Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh trong phân môn địa lý lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.75 KB, 61 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ......................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 5
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .......................................................................... 5
5. Mức độ và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 5
6. Giả thuyết khoa học ................................................................................................. 5
7. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................... 6
8. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 6
9. Nội dung của đề tài .................................................................................................. 6
NỘI DUNG................................................................................................................. 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................... 7
1.1. Cơ sở lí luận ........................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm kĩ năng ............................................................................................ 7
1.1.2. Các kĩ năng địa lí.............................................................................................. 7
1.1.3. Bản đồ ............................................................................................................... 8
1.1.3.1. Bản đồ địa lí .................................................................................................... 8
1.1.3.2. Bản đồ giáo khoa ............................................................................................ 8
1.1.3.3. Phân loại bản đồ giáo khoa.............................................................................. 9
1.1.4. Vai trò của bản đồ giáo khoa và tác dụng của việc hình thành kĩ năng sử
dụng bản đồ cho học sinh ........................................................................................ 12
1.1.4.1. Vai trò của bản đồ giáo khoa ......................................................................... 12
1.1.4.2. Tác dụng của việc hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh .............. 13
1.1.5. Kĩ năng sử dụng bản đồ ................................................................................. 15
1.1.6. Mối liên hệ giữa kiến thức bản đồ và việc hình thành kĩ năng ................... 16
1.1.6.1. Con đường hình thành kĩ năng ...................................................................... 16
1.1.6.2. Mối liên hệ giữa kiến thức bản đồ và việc hình thành kĩ năng bản đồ ............ 17
1.1.7. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 4 và việc hình thành kĩ năng sử dụng bản
đồ cho học sinh lớp 4 ............................................................................................... 18
1.1.8. Một số vấn đề chung của phần Địa lí trong phân môn Lịch sử - Địa lí lớp 4


.................................................................................................................................. 20


1.1.8.1. Mục tiêu dạy học của phần Địa lí lớp 4 ......................................................... 20
1.1.8.2. Nội dung phần Địa lí lớp 4 ............................................................................ 21
1.1.8.3. Cấu trúc của một bài học Địa lí lớp 4 ............................................................ 23
1.1.8.4. Bản đồ được sử dụng trong phần Địa lí lớp 4 ................................................ 23
1.1.8.5. Yêu cầu về kĩ năng bản đồ ............................................................................ 26
1.2. Cở sở thực tiễn .................................................................................................. 27
1.2.1.Tình hình dạy học phân môn Địa lí lớp 4 ...................................................... 27
1.2.2. Tình hình sử dụng bản đồ trong giảng dạy và học tập Địa lí ở trường Tiểu
học ............................................................................................................................ 28
1.2.3. Thực trạng kĩ năng sử dụng bản đồ của học sinh lớp 4 và việc rèn luyện kĩ
năng sử dụng bản đồ cho học sinh .......................................................................... 30
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ............................. 32
2.1. Phương thức dạy các kiến thức và kĩ năng sử dụng bản đồ ........................... 32
2.2. Những yêu cầu khi rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ .................................... 33
2.2.1. Yêu cầu đối với giáo viên ............................................................................... 33
2.2.2. Yêu cầu đối với học sinh ................................................................................ 34
2.2.3. Yêu cầu đối với bản đồ giáo khoa.................................................................. 34
2.3. Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh ................. 37
2.3.1. Dạy học sinh hiểu bản đồ ............................................................................... 37
2.3.1.1. Dạy học sinh các kiến thức về bản đồ ............................................................ 37
2.3.1.2. Dạy học sinh kĩ năng bản đồ ban đầu ............................................................ 40
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ........................................................................ 42
2.3.3. Xác lập quy trình sử dụng bản đồ cho học sinh............................................ 44
2.3.4. Tăng cường luyện tập, thực hành.................................................................. 48
2.3.4.1. Sử dụng hệ thống câu hỏi và bài tập .............................................................. 48
2.3.4.2. Sử dụng bản đồ câm ...................................................................................... 50
2.3.4.3 Tích hợp với các môn học khác ...................................................................... 51

2.3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin ...................................................................... 53
2.3.5.1. Ứng dụng phần mềm PowerPoint .................................................................. 53
2.3.5.2. Ứng dụng phần mềm db – MAP .................................................................... 54
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 59


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong nhiều thế kỉ qua, khoa học Địa lí không ngừng phát triển và đã
mang lại cho nhân loại rất nhiều thành tựu to lớn. Những thành tựu của các công
trình nghiên cứu địa lí có ứng dụng thiết thực trong các lĩnh vực khác nhau như
kinh tế, xây dựng, thám hiểm, địa chất,…Địa lí được đưa vào chương trình dạy
học trong nhà trường phổ thông với tư cách là một môn học chính, có nhiệm vụ
cung cấp cho học sinh những tri thức về các vùng đất, lãnh thổ khác nhau trên
Trái Đất. Đó là đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của các vùng miền lãnh thổ
của đất nước mình cũng như trên thế giới; đồng thời hình thành cho học sinh
những kĩ năng địa lí ban đầu và rèn luyện cho học sinh tập nghiên cứu địa lí.
Các tri thức địa lí là những đặc điểm của vùng đất, lãnh thổ. Một trong
những đặc trưng quan trọng của tư duy địa lí là tư duy gắn liền với lãnh thổ, xét
đoán trên lãnh thổ. Cho nên, việc thể hiện và lưu trữ những tri thức ấy ngoài sử
dụng ngôn ngữ viết, nói thông thường thì cần phải có một ngôn ngữ đặc biệt. Đó
chính là bản đồ. Bản đồ là công cụ hữu hiệu giúp mã hoá những tri thức địa lí.
Nhà địa lí học người Nga N.N.Baranxki đã khẳng định vai trò của bản đồ đối
với địa lí qua câu nói nổi tiếng: “Bản đồ là ngôn ngữ thứ hai của địa lí, bản đồ là
một trong những tiêu chuẩn của tính địa lí”.
Địa lí bắt đầu từ bản đồ và cũng kết thúc bằng bản đồ. Để có thể nghiên
cứu và học tập Địa lí, việc đầu tiên cần làm là phải giải mã được bản đồ, sau đó
những tri thức địa lí mới tìm được lại được mã hoá trở lại bản đồ. Để làm được
điều đó trước tiên cần phải có kĩ năng sử dụng bản đồ. Kĩ năng sử dụng bản đồ

