Cuối cùng, trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật
hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về
bảo đảm quyền có NBC, đề tài nghiên cứu đề xuất những giải pháp
nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, nâng cao hiệu
quả bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được tiếp cận và thực hiện dưới góc độ luật
TTHS và so sánh luật. Những nghiên cứu trong luận án tập trung làm



5

6

sáng tỏ những nội dung bảo đảm quyền có NBC ở phạm vi các cơ

cập trong các bài viết này tập trung ở 3 khía cạnh: một là nghiên cứu

chế pháp lý, mà không mở rộng ở những khía cạnh khác, ví dụ cơ chế
kinh tế, cơ chế quản lý xã hội... Chính vì vậy, đối tượng nghiên cứu

những quy định của Bộ luật TTHS dưới góc độ bảo đảm quyền con
người (bao gồm quyền của người bị buộc tội); hai là nghiên cứu

của luận án là các quan điểm khoa học và những quy định của pháp
luật TTHS hiện hành của Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền

nguyên tắc TTHS về bảo đảm quyền bào chữa nói chung của người
bị buộc tội; ba là nghiên cứu vai trò của NBC trong TTHS. Bên cạnh

có NBC; những tư liệu thực tiễn của các cơ quan có thẩm quyền và
những phán quyết của các tòa án. Bên cạnh đó, những văn bản pháp

đó, một số rất ít bài viết khoa học đề cập đến bảo đảm quyền bào
chữa nói chung trong bối cảnh của cuộc cải cách tư pháp. Một vài

lý quốc tế có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng được đề
cập nhằm làm sáng tỏ mức độ vận dụng của trong pháp luật của các

nghiên cứu dưới dạng sách và luận án (ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ) đã

trở nên lạc hậu, không còn tính thời sự. Ở quy mô lớn hơn, đã có

quốc gia so với những chuẩn mực quốc tế.
4. Tình hình nghiên cứu

những nhóm chuyên gia tiến hành nghiên cứu về thực trạng hoạt
động của luật sư trong TTHS, tuy nhiên việc nghiên cứu cũng chỉ

Quyền có NBC của người bị buộc tội được ghi nhận từ rất sớm
trong lịch sử TTHS thế giới cũng như trong TTHS Việt Nam. Theo

dừng ở mức độ khảo sát số liệu.
Mặc dù vậy, kết quả từ những nghiên cứu trên đã giúp làm sáng

quy định của pháp luật Việt Nam, quyền có NBC được ghi nhận
trong Hiến pháp và Bộ luật TTHS như là một nguyên tắc cơ bản định

tỏ quy định của luật TTHS về bảo đảm quyền bào chữa nói chung,
cũng như chỉ ra tương đối những bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, các

hướng các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng
(THTT). Mặc dù vậy, việc bảo đảm quyền này trong thực tế còn tồn

nghiên cứu trên vẫn chưa tiếp cận trực tiếp và toàn diện về bảo đảm
quyền có NBC, nhất là hầu như chưa đề cập tới góc nhìn quốc tế về

tại nhiều hạn chế, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác
trên thế giới. Trên thực tế, việc nghiên cứu nhằm tìm kiến những giải

bảo đảm quyền này.

Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, có không ít

pháp bảo đảm có hiệu quả quyền lợi của người bị buộc tội trong
TTHS đã được nhiều nhà khoa học tiến hành. Tuy nhiên hầu hết các

những bài báo, công trình nghiên cứu đề cập đến quyền có NBC. Hầu
hết những nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở phạm vi pháp luật quốc gia.

nghiên cứu đều đề cập ở phạm vi bảo đảm các quyền tố tụng cơ bản
của người bị buộc tội. Những nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền

Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và
hầu hết mang tính mô tả pháp luật TTHS các nước. Ngoài ra, có

có NBC còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được
thực hiện dưới góc độ so sánh pháp luật.

không nhiều các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của
người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế về bảo

Ở Việt Nam, các nghiên cứu có liên quan đến bảo đảm quyền có
NBC còn khá khiêm tốn. Hầu hết các nghiên cứu ở quy mô các bài

đảm quyền con người.
Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một

báo khoa học hay các bài tham luận trong các Hội thảo khoa học và
chỉ dừng ở mức độ diễn giải luật thực định. Nhìn chung, nội dung đề

khối lượng kiến thức nền tảng về TTHS quốc tế và một số các quốc

gia trên thế giới, đặc biệt là Đức và Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn


7

8

diện về quyền có NBC của người bị buộc tội cũng như các cơ chế

việc tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt mà còn giúp cho

pháp lý bảo đảm quyền trong sự so sánh và đối chiếu với pháp luật
nước ngoài là thực sự cần thiết và có ý nghĩa.

việc hiểu biết và đánh giá toàn diện một hệ thống pháp luật. Kết quả

5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và để thực

từng hệ thống pháp luật. Kết quả nghiên cứu so sánh cho thấy không

hiện tốt những nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, những phương pháp
chung được áp dụng để nghiên cứu là: phương pháp phân tích và

bảo đảm quyền có NBC, và việc học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau

phương pháp tổng hợp.
Nhiệm vụ của khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói riêng

quả từ việc so sánh, đối chiếu với pháp luật TTHS Đức và Mỹ, tác


là mô tả, giải thích, đánh giá và dự báo. Đề tài nghiên cứu hướng đến
việc tìm hiểu các quy định của luật, do đó những phương pháp đặc

