Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.79 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT KHÓA 2008-2012

CƠ CHẾ GIÁM SÁT
HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Giảng viên hướng dẫn:
TRƯƠNG THANH HÙNG

Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN THỊ YẾN NHUNG
MSSV 5085829
Lớp Luật Tư pháp 2-K34

Cần Thơ, 4/2012


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................


...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................
...............................................................................................................


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................
Chương 1. THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC
GIÁM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............................................................. 5
1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự ..................................................... 5
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự ........................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự...................................................... 8
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự ........................................................ 11
1.2. Cơ sở lý luận cho việc giám sát thi hành án dân sự ............................... 11
1.2.1. Khái niệm giám sát thi hành án dân sự........................................... 11
1.2.2. Đặc điểm của giám sát thi hành án dân sự...................................... 12
1.2.3. Chủ thể và đối tượng của hoạt động giám sát thi hành án dân sự.. 13
1.2.4. Nội dung của giám sát thi hành án dân sự...................................... 19
1.2.5. Hình thức, phương pháp giám sát thi hành án dân sự ................... 23
1.3. Vai trò của giám sát thi hành án dân sự................................................. 24
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ............. 26
2.1. Chủ thể của việc giám sát thi hành án dân sự........................................ 26
2.2. Thực trạng việc giám sát thi hành án dân sự ......................................... 36
2.2.1. Hình thức giám sát .......................................................................... 36
2.2.2. Phương pháp giám sát ..................................................................... 37
2.2.3. Kết quả giám sát............................................................................... 42
2.2.4. Hạn chế của hoạt động giám sát thi hành án dân sự nguyên nhân và
giải pháp bảo đảm ........................................................................................... 43
KẾT LUẬN...................................................................................................... 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung



Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986) đã khẳng định: “Đổi mới đất nước ta,
đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”.
Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đưa đất nước ta sang một
giai đoạn phát triển mới, từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, đã và đang đặt ra yêu cầu bức thiết tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam, đó là nhà nước mà trong đó vai
trò pháp chế được đề cao, pháp luật được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Trong
những năm vừa qua Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự, luật Thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có
liên quan đến thi hành án dân sự được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới
về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhiều bản án,
quyết định có hiệu lực của Tòa án, Trọng tài thương mại đã được các cơ quan thi hành
án dân sự kịp thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt được những kết quả
nhất định, góp phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương phép nước và
thực hiện dân chủ, công bằng xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong thi hành án dân sự vẫn còn nhiều bất
cập, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn nhiều khoảng trống chưa điều
chỉnh hết các quan hệ phức tạp nảy sinh trong thực tiễn thi hành án dân sự; mô hình tổ
chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự chưa thực sự khoa học, trong đó có một
nguyên nhân quan trọng là giám sát thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, chưa thật sự
trở thành công cụ bảo đảm thực hiện quyền lực Nhà nước trong thi hành án dân sự đã

làm giảm hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự, nhiều bản án, quyết định về dân
sự không được tổ chức thi hành dứt điểm, đặc biệt là tình trạng vi phạm pháp luật, tiêu
cực, sách nhiễu trong đội ngũ cán bộ thi hành án. Tại lễ kỷ niệm 60 năm ngày truyền
thống ngành Tư pháp lần 2 tháng 8 năm 2005, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Gia
Khiêm phát biểu “việc giải quyết án tồn đọng trong thi hành án dân sự vẫn chưa tạo ra

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 1

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

được chuyển biến rõ rệt, nhân dân còn phàn nàn, kêu ca về thái độ của một số cán bộ
thi hành án”1.
Tại lễ kỷ niệm 65 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp và đón nhận huân
chương sao vàng ngày 28 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng
đã phát biểu “Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tuy hệ thống tổ chức các cơ quan Thi
hành án dân sự đã được kiện toàn, nhưng trong hoạt động vẫn còn nhiều bất cập, do
vậy, toàn Ngành phải có bước đột phá mạnh mẽ giải quyết tình trạng án dân sự tồn
đọng.” 2 Qua nhiều năm thực hiện cải cách ngành Tư pháp nhưng thi hành án dân sự
vẫn không đảm bảo được công bằng xã hội, hiện tượng vi phạm quyền tự do, dân chủ
trong thi hành án dân sự vẫn còn xảy ra đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
các cơ quan thi hành án dân sự và cả hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Xuất pháp từ những lý do nêu trên cho thấy, giám sát hoạt động thi hành án dân
sự là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống cả lý luận và
thực tiễn. Vì vậy, người viết lựa chọn đề tài “Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án

dân sự” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cử nhân Luật, chuyên ngành Luật tư pháp,
nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế giám sát thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây (trước 7/1993), thi hành án dân sự được đặt dưới sự quản lý của Tòa
án, do Tòa án đảm nhiệm. Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của Tòa án là xét xử, nên công
tác thi hành án dân sự chưa được quan tâm. Ít có những công trình khoa học hay các
bài nghiên cứu của các nhà khoa học Luật đề cập đến thi hành án dân sự. Từ khi thi
1

/>
b_dir%3D%252Fhuyennt%252F25082005%252F%26file%3DBaiphatbieucuaPhamgiakhiemtaiDaihoithiduanga
nhTuphap.doc+pho+thu+tuong+pham+gia+khiem+trong+le+ky+niem+60+nam+nganh+tu+phap&hl=vi&gl=vn
&pid=bl&srcid=ADGEESgfAaFg8hK6m6QtWFwhgg4oLL3b8AfTTWJhCg4n6ACrhO3GfTIGJyvznTmuaNEu
eFf4074LIf5jqk6yDQoa5ZYA-1Cigkje1w17FGmr7R98rOQMd3wpZ2wF0IBhk2RFubqNFte&sig=AHIEtbSg9V4QklJW5ef5kq0iDXmuDuOtFw
2

