Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1015.67 KB, 92 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI– 2014


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THỊ THANH

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI– 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thị Thanh


LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn tốt nghiệp khóa học Thạc sỹ Luật hình sự,
trước tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn
người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp;
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy, cô giáo trong Học viện khoa học
xã hội đã giảng dạy trong 02 năm qua, trang bị những kiến thức quý báu về lý luận
và sẽ là tiền đề xây dựng cơ sở thực tiễn cho bản thân tôi trong quá trình công tác
tại ngành Tòa án. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, lãnh đạo Tòa án
nhân dân thành phố Cẩm Phả đã giúp đỡ tôi về mặt thời gian cũng như cung cấp tài
liệu để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này. Sau cùng tôi xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến gia đình, đặc biệt là cha mẹ và chồng tôi những người luôn kịp thời

động viên, giúp đỡ tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và ủng hộ tôi
trong suốt thời gian qua.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thị Thanh


MỤC LỤC

Chương 1....................................................................................................................
NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG
TRỮ,VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT
CHẤT MA TÚY........................................................................................................
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt các chất ma túy........................................
1.2. Ý nghĩa của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy......................................................................
1.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy....................................

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

2



BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

VAHS
TAND

Vụ án hình sự
Tòa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

TANDTC
TTHS

Tòa án nhân dân tối cao
Tố tụng hình sự

XXST

Xét xử sơ thẩm

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Cải cách tư pháp là một trong những nội dung, nhiệm vụ quan trọng của quá
trình đổi mới ở nước ta hiện nay đặc biệt là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa. Cải cách tư pháp là xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Phát huy tinh thần Nghị quyết số 48 – NQ/TW và Nghị quyết số 49 – NQ/TW của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Tố tụng
hình sự trong thời gian tới là nhu cầu tất yếu của quá trình cải cách tư pháp ở nước
ta, đặc biệt cải cách về thủ tục phiên tòa hình sự theo hướng dân chủ, công khai,
minh bạch nhằm nâng cao chất lượng xét xử hình sự.
Xuất phát từ đặc điểm vị trí địa lý: Thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh là
một thành phố nằm ở vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, Phía đông của thành phố giáp
với huyện Vân Đồn, phía tây giáp huyện Hoành Bồ và thành phố Hạ Long, phía nam
giáp thành phố Hạ Long và huyện Vân Đồn, phía bắc giáp huyện Ba Chẽ và
huyện Tiên Yên, là một thành phố có tiềm năng rất lớn về công nghiệp khai thác
khoáng sản như than đá, đá vôi... đặc biệt có nhiều di tích lịch sử như Đền Cửa Ông
vào hàng năm thường mở hội tháng Giêng, thu hút hàng vạn khách tham quan, chiêm
bái. Do vậy, trong những năm qua thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh luôn có sự
tăng trưởng kinh tế vững mạnh đóng góp rất nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh nền kinh tế phát triển vượt bậc, những
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động không nhỏ đến mọi mặt của đời sống
xã hội của những người dân nơi đây. Đó là tình hình tội phạm và các loại tệ nạn xã
hội gia tăng, đặc biệt là các loại tội phạm về ma túy. Một bộ phận người dân lao
động theo đuổi lối sống thực dụng, buông thả, thích hưởng thụ muốn có tiền tiêu xài
mà không phải lao động nên đã bất chấp mọi điều cấm của pháp luật dấn thân vào
con đường phạm tội, điều đó đã làm gia tăng tình hình tội phạm về ma túy trên địa
bàn, gây ra nhiều cái chết trắng và căn bệnh thế kỷ HIV- ADIS làm ảnh hưởng rất
lớn đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