là kĩ năng thực sự được chú trọng và được hình thành, rèn luyện ngay từ khi bắt
đầu học tập địa lí ở các nước tiến bộ.
Ở bậc Tiểu học của Việt Nam, học sinh được tìm hiểu các kiến thức địa lí
qua môn Tự nhiên và Xã hội nhưng phải đến lớp 4 thì học sinh mới thực sự có
môn học Lịch sử và Địa lí, qua đây các em mới được học tập chính thức với hai
phân môn này. Phần Địa lí lớp 4 có vị trí đặc biệt quan trọng trong dạy học Địa
1


lí ở Tiểu học cũng như các bậc học trên vì đó là kiến thức căn bản, nền tảng và
mở đầu cho quá trình học tập môn học.
Bản đồ địa lí là đồ dùng dạy và học quan trọng trong dạy học Địa lí ở
Tiểu học. Địa lí tìm hiểu về các vùng đất, mà học sinh không phải lúc nào cũng
có điều kiện tiếp xúc với các lãnh thổ của đất nước mình hoặc các lãnh thổ khác
trên bề mặt Trái Đất. Khi đó, bản đồ không chỉ là đồ dùng học tập trực quan cần
thiết mà còn là tư liệu học tập để các em tìm ra các kiến thức địa lí. Để có thể sử
dụng được bản đồ, học sinh phải có kĩ năng sử dụng bản đồ. Khi học sinh có kĩ
năng sử dụng bản đồ, dưới sự hướng dẫn của giáo viên các em có thể tái tạo lại
được hình ảnh lãnh thổ nghiên cứu với những đặc điểm cơ bản của chúng, mà
không cần phải nghiên cứu trực tiếp ngoài thực địa. Việc biết cách khai thác
kiến thức từ bản đồ giúp học sinh hứng thú và ghi nhớ bền vững hơn, thay vì
việc học sinh thụ động tiếp nhận những tri thức mà giáo viên đưa ra rồi phải ghi
nhớ một cách máy móc thì học sinh tự mình tìm hiểu, nghiên cứu dưới hướng
dẫn của giáo viên để tìm ra tri thức. Có những kĩ năng sử dụng bản đồ cơ bản
ngay từ bậc Tiểu học giúp học sinh không chỉ tích cực và biết cách làm việc với
bản đồ để đạt được mục tiêu học tập của môn Địa lí mà còn giúp học sinh có
thói quen và biết cách sử dụng bản đồ trong cuộc sống, phục vụ cho cuộc sống
của các em. Ngoài ra, có kĩ năng sử dụng bản đồ ở lớp 4 còn giúp học sinh
chuẩn bị nền tảng để học tập và nghiên cứu Địa lí ở các lớp học cao hơn.
Tuy nhiên trong thực tế các trường Tiểu học hiện nay thì việc hình thành

và rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ địa lí cho học sinh chưa được quan tâm
đúng mức. Hầu hết trong các giờ học Địa lí, bản đồ chỉ được giáo viên sử dụng
như một đồ dùng minh hoạ cho tiết học. Phần lớn học sinh không hiểu bản đồ là
gì, sử dụng bản đồ như thế nào, mà chỉ biết đó là bản vẽ có nhiều màu sắc và kí
hiệu. Một số học sinh khá hơn thì ban đầu đã có những kiến thức về bản đồ, hiểu
được những hình vẽ kí hiệu, tìm được đối tượng địa lí trên bản đồ. Song, đó mới
chỉ ở mức độ đơn giản và các em chưa biết làm việc với bản đồ theo đúng trình
tự, khai thác được hết những tri thức cần thiết trong bản đồ đối với bài học. Có
2


nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh không biết cách sử dụng bản đồ,
nhưng về căn bản là các em không được rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ.
Trước tình hình đó, để góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học
nói chung và dạy học Địa lí nói riêng, tôi đã chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng sử
dụng bản đồ cho học sinh trong phân môn Địa lí lớp 4”
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nhiều công trình khoa học cũng đã nghiên cứu việc dùng bản đồ trong
giảng dạy và học tập Địa lí ở nhà trường phổ thông.
Trước tiên phải kể đến những công trình có ảnh hưởng lớn trên thế giới
như:
- Giáo sư V.P.Buđanốp tác giả cuốn “Bản đồ trong việc giảng dạy Địa lí”
(1994) đã nhấn mạnh đến ý nghĩa của bản đồ trong việc giảng dạy Địa lí và nhu
cầu phải hướng dẫn học sinh hiểu biết bản đồ để học tập Địa lí.
- Giáo sư A.A.Booczôp tác giả cuốn “Các hoạt động địa lí” (1949), cũng
đã đề cập đến vai trò của bản đồ trong việc giảng dạy Địa lí. Ông cho rằng cơ sở
của việc học tập địa lí phải là thiên nhiên và bản đồ, cho nên một trong những
mục đích cơ bản của việc học tập địa lí phải là kĩ năng đọc bản đồ và kĩ năng
dựa vào bản đồ để tìm ra những kiến thức địa lí.
- Giáo sư N.N.Baranxki tác giả cuốn “Phương pháp giảng dạy địa lí kinh

tế” (1972). Ông đề cao vai trò của bản đồ trong nghiên cứu và giảng dạy Địa lí:
“Bản đồ là alpha và ômêga của địa lí”; “Bản đồ là ngôn ngữ thứ hai của địa lí”.
Ngoài ra, một loạt các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có liên
quan đến vấn đề này cũng đã được nói đến trong các giáo trình phương pháp
giảng dạy Địa lí đã xuất bản trước đây. Mỗi tác giả đều có cách nhìn nhận và
giải quyết vấn đề sử dụng bản đồ ở các mức độ khác nhau. Có tác giả đi sâu vào
cách dùng bản đồ trong giảng dạy Địa lí, có tác giả lại thiên về việc hướng dẫn
học sinh hiểu và đọc bản đồ để học địa lí nhưng nhìn chung các tác giả đều đề
cập đến một số vấn đề chủ yếu sau:
- Vai trò của bản đồ trong giảng dạy và học tập Địa lí.
3


- Mục đích của việc dùng bản đồ trong giảng dạy Địa lí là phải giúp học
sinh hiểu, đọc và biết vận dụng bản đồ.
- Các tác giả đã ít nhiều đề cập đến việc dạy học sinh hiểu và đọc bản đồ
ở mức độ khái quát nhất.
Nhìn chung, các tác giả mới đề cập đến một vài khía cạnh của việc dùng
bản đồ trong dạy học Địa lí và hướng dẫn học sinh giải quyết một vài bài tập cụ
thể có liên quan đến bản đồ.
Ở nước ta, việc dạy học sinh nắm vững các kiến thức và kĩ năng bản đồ
cũng chưa được một tác giả nào nghiên cứu một cách cụ thể. Phần lớn mới chỉ
đề cập đến một vài khía cạnh có liên quan tới vấn đề này trong các giáo trình
phương pháp giảng dạy Địa lí và bản đồ học ở các trường đại học và cao đẳng
sư phạm hoặc trong các sách hướng dẫn giảng dạy Địa lí như:
- Giáo trình “Sử dụng bản đồ và phương tiện kĩ thuật trong dạy học Địa lí”,
Nguyễn Trọng Phúc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
- Giáo trình “Phương pháp giảng dạy Địa lí”, Nguyễn Dược, Mai Xuân San, Nhà
xuất bản Giáo dục, 1983.
- Giáo trình “Lí luận dạy học Địa lí”, Nguyễn Dược và Nguyễn Trọng Phúc.