/>
2F4D92680472577AD002C5141/%24file/TTg%2520phat%2520bieu%2520tai%2520buoi%2520Le.doc+phat+b
ieu+tai+le+ky+niem+ngay+truyen+thong+nganh+tu+ph%C3%A1p&hl=vi&gl=vn&pid=bl&srcid=ADGEESjrd
O4TCHU0spSR6BARWhw0yBHjUJSVDCrdoSCXYJrMDbrlO4BV7crN2T--ZYWcSqNgd9suEuz-bEw_4FgtxxkqEGitkaAC2Eb6ivNPfLJpQHLvTmTaP56fuq0YfykWLb4fPt3&sig=AHIEtbSWdrzDdcYiMYqRxewFWNDG9xchA

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 2

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp


Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

hành án dân sự được chuyển giao sang cho Chính phủ thống nhất quản lý, vấn đề về
công tác thi hành án dân sự được đặt ra và nghiên cứu ở một mức độ nhất định: Đề tài
“Thừa phát lại” do Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp
Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp thực hiện, đề tài “Mô hình quản lý thống nhất công
tác thi hành án” do cục quản lý thi hành án dân sự-Bộ Tư pháp chủ trì. Ngoài ra còn
một số công trình khác được công bố trên các tạp chí:”Đối tượng giám sát thi hành án
của Quốc hội” của Trần Thanh Hương được đăng trên Tạp chí Lập pháp, số 2 năm
2003; “Quan niệm về giám sát thực hiện quyền lực Nhà nước” của Đào Trí Úc đăng
trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 năm 2003; “Một số vấn đề về đổi mới tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự” của Phạm Văn Lợi và Đặng Vũ Huân đăng trên tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 11 năm 2003…
Những công trình nghiên cứu trên ở chừng mực nhất định có đề cập một số khía
cạnh của pháp luật về thi hành án dân sự, đề xuất cơ chế thuận tiện cho việc tiến hành
các hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Nhưng đến nay, chưa có một bài báo,
công trình nào đề cập và luận giải một cách cụ thể, trực tiếp và hệ thống về giám sát
thi hành án dân sự. Mặc dù vậy, những công trình nghiên cứu trên đây là những tài liệu
tham khảo có giá trị để người viết nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Giám sát thi hành án dân sự là đề tài nghiên cứu có nhiều nội dung khác nhau,
trong phạm vi luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối
tượng, hình thức, phương pháp, nội dung giám sát thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó đề
ra những quan điểm và giải pháp bảo đảm giám sát thi hành án dân sự.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng giám sát thi
hành án dân sự hiện nay, luận văn đưa ra một số quan điểm và giải pháp bảo đảm giám
sát thi hành án dân sự trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và hoạt động giám sát thi hành án
dân sự của các cơ quan Nhà nước. Đồng thời người viết cũng nghiên cứu, tìm hiểu
những tài liệu, những tác phẩm chuyên khảo đã được công bố trong lĩnh vực thi hành

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 3

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

án dân sự, hoạt động giám sát của các cơ quan Nhà nước và phân tích những số liệu về
tổ chức và hoạt động giám sát thi hành án dân sự để làm sáng tỏ nội dung của luận
văn.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp nghiên cứu - tổng hợp: Thông qua phương pháp này, các khái
niệm, đặc điểm liên quan đến tổ chức, hoạt động của cơ quan giám sát thi hành
án dân sự được phân tích cụ thể từ đó đưa ra những kết luận về các vấn đề cần
giải quyết trong luận văn.

-

Phương pháp so sánh: Được sử dụng để tìm ra những điểm giống và khác nhau
liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan giám sát hoạt động thi hành

án dân sự. So sánh các số liệu về kết quả thi hành án để thấy được hiệu quả về
tổ chức và hoạt động của các cơ quan này.
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan giám sát thi hành án dân sự

trong thời gian vừa qua chưa có bài nghiên cứu nào phân tích một cách trực tiếp, mỗi
đề tài chỉ tập trung phân tích một khía cạnh liên quan đến thi hành án dân sự hoặc hoạt
động của các cơ quan giám sát nói chung mà không tiếp cận trực tiếp hoạt động giám
sát thi hành án dân sự và được triển khai chủ yếu theo pháp lệnh cũ. Chính vì vậy,
người viết mong muốn luận văn sẽ là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên có
tính hệ trống, tìm hiểu toàn diện về hoạt động giám sát thi hành án dân sự.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn được kết cấu làm hai chương:
Chương 1. THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC
GIÁM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Chương 2. THỰC TRẠNG GIÁM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 4