Nam về bảo đảm quyền có NBC trên cơ sở đối chiếu, chọn lọc và

thù của lĩnh vực luật học được tác giả vận dụng trong quá trình thực
hiện luận án. Trước hết là phương pháp phân tích pháp luật dựa trên
các học thuyết (legal dogmatics). Phương pháp này được sử dụng để
giải thích, phân tích, đánh giá nội dung và hiệu lực của những quy
phạm pháp luật, đồng thời hệ thống hóa chúng theo những tiêu chí
thống nhất và dự đoán hoặc đề xuất hướng phát triển của những quy
phạm pháp luật đó. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng
trong việc giải thích và hiểu chính xác các lập luận của tòa án và các
cơ quan có thẩm quyền, các chính sách của nhà nước cũng như
những quan điểm học thuyết có liên quan trong pháp luật quốc tế và

nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong
có sự hoàn hảo tuyệt đối trong pháp luật TTHS của từng quốc gia về
giữa pháp luật của các nước cần phải có sự chọn lọc. Vận dụng kết
giả đã đề xuất những kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt
xem xét tính phù hợp với điều kiện pháp luật Việt Nam.
Phương pháp lịch sử pháp luật cũng được tác giả sử dụng để thể
hiện sự gắn kết và tiếp nối về mặt thời gian của những quy định pháp
luật và quan điểm lập pháp về bảo đảm quyền có NBC. Bên cạnh đó,
phương pháp đàm thoại cũng được tiến hành để trao đổi với các
chuyên gia làm công tác thực tiễn, các luật sư và những người làm
công tác nghiên cứu về pháp luật TTHS. Công việc này đã giúp tác
giả có những hiểu biết chính xác và đa chiều về các hệ thống pháp
luật.

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận án
Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ tiến sĩ tiếp

pháp luật của 3 quốc gia lựa chọn (Việt Nam, Đức và Mỹ) về bảo
đảm quyền có NBC. Áp dụng phương pháp này trong việc nghiên

cận một cách toàn diện về bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội

cứu, chúng tôi mong muốn đưa ra một cách nhìn toàn diện về quy
định của những hệ thống pháp luật điển hình về bảo đảm quyền có

mới như sau:

NBC, đồng thời đề xuất những giải pháp phù hợp cho việc hoàn thiện
pháp luật Việt Nam.
Phương pháp so sánh luật học là phương pháp mang tính đặc thù
của luận án. Việc so sánh giữa các hệ thống pháp luật không chỉ là

dưới góc độ so sánh luật TTHS. Đề tài nghiên cứu có những đóng góp
1. Khái quát các quan điểm lịch sử về sự hình thành quyền có
NBC. Làm rõ mối liên hệ mang tính quy luật khách quan giữa bảo
đảm quyền có NBC với khái niệm về tố tụng công bằng (Due process
of law) và nguyên tắc nền tảng về quyền được xét xử công bằng


9
(Right to fair trial) trong TTHS. Chỉ ra được mối liên hệ giữa bảo
đảm quyền có NBC và bảo đảm tính công bằng, khách quan trong

10

1.1.1. Những quan điểm lịch sử về quyền có NBC
Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền có NBC được ghi nhận từ
rất sớm. Những biểu hiện ban đầu của quyền này được tìm thấy trong

TTHS.
2. Khái quát hóa các quan điểm, quan niệm của pháp luật quốc tế

thời kỳ Trung cổ và phát triển mạnh mẽ ở những quốc gia có nguồn

và Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC. Qua đó tổng kết và khẳng

gốc Thông luật (common law). Sau đó, những ảnh hưởng tiến bộ về

định những nội dung cơ bản về bảo đảm quyền có NBC được ghi

quyền có NBC đã lan tỏa sang các nước Châu Âu lục địa. Những

nhận trên cả bình diện quốc tế và quốc gia.

quan điểm lịch sử nhìn nhận quyền có NBC là một quyền cơ bản và

3. Hệ thống hóa các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam,
Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC trong sự đối chiếu, so sánh.
Đặc biệt là chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt cũng
như những điểm hợp lý và những điểm hạn chế trong từng hệ thống

cần được bảo đảm xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
- Sự tham gia của NBC được ghi nhận dựa trên nhu cầu khách
quan về sự công bằng trong chính sách xử lý đối với người phạm tội.
- Sự tham gia của NBC nhằm phản kháng lại sự hà khắc của các

thủ tục xét xử đối với người bị buộc tội;

pháp luật.
4. Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam

- Sự tham gia của NBC gắn liền với lịch sử hình thành của phiên

về bảo đảm quyền có NBC dựa trên việc tiếp thu có chọn lọc những

tòa tranh tụng (một điểm đặc trưng của mô hình tranh tụng -

kinh nghiệm của Đức và Mỹ. Đồng thời kiến nghị một số biện pháp

adversarial model). NBC có vai trò hỗ trợ người bị buộc tội tại phiên

nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng luật bảo đảm quyền có NBC ở

tòa để chống lại sự cáo buộc của nhà vua. Mô hình này xuất hiện từ

Việt Nam.

những năm đầu của thế kỷ 12 ở Anh và phát triển mạnh mẽ vào thế

7. Cơ cấu của luận án

kỷ 16, 17. Những yếu tố lịch sử này cho thấy, quyền có NBC là bước

Cơ cấu của luận án được xây dựng phù hợp với mục đích, đối

phát triển của quyền tự bào chữa.


tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận án gồm phần Mở đầu, Danh mục
các từ viết tắt, Danh mục tài liệu tham khảo, và năm chương.

- Phát huy quan điểm về sự công bằng và tính nhân đạo của
pháp luật, quyền có NBC được bảo đảm trong các vụ việc nghiêm
trọng. Thậm chí chính sách bảo đảm quyền có NBC miễn phí cho

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI
BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền có NBC

người nghèo đã được ghi nhận lần đầu tiên ở Anh vào năm 1494.
Những quan điểm lịch sử trên đã tạo nền móng cho sự phát triển
về quyền có NBC ngày nay.
1.1.2. Những nguyên tắc pháp lý bảo đảm quyền có NBC
Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử pháp luật, kết hợp với
phương pháp pháp phân tích pháp luật dựa trên các học thuyết, tác