- “Hướng dẫn sử dụng bản đồ, lược đồ trong sách giáo khoa Địa lí phổ thông”
Lâm Quang Dốc, Nhà xuất bản Giáo dục, 2006
- Giáo trình “Bản đồ giáo khoa”, Lâm Quang Dốc , 2003.
Trong một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, cũng có đề cập đến
“Phương pháp sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí” như luận án tiến sĩ: “Các
biện pháp hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh các lớp 6, 7, 8 phổ thông
cơ sở” của PGS.TS.Đặng Văn Đức. Đó là những công trình nghiên cứu dành cho
học sinh bậc Trung học. Việc dạy các kiến thức và kĩ năng bản đồ cho học sinh tiểu
học chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển các công trình có liên quan, đề tài này sẽ
nghiên cứu cụ thể hơn về “Rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh trong

4


phân môn Địa lí lớp 4” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học
nói chung và dạy học môn Địa lí lớp 4 nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích chính là tìm hiểu những vấn đề cơ bản của việc
hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh trong phân môn Địa lí lớp 4;
trên cơ sở đó để tìm ra các biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học
sinh trong phân môn Địa lí lớp 4 nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học
phần Địa lí lớp 4 nói riêng và dạy học lớp 4 nói chung.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Những vấn đề cơ bản của việc hình thành kĩ năng
sử dụng bản đồ cho học sinh.
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ địa
lí cho học sinh trong phân môn Địa lí lớp 4.
5. Mức độ và phạm vi nghiên cứu
- Mức độ nghiên cứu: Tìm hiểu những biện pháp cần thiết để nâng cao kĩ

năng sử dụng bản đồ địa lí trong phân môn Địa lí lớp 4.
- Phạm vi nghiên cứu: Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành kĩ năng sử
dụng bản đồ cho học sinh và đề xuất một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng
bản đồ cho học sinh trong phân môn Địa lí lớp 4.
6. Giả thuyết khoa học
Phần lớn học sinh lớp 4 hiện nay chưa sử dụng bản đồ địa lí một cách
hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó nhưng chủ yếu là do các
em chưa có kĩ năng sử dụng bản đồ. Nếu việc rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ
được chú trọng và có những biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học
sinh thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc sử dụng bản đồ địa lí cho học
sinh lớp 4.

5


7. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành các kĩ năng sử
dụng bản đồ cho học sinh trong phân môn Địa lí 4.
- Đề xuất những biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh
lớp 4 trong phân môn Địa lí 4.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp tài liệu: Chúng tôi nghiên cứu các tài liệu có liên
quan đến đề tài gồm các tài liệu tâm lí học, giáo dục học, lí luận dạy học, các
phương pháp dạy học môn Địa lí thông qua nhiều nguồn khác nhau như sách báo,
báo cáo khoa học, mạng Internet, đặc biệt là các sách chuyên ngành như sách giáo
khoa, sách giáo viên, tài liệu bồi dưỡng giáo viên. Qua nghiên cứu như vậy sẽ kế
thừa và phát huy được kết quả của các công trình khoa học có liên quan đến đề
tài.
- Phương pháp bản đồ: Là phương pháp đặc trưng của khoa học bản đồ.

Sử dụng bản đồ là sử dụng kiến thức bản đồ trong việc hình thành kiến thức địa
lí cho học sinh.
- Phương pháp khảo sát điều tra: Nhằm tìm hiểu thực tế của việc sử dụng bản
đồ ở các trường tiểu học hiện nay. Chúng tôi đã sử dụng nhiều biện pháp như phỏng
vấn, trao đổi, phát phiếu điều tra,…
- Phương pháp thống kê : Chúng tôi thống kê những số liệu thu được chính
xác để từ đó phân tích, đánh giá, rút ra kết luận.
9. Nội dung của đề tài
Phần 1: Phần mở đầu
Phần 2: Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh
Phần 3: Kết luận

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm kĩ năng
Theo từ điển Hoàng Phê: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức
thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế.” [6, Tr. 501]
Theo PGS. TS Đặng Thành Hưng: “Kĩ năng là một dạng hành động được
thực hiện tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những
điều kiện sinh học - tâm lí khác của cá nhân (chủ thể của cá nhân đó) như nhu
cầu, tình cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân,… để đạt được kết quả theo mục đích
hay tiêu chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn quy định.” [4, Tr. 26]
Như vậy, kĩ năng là phương thức thực hiện một hành động nào đó thích
hợp với mục đích và những điều kiện hành động. Kĩ năng địa lí thực chất là

những hoạt thực tiễn mà học sinh hoàn thành một cách có ý thức trên cơ sở
những kiến thức địa lí mà học sinh đã có.
Trong những năm gần đây các nhà tâm lí học và lí luận dạy học lại phân
biệt ra hai loại kĩ năng: kĩ năng ban đầu có trước kĩ xảo, kĩ năng hoàn thiện có
sau khi có kĩ xảo, loại kĩ năng này cao hơn kĩ năng ban đầu vì khó hơn, phức tạp
hơn và đòi hỏi ở học sinh phải có kinh nghiệm và có một mức độ sáng tạo nhất
định trong công việc. Kiến thức - kĩ năng ban đầu - kĩ xảo - kĩ năng hoàn thiện.
Như vậy trong kĩ năng hoàn thiện ngoài các thành phần kiến thức kĩ năng ban
đầu, kĩ xảo ra còn phải có hai thành phần nữa là các kinh nghiệm thực tiễn và
yếu tố sáng tạo, nó biểu hiện năng lực phẩm chất trí tuệ của người thực hiện.
1.1.2. Các kĩ năng địa lí
Hiện nay trong bộ môn Địa lí người ta thường nói tới bốn loại kĩ năng sau đây:
- Kĩ năng làm việc với bản đồ trong đó có các kĩ năng, định hướng trên
bản đồ, đo đạc trên bản đồ, sử dụng bản đồ, lược đồ, …