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự
Chương 1

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
CHO VIỆC GIÁM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp về dân sự và yêu cầu Tòa án giải
quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của
mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
bản án, quyết định của Tòa án. Như vậy không có nghĩa là để mặc cho cơ quan thi
hành án thực hiện một cách chủ quan, phải có sự theo dõi, kiểm sát, giám sát của các
chủ thể có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về thi
hành án dân sự, đây là một giai đoạn của quá trình tố tụng hay là một hoạt động độc
lập vẫn chưa được thống nhất gây khó khăn cho việc quy định thẩm quyền giám sát.
Trong chương này, người viết tập trung làm rõ khái niệm thi hành án dân sự, từ đó đưa
ra những khái niệm đầu tiên về vấn đề giám sát thi hành án dân sự.
1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động do Cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo
những thủ tục, trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu
lực thi hành của Toà án ra để thi hành. 1
Các bản án, quyết định được thi hành không chỉ bao gồm các bản án, quyết định
của Toà án và Trọng tài Việt Nam mà cả các bản án, quyết định dân sự của Toà án
nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự 2008:
“Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:
1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;

1


/>
GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 5

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh mà sau
30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không
khởi kiện tại Toà án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc
dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc,
trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”
Qua quá trình nghiên cứu sách báo, tạp chí và tài liệu hiện nay, người viết nhận
thấy có một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: thi hành án dân sự là hoạt động hành chính, vì
khi công tác thi hành án được chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan thuộc Chính
phủ thì công tác tiến hành thi hành án không còn thuộc thẩm quyền của Tòa án và bắt
đầu từ đây việc thi hành án tuân theo những quy định riêng, điển hình là Luật Thi hành
án dân sự 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Quan điểm thứ hai cho rằng: thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng trong
quá trình tố tụng dân sự vì theo cơ cấu tổ chức hiện nay, mặc dù cơ quan thi hành án

dân sự đặt trong hệ thống cơ quan Nhà nước nhưng không thực hiện chức năng quản
lý Nhà nước mà chỉ thực hiện những bản án, quyết định của Tòa án – cơ quan tư pháp.
Thực chất cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện nhiệm vụ
của tố tụng dân sự là thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Ngoài ra, thi hành
án dân sự trước đây được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự, vì vậy thi hành án dân
sự được xem là một giai đoạn của tố tụng dân sự là hoàn toàn có căn cứ.
Tuy nhiên, các quan điểm này chưa giải quyết thỏa đáng vấn đề được đặt ra.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003, các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án và quyết định của Tòa án bao gồm: cơ quan công an, chính quyền xã,
phường, thị trấn, cơ sở chuyên khoa y tế, các tổ chức trong quân đội. Những cơ quan
này không là cơ quan tư pháp nhưng công việc mà các cơ quan này tiến hành là hoạt
động tố tụng và giai đoạn thi hành án hình sự vẫn được ghi nhận là một trong các giai
đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Do đó không thể căn cứ vào việc cơ quan nào đảm

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 6

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

nhận việc tiến hành thi hành án dân sự mà xác định hoạt động thi hành án dân sự là
hoạt động hành chính hay tư pháp.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự 2008, cơ quan thi
hành án còn phải tổ chức thi hành cả quyết định của Trọng tài thương mại không nằm
trong hệ thống cơ quan Tư pháp nhưng công việc mà cơ quan thi hành án thực hiện
vẫn là hoạt động tố tụng. Như vậy, căn cứ vào công việc mà cơ quan thi hành án thực

hiện để xác định là hoạt động tố tụng hay không vẫn chưa đủ thuyết phục.
Để có thể xác định hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động hành chính độc
lập hay là một giai đoạn của quá trình tố tụng cần phải xem xét ở các khía cạnh khác.
Thứ nhất, về mục đích của hoạt động thi hành án dân sự
Khi Tòa án ra một quyết định hoặc bản án giải quyết tổng thể nội dung của vụ
án, nêu ra đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự đang được xem
xét giải quyết, tuy nhiên lúc này quyền và nghĩa vụ của các bên chỉ được xác định về
mặt lý thuyết, dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật có liên quan để giải quyết vụ
việc. Tương tự như vậy, khi giải quyết các tranh chấp, Trọng tài thương mại cũng căn
cứ vào các quy định của pháp luật, áp dụng giải quyết đối với vụ việc đang được xem
xét, phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, kết quả của hai hoạt động
này đều là về mặt lý thuyết, tất cả đều nằm trên giấy tờ, chưa có hiệu lực trên thực tế.
Có thể thấy, mục đích của hoạt động thi hành án dân sự là tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án, Trọng tài thương mại, để các bản án, quyết định có hiệu lực
trên thực tế, nhằm khôi phục lại trật tự xã hội bị xâm hại.
Như vậy, nếu xem mục đích của quá trình tố tụng là khôi phục lại trật tự xã hội,
đưa nó về trạng thái ban đầu khi chưa có hành vi xâm hại thì rõ ràng mục đích của quá
trình tố tụng đã bao trùm lên mục đích của hoạt động thi hành án dân sự, có thể nói
hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng, là một giai đoạn của quá trình tố
tụng dân sự.
Thứ hai, về tính chất của công việc mà cơ quan thi hành án thực hiện
Theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự 2008, cơ quan thi hành án có
trách nhiệm tổ chức thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
những bản án quyết định được thi hành ngay. Đây đều là kết quả của quá trình giải
quyết tranh chấp nhưng tính chất khác nhau. Đối với các bản án, quyết định của Tòa
án được hình thành thông qua quá trình tố tụng nên việc thi hành cũng mang tính tư