11

12

giả đã tìm thấy sự liên hệ mang tính quy luật khách quan giữa những

Để xác định tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền có NBC


khái niệm nền tảng về thủ tục công bằng (Due process of Law),

trong TTHS, câu hỏi tìm hiểu mục đích của quyền này cần được lý

nguyên tắc về quyền được xét xử công bằng (Right to fair trial) và

giải. Quan điểm của nhiều nhà khoa học đều cho thấy, quyền có NBC

vấn đề bảo đảm quyền có NBC. Thủ tục công bằng là một khái niệm

cần được bảo đảm nhằm:

mang tính lịch sử, gắn liền với nhiều cuộc đấu tranh của người dân đi

- Trao những cơ hội bình đẳng cho người bị buộc tội, vì bản thân

tìm sự công bằng trước những quy định và thủ tục hà khắc của nhà

tư cách tố tụng của họ là biểu thị sự không bình đẳng trước sự cáo

vua. Trong hoạt động xử lý người phạm tội, yêu cầu về một thủ tục

buộc của cơ quan có thẩm quyền;

công bằng là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền lợi của người bị buộc tội
trước những cáo buộc của nhà nước.
Khái niệm về thủ tục công bằng đã tạo nền tảng cho sự hình

- Cung cấp NBC nhằm bảo vệ những quyền con người của
người bị buộc tội khi họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế

trong TTHS như bắt, tạm giữ, tạm giam v.v…

thành và phát triển nguyên tắc được xét xử công bằng. Đây một

1.2. Bảo đảm quyền có NBC trong các văn bản pháp lý quốc tế

nguyên tắc cơ bản trong việc bảo đảm quyền tố tụng của người bị

1.2.1. Khái quát hệ thống các văn bản pháp lý quốc tế liên quan

buộc tội và được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế

đến bảo đảm quyền có NBC

và pháp luật các quốc gia. Trong vụ án hình sự, nguyên tắc được xét

Nội dung này là sự khái quát và hệ thống các văn bản pháp lý

xử công bằng bao hàm một nội dung duy nhất, đó là bảo đảm sự công

quốc tế liên quan đến quyền có NBC. Những văn bản được đề cập

bằng giữa các bên trong TTHS (yếu tố ‘equality of arms’). Theo đó,

trong luận án bao gồm: Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính

người bị buộc tội được bảo đảm xét xử bởi một phiên tòa công bằng

trị; Công ước Châu Âu về quyền con người; Công ước Châu Mỹ về


và không thiên vị; được trao những cơ hội ngang bằng với bên buộc

quyền con người; Hiến chương Châu Phi về quyền công dân và các

tội trong vụ án về việc thu thập và trình bày các chứng cứ bào chữa;

dân tộc. Bên cạnh đó, những văn bản, kết luận của các Tổ chức và

được tranh luận ngang bằng tại phiên tòa v.v…

các Tòa án thực thi các Công ước cũng được xem xét nhằm làm sáng

Với luận điểm trên, tác giả đã làm rõ mối liên hệ giữa bảo đảm

tỏ những nộ dung bảo đảm quyền có NBC trong phạm vi pháp luật

quyền có NBC với nguyên tắc về thủ tục công bằng và nguyên tắc

quốc tế.

xét xử công bằng. Đây là mối liên hệ giữa vấn đề nền tảng và kết quả

1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền có NBC trong các văn bản pháp lý

cụ thể. Quyền có NBC của người bị buộc tội khó có thể được bảo

quốc tế

đảm trọn vẹn nếu như có sự vi phạm hai nguyên tắc trên. Ngược lại,
yếu tố công bằng trong TTHS chỉ được tuân thủ khi quyền có NBC

được tôn trọng và bảo đảm.
1.1.3. Mục đích của quyền có NBC trong TTHS

Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền có NBC trong các văn bản
pháp lý quốc tế được bảo đảm ở những khía cạnh sau:
- Quyền được bảo đảm khoảng thời gian hợp lý và những điều
kiện thuận lợi cho việc bào chữa;


13

14

- Quyền được có NBC: quyền này xuất hiện ngay khi một người

văn. Bản án của tòa án chỉ có giá trị hiệu lực đối với từng vụ việc cụ

bị bắt và được bảo đảm trong các giai đoạn điều tra tiền xét xử và tại

thể, mà không có giá trị án lệ. Chính vì vậy, TTHS Việt Nam mang
những đặc tính của hệ tố tụng thẩm vấn. Theo đó, TTHS Việt Nam

phiên tòa;
- Quyền được cung cấp NBC miễn phí nếu người bị buộc tội
không có khả năng chi trả phí bào chữa hoặc do nhu cầu vì lợi ích
công;
- Quyền được trao đổi với NBC mà không giám sát bởi một bên
thứ ba, trừ những ngoại lệ khác nhằm bảo đảm an ninh công cộng;
- Quyền được thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng.
Trên đây là những nội dung cơ bản được ghi nhận thống nhất

trong các văn bản pháp lý quốc tế. Trên thực tế, những khía cạnh bảo
đảm quyền được giải thích cụ thể hơn trong các bản án của các Tòa
án xét xử việc thực thi các quy định của Công ước. Mặc dù vậy,
những nội dung trên sẽ là tiêu chí để đối chiếu, so sánh và đánh giá
các hệ thống pháp luật lựa chọn.
Chương 2
BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền có
NBC của người bị buộc tội
2.1.1. Khái quát về TTHS Việt Nam
Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt về cơ chế bảo đảm
quyền có NBC giữa các hệ thống pháp luật là những đặc thù về mô
hình TTHS. Trong nội dung này, tác giả đã mô tả và khắc họa những
điểm đặc trưng về trình tự giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam. Pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của
hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với truyền thống pháp luật thành

mang những đặc thù sau:
- Hoạt động tố tụng được thực hiện bằng cách thức thẩm tra. Kết
quả của việc chứng minh tội phạm được thể hiện bằng các quyết
định, đó là bản kết luận điều tra của cơ quan Điều tra và cáo trạng
của Viện Kiểm sát.
- Phiên tòa được ví như cuộc điều tra công khai. Chứng cứ thu
thập phải được điều tra lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do tòa án
đảm nhận. Thẩm phán giữ vai trò chủ động trong việc xét xử. Phán
quyết của Hội đồng xét xử được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm
của tòa án về sự thật khách quan của vụ án, mà không chỉ đơn thuần
là kết quả tranh tụng công bằng của các bên (bên buộc tội và bên bào
chữa) như mô hình tố tụng tranh tụng.