4



Cải cách tư pháp trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung
và các vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma
túy nói riêng là một hoạt động quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp của Tòa án
nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Trong những năm qua, hoạt động
này đã thu được những kết quả đáng kể nên về cơ bản, ngành Tòa án đã thực hiện tốt
chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự không phải không có những
hạn chế bất cập nhất định. Mặt khác thực tiễn thi hành BLTTHS tại Tòa án thành phố
Cẩm Phả cho thấy vẫn còn bộc lộ nhiều điểm bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Thực tiễn đang đặt ra yêu cầu cấp bách
phải nghiên cứu thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự các vụ án tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy về cả phương diện lý
luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp và thực trạng tổ
chức, tiến hành phiên toà hình sự là một trong những vấn đề cần được quan tâm,
nâng cao hiệu quả công tác. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả tỉnh Quảng Ninh” để làm luận văn Thạc sĩ của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Toà án nhân dân là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ở nước ta.
Do đó, có rất nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả đã quan tâm, nghiên cứu về vấn đề
này. Đối với vấn đề về thủ tục tố tụng tại phiên toà hình sự sơ thẩm hiện nay cũng đã
có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khoa học. Đó là những công trình dù trực
tiếp hay gián tiếp cũng đề cập đến XXST hình sự ở những khía cạnh khác nhau. Các
công trình nghiên cứu này phần lớn đã tập trung làm rõ được nhiều vấn đề lý luận và
pháp lý liên quan như:
- Tôn Thất Cẩm Đoàn, Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Lý luận và

thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sỹ luật học năm 2003.
- TS. Từ Văn Nhũ, Đổi mới thủ tục xét xử nhằm nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa hình sự, tạp chí TAND số 11/2002.

5


- TS. Nguyễn Văn Huyên (2003), Tranh tụng tại phiên tòa – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, đề tài Nghiên cứu khoa học.
- Nông Đức Minh, Về thực hành quyền công tố tại các phiên tòa hình sự sơ
thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số 3/2003.
- Võ Thị Kim Oanh, Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sĩ Luật học năm 2008.
- Ngô Hồng Phúc (2003), Vấn đề nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà
hình sự, Tạp chí Toà án nhân dân số 2.
- Th.s. Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử sở thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc Gia 2007.
- Huỳnh Sáng- Chánh án toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà, Về việc thực hiện thủ
tục xét hỏi kết hợp với tranh tụng tại phiên toà, Tạp chí Toà án nhân dân số 3/2004.
- PGS. TS. Hoàng Thị Minh Sơn, Một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự
về quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp
dụng, Tạp chí Luật học số 7/2009.
- Trần Văn Trường- TAND huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế, năm 2013
Một số vấn đề về tranh tụng trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo sát về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy từ
thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Luận văn này là công trình đầu tiên
nghiên cứu vấn đề này ở cấp độ Thạc sĩ. Các công trình nghiên cứu đã được thực hiện
là nguồn tư liệu phong phú cho tác giả thực hiện luận văn tốt nghiệp cao học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.

Mục đích của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về xét xử
sơ thẩm hình sự vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các
chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, từ đó phân tích đánh giá thực trạng hoạt
động xét xử sơ thẩm hình sự các vụ án sự tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt các chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả. Luận văn đề xuất
các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm
hình sự vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

6


Để đạt được mục đích trên Luận văn cần có nhiệm vụ:
+ Xây dựng khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tàng trữ vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Làm rõ
các yếu tố tác động đến hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng chuẩn bị xét xử và thực trạng phiên tòa xét xử
sơ thẩm hình sự vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Phân tích đánh giá những
kết quả đạt được, hạn chế trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh
Quảng Ninh. Rút ra nguyên nhân của những hạn chế yếu kém.
+ Nêu lên những yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên
địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về thực trạng xét xử sơ thẩm vụ án
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn
thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Đề tài nghiên cứu dưới góc độ tố tụng hình sự và thống kê hoạt động xét xử sơ

thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên
địa bàn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh từ năm 2009 đến năm 2013.
Địa bàn khảo sát: Thành phố Cẩm Phả, Tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn:
- Phương pháp luận: Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa Mác – Lênin về chân lý khách quan, chủ nghĩa duy vật biện chứng và
những quan điểm chỉ đạo, những nguyên tắc pháp lý đã được Đảng và Nhà nước ta
vận dụng, ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh, phương
pháp thống kê, phương pháp lý luận kết hợp với thực tiễn….
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn.
- Luận văn đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận của XXST vụ án tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thông qua việc xây dựng khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các yếu tố tác động đến hiệu quả xét xử sơ thẩm.

7


- Luận văn đã làm rõ thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm
Phả, tỉnh Quảng Ninh.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm
vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như: Giải
pháp về hoàn thiện pháp luật, về tổ chức, cơ chế giám sát...
Ý nghĩa: Kết quả đánh giá hoạt động xét xử sơ thẩm và những đề xuất, giải
pháp bảo đảm cho công tác này đúng pháp luật và hiệu quả cao, có thể được sử dụng
nghiên cứu, tham khảo trong hoạt động thực tiễn của ngành Tòa án..
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia làm 3 chương:
- Chương 1: Nhận thức chung về xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy.
- Chương 2: Thực trạng hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh
Quảng Ninh.
- Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực
tiễn thành phố cẩm phả, tỉnh Quảng Ninh.