7


- Kĩ năng làm việc ngoài trời trong đó kĩ năng quan sát, đo đạc với các
công cụ quan trắc về các hiện tượng thời tiết, địa hình, thổ nhưỡng, thực động
vật, …
- Kĩ năng làm việc với các tài liệu địa lí trong đó có các kĩ năng lập lát
cắt, vẽ biểu đồ, bản đồ, phân tích các số liệu, …
- Kĩ năng học tập địa lí trong đó có kĩ năng làm việc với sách giáo khoa,
tài liệu tham khảo, kĩ năng mô tả, viết và trình bày các vấn đề địa lí.
Trong bốn loại kĩ năng trên thì kĩ năng làm việc với bản đồ là quan trọng
nhất. Địa lí bắt đầu từ bản đồ và kết thúc bằng bản đồ. Bản đồ là ngôn ngữ thứ
hai của địa lí. Vì lí do đó mà muốn học tập địa lí trước tiên phải có kĩ năng bản
đồ để giải mã được các thông tin chứa đựng trong bản đồ. Bản đồ là đồ dùng học
tập phổ biến và thông dụng nhất trong dạy học Địa lí hiện nay. Địa lí tìm hiểu về

những vùng đất khác nhau nhưng không phải lúc nào học sinh cũng có điều kiện
để tìm hiểu đối tượng ngoài trời, nghiên cứu đối tượng trực tiếp; bản đồ có khả
năng tái hiện những đối tượng đó qua các kí hiệu, hình vẽ, học sinh phải có kĩ
năng làm việc với bản đồ để tìm ra tri thức địa lí có trong bản đồ. Có kĩ năng sử
dụng bản đồ sẽ giúp học sinh dễ dàng hơn khi rèn luyện kĩ năng địa lí khác.
1.1.3. Bản đồ
1.1.3.1. Bản đồ địa lí
Bản đồ được định nghĩa trong từ điển Hoàng Phê như sau: “Bản đồ là bản
vẽ thể hiện một phần hoặc toàn bộ bề mặt của Trái Đất hay một thiên thể, một
phần hoặc toàn bộ bầu trời, dùng các kí hiệu, các quy ước để mô tả tình trạng
phân bố của các hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội”. [6, Tr. 28]
Bản đồ được định nghĩa trong sách giáo khoa Địa lí lớp 4 rất đơn giản để
phù hợp với học sinh lớp 4: “Bản đồ là hình vẽ thu nhỏ một khu vực hay toàn bộ
bề mặt Trái Đất theo một tỉ lệ nhất định”. [3, Tr. 4]
1.1.3.2. Bản đồ giáo khoa
Bản đồ giáo khoa là một loại hình bản đồ thuộc hệ thống phân loại bản đồ
địa lí mà mục đích sử dụng của chúng là dùng để dạy và học địa lí trong nhà
8


trường, bởi vậy ngoài các tính chất đặc trưng của bản đồ địa lí ra, bản đồ giáo
khoa còn có tính chất riêng mà bản đồ địa lí khác không có. Đó là tính sư phạm.
Chính vì tính chất riêng này mà ta có thể hiểu bản đồ giáo khoa là bản đồ địa lí
dùng để dạy và học địa lí trong nhà trường theo những chương trình, cấp học,
lớp học đã được quy định cụ thể. Theo cách hiểu đó, bản đồ giáo khoa có thể
được định nghĩa như sau:
“Bản đồ giáo khoa là biểu hiện thu nhỏ của bề mặt Trái Đất dựa trên cơ sở
toán học. Bằng ngôn ngữ bản đồ, phương tiện (đồ hoạ) phản ánh sự phân bố,
trạng thái mối liên hệ tương hỗ của khách thể - tương ứng với mục đích, nội
dung và phương pháp của môn học trên những nguyên tắc chặt chẽ của tổng

quát hoá bản đồ; phù hợp với trình độ phát triển trí óc của lứa tuổi học sinh, có
xét đến cả yêu cầu giáo dục thẩm mĩ và vệ sinh học đường”. [1, Tr. 13]
1.1.3.3. Phân loại bản đồ giáo khoa
Sự phân loại bản đồ cũng như bản đồ giáo khoa là yêu cầu cần thiết. Bản
đồ giáo khoa dùng trong nhà trường rất đa dạng về thể loại, đề tài, nội dung, tỉ
lệ, lãnh thổ,…Ở nước ta, bản đồ giáo khoa được phân loại theo “loại hình bản
đồ”. Phân loại theo chỉ tiêu này có tác dụng quan trọng trong quá trình xây dựng
và sử dụng bản đồ. Vì mỗi loại hình bản đồ có đặc điểm riêng, có tác dụng riêng
đối với quá trình giảng dạy và học tập. Theo chỉ tiêu phân loại này, bản đồ giáo
khoa được phân ra những loại hình chủ yếu: quả địa cầu, bản đồ treo tường, bản
đồ trong sách giáo khoa, lược đồ, bản đồ câm, tập bản đồ (Atlat). Những loại
bản đồ này có tầm quan trọng đặc biệt trong dạy học Địa lí hiện nay.
- Quả địa cầu:
Quả địa cầu là mô hình thu nhỏ của Trái Đất mà trong đó tất cả các yếu tố
của nó như bán kính Trái Đất, hệ thống kinh vĩ tuyến, diện tích các lục địa, đảo
và đại dương,… đều giảm theo một tỉ lệ nhất định. Quả địa cầu biểu hiện đúng
các đối tượng quan trọng trên bề mặt Trái Đất và giữ được tính chất địa lí của
chúng. Khoảng cách và diện tích, góc và hình dạng đối tượng không có sai số
chiếu hình. Tỉ lệ của quả địa cầu như nhau ở tất cả mọi điểm. Quả địa cầu cho ta
9


một khái niệm đúng và trực quan về hình dạng Trái Đất, về kích thước, hình
dạng và vị trí tương quan của các phần trên bề mặt đất; đồng thời cụ thể hoá các
yếu tố của Trái Đất - trục quay, các cực và mạng lưới địa lí.
- Bản đồ giáo khoa treo tường:
Bản đồ giáo khoa treo tường là loại bản đồ dùng để giảng dạy và học ở
trên lớp. Nó được dùng để nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong nhiều lĩnh vực
nhất là trong địa lí và lịch sử. Bản đồ giáo khoa treo tường thể hiện được nội
dung địa lí trong các mối quan hệ và cấu trúc không gian, đảm bảo được tính