- NBC đóng vai trò khá mờ nhạt trong quá trình tố tụng. Các quy
định về quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng như quyền và
nghĩa vụ của NBC vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Điều này là một trong
những nguyên nhân dẫn đến quyền có NBC không được bảo đảm
trọn vẹn.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định về quyền
bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam
Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển chế định về quyền có
NBC cho thấy chính sách của Nhà nước Việt Nam là nhất quán và luôn
đề cao việc bảo đảm các quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội.
Quá trình này được ghi nhận ở 3 giai đoạn:
2.1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954
Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa. Trong giai đoạn này, quyền có NBC đã được ghi nhận,


15

16

tuy nhiên quyền này chỉ được áp dụng tại phiên tòa. NBC có thể là

tội

luật sư hoặc người khác (Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc
thành lập Tòa án quân sự và Điều 67 Hiến pháp năm 1946).

2.2.2. Chế định người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003
Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật TTHS, NBC có thể là: luật


2.1.2.1. Giai đoạn từ 1955 đến 1988 (trước khi BLTTHS có hiệu
lực)

sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối tượng

Trong giai đoạn này, về cơ bản, quyền có NBC vẫn chỉ được áp
dụng trong giai đoạn tại phiên tòa. Lần đầu tiên pháp luật ghi nhận

tham gia bào chữa cho người bị buộc tội phổ biến trong vụ án hình sự
chủ yếu là đội ngũ luật sư. Trong khi đó, các quy định của Bộ luật

trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) trong việc bảo
đảm quyền có NBC lần đầu tiên được ghi nhận (Điều 101, Hiến pháp

TTHS chưa thực sự hỗ trợ cho luật sư cũng như những NBC khác
phát huy được chức năng bào chữa trong vụ án. Thực tế cho thấy chất

1959). Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã đề cập đến nghĩa vụ chỉ định
NBC đối với những bị cáo là người chưa thành niên (Thông tư số 16-

lượng NBC cũng là một trong những vấn đề ảnh hưởng đến hiệu quả
bào chữa.

TATC ngày 27/08/1974 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ
thể về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm). Đồng thời trong giai đoạn

2.2.3. Trách nhiệm của cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo


này, Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự
khác về mặt pháp lý (Điều 133, Hiến pháp 1980; Pháp lệnh tổ chức

Trên cơ sở nguyên tắc ‘Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo’ theo quy định của Điều 10 Bộ luật TTHS, cơ

luật sư ngày 18/12/1987). Bổ sung vào đội ngũ NBC còn có sự ra đời
của bào chữa viên nhân dân (Thông tư số 691/QLTPK về công tác

quan THTT (bao gồm cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án) có
nghĩa vụ bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa

bào chữa trong toàn quốc ngày 31/10/1983).
2.1.2.2. Giai đoạn từ 1989 đến nay

của mình, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để NBC thực hiện tốt
chức năng bào chữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, so với những

Trong giai đoạn này, chế định về quyền có NBC được quy định
khá hoàn chỉnh. Quyền có NBC được ghi nhận là một trong những

chuẩn mực của pháp luật quốc tế, Bộ luật TTHS Việt Nam có những
quy định tiến bộ trong việc quy định trách nhiệm của cơ quan THTT,

quyền hiến pháp của người bị buộc tội (Điều 132 Hiến pháp 1992), và
bảo đảm quyền có NBC là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS (Điều

ví dụ những quy định về trách nhiệm của cơ quan Điều tra trong việc
thông báo thời điểm và nơi trốn hỏi cung để NBC có thể tham gia;


10 Bộ luật TTHS 2003). Theo đó, người bị buộc tội được bảo đảm có
NBC ngay từ khi có quyết định tạm giữ. Quyền này được bảo đảm trong

cấp giấy chứng nhận bào chữa và tạo điều kiện để NBC gặp gỡ thân
chủ của mình đang bị tạm giữ, tạm giam v.v... hay những quy định về

các quá trình điều tra, truy tố, xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm).
2.2. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có

trách nhiệm đảm bảo quyền được tranh luận công bằng tại phiên tòa
xét xử v.v... Mặc dù vậy, Bộ luật vẫn chưa ghi nhận quyền được im

người bào chữa của người bị buộc tội
2.2.1. Quyền có người bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc

lặng của người bị buộc tội, cũng như trách nhiệm của cơ quan THTT
trong việc giải thích quyền được im lặng và quyền không phải khai


17

18

báo những chứng cứ chống lại mình. Đây là một thiết xót cần được

Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề bảo đảm quyền có

xem xét để bổ sung.
2.3. Thực tiễn đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị


NBC vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, tập trung ở những khía
cạnh chủ yếu sau:

buộc tội trong TTHS Việt Nam
2.3.1 Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền có người

2.3.2.1. Những bất cập về mặt quy phạm
Đây là hạn chế lớn nhất ảnh hưởng đến quyền có NBC. Có thể

bào chữa của người bị buộc tội
2.3.1.1. Những thành tựu về mặt lập pháp

khái quát những thiếu xót và bất cập ở những vấn đề liên quan đến
quyền của người bị buộc tội (ví dụ như: luật chưa quy định rõ ràng về

Kể từ khi bắt đầu công cuộc cải cách tư pháp vào năm 2002,
hoạt động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực TTHS này càng được

quyền từ chối, lựa chọn và thay đổi NBC chỉ định; việc quy định về
thời điểm được có NBC còn khắt khe; chưa có quy định đồng bộ về

chú trọng. Trước hết phải kể đến việc sửa đổi bổ sung Bộ luật TTHS
năm 2003 với nhiều bước tiến đáng kể, bảo đảm tốt hơn quyền lợi

trách nhiệm của người THTT về việc thông báo và giải thích quyền
có NBC v.v...). Bên cạnh đó, những quy định về quyền của NBC

của công dân và của người bị buộc tội. Quyền bào chữa ngày càng
được hoàn thiện và mở rộng. Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật Luật sư


cũng còn nhiều bất cập. Các quy định chưa hợp lý của Bộ luật TTHS
chưa thực sự tạo điều kiện cho NBC tham gia bào chữa hiệu quả, ví

(2006) và Luật trợ giúp pháp lý (2006) cũng tạo nên những nền tảng
pháp lý vững chắc cho hoạt động bào chữa.