8


Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN TÀNG TRỮ,VẬN
CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA
TÚY
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
Xét xử là một hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước do Tòa án thực
hiện, nhằm giải quyết những vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính
theo qui định của pháp luật.
Theo Hiến pháp Việt Nam, việc xét xử chỉ do Tòa án thực hiện: Tòa án nhân
dân tối cao và các Tòa án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam [36]. Mặt khác, Điều 9 BLTTHS 2003 quy
định: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Cũng theo Từ điển Tiếng Việt, xét xử sơ thẩm được hiểu là: “Xét xử một vụ án
với tư cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất” [39, tr. 838].
Giáo trình luật TTHS, trường đại học Luật Hà Nội: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

là một giai đọan của TTHS trong đó Tòa án tiến hành giải quyết, xử lý vụ án bằng việc
ra bản án hoặc quyết định cần thiết khác theo quy định của pháp luật [42, tr.10].
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là một giai đoạn độc lập
của quá trình tố tụng hình sự và được bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý hồ sơ vụ
án và kết thúc khi Tòa án ra bản án hình sự sơ thẩm kết tội bị cáo hoặc tuyên bố bị
cáo không phạm tội. So với các giai đoạn khác thì ở giai đoạn này hầu hết những
người tham gia tố tụng đều được triệu tập đến phiên tòa và các nguyên tắc của pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự đều được áp dụng.
Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy là hoạt động nhà nước do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm
xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án trên cơ sở đó ra một
trong các quyết định theo quy định của pháp luật, từ đó Tòa án ra một bản án xác

9


định có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
hay không? Người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng và các vấn đề
khác có liên quan trong vụ án.
Theo BLTTHS năm 2003 quy định: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy phải trải qua một trình tự thủ
tục bao gồm các quy phạm, quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm, về hoạt động chuẩn
bị xét xử sơ thẩm, thủ tục tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm:
Thứ nhất: Các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy phải tuân thủ quy định từ
Điều 170 đến Điều 175 BLTTHS.
Việc quy định đúng thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp có ý nghĩa rất quan
trọng đối với việc bảo đảm cho Tòa án xét xử đúng đắn, khách quan vụ án; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan; là cơ sở quan trọng để xác định thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng khác. Theo quy định của BLTTHS thẩm quyền xét xử của vụ án được phân định
theo sự việc, đối tượng và lãnh thổ.
- Thẩm quyền xét xử vụ án theo sự việc: Thẩm quyền xét xử vụ án tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là sự phân định thẩm
quyền xét xử giữa các cấp Tòa án, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội
phạm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa hai cấp Tòa án đó là: Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS, Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự
khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng.
Nếu điều luật có nhiều khoản thì TAND cấp huyện và Tòa án nhân dân quân sự
khu vực có thẩm quyền xét xử các trường hợp phạm tội thuộc tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. TAND cấp huyện và
TAQS khu vực có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cùng một lần một người phạm nhiều
tội, nếu các tội đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của các Tòa án này. Trong trường
hợp một người đang chấp hành hình phạt theo bản án của bất cứ Tòa án cấp nào mà
lại bị truy tố về tội thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và TAQS khu vực
thì các Tòa án đó cũng có thẩm quyền xét xử, trừ trường hợp người bị kết án đã bị

10


tuyên hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà chưa được giảm thời hạn chấp hành
hình phạt. [52]
Khoản 2 Điều 170 BLTTHS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp
quân khu có thẩm quyền xét xử về những tội không thuộc thẩm quyền của TAND
cấp huyện và TAQS khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình
lấy lên để xét xử.
- Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ: Theo Điều 171, 172 BLTTHS thì thẩm

quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ là sự phân định dựa vào dấu hiệu về địa điểm
thực hiện tội phạm hoặc địa điểm thực hiện hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố
tụng, nơi cư trú của người phạm tội hoặc địa điểm khác do pháp luật quy định.
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng: Đó là sự phân định thẩm quyền
xét xử giữa TAND và TAQS căn cứ vào đối tượng phạm tội. Những đối tượng sau
thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS, có hai nhóm đối tượng cụ thể:
Người phạm tội là quân nhân và những người có nghề nghiệp hoặc nhiệm vụ
quân sự bao gồm: Quân nhân tại ngũ; công chức quốc phòng; công nhân quốc phòng;
quân nhân dự bị; dân quân, tự vệ; những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự
do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.
Người phạm tội không thuộc các đối tượng nêu trên nhưng nếu họ phạm tội có
liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội hoặc trong cùng một
vụ án vừa có người phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của TAND vừa có người
phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS thì TAQS xét xử toàn bộ vụ án.
Thứ hai: Hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy là một hoạt động tố tụng bao gồm:
Hoạt động thụ lý vụ án; nghiên cứu hồ sơ xác định thẩm quyền giải quyết; quyết định
áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung;
đình chỉ và tạm đình chỉ; rút quyết định truy tố.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành và Luật tổ chức TAND thì Tòa án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm là Tòa án nhân dân cấp huyện bao gồm: Tòa án thành
phố, thị xã trực thuộc tỉnh, TAQS khu vực, TAND cấp tỉnh, TAQS cấp quân khu.
Tòa án cấp sơ thẩm trong hoạt động chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án tiến hành các hoạt
động tố tụng hình sự sau:
Thụ lý và nghiên cứu hồ sơ vụ án:

11


- Thụ lý hồ sơ vụ án: Được hiểu là việc tiếp nhận vụ án để giải quyết theo quy

định của pháp luật. Khi VKS chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án, người nhận hồ sơ phải
đối chiếu bản kê tài liệu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kiểm tra việc giao
nhận bản cáo trạng cho bị can [19].
TAND thành phố Cẩm Phả nhận hồ sơ vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy vào sổ thụ lý và đóng dấu ( hoặc ghi )
ngày nhận hồ sơ vào bìa hồ sơ nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ so với
bản kê tài liệu và bản cáo trạng đã được giao cho bị can. Chỉ từ khi thụ lý vụ án hình
sự, Tòa án mới được tiến hành các công việc theo thẩm quyền để giải quyết một vụ
án hình sự trên.
Thông thường Tòa án thụ lý vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến nhưng cũng
có trường hợp thụ lý vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
các chất ma túy để xét xử sơ thẩm do Tòa án khác chuyển đến vì lý do thẩm quyền.
Đây là trường hợp chuyển vụ án theo quy định tại Điều 174 BLTTHS và ngày Tòa
án nhận hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển sang là ngày bắt đầu tính thời hạn chuẩn bị
xét xử [44].
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án: Sau khi vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy được thụ lý, Chánh án Tòa án phân công
Thẩm Phán, Thư ký và HTND cụ thể. Thẩm phán được phân công xét xử vụ án trước
khi mở phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, tiếp nhận giải quyết khiếu nại, yêu
cầu của người tham gia tố tụng và tiến hành những việc cần thiết cho việc mở phiên
tòa.
Trong thời hạn 07 ngày trước khi mở phiên tòa Thẩm phán được phân công
làm chủ tọa phiên tòa phải có trách nhiệm gửi giấy mời Hội thẩm đến trụ sở Tòa án
để nghiên cứu hồ sơ và trao đổi các vấn đề cần thiết về nghiệp vụ xét xử đối với vụ
án đó [43]. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa
có thể đưa ra các quyết định: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án; tạm đình
chỉ vụ án; đưa ra xét xử; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn không
phải là biện pháp tạm giam. Cũng trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa đề nghị Chánh án ra quyết định áp dụng, thay đổi

hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp kê khai

12


tài sản; gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thay đổi người tiến hành tố tụng; chuyển vụ
án [34].
- Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự : Theo Từ điển Tiếng Việt, “thời hạn”
là “khoảng thời gian nhất định để làm bất kỳ một công việc nào đó” [38 tr.940].
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt các chất ma túy là khoảng thời gian theo quy định của pháp
luật để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác đảm
bảo cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao. Thời
hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết, thời điểm
kết thúc là thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm.
Hiện nay BLTTHS năm 2003 đã có những quy định cụ thể hơn về thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm, cụ thể:
Khoản 2 Điều 176 BLTTHS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử bao gồm thời
hạn để Thẩm Phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra một trong các quyết định cần
thiết theo quy định của luật tố tụng hình sự: Về áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện
pháp ngăn chặn; yêu cầu điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [34].
Thời hạn để Thẩm phán ra một trong bốn quyết định, tại khoản 2 Điều 176
BLTTHS và được tính từ ngày Thẩm phán nhận hồ sơ vụ án đến ngày ra quyết định
cụ thể là: Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi
lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm
trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định:
đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khoản 2 điều 176 BLTTHS quy định đối với những vụ án phức tạp, Chánh án
có thể kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít

nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đồng thời Tòa án phải mở phiên
tòa trong thời hạn 15 ngày sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thời hạn 15 ngày không đủ để Tòa án mở
phiên tòa. Vì vậy Điều 176 BLTTHS có quy định thêm “Trong trường hợp có lý do
chính đáng thì Tòa án có thể mở phiên tòa trong thời hạn 30 ngày”.

13


Đối với thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn:
Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự là một dạng đặc biệt của thủ tục tố tụng nhằm
đơn giản hoá, giảm bớt một số nguyên tắc, trình tự trong tố tụng hình sự tạo điều
kiện xử lý vụ án nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác và đảm
bảo các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự.
- Những quyết định của Tòa án trong hoạt động chuẩn bị xét xử:
Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo để ngăn chặn những hành vi nguy hiểm
cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
những hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do
vậy, ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án. Tòa án phải quyết định áp dụng biện pháp
ngăn chặn; thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng nếu thấy biện
pháp ngăn chặn đang được áp dụng không cần thiết nữa; tiếp tục duy trì biện pháp
ngăn chặn đang được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu thấy cần thiết.
Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để đảm bảo. Đối với bị can đang tạm giam: Thời hạn tạm giam tính
từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án, trong trường hợp khi nhận hồ sơ vụ án thời hạn tạm giam
còn lại không quá 5 ngày hoặc thời hạn tạm giam tính từ ngày tiếp theo của lệnh tạm
giam trước đó.

Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại
Điều 176 BLTTHS và theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày
05/11/2004. Tuy nhiên nếu đến ngày mở phiên tòa lệnh tạm giam đã hết, nếu xét
thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Thẩm phán báo cáo
Chánh án hoặc Phó chánh án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Trong trường hợp phải ra hạn thời hạn chuẩn bị xét xử mà đã gần hết thời gian
tạm giam ( thời hạn tạm giam không quá 5 ngày ) và xét thấy cần tiếp tục tạm giam
thì Chánh án hoặc Phó chánh án có quyền ra lệnh tạm giam tiếp. Thời hạn tạm giam
trong trường hợp này không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt
nghiêm trọng.

14


Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Sau khi nghiên cứu hồ sơ nếu có đủ chứng cứ
để xét xử mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp VKS đã điều
tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và hoàn trả hồ sơ nếu thấy không cần phải trả hồ
sơ điều tra bổ sung lần thứ hai hoặc trường hợp VKS không bổ sung được những vấn
đề mà Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Thẩm phán cũng ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử làm thay đổi tư cách
tố tụng của bị can thành bị cáo.
Trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 187
BLTTHS, quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho người đại diện hợp
pháp, người bào chữa của bị cáo, niêm yết tại trụ sở chính quyền nơi bị cáo cư trú
hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyết định
đặc trưng chỉ có ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án.
Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án: Thẩm phán chỉ ra quyết định
tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án khi có căn cứ do pháp luật quy định.

Sau khi nhận hồ sơ vụ án mà bị can, bị cáo có biểu hiện không có năng lực trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 13 BLHS thì Tòa án trưng cầu giám định pháp
y. Nếu kết luận của Hội đồng giám định pháp y xác định bị can, bị cáo bị bệnh tâm
thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y, Thẩm phán báo cáo Chánh án
ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
Trường hợp bị can, bị cáo bỏ trốn thì Tòa án yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã.
Nếu thời hạn chuẩn bị xét xử hết mà việc truy nã bị can vẫn chưa có kết quả thì
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án.
Theo quy định tại Điều 180 BLTTHS Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án
khi người bị hại yêu cầu khởi tố vụ án tự nguyện rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở
phiên tòa sơ thẩm.
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ xác
định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội

15


phạm được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết; trừ trường
hợp tái thẩm đối với người khác.
Thẩm phán cũng ra quyết định đình chỉ khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố
trước khi mở phiên tòa. Theo Điều 181 BLTTHS thì VKS rút quyết định truy tố khi
xét thấy có một trong những căn cứ tại Điều 107 BLTTHS ( Căn cứ không khởi tố vụ
án ); có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can quy định tại Điều 19 BLHS
( Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ) và Điều 25 BLHS ( Miễn trách nhiệm
hình sự ) hoặc khoản 2 Điều 69 BLHS ( Người chưa thành niên phạm tội có thể được
miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm
trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan,

tổ chức nhận giám sát, giáo dục ).
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Điều 179 BLTTHS quy định Thẩm
phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những thiếu sót
trong quá trình điều tra, truy tố. Việc trả hồ sơ trong các trường hợp sau:
- Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không
thể bổ sung tại phiên tòa được.
- Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác.
- Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng.
Trước khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung Thẩm phán cần chủ động trao đổi với
kiểm sát viên sẽ tham gia phiên tòa. Thẩm phán nêu rõ từng vấn đề cần điều tra bổ
sung và nghe ý kiến của Kiểm sát viên để ra quyết định cho chính xác.
Thẩm phán chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thấy hồ sơ vụ án có
những chứng cứ quan trọng mà không thể bổ sung tại phiên tòa. Chứng cứ quan
trọng đựơc hiểu là chứng cứ mà thiếu nó thì không thể xác định được sự thật vụ án
như: Không xác định được bị cáo có tội hay không có tội.
Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung “Khi có căn cứ cho rằng bị
cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác”. Việc bị cáo phạm một tội phạm
khác hoặc có đồng phạm khác theo quy định này có thể hiểu là khi nghiên cứu hồ sơ,
Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phát hiện bị cáo phạm một tội khác với
tội đã bị VKS truy tố hoặc ngoài bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố còn có đồng phạm
khác nhưng chưa bị khởi tố, điều tra, truy tố.

16


Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung: “Khi phát hiện có vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”, vi phạm thủ tục tố tụng là làm trái hoặc làm
không đúng hoặc không thực hiện các quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, thế nào là
vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, pháp luật không quy định cụ thể nhưng có thể
đưa ra một vài vi phạm trong thủ tục tố tụng như là: Không thay đổi điều tra viên,

Kiểm sát viên...Trong những trường hợp có lý do phải thay đổi hoặc không trưng cầu
giám định trong khi bắt buộc phải trưng cầu giám định; Có việc bức cung hay dùng
nhục hình đối với bị can...
Trong trường hợp VKS không bổ sung được những vấn đề mà Tòa án yêu cầu
và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì VKS ra quyết định đình
chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.
- Việc giao các quyết định của Tòa án và triệu tập những người cần xét hỏi
đến phiên tòa: Điều 182 BLTTHS quy định Tòa án phải giao quyết định đưa vụ án ra
xét xử cho bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của họ chậm nhất là 10
ngày trước khi mở phiên tòa. Việc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử trước khi mở
phiên tòa đảm bảo trong thời hạn 10 ngày tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện các
quyền bào chữa và có thể đề xuất với Tòa án những vấn đề cần giải quyết như: Triệu
tập thêm người làm chứng; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng...
Tòa án phải giao quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án cho bị can, bị
cáo, người bào chữa, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo. Đối
với những người tham gia tố tụng khác Tòa án không phải gửi quyết định mà chỉ cần
gửi giấy báo về các quyết định trên cho họ. Việc giao các quyết định này để cho họ
biết vụ án đã bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ, nếu không đồng ý thì họ có thể kháng
cáo.
Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
Tòa án phải gửi ngay cho bị can, bị cáo và trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị
tạm giam thực hiện. Đồng thời với việc gửi các quyết định cho bị can, bị cáo người
đại diện hợp pháp và người bào chữa của họ thì Tòa án cũng phải gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp để thực hiện chức năng giám sát trong thời hạn luật định
Song song với việc gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử khi căn cứ vào quyết
định thì Thẩm phán triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa, Thẩm phán phải