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 7


SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

pháp. Nhưng đối với các phán quyết của Trọng tài, đây không là kết quả của quá trình
tố tụng nên nó không mang tính tư pháp.
Thứ ba, về các công việc mà cơ quan thi hành án dân sự tiến hành
Cơ quan thi hành án căn cứ vào nội dung bản án, quyết định của Tòa án để thi
hành, dựa trên những quy định về thi hành án được quy định trong Luật Thi hành án
dân sự 2008 và các văn bản hướng dẫn, đồng thời phải tuân thủ những quy định về cán
bộ, công chức. Cơ quan thi hành án phải tổ chức thi hành đúng với nội dung của bản
án, quyết định hoặc đúng với nội dung bản án và đơn yêu cầu thi hành án. Cơ quan thi
hành án không được thi hành trái với nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Trong
một số trường hợp, cơ quan thi hành án phải dùng đến quyền lực Nhà nước mới có thể
thi hành triệt để bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại (cưỡng chế thi
hành án).
Ngoài ra, khi thi hành án trên thực tế, chấp hành viên ngoài việc đảm bảo nội
dung của bản án, quyết định của Tòa án còn phải tuân theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp
vụ của cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự và
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ
hoạt động của mình. Trong quá trình thực hiện, nếu có vi phạm những quy định về thủ
tục thi hành dẫn tới việc khiếu nại của đương sự thì việc khiếu nại được giải quyết theo
thủ tục hành chính.
Như vậy, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động mang đậm tính hành chính.
Từ những phân tích trên cho thấy, hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động
hành chính độc lập, không phải hoạt động tố tụng, không là một giai đoạn của quá
trình tố tụng. Ngoài ra, khác với các hoạt động tố tụng đòi hỏi thực hiện những quy

định chặt chẽ về thủ tục, hoạt động thi hành án trong một số trường hợp được thực
hiện do chính các bên đương sự.
Tóm lại, thi hành án dân sự là hoạt động hành chính độc lập, tổ chức thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại đảm bảo các bản án,
quyết định có hiệu lực trên thực tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
đương sự trong quan hệ pháp luật dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính, đặt dưới sự chỉ đạo,
tổ chức và quản lý của hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước nên thi hành án dân sự

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 8

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

cũng mang những đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính, ngoài ra còn có những
đặc điểm đặc trưng của thi hành án dân sự.
1.1.2.1.

Tính chấp hành - điều hành

Căn cứ để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án là các bản án, quyết định có
hiệu lực của Tòa án, Trọng tài thương mại. Cơ quan thi hành án dân sự dựa vào nội
dung của bản án, quyết định (chủ động thi hành án), dựa vào đơn yêu cầu thi hành án
và bản án, quyết định (thi hành án theo đơn yêu cầu) để thi hành án. Cơ quan thi hành

án có trách nhiệm tổ chức thi hành án đúng với nội dung của bản án, quyết định, người
được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải
nghiêm chỉnh thi hành, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình cơ
quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong
việc thi hành án.
Chấp hành viên là một loại chức danh được đào tạo từ trường đào tạo các chức
danh tư pháp, được Nhà nước trao quyền và chịu trách nhiệm chính trong quá trình thi
hành án có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết các vấn đề
liên quan đến thi hành án. Chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan thi hành án
dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
1.1.2.2.

Tính chủ động chủ chấp hành viên

Trong thi hành án dân sự, tính chủ động của chấp hành viên trong lúc tổ chức
thi hành án được đề cao. Căn cứ vào tình hình thực tế, căn cứ vào quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự, chấp hành viên lựa chọn cách thức thi hành án. Dựa vào kết
quả của sự tự nguyện của các bên đương sự, nếu các bên không tự nguyện thi hành án,
chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm thi hành triệt để các bản án, quyết
định của Tòa án, Trọng tài thương mại.
Trong trường hợp, nếu nhận thấy có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn
tránh việc thi hành án thì chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy
định tại chương IV Luật Thi hành án dân sự.1Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc
theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành
án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp

1

Khoản 2 Điều 45 luật Thi hành án dân sự năm 2008


GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 9

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho
đương sự.1
Thi hành án dân sự có đạt hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự chủ
động của chấp hành viên trong việc lựa chọn biện pháp thi hành, các biện pháp bảo
đảm hoặc biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với từng vụ việc, từng điều kiện khác
nhau, từng đối tượng cụ thể.
1.1.2.3.

Quyền tự định đoạt của đương sự

Khác với thi hành án hình sự, người phạm tội không được lựa chọn thực hiện
hay không thực hiện, tất cả đều do cơ quan thi hành án quyết định một cách triệt để.
Trong thi hành án dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự được thừa nhận, trước hết
là sự tự nguyện thi hành án: “Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành
án”.2 Ngoài ra, theo quy định tại Điều 36 Luật Thi hành án dân sự 2008, ngoài các
trường hợp cơ quan thi hành án bắt buộc phải chủ động ra quyết định thi hành án thì
Thủ trưởng cơ quan thi hành án chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi
hành án. Ngoài ra, người được thi hành án có quyền yêu cầu không thi hành án 3, đồng
ý cho người phải thi hành án được tạm hoãn thi hành án 4, thỏa thuận với người phải
thi hành án về phương thức và địa điểm thi hành án5.

Thi hành án là hoạt động mang tính hành chính, trách nhiệm chính trong tổ
chức, quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án thuộc về Chính phủ và Ủy ban Nhân dân
các địa phương. Việc tổ chức thi hành án phải huy động được sức mạnh tổng thể cùng
các điều kiện cơ sở vật chất của bộ máy hành pháp. Điều này có ý nghĩa rất to lớn đến
việc tổ chức cưỡng chế thi hành án bởi nếu không huy động được sức mạnh tổng hợp
của lực lượng công an, quân đội, các cơ quan chuyên môn của hệ thống cơ quan hành
pháp…thì một mình cơ quan thi hành án sẽ không làm nổi. Những tổ chức, cá nhân
trực tiếp thi hành án phải có tính độc lập tương đối, hoạt động theo luật và chịu trách
nhiệm trước Nhà nước.