lôgic khoa học của vấn đề giáo viên trình bày. Mỗi điểm, mỗi đối tượng địa lí
trên bản đồ đều được giữ đúng vị trí địa lí của mình trên bề mặt Trái Đất. Đặc
điểm của mỗi đối tượng cũng được biểu hiện bằng các phương pháp hoạ đồ phù
hợp. Trên bản đồ, lượng thông tin khoa học phải tương xứng với tỉ lệ của nó, các
đối tượng địa lí trên bản đồ được khái quát hoá cao, có đối tượng phải cường
điệu hoá đến mức cần thiết. Nhiều kí hiệu tượng trưng, tượng hình, nhiều màu
sắc đẹp gần gũi đối tượng đã được sử dụng làm cho bản đồ có tính trực quan
cao, gây hứng thú cho việc học tập địa lí. Nội dung kiến thức và phương pháp
trình bày bản đồ còn phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi, với thị lực của học sinh
trong khoảng cách từ 5 đến 10 mét, với trình độ nhận thức của từng cấp học. Vì
vậy, bản đồ treo tường có hệ thống kí hiệu lớn, chữ viết to, màu sắc rực rỡ, đẹp,
có độ tương phản mạnh.
- Bản đồ trong sách giáo khoa:
Bản đồ này không chỉ có nội dung của bài viết, mà còn có nhiệm vụ bổ
sung những nội dung mà phần “kênh chữ” không trình bày hết được. Do khuôn
khổ sách giáo khoa nhỏ, in đen trắng hoặc màu, cho nên bản đồ trong sách giáo
khoa thường có tỉ lệ nhỏ và nội dung biểu hiện rất hạn chế. Chúng dùng để minh
hoạ bài học, giúp học sinh tư duy địa lí gắn liền với lãnh thổ và bổ sung những
kiến thức cần thiết mà sách giáo khoa không nói hết.

10


- Atlat giáo khoa:
Atlat giáo khoa là tập bản đồ giáo khoa, là một tập hợp có hệ thống các
bản đồ địa lí, được sắp xếp một cách lôgic để phục vụ mục đích dạy học. Nó có
tính thống nhất cao về cơ sở toán học, nội dung và bố cục bản đồ. Atlat giáo
khoa được phân biệt theo sự bao trùm lãnh thổ, theo nội dung và mục đích sử
dụng. Atlat giáo khoa dùng cho giáo viên có nội dung phong phú và sâu sắc hơn
Atlat giáo khoa chuyên dùng cho học sinh. Atlat giáo khoa là một dạng Atlat

chuyên đề. Nó có đặc điểm sau:
+ Nội dung Atlat phù hợp với chương trình học tập Địa lí của các lớp học,
phù hợp với đối tượng và tiến trình giảng dạy Địa lí trong nhà trường.
+ Các bản đồ trong Atlat thường có kích thước lớn hơn các bản đồ trong
sách giáo khoa, lại sử dụng nhiều màu sắc và nội dung địa lí được thể hiện trên
nhiều trang bản đồ. Ngoài bản đồ, trong Atlat còn có nhiều biểu đồ, tranh ảnh
minh hoạ và các số liệu tra cứu. Do đó, có nội dung phong phú hơn bản đồ treo
tường và bản đồ trong sách giáo khoa. Nó phản ánh tương đối đầy đủ những đặc
điểm của lãnh thổ mà giáo viên và học sinh nghiên cứu.
- Bản đồ câm:
Bản đồ câm còn được gọi là bản đồ công tua hoặc bản đồ trống. Trên bản
đồ này thường chỉ có lưới bản đồ, đường ranh giới của các lãnh thổ, mạng lưới
thuỷ văn, các tuyến đường giao thông và các điểm dân cư quan trọng. Trên bản
đồ không ghi các địa danh. Bản đồ câm có mối quan hệ chặt chẽ với sách giáo
khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường và Atlat. Trong các loại
bản đồ trên, ngoài bản đồ giáo khoa treo tường và bản đồ trong sách giáo khoa
còn có các sơ đồ và lược đồ.
- Sơ đồ là bản đồ có độ chính xác thấp, nội dung biểu hiện đơn giản, sơ đồ
không thể sử dụng để xác định vị trí đối tượng với độ chính xác tương ứng với tỉ
lệ của nó.
- Lược đồ là bản đồ đơn giản, thường không có lưới bản đồ. Nó cho ta
khái niệm chung về các hiện tượng (sự kiện) đã được biểu hiện trên bản đồ, nêu
11


bật được những nét cơ bản của chúng. Độ chính xác của lược đồ bị giảm bớt do
nhiệm vụ đặt trước quy định, chứ không phải do tỉ lệ và đặc điểm nguồn gốc tài
liệu bản đồ. Sơ đồ và lược đồ chia làm hai loại theo đặc điểm sử dụng. Loại có
kích thước lớn treo tường ở trên lớp dùng cho giáo viên giảng dạy. Loại nhỏ
trong sách giáo khoa dùng để minh hoạ cho phần viết. Sơ đồ và lược đồ được

dùng phổ biến trong dạy học ở tiểu học vì nó phù hợp với đặc điểm của học sinh
tiểu học.
Trong số các loại bản đồ giáo khoa kể trên, các sơ đồ, lược đồ và bản đồ
trong sách giáo khoa được học sinh tiếp xúc nhiều nhất và đây cũng là thể loại
duy nhất gần như học sinh nào cũng có thể có, các em thường dùng để học ở
nhà, học ở trường. Hơn nữa thể loại này gắn bó với các bài học địa lí rất khăng
khít không thể tách rời, nó giúp học sinh tư duy địa lí gắn liền với từng lãnh thổ.
Các kiến thức địa lí được chọn lọc và trình bày trong bài học bằng ngôn ngữ
viết, còn các sơ đồ, lược đồ, bản đồ phản ánh chúng bằng ngôn ngữ bản đồ. Sự
phối hợp giữa ngôn ngữ viết và ngôn ngữ bản đồ làm cho việc phản ánh thực tế
địa lí sinh động hơn, đầy đủ hơn, giúp cho việc nhận thức thực tế địa lí dễ dàng
hơn, sâu sắc hơn. Các sơ đồ, lược đồ, bản đồ trong sách giáo khoa còn giúp cho
học sinh nhìn bao quát được các hiện tượng diễn ra trong các khoảng không gian
rộng lớn trên Trái Đất mà học sinh không thể tri giác trực tiếp được. Chúng mở
rộng khái niệm không gian cho học sinh, cho phép các em thiết lập các mối quan
hệ tương hỗ và nhân quả giữa các hiện tượng, trong các quá trình tự nhiên, kinh
tế, xã hội, phát triển tư duy lôgic, năng lực quan sát, đồng thời hình thành trong
các em thế giới quan duy vật biện chứng.
1.1.4. Vai trò của bản đồ giáo khoa và tác dụng của việc hình thành kĩ năng
sử dụng bản đồ cho học sinh
1.1.4.1. Vai trò của bản đồ giáo khoa
Bản đồ có vai trò quan trọng trong giảng dạy và học tập địa lí như nhà địa
lí Liên Xô Paolôvinkin đã nói “Không có bản đồ thì không có địa lí”. Trong
khoa học địa lí, không có công trình địa lí nào lại không có sự giúp đỡ của bản
12