dụ những quy định về cấp giấy chứng nhận bào chữa; quyền được
thông báo về thời điểm và nơi trốn hỏi cung bị can; quy định về

2.3.1.2. Những kết quả đạt được từ hoạt động áp dụng pháp luật
- Tinh thần cải cách tư pháp đã có ý nghĩa tác động tích cực đến

quyền được thu thập tài liệu liên quan đến việc bào chữa; quyền được
gặp gỡ thân chủ đang bị giam giữ; vấn đề về thù lao cho NBC định

thái độ và tư duy của đội ngũ những người THTT. NBC được tạo
điều kiện thuận lợi hơn khi tham gia tố tụng trong các giai đoạn điều

còn chưa phù hợp v.v...
2.3.2.2. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật:

tra, truy tố, xét xử.
- Chất lượng luật sư bào chữa cũng được chú trọng, tạo hiệu quả

Nội dung này phản ánh thái độ trình độ và tư duy mang tính tiêu
cực của đội ngũ những người THTT đối với việc nhìn nhận vai trò

trong công tác bào chữa, nâng cao chất lượng xét xử vụ án. Báo cáo
của TANDTC và các Đoàn luật sư cho thấy, sự tham gia bào chữa


của NBC khi tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, qua những số liệu khảo
sát đã phản ánh khá đầy đủ về chất lượng cũng như ý thức trách

của luật sư trong các vụ án hình sự ngày càng tăng, khiến giảm bớt số
lượng các vụ việc bị kháng cáo hoặc kháng nghị v.v...

nhiệm của NBC khi tham gia tố tụng. Những con số cho thấy, đây là
vấn đề cần được quan tâm và khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả bào

2.3.2. Những bất cập trong việc đảm bảo quyền có người bào
chữa của người bị buộc tội

chữa. Vấn đề hạn chế và thiếu kiến thức xã hội, hiểu biết pháp luật từ
phía những người bị buộc tội cũng là nguyên nhân tạo ra những rào
cản trong hoạt động bào chữa, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền có
NBC.


19

20

Kết luận: Qua những vấn đề đã được tìm hiểu và phân tích trong

- Chi phí cho NBC trong trường hợp bào chữa chỉ định do Nhà

Chương 2, có thể khái quát những nội dung cơ bản về đảm bảo quyền
có người bào chữa trong pháp luật TTHS Việt Nam ở những nội

nước trả. Người bị buộc tội là người nghèo không thuộc đối tượng

được chỉ định người NBC.

dung cơ bản sau:
- Quyền có người bào chữa là một quyền Hiến pháp. Quyền này

Có thể nói, quyền có người bào chữa theo quy định của pháp
luật Việt Nam được bảo đảm khá đầy đủ và phù hợp với các nội dung

được Bộ luật TTHS ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản định hướng
đối với các hoạt động tố tụng của cơ quan THTT.

trong các Công ước quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, trong
những điều luật cụ thể, vẫn còn tồn tại những điểm chưa rõ ràng,

- Thời điểm phát sinh quyền có người bào chữa còn quy định
khá hạn chế. Quyền này chỉ được áp dụng khi một người nhận được

thống nhất, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn còn gặp
nhiều khó khăn, ví dụ như các quy định về quyền của NBC khi tham

quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp vụ án có người bị bắt và
bị tạm giữ, NBC có quyền tham gia khi có quyết định tạm giữ. Đối

gia tố tụng. Những vướng mắc này cần sớm được bổ sung, sửa đổi
nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người bị buộc tội. Nội dung của

với tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bào chữa chỉ có thể tham
gia từ khi kết thúc điều tra. Quyền có NBC được bảo đảm trong các

Chương 2 đã chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quy định của

pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng về quyền có người bào

giai đoạn điều tra tiền xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên toà phúc
thẩm.

chữa, đồng thời đã chỉ ra được các nguyên nhân của những vướng
mắc.

- Người bị buộc tội không được cảnh báo về quyền được im
lặng.

Chương 3

- Sự tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc
tội. NBC do người bị buộc tội tự lựa chọn. Họ có thể thuê một hoặc
nhiều người bào chữa cho mình.
- Việc chỉ định NBC được coi là nghĩa vụ bắt buộc đối với cơ

ĐẢM BẢO QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ĐỨC
3.1. Khái quát về TTHS Đức
3.1.1. Nguồn luật
Đức là nhà nước liên bang, với sự tồn tại của hai hệ thống pháp

quan THTT trong hai trường hợp: bị ban, bị cáo về tội theo khung
hình phạt cao nhất là tử hình; hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành

luật Liên bang và pháp luật của các bang. Tuy nhiên, pháp luật điều

niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Tuy nhiên sẽ

không là bắt buộc nếu bị can, bị cáo đã tự nhờ người bào chữa. Trong

phạm vi toàn liên bang và các bang.

trường hợp này, người bị buộc tội vẫn có quyền tự yêu cầu thay đổi
hoặc từ chối người bào chữa do cơ quan THTT chỉ định.

chỉnh trong lĩnh vực hình sự và TTHS được quy định thống nhất trên
Pháp luật Đức có nguồn gốc của pháp luật Châu Âu lục địa,
nguồn luật áp dụng là Hiến pháp và các đạo luật, trong đó Bộ luật
TTHS (StPO) đóng vai trò là nguồn luật chính điều chỉnh các hoạt
động TTHS. Bên cạnh đó, Công ước Châu Âu về quyền con người,


21

22

các bản án của Tòa án nhân quyền Châu Âu cũng như những văn bản

3.2. Những khía cạnh bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Đức

của Liên minh Châu Âu (Hiến Chương về quyền con người 2007)

3.2.1. Thời điểm đảm bảo quyền

hiện tại cũng có giá trị áp dụng như nguồn luật chính ở Đức về các

Thực tế cho cho thấy, việc không cho phép NBC có mặt trong


vấn đề TTHS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu luật Đức phải được đối

quá trình thẩm tra của cảnh sát là vi phạm nội dung về bảm đảm

chiếu với những quy định, chuẩn mực của Cộng đồng Châu Âu và

quyền có NBC theo Điều 6.3(c) Công ước Châu Âu về quyền con

Liên minh Châu Âu. Ngoài ra, hoạt động giải thích luật cũng đóng

người. Mặc dù Bộ luật TTHS Đức có ghi nhận quyền này được bào

vai trò quan trọng trong việc định hướng áp dụng pháp luật.