1

Khoản 1 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

2

Khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

3

Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

4

Điểm b Khoản 1 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

5

Điều 6 Luật Thi hành án dân sự năm 2008


GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 10

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự
Bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì một bản án, quyết định của Tòa án khi đã có
hiệu lực pháp luật thì không đương nhiên phát sinh hiệu lực trên thực tế. Thi hành trở
thành công cụ hữu hiệu đảm bảo cho các bản án, quyết định của tòa án phát sinh hiệu
lực trên thực tế, thực sự có giá trị đối với các bên đương sự.
Bảo vệ quyền lợi của đương sự, quy định tại Điều 5 Luật Thi hành án dân sự
“Trong quá trình thi hành án, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ”.
Thông qua việc thi hành án, cơ quan thi hành án phát hiện sai sót của Tòa án
trong việc áp dụng pháp luật, từ đó kiến nghị Tòa án có thẩm quyền kịp thời chỉ đạo
công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc lập pháp.
1.2. Cơ sở lý luận cho việc giám sát thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm giám sát thi hành án dân sự
Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra là những hoạt động thực hiện quyền lực
Nhà nước. Đây là những hoạt động mang tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà
nước, ở mọi thời đại lịch sử bất luận Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý
Nhà nước và tiến hành hoạt động giám sát đối với toàn xã hội trong việc tuân theo
pháp luật mà Nhà nước ban hành.1
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Giám sát” được hiểu như một động từ chỉ “sự theo

dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã qui định” hoặc “ theo dõi và kiểm tra
xem có thực hiện đúng những điều qui định không”.2
Giám sát là hoạt động theo dõi, kiểm tra, xem xét, đánh giá hoạt động của một
tổ chức hoặc cá nhân xem có đúng với những điều đã được pháp luật quy định không,
trong đó Hiến pháp được coi là “chuẩn” có tính chất nền tảng.3
Theo Điều 23 Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân 2002: Viện Kiểm sát Nhân
dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án Nhân dân, cơ quan thi hành án, chấp
hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án

1

TS.Lê Hữu Thê-VKSND Tối Cao: Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra.

2

Nguyễn Thanh Minh- Luận văn thạc sĩ: Chức năng giám sát của HĐND thành phố Hồ Chí Minh-Lý

luận và thực tiễn (Luận văn thạc sĩ khóa 6 năm 2006)
3

TS.Lê Hữu Thê-VKSND Tối Cao: Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra.

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 11

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp


Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp
luật, đầy đủ, kịp thời.
Điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội quy định: Giám sát là việc Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn Đại
biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự gám sát trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, Nghị
quyết cuả Quốc hội; Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Như vậy, giám sát thi hành án dân sự là hoạt động theo dõi, kiểm tra xem xét
đánh giá hoạt động của cơ quan thi hành án, chấp hành viên trong việc thi hành án
nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án được thi hành đúng
pháp luật, đầy đủ và kịp thời.
1.2.2. Đặc điểm của giám sát thi hành án dân sự
1.2.2.1.

Tính quyền lực

Hoạt động giám sát thi hành án dân sự được thực hiện dựa trên những quy định
của pháp luật đối với từng chủ thể của hoạt động giám sát. Nhà nước trao quyền cho
các chủ thể, đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện đúng với những gì pháp luật cho phép,
giám sát dựa trên những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước Nhà
nước, nhân dân.
Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân quy định: trong phạm vi chức
năng của mình, Viện Kiểm sát Nhân dân có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế Xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự
và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp

luật.
1.2.2.2.

Tính xã hội

Các quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định dân sự được đem ra thi hành
chính là quyền và nghĩa vụ của chính các đương sự. Việc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án có trường hợp các bên tự thỏa thuận về việc thi hành án, nhưng cũng có
trường hợp thi hành án được thực hiện bằng cưỡng chế. Dù thực hiện bằng cách nào

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 12

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

thì đó cũng là việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chính các bên trong quan hệ dân
sự.
Việc giám sát thi hành án dân sự bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án
được thi hành đầy đủ, kịp thời theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích của các bên không bị xâm phạm. Góp phần giữ gìn trật tự xã hội, củng cố lòng tin
trong nhân dân đối với hoạt động thi hành án nói riêng và đối với hoạt động của cơ
quan Nhà nước nói chung.
Ngoài ra, giám sát thi hành án dân sự còn đảm bảo các hoạt động của cơ quan
thi hành án, cơ quan Nhà nước có liên quan đến hoạt động thi hành án diễn ra đúng
trình tự, thủ tục, tạo sự thông thoáng trong quản lý hành chính Nhà nước trong lĩnh

vực thi hành án và hoạt động của Nhà nước nói chung.
1.2.3. Chủ thể và đối tượng của hoạt động giám sát thi hành án dân sự