đồ. Muốn nghiên cứu một khu vực các nhà địa lí phải dựa trên nghiên cứu bản
đồ, kết quả của các công trình nghiên cứu, những tri thức mới phát hiện được
tích luỹ cũng cần được thể hiện trên bản đồ.

Đối với dạy học Địa lí thì bản đồ càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Muốn
nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập địa lí càng phải sử dụng bản đồ đến
mức độ cao như là nguồn tri thức quan trọng, là ngôn ngữ thứ hai của địa lí. Bản
đồ giáo khoa có khả năng phản ánh tình hình phân bố các đối tượng địa lí trên bề
mặt Trái Đất lên bản đồ một cách cụ thể, trực quan mà không có hiện tượng nào
khác có thể thay thế được kể cả lời nói và tranh ảnh.
Bản đồ có thể biểu hiện được một cách chính xác tính chất không gian và
những mối liên hệ giữa các đối tượng địa lí phân bố trên một lãnh thổ như:
phương hướng, phạm vi, diện tích và các đối tượng địa lí,…Bản đồ còn có khả
năng biểu hiện những quá trình thay đổi hoặc phát triển của các hiện tượng địa
lí, chỉ cần so sánh hai bản đồ nói về một nội dung nhưng thời gian biên tập cách
nhau vài năm là chúng ta đã nhận ngay ra sự thay đổi rõ nét.
Về mặt sư phạm bản đồ là phương tiện giảng dạy có tác dụng giúp cho
học sinh củng cố kiến thức, ghi nhớ kiến thức lâu hơn. Nếu giáo viên sử dụng
bản đồ để truyền thụ tri thức và đúng phương pháp thì nó còn phát huy ở các em
những năng lực tư duy, so sánh, phân tích, tổng hợp, rèn luyện kĩ năng mô tả,
cũng như hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Vì vậy bản đồ có vai trò
quan trọng trong nghiên cứu, học tập địa lí.
1.1.4.2. Tác dụng của việc hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh
Bản đồ là một phương tiện trực quan không thể thiếu trong dạy và học
môn Địa lí. Tuy nhiên, bản đồ cũng như các đồ dùng, phương tiện dạy học khác,
đó chỉ là những vật vô tri vô giác, là nguồn tri thức và việc sử dụng, khai thác
các đồ dùng và phát hiện các tri thức hiệu quả ở mức độ nào thì lại tùy thuộc vào
kĩ năng sử dụng của mỗi người. Như vậy kĩ năng sử dụng bản đồ của học sinh
mới thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc học sinh học tập địa lí chứ không

13


phải là bản đồ. Cụ thể, vai trò của kĩ năng sử dụng bản đồ trong học tập địa lí

đối với học sinh lớp 4:
- Giúp học sinh biết cách khai thác thông tin, chiếm lĩnh kiến thức địa lí từ
các đối tượng địa lí thể hiện qua bản đồ một cách hiệu quả.
- Vận dụng linh hoạt trong các tình huống học tập khác nhau, trong các
bài học khác nhau khi có sử dụng tới bản đồ.
- Giúp học sinh tích cực và tự giác làm việc, ham hiểu biết, khám phá,
không thụ động, ỷ lại.
- Rèn thói quen làm việc khoa học, có hệ thống.
- Sử dụng bản đồ có hiệu quả trong đời sống. Khi giảng dạy người giáo
viên địa lí thông qua bài giảng để truyền thụ những kiến thức về khoa học bản
đồ cho học sinh. Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh chính là hình
thành cho các em khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo những tri thức đã có để
giải quyết những vấn đề của thực tế sản xuất và đời sống xã hội.
Kĩ năng được thể hiện trong học tập cũng như trong cuộc sống của mỗi
người là thước đo mức độ kiến thức của người đó, học sinh đó.
Ở lớp 4, đây là năm học đầu tiên các em chính thức được làm quen với địa
lí, bản đồ vẫn còn là một đối tượng tương đối còn mới mẻ với các em vì thế mà
việc hình thành cho các em kĩ năng sử dụng bản đồ là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa quan trọng. Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh lớp 4 tạo điều
kiện để các em học tập môn Địa lí tốt hơn, hình thành cho các em thói quen làm
việc khoa học, tích cực khám phá tri thức. Hơn nữa, hình thành kĩ năng sử dụng
bản đồ ngay từ khi các em làm quen với môn học sẽ là tiền đề chuẩn bị cho các
em rèn luyện, nâng cao kĩ năng của mình vào những lớp học kế tiếp.
Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh không chỉ có ý nghĩa đối
với các em trong môn học Địa lí, mà còn giúp các em học tập các môn học khác
tốt hơn, nhất là môn Lịch sử, Toán,… Và quan trọng hơn nữa đó là cung cấp cho
các em kĩ năng sử dụng bản đồ, ứng dụng trong cuộc sống thường ngày.