17



xác định được những người nào được tham gia với tư cách tố tụng nào cần thiết được
triệu tập đến phiên tòa để làm sáng tỏ nội dung vụ án đồng thời làm giấy triệu tập để
gửi. Vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 183 BLTTHS năm 2003.
Thứ ba: Thủ tục về phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Những quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
- Xét xử trực tiếp bằng lời nói và liên tục: Theo quy định tại Điều 184
BLTTHS Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và
nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người
làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bản án chỉ được căn cứ vào
những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Việc xét xử được tiến hành liên tục,
trừ thời gian nghỉ.
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm: Điều 185 BLTTHS quy định HĐXX
sơ thẩm gồm Thẩm phán và 2 Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm
trọng phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm. Đối với
vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử
hình thì Hội đồng xét xử gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm. Các thành viên của Hội
đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Trong quá trình
xét xử nếu có Thẩm phán, Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét xử được thì HĐXX
vẫn tiếp tục xét xử nếu có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết hoặc xét xử lại từ đầu
[34].
- Sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Để đảm bảo cho vụ án được
xét xử trực tiếp, những người tham gia tố tụng phải có mặt tại phiên tòa, trực tiếp
trình bày và trả lời những câu hỏi liên quan đến vụ án. Chỉ khi những người tham gia
tố tụng có mặt tại phiên tòa thì Tòa án mới nghe họ trực tiếp trình bày những gì liên
quan, có điều kiện làm sáng tỏ những gì còn nghi vấn và đối chất trong những trường
hợp có mâu thuẫn giữa các chứng cứ. Sự có mặt của những người tham gia tố tụng

có ý nghĩa rất quan trọng, vì đó là bảo đảm cho việc xét xử khách quan; bảo đảm
quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khác, tạo ra sự tin

18


tưởng, tâm phục khẩu phục từ phía người tham dự phiên tòa đối với hoạt động xét xử
của Tòa án.
Về sự có mặt của người tham gia tố tụng đã được Bộ luật tố tụng hình sự nước
ta quy định tương đối mềm dẻo linh hoạt từ Điều 187 BLTTHS đến Điều 193
BLTTHS. Riêng đối với sự có mặt của bị cáo được quy định chặt chẽ, nội dung
những quy định này hướng tới đảm bảo sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa
- Thủ tục bắt đầu phiên toà: Thủ tục bắt đầu phiên tòa chính là phần mở đầu
mà thực tiễn xét xử thường gọi là “Phần thủ tục” bao gồm nhiều việc phải tiến hành
cho đến khi chuyển sang phần xét hỏi tại phiên tòa.
Thủ tục bắt đầu phiên toà được quy định từ Điều 201 đến Điều 205 BLTTHS năm
2003. Đây là một thủ tục có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xét xử một vụ án
hình sự. Một phiên toà diễn ra đúng quy định của pháp luật, chiếm được lòng tin của
nhân dân đòi hỏi phải có sự chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho việc mở phiên
toà. Theo quy định tại Điều 201 BLTTHS, khi bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa
đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án
ra xét xử là bắt buộc và đây là hình thức khai mạc phiên tòa.
Sau khi phần thủ tục đã thực hiện xong, không có ai có ý kiến gì khác thì chủ tọa phiên
tòa sẽ tuyên bố kết thúc phần thủ tục bắt đầu và chuyển sang phần xét hỏi.
- Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự: Xét hỏi tại phiên toà là một phần (một
giai đoạn) của quá trình xét xử một vụ án hình sự, trong đó Hội đồng xét xử, Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải kiểm tra các
chứng cứ, kết luận điều tra, bản cáo trạng một cách công khai về những tình tiết của
vụ án. Trong giai đoạn xét hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị

hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét các vật chứng, đọc
biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ... Áp dụng các biện
pháp được BLTTHS quy định để xem xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách
khách quan, toàn diện, nhằm xác định sự thật của vụ án, đồng thời loại bỏ những tình
tiết không liên quan đến vụ án [29].
Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan
trọng nhất để xác định sự thật vụ án, hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình

19


thức kiểm nghiệm kết quả điều tra của Cơ quan điều tra có thể những câu hỏi và
những câu trả lời tại phiên toà không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở giai
đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm làm sáng tỏ mọi
tình tiết của vụ án đồng thời có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng,
giúp mọi người nâng cao tinh thần cảnh giác phòng ngừa tội phạm.
Theo quy định tại Điều 207 BLTTHS, quyền xét hỏi thuộc về HĐXX, Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham
gia phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến giám định.
Trình tự xét hỏi của chủ thể có quyền xét hỏi: Trách nhiệm chứng minh vụ án, xác
định sự thật khách quan tại phiên tòa là trách nhiệm của HĐXX. Thông qua xét hỏi
tại phiên tòa, HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án làm cơ sở cho việc
quyết định về tội phạm, hình phạt và các quyết định khác.
Để làm được điều đó điều luật quy định tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS trình
tự xét hỏi theo thứ tự như sau: Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các HTND, sau đó
đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong quá
trình xét hỏi người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám
định, vật chứng được xem xét, người tham gia phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa

phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Trong những vụ án mà bị cáo không nhận tội, lời khai của những người được
triệu tập đến phiên tòa mâu thuẫn với lời khai trong giai đoạn điều tra thì với trách
nhiệm thực hành quyền công tố tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải chủ động xét hỏi để
bảo vệ bản cáo trạng. Những người tham gia tố tụng khác không có quyền xét hỏi
nhưng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi về những tình tiết mà minh thấy
cần làm sáng tỏ. Trong trường hợp này nếu được chủ tọa cho phép thì những người
này có thể trực tiếp đặt câu hỏi đối với người được hỏi.
Tuy nhiên việc xét hỏi tại phiên tòa là cuộc điều tra công khai chính thức các
bị cáo là người bị buộc tội nên trong thực tiễn việc xét hỏi bao giờ cũng được bắt đầu
từ bị cáo.
Tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm: Thủ tục tranh luận tại phiên tòa
hình sự vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
là một thủ tục cần thiết trong hoạt động xét xử của Toà án, là cơ sở để Toà án giải

20


quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác. Mục đích của hoạt động
tranh luận là tìm ra chân lý khách quan của vụ án, do đó đòi hỏi phải có sự tham gia
tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, tức là phải tồn tại song song hai chức
năng buộc tội và chức năng bào chữa.
Xét hỏi có thể được xem là nền tảng của việc tranh tụng. Bởi vì, thông qua xét
hỏi mới có cơ sở để xác định đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ án. Từ
đó, các chủ thể của bên buộc tội và bên gỡ tội có cơ sở để bảo vệ quan điểm lập luận
của mình. Việc xét hỏi đúng trọng tâm cụ thể và chi tiết bao nhiêu càng củng cố cho
lập luận của các chủ thể vững chắc bấy nhiêu. Quan điểm của các chủ thể tranh luận
chỉ có sức thuyết phục khi nó được đặt nền móng bởi các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án được xét hỏi, thẩm định tại phiên tòa và sẽ thiếu tính thuyết phục nếu các chứng
cứ đưa ra dựa trên “án tại hồ sơ” mà không được thẩm định công khai tại phiên tòa.

Do đó phần tranh luận có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào việc xét hỏi
công khai tại phiên tòa [22].
Tại Điều 50 BLTTHS đã quy định: “Bị cáo có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu”, trong trường hợp có người bào chữa - người bào chữa tham gia tranh luận
tại phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo, tức là thực hiện chức năng gỡ tội. Sự
tham gia tranh luận của người bào chữa không chỉ góp phần bảo vệ quyền lợi chính
đáng của bị cáo mà nó còn góp phần nâng cao trình độ của những người tiến hành tố
tụng trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm được BLTTHS quy định từ Điều 217
đến Điều 221 BLTTHS. Có thể xem đây là giai đoạn trung tâm của quá trình tranh
tụng. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội, trước sự chứng kiến của
HĐXX, công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc đưa ra các lý lẽ và lập
luận để bảo vệ quan điểm của mình.
Tranh luận được bắt đầu bằng lời luận tội của Kiểm sát viên. Mục đích của
luận tội là phải thuyết phục HĐXX rằng những yêu cầu buộc tội bị cáo là có căn cứ
và phù hợp với quy định pháp luật, tiếp theo là thuyết phục đối với bên bào chữa và
đối với tất cả những người có mặt tại phiên tòa. Vì vậy, luận tội phải có tính chính
xác cao, tính chiến đấu và cả tính giáo dục, “tiếng nói của Kiểm sát viên tại phiên tòa
là tiếng nói của công lý…Có tác dụng giáo dục nhân dân về chính sách pháp luật và
đạo đức xã hội chủ nghĩa…” [23, tr.40].

21


×