1.2.3.1. Chủ thể
Chủ thể của hoạt động giám sát là những cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà
nước trao quyền kiểm tra, theo dõi các hoạt động của đối tượng giám sát nhằm đảm
bảo các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại được thực hiện đầy đủ
và đúng pháp luật.
Với tính chất là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước, hoạt động thi hành án
dân sự còn phải chịu sự giám sát trực tiếp của nhân dân. Nhân dân vừa là chủ thể của
quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân 1, đồng thời cũng
là chủ thể giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền
giám sát của mình thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với các đối
tượng của hoạt động giám sát thi hành án dân sự và tham gia trực tiếp vào hoạt động
thi hành án dân sự (đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan)
Theo quy định về khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự, chương
VI Luật Thi hành án dân sự 2008:
Chính bản thân đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng có
quyền giám sát hoạt động thi hành án đối với thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự,
chấp hành viên trong hoạt động thi hành án, thể hiện qua việc pháp luật cho họ quyền
khiếu nại quy định như sau:

1

Trích Điều 2 Hiến Pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 13

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung



Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Điều 140. Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại
đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 154. Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan, tổ chức.
Trong quá trình thi hành án, chấp hành viên chịu sự giám sát của các cơ quan
hành chính, cơ quan tư pháp (Viện kiểm sát nhân dân các cấp, chính quyền các cấp,
chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý Nhà nước về thi hành án, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án).
Theo quy định tại Điều 12 Luật Thi hành án dân sự 2008:
1. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nước khác trong thi hành án
dân sự theo quy định của pháp luật.
2. Viện kiểm sát các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát
việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án nhằm bảo đảm
việc thi hành án kịp thời, đầy đủ, đúng pháp luật.
Quyền giám sát tối cao của Quốc hội được quy định trong Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội 2003. Quốc hội thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động giám
sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại

biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.
Đồng thời, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước
cấp trên. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp; giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc
tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 14

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

trang nhân dân và của công dân ở địa phương 1, trong đó có hoạt động thi hành án dân
sự.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước từ trung ương đến địa phương cũng có
quyền giám sát hoạt động thi hành án.
Điều 1 Luật Tổ chức Chính phủ 2002:
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy
Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp
và pháp luật; pháp huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo

vệ Tổ quốc. bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Khoản 4 Điều 18 Luật Tổ chức Chính phủ 2002:
Thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, các hoạt động về luật sư,
giám định tư pháp, công chứng và bổ trợ tư pháp; tổ chức và quản lý công tác thi
hành án, quốc tịch, hộ khẩu, hộ tịch.

Điều 94 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003:
Trong lĩnh vực thi hành pháp luật, Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
4. Tổ chức, chỉ đạo công tác thi hành án ở địa phương theo quy định của pháp
luật;
Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các thực hiện việc quản lý, chỉ đạo thực hiện hoạt
động thi hành án dân sự nhằm đảm bảo cho hoạt động thi hành án đạt hiệu quả cao
nhất.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát thông qua chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân 2.
Điều 23 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2003:
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân,
cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan

1

Trích Điều 1 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003

2

Khoản 5 Điêu 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2003

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 15


SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án,
quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm các bản án,
quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
Quyền giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cũng
được pháp luật ghi nhận.
Điều 9 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung 2001:
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt
Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường
sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố
chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân
dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp
và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt
động có hiệu quả."
Điều 6 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội:
1.Khi thực hiện quyền giám sát, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội dựa

vào sự tham gia của nhân dân, của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận.
2.Khi tiến hành hoạt động giám sát, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, hội đồng dân
tộc,Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có thể mời
đạidiện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận
vàyêu cầu đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan tham gia; cơ quan, tổ chức,cá
nhân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu này.
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân
dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước; giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức theo quy định của

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 16

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

pháp luật, trong đó có hoạt động thi hành án dân sự nhằm góp phần xây dựng và bảo
vệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động
có hiệu quả bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Từ những phân tích như trên cho thấy: chủ thể của quyền giám sát hoạt động
thi hành án dân sự rất rộng, căn cứ vào chức năng, vị trí, mối quan hệ của từng chủ
thể đối với hoạt động thi hành án dân sự có thể xác định một số chủ thể giám sát thi
hành án dân sự cơ bản bao gồm: nhân dân; Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp;
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp; Viện kiểm sát nhân dân; Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội; người được thi hành án, người phải thi

hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự.
1.2.3.2.

Đối tượng

Đối tượng của giám sát thi hành án dân sự là hoạt động của những cơ quan, tổ
chức và cá nhân liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự, tác động trực tiếp đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, người phải thi hành án và người
có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự và chịu sự giám sát của
chủ thể giám sát thi hành án dân sự.
Thi hành án dân sự là hoạt động có sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có một vai trò nhất định trong quá trình tổ chức
thi hành án dân sự, vai trò càng lớn sự ảnh hưởng đến hoạt động thi hành án càng lớn
và do đó cần được giám sát thật chặt chẽ. Để có thể xác định được các đối tượng cơ
bản của hoạt động giám sát thi hành án dân sự cần căn cứ vào vị trí, vai trò của từng cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia vào hoạt động thi hành án dân sự.
Cơ quan thi hành án dân sự:
Theo quy định tại Điều 13 Luật Thi hành án dân sự 2008, cơ quan thi hành án
dân sự bao gồm:
-

Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

-

Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

-

Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương.