14



1.1.5. Kĩ năng sử dụng bản đồ
Trong các loại kĩ năng địa lí thì kĩ năng làm việc với bản đồ là cần thiết và
quan trọng nhất, nhờ kĩ năng sử dụng bản đồ mà học sinh có thể khai thác được
các kiến thức địa lí trên bản đồ, làm cho nó trở thành nguồn tri thức địa lí quan
trọng.
Kĩ năng sử dụng bản đồ là sự sử dụng có hiệu quả hệ thống các hoạt động
có liên quan đến bản đồ trong quá trình học tập địa lí của học sinh. Kĩ năng sử
dụng bản đồ được thể hiện ở ba mức độ: kĩ năng hiểu bản đồ, kĩ năng đọc bản
đồ, kĩ năng vận dụng bản đồ.
Muốn có kĩ năng sử dụng bản đồ trước hết học sinh phải hiểu bản đồ là
gì? Tính chất của nó ra sao? Nội dung của nó có những gì và ý nghĩa của các
cách biểu hiện các đối tượng và hiện tượng địa lí trên đó.
Đọc bản đồ là công việc ở mức độ cao hơn, ở đây học sinh phải biết kết
hợp những hiểu biết về bản đồ với những kiến thức địa lí để rút ra những nhận
xét về đặc điểm, bản chất của sự vật, hiện tượng địa lí. Nghĩa là khi nhìn vào các
quy ước, kí hiệu khái quát và cách thể hiện trên bản đồ học sinh không những
phải có biểu tượng khái niệm chính xác rõ ràng mà còn phải hiểu được cả ý
nghĩa của cách biểu hiện chúng trên bản đồ. Từ đó rút ra đặc điểm, nhận xét các
hiện tượng địa lí đó trên bản đồ. Lúc này bản đồ không như một tư liệu chết mà
nó tồn tại một cách sinh động như Buđanôp, nhà địa lí học Liên Xô đã nói: “Đọc
bản đồ tức là liên hợp các loại kí hiệu thường dùng các màu sắc trên bản đồ
thành những câu nói, hình như các sự vật địa lí bày ra trước mắt chúng ta”.
Đọc bản đồ có ba mức độ khác nhau:
- Mức thứ nhất chỉ mới thể hiện ở chỗ đọc được vị trí các đối tượng địa lí,
có được biểu tượng về các đối tượng đó thông qua hệ thống các ước hiệu ghi
trên bản chú giải.
- Mức thứ hai cao hơn, đòi hỏi học sinh phải biết dựa vào những hiểu biết
về bản đồ, kết hợp với các kiến thức địa lí để tìm ra được những đặc điểm tương
đối rõ ràng của những đối tượng địa lí biểu hiện trên bản đồ. Nói chung ở mức

15


độ này học sinh đã có thể mô tả được các đối tượng địa lí trên bản đồ với các
đặc điểm của chúng.
- Mức thứ ba đòi hỏi khi đọc bản đồ học sinh còn phải biết kết hợp những
kiến thức bản đồ với những kiến thức địa lí sâu hơn để so sánh, phân tích, tìm ra
các mối liên hệ giữa các đối tượng trên bản đồ.
Như vậy, học sinh không những phải kết hợp những kiến thức bản đồ với
những kiến thức địa lí mà còn phải nắm được những mối liên hệ giữa các đối
tượng địa lí trên bản đồ, rồi vận dụng tư duy, so sánh, đối chiếu để rút ra kết
luận, từ đó có được kiến thức địa lí mới.
Trên cơ sở hiểu và đọc bản đồ học sinh còn phải biết vận dụng các kiến thức
đó trong học tập địa lí cũng như trong cuộc sống của mỗi học sinh sau này. Đó là kĩ
năng vận dụng, kĩ năng hoàn thiện, nó có trình độ cao hơn tất cả các loại kĩ năng có
liên quan đến bản đồ. Nghĩa là từ những hiểu biết trên bản đồ học sinh rút ra những
kiến thức mới thông qua một loạt các thao tác tư duy: phân tích, tổng hợp, so
sánh,… tìm ra các đặc trưng của lãnh thổ tự nhiên, kinh tế, xã hội cũng như các
mối liên hệ tổng hợp của mỗi lãnh thổ đó.
1.1.6. Mối liên hệ giữa kiến thức bản đồ và việc hình thành kĩ năng bản đồ
cho học sinh
1.1.6.1. Con đường hình thành kĩ năng
Con đường hình thành kĩ năng tuân theo con đường nhận thức chân lí
khách quan của con người. Đó là từ trực quan đến trừu tượng rồi trở lại hoạt
động thực tiễn. Đó là việc lĩnh hội các tri thức, có các kiến thức lí thuyết sau đó
sử dụng các thao tác của tư duy để phân tích, tổng hợp và đánh giá rồi áp dụng
vào luyện tập, thực hành hình thành nên kĩ năng, kĩ xảo. Quá trình lĩnh hội tri
thức, cùng với luyện tập có chú ý chủ định giúp hình thành kĩ năng. Như vậy tri
thức xuất phát từ thực tế khách quan, và kĩ năng thì lại xuất phát từ tri thức.


16


1.1.6.2. Mối liên hệ giữa kiến thức bản đồ và việc hình thành kĩ năng bản đồ
cho học sinh
Kĩ năng xuất phát từ tri thức vậy nên muốn dạy cho học sinh các kĩ năng
hiểu, đọc và vận dụng bản đồ,… thì việc dạy các tri thức tối thiểu về bản đồ là
cần thiết.
Tri thức bản đồ sẽ giúp cho học sinh giải mã các kí hiệu bản đồ và biết
xác lập các mối quan hệ giữa chúng. Từ đó phát hiện ra các kiến thức địa lí mới
ẩn tàng trong bản đồ.
Tất nhiên, chỉ cung cấp những tri thức bản đồ thôi cũng chưa đủ, mà còn
cần phải có cả những tri thức địa lí.
Một nhà Địa lí học đã nói: Khi bản đồ là đối tượng học tập thì kiến thức,
kĩ năng bản đồ là mục đích còn khi bản đồ là nguồn tri thức thì kiến thức, kĩ
năng bản đồ trở thành phương tiện của việc khai thác tri thức địa lí mới trên bản
đồ.
Mối quan hệ này có thể biểu hiện 2 cách qua sơ đồ:
Bản đồ
Đối tượng học tập