đảm trong mọi giai đoạn TTHS, tuy nhiên thực tế quyền này vẫn bị vi

3.1.2. Các giai đoạn TTHS và vai trò của NBC

phạm. Theo các án lệ của Tòa án Châu Âu về quyền có NBC, và các

TTHS Đức là một biểu hiện đặc trưng của mô hình tố tụng

quy định của Bộ luật TTHS Đức, người bị buộc tội phải được thông

thẩm vấn truyền thống. Mặc dù vậy, giống với nhiều nước Châu

báo về quyền có NBC đồng thời được giải thích về quyền được im

Âu, TTHS Đức ngày nay đã có những biến đổi tích cực về mô


lặng và không phải khai báo những chứng cứ bất lợi cho họ. Đây là

hình tố tụng, và ghi nhận nhiều yếu tố của mô hình tố tụng tranh

một trong những điểm khác biệt giữa TTHS Đức và TTHS Việt Nam.
3.2.2. Bào chữa bắt buộc và chỉ định NBC
Điểm đặc trưng của TTHS Đức là đề cao tuyệt đối sự tham gia
của NBC trong một số trường hợp như: người bị buộc tội bị truy tố
mức hình phạt nghiêm trọng; người chưa thành niên; người có nhược
điểm về thể chất hoặc tinh thần và một số trường hợp ngoại lệ khác.
Chính vì vậy, chế định về NBC bắt buộc được tuân thủ rất cứng nhắc,
thậm chí tước bỏ quyền từ chối NBC của người bị buộc tội. Tương
ứng với tính chất bắt buộc, cơ quan THTT có nghĩa vụ chỉ định NBC
ngay cả khi người bị buộc tội không yêu cầu. Nghĩa vụ này cũng
được áp dụng với những trường hợp người bị buộc tội không có khả
năng tự thuê NBC.

tụng. Mặc dù vậy, cách thức giải quyết vụ án vẫn mang những
đặc trưng của hệ tố tụng thẩm vấn. Cảnh sát và công tố viên
đóng vai trò chính trong hoạt động điều tra tiền xét xử. Tòa án
mở phiên tòa dựa trên đề nghị truy tố của công tố viên. Thẩm
phán đóng vai trò chủ động và điểu khiển phiên tòa thẩm tra với
sự tham gia của hội thẩm. Nhìn chung, những quy định về thủ
tục TTHS Đức có nhiều điểm tương đồng với pháp luật Việt
Nam. Quyền có NBC được bảo đảm không chỉ bởi các quy định
của pháp luật TTHS Đức mà còn được bảo đảm theo các chuẩn
mực quốc tế. Chính vì vậy, người bị buộc tội và NBC của họ
được trang bị khá đầy đủ để tham gia hoạt động bào chữa. Tuy
vậy, vai trò của NBC ở Đức mới chỉ thực sự được nhìn nhận
đúng đắn trong hoạt động xét xử tại phiên tòa. Một số quyền của

NBC trong hoạt động thẩm tra của cảnh sát vẫn bị hạn chế mặc
dù pháp luật ghi nhận quyền có NBC được bảo đảm trong mọi
giai đoạn tố tụng (Điều 137.1 Bộ luật TTHS).

3.2.3. Chi phí bào chữa
Vấn đề chi phí bào chữa đặt ra cho những trường hợp người bị
buộc tội không tự mình thuê NBC. Nhà nước sẽ cung cấp một khoản
hỗ trợ để người bị buộc tội ngay lập tức có NBC, tuy nhiên khoản chi
phí này sẽ phải được hoàn trả nếu anh ta bị tuyên phạm tội. Ngược


23

24

lại, nếu được tuyên tha tội, nghĩa vụ hoàn trả sẽ được giải phóng. Tuy

4.1.1. Nguồn luật

nhiên chính sách hỗ trợ phí bào chữa chỉ được áp dụng tại giai đoạn
xét xử. Đây là điểm đặc trưng về chính sách trợ giúp pháp lý ở Đức.

Mỹ là nhà nước Liên Bang. Hệ thống pháp luật cũng được phân
chia thành hai nguồn tách biệt, một là Hiến pháp và pháp luật của

3.2.4. Lựa chọn và từ chối NBC
NBC do người bị buộc tội lựa chọn nếu anh ta có khả năng thuê.

Liên bang, hai là Hiến pháp và pháp luật của các bang. Tuy nhiên,
những nghiên cứu trong Chương 4 chủ yếu tập trung xem xét pháp


Tuy nhiên quyền này bị giới hạn nếu NBC do chỉ định trong các
trường hợp bắt buộc sự tham gia của NBC.

luật của liên bang, pháp luật của bang cũng được đề cập để đối chiếu
và làm rõ những quy định liên quan.

3.2.5. Những bảo đảm việc bào chữa hiệu quả
Những khía cạnh bảo đảm hiệu quả quyền có NBC bao gồm:

Pháp luật Mỹ có nguồn gốc của hệ thống thông luật. Do đó, bên
cạnh Hiến pháp, bản án (án lệ) của Tòa án tối cao Mỹ là nguồn luật

3.2.5.1. Quyền được tiếp cận với hồ sơ vụ án
3.2.5.2. Quyền được cung cấp khoảng thời gian hợp lý và điều

chủ đạo.
4.1.2. Hệ thống tư pháp đối tụng

kiện thuận lợi để chuẩn bị việc bào chữa
3.2.5.3. Quyền trao đổi giữa NBC và thân chủ (người đang bị

Yếu tố đối tụng công bằng là một đặc trưng của TTHS Mỹ. Nội
dung này đề cao việc bảo đảm quyền lợi của cá nhân khi tham gia

giam giữ)
3.3 Những vướng mắc trong pháp luật TTHS Đức về bảo đảm

TTHS. Cụ thể là biểu đạt sự bảo đảm tranh tụng công bằng giữa cá
nhân người bị buộc tội trước sự cáo buộc của nhà nước.