Cơ quan thi hành án dân sự chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức thi hành bản án,
quyết định theo Điều 35 Luật Thi hành án dân sự 2008. Ngoài ra, cơ quan thi hành án
cấp tỉnh còn chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 17

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

hành án dân sự cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án trên địa
bàn.1
Cơ quan thi hành án dân sự là trung tâm của quá trình thi hành án dân sự, chịu
trách nhiệm chính về việc lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức thi hành án, có ảnh hưởng lớn
đến quyền, lợi ích của các bên đương sự.
Thủ trưởng và Chấp hành viên của cơ quan thi hành án dân sự
Thủ trưởng là người lãnh đạo cao nhất của cơ quan thi hành án dân sự. Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự có các nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Điều 23
Luật Thi hành án dân sự 2008.
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án và Trọng tài thương mại. Chấp hành viên có các nhiệm vụ và
quyền hạn được quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự 2008.
Từ các quy định trên cho thấy, Thủ trưởng và Chấp hành viên của cơ quan thi
hành án dân sự là những người trực tiếp liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự,
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của các bên đương sự.

Tòa án nhân dân
Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, trong quá trình thực hiện
chức năng, quyền hạn của mình, Tòa án có rất nhiều hoạt động ảnh hưởng đến thi hành
án dân sự.
Điều 26 Luật Thi hành án dân sự 2008: Khi ra bản án, quyết định, Toà án, Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại phải giải thích cho đương sự,
đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi
hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Điều 27 Luật Thi hành án dân sự 2008: Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh, Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết định được quy định tại Điều 2 của
Luật này phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành".
Nếu Tòa án không thực hiện những quy định trên thì có thể đương sự không
biết về quyền làm đơn yêu cầu thi hành án, từ đó dẫn đến việc chậm trễ trong thi hành
án nhiều trường hợp hết hạn thi hành án.

1

Điểm b Khoản 1 Điều 14 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 18

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Theo quy định tại Điều 28 Luật Thi hành án dân sự 2008: Tòa án còn có nghĩa

vụ chuyển giao bản án cùng các tang vật, tài sản cho cơ quan thi hành án xử lý. Nếu
Tòa án không chuyển giao kịp thời sẽ gây cản trở cho cơ quan thi hành án trong việc
chủ động ra quyết định thi hành án
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động liên quan đến nhiều cơ quan, tổ
chức, cá nhân, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tổ chức,
cá nhân trong hoạt động thi hành án mà vai trò của những đối tượng này được thể hiện
ở mức độ này hay mức độ khác, đều có thể là đối tượng của hoạt động giám sát. Tuy
nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, người viết chỉ đề cập đến những đối
tượng nêu trên.
1.2.4. Nội dung của giám sát thi hành án dân sự
1.2.4.1.

Kiểm tra tính hợp pháp của hoạt động thi hành án dân sự

Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án sử dụng các
biện pháp khác nhau tác động đến quyền lợi về tài sản và nhân thân của người phải thi
hành án, người được thi hành án, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến hoạt động
thi hành án. Do đó pháp luật đã quy định , hoạt động thi hành án phải tuân theo những
trình tự, thủ tục rất chặt chẽ, từ khi đương sự nhận bảo sao bản án, quyết định của Tòa
án, ra quyết định thi hành án và cuối cùng là kết thúc việc thi hành án. Toàn bộ quá
trình thi hành án dân sự, hoạt động của cơ quan thi hành án và chấp hành viên được
biểu hiện thông qua các quyết định của Thủ trưởng hoặc Chấp hành viên cơ quan thi
hành án dân sự.
Hoạt động thi hành án dân sự liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau, trong
những lĩnh vực khác nhau, trong một số trường hợp cần phải huy động sức mạnh của
nhiều cơ quan trong hệ thống chính trị để đảm bảo cho việc thi hành án được thống
nhất, thuận lợi và thông suốt. Việc huy động sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân trong hệ thống chính trị được dựa trên quy định của pháp luật về chức năng, bản
than các cơ quan, tổ chức, cá nhân đó.
Vì vậy, chủ thể giám sát hoạt động thi hành án dân sự phải theo dõi, kiểm tra

tính hợp pháp, hợp lý của đối tượng giám sát thi hành án dân sự thông qua việc theo
dõi, kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý các quyết định của Thủ trưởng, chấp hành viên cơ
quan thi hành án và những đối tượng khác có liên quan đến hoạt động thi hành án dân
sự.

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
-

Quyết định về thi hành án dân sự 1;

-

Quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung quyết định về thi hành án 2;

-

Quyết định hủy hoặc yêu cầu hủy quyết định về thi hành án của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền quản lý
trực tiếp 3;


-

Quyết định hoãn thi hành án 4;

-

Quyết định tạm đình chỉ, tiếp tục thi hành án 5;

-

Quyết định đình chỉ thi hành án 6;

-

Quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án 7;

-

Quyết định ủy thác thi hành án 8;

-

Quyết định áp dụng xử phạt hành chính trong thi hành án dân sự 9;

-

Quyết định thành lập Hội đồng tiêu hủy vật chứng, tài sản, quyết định tiêu
hủy và tổ chức tiêu hủy tài sản 10;

Trong quá trình thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án cần phải ban hành

hoặc không được ban hành các quyết định nêu trên khi không có căn cứ pháp lý. Đồng
thời khi ban hành các quyết định nêu trên, cần phải tuân thủ đúng các quy định về nội
dung đối với từng loại quyết định.
Quyết định và hành vi của Chấp hành viên
Chấp hành viên là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc tổ chức thi hành
bản án, quyết đinh của Tòa án, Trọng tài thương mại. Trong quá trình thi hành nhiệm
vụ Chấp hành viên được pháp luật cho phép thực hiện các hành vi và ban hành các
quyết định sau:

1

Điểm a Điều 23, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

2

Điều 37, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

3

Khoản 3 Điều 37, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

4

Điều 48, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

5

Điều 49, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

6


Điều 50, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

7

Điều 51, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

8

Khoản 1 Điều 57, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

9

Điều 163, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

10

Điều 125 và 126 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 20

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

-


Quyết định áp dụng xử phạt hành chính trong thi hành án dân sự 1;

-

Quyết định phong tỏa tài khoản 2;

-

Quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án

Các hành vi của Chấp hành viên trong quá trình thi hành án dân sự bao gồm
toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ của Chấp hành viên.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 26, Điều 27, Điều 28, Điều 48, Điều 49, Điều
50, Điều 62 thì trong quá trình thi hành án, Tòa án nhân dân có trách nhiệm cấp bản
án, chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án, yêu cầu hoãn thi hành án,
tạm đình chỉ, đình chỉ, xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án.
Do đó, cần giám sát việc chấp hành quy định của Luật Thi hành án dân sự về
thời hạn, thủ tục chuyển giao bản án, quyết định … về việc Tòa án thực hiện các
quyền yêu cầu trong quá trình thi hành án.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì một bản án, quyết định của Tòa án
khi có hiệu lực pháp luật không đương nhiên được thi hành trên thực tế mà cần thông
qua một thủ tục hành chính là việc thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, chủ động
hoặc khi có đơn yêu cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án.
Kiểm tra tính hợp pháp của hoạt động thi hành án dân sự là kiểm tra việc chấp
hành luật pháp, ban hành các văn bản cụ thể hóa các quy phạm pháp luật về thi hành
án dân sự; tổ chức, điều hành để đưa các văn bản quy phạm pháp luật đó vào thực tiễn
thi hành án dân sự; kiểm tra việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và những văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự nhằm đảm
bảo cho mọi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành

nhanh chóng, đầy đủ và đúng pháp luật.
Kiểm tra các quyết định hành chính trong quá trình thi hành án, kiểm tra việc
thực thi pháp luật về thi hành án như: thời hiệu thi hành án, các biện pháp bảo đảm,
cưỡng chế thi hành án….
Kiểm tra việc tổ chức, điều hành để đưa các văn bản quy phạm pháp luật vào
thực tiễn thi hành án dân sự. Những quy định về trình tự thủ tục của hoạt động thi hành
án cần được áp dụng chính xác và đầy đủ vào thực tiễn thi hành án.

1

Điều 163, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

2

Điều 67, Luật Thi hành án dân sự năm 2008

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 21

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


Luận văn tốt nghiệp
1.2.4.2.

Cơ chế giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Kiến nghị với cơ quan nhà nước xem xét lại các chế độ, chính

sách, quyết định trong quản lý thi hành án dân sự

Để một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án phát sinh
hiệu lực trên thực tế, cần phải có sự chấp hành, phối hợp tác động của nhiều chủ thể.
Tuy nhiên sự tác động, điều chỉnh, hướng dẫn hành vi của các chủ thể này theo cách
nào đó nhằm hướng tới mục đích để phán quyết của Tòa án thể hiện hiệu lực trên thực
tế chính là yêu cầu của quản lý Nhà nước về thi hành án.1
Trong quá trình giám sát thi hành án dân sự, chủ thể giám sát có quyền tác động
trực tiếp để điều chỉnh các hành vi, quyết định của đối tượng giám sát cho phù hợp với
các quy định của pháp luật. Ngoài ra, chủ thể giám sát còn có quyền kiến nghị với các
cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các hành vi và quyết định của đối tượng giám sát,
các chế độ chính sách không còn phù hợp nhằm đề ra các chính sách phù hợp hơn giúp
hoạt động thi hành án đạt hiệu quả trên thực tế. Bởi vì giám sát là một trong những
công cụ đảm bảo thực thi quyền lực Nhà nước, luôn gắn liền với quản lý Nhà nước,
ngoài việc phải thực hiện đúng chức năng, nguyên tắc, nội dung của quản lý Nhà nước
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án, quản lý Nhà nước về thi hành án
còn nhằm khẳng định tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện quyền lực Nhà nước,
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nội dung quản lý, cách thức tác động
và cơ chế quản lý cũng thể hiện những vấn đề riêng có, linh hoạt để công tác thi hành
án đạt hiệu quả cao, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong quần chúng nhân dân.2
Do đó, để hoạt động thi hành án thật sự đạt hiệu quả đòi hỏi công tác quản lý
Nhà nước về thi hành án phải sát với thực tế hoạt động thi hành án, những thiếu sót,
quy định không phù hợp cần được các chủ thể của quyền giám sát phát hiện và kiến
nghị đến cơ quan có thẩm quyền từ đó xem xét và chỉnh sửa để phù hợp với thực tiễn
thi hành án.

1

Th.s Đặng Vũ Huân-Bộ Tư pháp: Bàn về quản lý Nhà nước đối với công tác thi hành án (Tạp chí KHPL

số 6/2002)
2


Th.s Đặng Vũ Huân-Bộ Tư pháp: Bàn về quản lý Nhà nước đối với công tác thi hành án (Tạp chí KHPL

số 6/2002)

GVHD: Trương Thanh Hùng
Trang 22

SVTH: Nguyễn Thị Yến Nhung


×