quyền có NBC
Những vướng mắc còn tồn tại ở trong TTHS Đức về bảo đảm

4.1.3. Nền tảng về thủ tục công bằng
Bản chất về thủ tục công bằng là nguyên tắc nền tảng và chủ đạo

quyền có NBC chủ yếu là những quy định về quyền của người bị buộc
tội trong giai đoạn điều tra. Những hạn chế về thời điểm tham gia của

chi phối các hoạt động TTHS ở Mỹ. Cùng với sự vận hành của hệ
thống tư pháp đối tụng, yếu tố về thủ tục công bằng là một điểm khác

NBC cũng như chính sách hỗ trợ chi phí bào chữa cho người nghèo
chưa thực sự bảo đảm việc thực hiện quyền có NBC trên thực tế. Bên

biệt cơ bản với TTHS Đức và Việt Nam. Điều này là nền tảng tạo
nên những khác biệt trong quan niệm về vai trò của NBC cũng như

cạnh đó, tâm lý xem nhẹ vai trò của NBC cũng như những tiêu cực còn
tồn tại về năng lực, trình độ và đạo đức của đội ngũ luật sư vẫn là

trách nhiệm bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ.
4.2. Bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ

những rào cản cho quá trình bảo đảm quyền có NBC ở Đức.

4.2.1. Khái quát về bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ
Quyền có NBC trong TTHS Mỹ được bảo đảm bởi Tu chính án


Chương 4
BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỸ
4.1. Khái quát về TTHS Mỹ

thứ 6 và được cụ thể hóa trong các bản án của Tòa án Tối cao Mỹ và
trong một số Đạo luật liên quan. Nội dung của phần này là sự hệ
thống hóa các án lệ điển hình của Tòa án Tối cao Mỹ về quyền có
NBC. Bằng phương pháp lịch sử, tác giả đã mô tả khái quát, đồng


25

26

thời phân tích những bước tiến trong việc ghi nhận quyền có NBC

Một trong những ưu điểm tiến bộ của TTHS Mỹ là chính sách hỗ trợ

trong TTHS Hoa Kỳ. Nội dung này đã được tác giả sử dụng làm cơ
sở nghiên cứu các khía cạnh bảo đảm quyền ở phần tiếp theo.

cho các bị cáo là người nghèo. Theo đó, người nghèo được cung cấp NBC
miễn phí bởi các quỹ bào chữa công. Tuy nhiên, việc xem xét và xác định

4.2.2. Những khía cạnh bảo đảm quyền có NBC
4.2.1.1. Thời điểm áp dụng quyền

yếu tố ‘nghèo’ hay ‘không nghèo’ cũng như việc tìm kiếm nguồn quỹ cho
chính sách nhân đạo này đã và đang là một trong những khó khăn thách


Cũng giống với quy định của pháp luật Việt Nam và Đức, quyền có
NBC trong TTHS Mỹ được bảo đảm trong các giai đoạn TTHS, bao gồm:

thức nền tư pháp hình sự Mỹ.

điều tra tiền xét xử, tại phiên tòa xét sử sơ thẩm, và phiên tòa phúc thẩm.
Tuy nhiên, giống với Đức và khác với Việt Nam, người bị buộc tội ở Mỹ

4.3. Thực tiễn bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ
Trước rất nhiều ưu điểm trong chính sách bảo đảm quyền có
NBC của người bị buộc tội, TTHS Mỹ vẫn đang phải đối diện với rất

có quyền im lặng và không buộc phải khai báo những chứng cứ bất lợi
cho anh ta. Ngay từ thời điểm một người bị bắt, cảnh sát viên có nghĩa vụ

nhiều khó khăn, cụ thể là: thiếu nguồn quỹ hỗ trợ chi phí cho người

phải thông báo và giải thích về quyền có NBC, nếu người bị tình nghi
không có khả năng thuê NBC, cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định NBC

tình trạng luật sư thường xuyên thiếu trách nhiệm trong việc bào

cho họ, trừ khi họ từ chối quyền của mình một cách tự nguyện và minh
mẫn.

bất cập... Hiện tại Ủy ban quốc gia về quyền bào chữa của Mỹ đã đề

4.2.1.2. Lựa chọn và từ chối NBC
Khác với Việt Nam và Đức, TTHS Mỹ quy định rõ ràng về quyền từ


nghèo; tình trạng quá tải về các vụ việc bào chữa miễn phí đã dẫn đến
chữa; các điều kiện hỗ trợ luật sư tham gia bào chữa vẫn còn nhiều
xuất nhiều giải pháp để khắc phục những tình trạng trên. Đây là
những kinh nghiệm đáng học hỏi.
Chương 5

chối NBC. Việc từ chối chỉ được chấp nhận với điều kiện người bị buộc
tội từ chối NBC phải tự nguyện và minh mẫn. Thậm chí, nếu họ tiếp tục

ĐÁNH GIÁ SO SÁNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

có nhu cầu được chỉ định NBC, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành chỉ
định NBC cho họ. Mặc dù vậy, việc lựa chọn NBC trong các trường hợp

NGƯỜI BÀO CHỮA

chỉ định cũng bị hạn chế.
4.2.1.3. Người bảo chữa hiệu quả
TTHS Mỹ rất đề cao tính hiệu quả của NBC. Theo quan điểm của
nhà làm luật, quyền có NBC phải bảo hàm quyền có NBC hiệu quả. Tính
hiệu quả được đánh giá ở trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp của
NBC. Việc cung cấp NBC không thỏa mãn những điều kiện trên bị xem là
sự vi phạm quyền Hiến pháp về quyền có NBC.
4.2.1.4. Chi phí bào chữa

PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ
Nội dung của Chương 5 gồm hai phần chính. Thứ nhất là những
đánh giá so sánh về đảm bảo quyền có NBC trong 3 hệ thống pháp
luật Việt Nam, Đức và Mỹ. Hai là những kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC
5.1. Những đánh giá so sánh giữa pháp luật Việt Nam, Đức và
Mỹ về đảm bảo quyền có NBC của người bị buộc tội
Trong phần này, tác giả tập trung nhận xét ở hai khía cạnh, đó là
những đánh giá chung và những đánh giá cụ thể. Trong nội dung về


27

28

những đánh giá chung, tác giả tổng kết và phân tích những yếu tố tạo

Kiến nghị 2: sửa đổi bổ sung một số nội dung về quyền của người bị

nên sự tương đồng và khác biệt trong quan điểm xây dựng các cơ chế
bảo đảm quyền có NBC, ví dụ như yếu tố về mộ hình tố tụng truyền

buộc tội, cụ thể là:
- Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền lựa chọn NBC theo hướng

thống, nguyên tắc tố tụng và cách thức chứng minh tội phạm. Ngược
lại, những đánh giá cụ thể là việc tổng hợp và phân tích những tương

phân định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị can, bị cáo tự
thuê với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định, cụ thể là:

đồng và khác biệt về các cơ chế pháp lý cụ thể bảo đảm quyền có
NBC trong từng hệ thống pháp luật. Trong phần thứ nhất của Chương


- Quy định bổ sung Điều luật về quyền từ chối NBC theo hướng:
quy định người bị buộc tội có quyền từ chối quyền có NBC (trừ

5, những kết luận so sánh sẽ được phân tích đan xen trong từng tiêu
chí cụ thể.

trường hợp người bị buộc tội là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất); quy định các cơ quan THTT

5.2 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về
bảo đảm quyền có NBC

có nghĩa vụ giải thích những hậu quả của việc từ chối quyền có NBC;
việc từ chối NBC phải đảm bảo trong điều kiện người từ chối minh

Dựa trên kết quả đánh giá ở mục 5.1., kết hợp với việc xem xét
các điều kiện và hoàn cảnh của pháp luật Việt Nam, tác giả đã xây

mẫn và tự nguyện; việc từ chối phải lập thành văn bản có chữ ký của
người từ chối và xác nhận của cơ quan THTT).

dựng và đưa ra những kiến giải phù hợp ở hai mức độ, đó là những
giải pháp mang tính định hướng và những giải pháp cụ thể.

- Mở rộng đối tượng được chỉ định NBC đối với người bị truy tố
ở khung hình phạt 20 năm tù và tù chung thân.

5.2.1 Những kiến nghị mang tính định hướng
Những kiến nghị tập trung vào 3 vấn đề:


Kiến nghị 3: sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 58 Bộ luật TTHS theo
hướng cho phép NBC tham gia từ khi khởi tố bị can đối với những

5.2.1.1. Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận nguyên tắc
tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong TTHS

tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Kiến nghị 4: sửa đổi, bổ sung Điều 190 Bộ luật TTHS theo hướng

5.2.1.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan THTT,
người THTT

mọi trường hợp vắng mặt NBC, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
Kiến nghị 5: Quy định hình thức phiên tòa xét xử theo hướng phiên

5.2.1.3. Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với
người dân

tòa tranh tụng công bằng.
Kiến nghị 6: quy định bổ sung Điều luật ghi nhận quyền được im

5.2.2 Những kiến nghị cụ thể
Kiến nghị 1: sửa đổi Điều 10 Bộ luật TTHS theo hướng: “Trách

lặng của người bị buộc tội.
Kiến nghị 7: sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện

nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan Điều tra và Viện Kiểm
sát; Tòa án thực hiện chức năng xét xử; bị can, bị cáo có quyền


thuận lợi cho NBC khi tham gia vụ án. Cụ thể là:
Một là, cần phải quy định lại Điều 58, khoản 2(b) Bộ luật TTHS

nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội”.

theo hướng cơ quan THTT có nghĩa vụ phải thông báo trước về thời


29

30

gian và địa điểm hỏi cung bị can. NBC có quyền được thông báo mà

được trình bày trong Chương 5 cũng đã kết thúc việc nghiên cứu của

không chỉ là quyền đề nghị được thông báo như quy định hiện hành.
Hai là, quy định nghĩa vụ của cơ quan THTT trong việc tiếp

tác giả tại thời điểm này. Hy vọng những đề xuất trên sẽ có ý nghĩa
trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC.

nhận chứng cứ do NBC cung cấp, và trách nhiệm của cơ quan THTT
phải hỗ trợ NBC trong việc liên hệ với các cơ quan, tổ chức hoặc cá

Tp. Hồ Chí Minh, 10/2011

nhân tạo điều kiện thuận lợi để thu thập chứng cứ. Đồng thời quy
định NBC có quyền được nhận thông báo về việc trưng cầu giám


NCS: Lương Thị Mỹ Quỳnh

định và kết quả giám định.
Ba là, bổ sung quy định về quyền của NBC được gặp gỡ và trao
đổi với thân chủ đang bị, tạm giữ, tạm giam theo hướng NBC không
bị giới hạn số lần và thời gian tiếp xúc với thân chủ của mình. Việc
trao đổi có thể trực tiếp hoặc qua thư từ. Trường hợp người đang bị
tạm giữ, tạm giam vi phạm những tội xâm phạm an ninh quốc gia thì
việc trao đổi bằng thư từ sẽ không được phép.
Bốn là, nên bỏ quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC.
Năm là, phát triển đội ngũ người bào chữa theo hướng: (1) mở

rộng đối tượng được tham gia hành nghề luật sư đối với viên
chức nhà nước đang là giảng viên giảng dạy luật tại các trường
đại học; (2) xây dựng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nhằm giúp đỡ
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; (3) hoàn thiện quy định về
bào chữa viên nhân dân.
Kết luận: Trên đây là toàn bộ những ý kiến của tác giả nhằm đề
xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm
quyền có NBC. Cần phải xác nhận rằng, những kiến nghị này được
đề xuất dựa trên thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt Nam kết hợp
với việc học tập những kinh nghiệm từ hai hệ thống pháp luật lựa
chọn là Đức và Mỹ. Các đề xuất cũng được tác giả cân nhắc thận
trọng theo tiêu chí phù hợp với các điều kiện về truyền thống văn hóa
pháp lý và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Những nội dung



×