Học sinh
Giáo viên hướng dẫn

Bản đồ
Nguồn tri thức

Kiến
thức
bản đồ


Kĩ năng
bản đồ

Học sinh
Học sinh vận dụng kiến
thức địa lí và kiến thức,
kĩ năng bản đồ

17

Tri thức địa lí mới


1.1.7. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 4 và việc hình thành kĩ năng sử dụng
bản đồ cho học sinh trong phần Địa lí lớp 4
Kết quả giảng dạy học sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc tìm hiểu đặc
điểm tâm lí của học sinh. Điều này càng đúng đơn so với lứa tuổi học sinh tiểu
học, nhất là đối với học sinh lớp 4, độ tuổi mà các nhà tâm lí cho rằng có sự
chuyển biến, thay đổi trong cả cảm tính và lí tính. Những đặc điểm tâm lí có ảnh
hưởng chi phối đến việc hình hành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh cụ thể
là:
1.1.7.1. Tri giác
Học sinh tiểu học tri giác sự vật, hiện tượng bằng các hành động cụ thể
như : nhìn, sờ, nắn, bóp, ngửi trên những đối tượng khách quan. Tri giác của học
sinh phát triển mạnh trong quá trình học ở Tiểu học và khuynh hướng phát triển
của nó là tri giác ngày càng mang tính chủ định, đi sâu vào chi tiết của sự vật
hiện tượng. Học sinh lớp 4 đã nắm được mục đích quan sát và trong quá trình
quan sát các em đã biết chú ý quan sát các chi tiết của đối tượng và đi sâu vào
chi tiết riêng rẽ, các em đã có thể tổng hợp chúng để có được một biểu tượng

hoàn chỉnh về đối tượng.
Với đặc điểm tri giác của học sinh lớp 4 đã nói trên, việc sử dụng bản đồ
trong dạy học Địa lí có vai trò quan trọng, vì bản đồ là đồ dùng trực quan mà
học sinh có thể tri giác bằng cách quan sát trực tiếp. Để học sinh có thể tri giác
một cách chủ định thì giáo viên phải nêu rõ mục đích quan sát bản đồ, yêu cầu
học sinh phải quan sát vào đối tượng địa lí nào trên bản đồ một cách cụ thể. Nếu
không yêu cầu học sinh quan sát có chủ định, đi sâu vào đối tượng cần quan sát
thì học sinh sẽ chỉ nhìn bản đồ như một bản vẽ vô tri vô giác và không thể khai
thác được tri thức bản đồ.
1.1.7.2. Khả năng chú ý
Chú ý không chủ định chiếm ưu thế trong chú ý của học sinh tiểu học.
Cùng một lúc các em không thể chú ý đến nhiều đối tượng hoặc nhiều chi tiết
18


của đối tượng. Các em chỉ chú ý vào những gì mình thích, những gì mới mẻ,
sinh động và thời gian tập trung chú ý của học sinh rất ngắn.
Với đặc điểm chú ý của học sinh lớp 4, giáo viên không nên yêu cầu học
sinh quan sát nhiều đối tượng trong cùng một lúc mà cho học sinh quan sát từng
đối tượng riêng rẽ với từng nhiệm vụ cụ thể. Tổ chức cho học sinh sử dụng bản
đồ ở nhiều hoạt động với nhiều hình thức khác nhau để tránh sự nhàm chán cho
học sinh. Bản đồ, lược đồ phục vụ việc dạy học Địa lí phải rõ ràng, đơn giản và
trong đó chủ yếu thể hiện các đối tượng địa lí cần thiết nhất.
1.1.7.3. Trí nhớ
Trí nhớ hình tượng trực quan ở học sinh tiểu học lớn hơn trí nhớ từ ngữ và
lôgic. Điều này biểu hiện ở chỗ, học sinh sẽ nhớ những gì mình được nhìn, sờ,
nắn,… hơn là những gì các em được đọc, được nghe, được tả,...Ngoài ra, thời kỳ
này ghi nhớ của các em vẫn là ghi nhớ không chủ định. Các em thường không
nhớ bản chất của đối tượng mà chỉ ghi nhớ những gì mình thích, cái được lặp lại
nhiều lần.

Những đặc điểm trên về trí nhớ của học lớp 4 cho ta thấy: Để giúp các em
có kĩ năng sử dụng bản đồ thì giáo viên cần gây hứng thú, kích thích sự tò mò và
khả năng tự tìm hiểu khai thác thông tin của các em. Muốn làm được, giáo viên
cần phải xây dựng quy trình sử dụng bản đồ một cách rõ ràng theo từng bước,
tạo điều kiện để cho các em làm việc với bản đồ nhiều hơn để các em có thể ghi
nhớ được quy trình sử dụng bản đồ như thế nào. Kiến thức mà các em khai thác
được từ bản đồ không mang tính khái quát và hệ thống vì thế sau khi học sinh
phát hiện ra tri thức thì giáo viên cần hệ thống lại vấn đề cơ bản, cho học sinh
nhắc lại nhiều lần và yêu cầu ghi nhớ.
1.1.7.4. Tưởng tượng
Đến lớp 4, các chi tiết trong hình ảnh tưởng tượng của học sinh giàu có
hơn, được sắp xếp hợp lí hơn so với các lớp đầu tiểu học. Đặc biệt đến thời kỳ
này các em đã bắt đầu có khả năng tưởng tượng dựa trên những tri giác đã có từ
trước và dựa trên ngôn ngữ.
19


Dựa vào đặc điểm này mà khi sử dụng bản đồ, khi quan sát các kí hiệu,
quy ước trên bản đồ thì học sinh có thể tưởng tượng mà mô tả được những đối
tượng sự vật thật được kí hiệu trên bản đồ, biến những kí hiệu, màu sắc, thành
những đối tượng thật sống động.
1.1.7.5. Tư duy
Tư duy của học sinh tiểu học còn mang tính trực quan cụ thể. Tuy nhiên,
đến lớp 4, học sinh đã biết phân tích đặc điểm của đối tượng để tìm ra dấu hiệu
bản chất. Ngoài ra các em còn biết khái quát các hiện tượng riêng lẻ thành nội
dung hoàn chỉnh, các em cũng đã có khả năng phán đoán giả định, biết chứng
minh và lập luận những phán đoán của mình.
Nhờ khả năng tư duy đã phát triển cao hơn ở giai đoạn đầu mà học sinh có
thể tiếp thu được những kiến thức địa lí một cách hệ thống hơn, việc sử dụng
bản đồ là nguồn tri thức để cho học sinh khai thác, tự tìm ra kiến thức cũng sẽ dễ

dàng hơn. Học sinh có thể phân tích các kí hiệu, hình vẽ, quy ước trên bản đồ,
sau đó lại khái quát những đối tượng ấy thành đặc điểm của sự vật và đưa ra
những phán đoán và suy luận của riêng mình.
1.1.8. Một số vấn đề chung của phần Địa lí trong phân môn Lịch sử - Địa lí
lớp 4
1.1.8.1. Mục tiêu dạy học của phần Địa lí lớp 4
Mục tiêu của dạy học các bài địa lí lớp 4 nhằm giúp học sinh:
Về kiến thức: Nhận biết được một số đặc điểm khái quát về tự nhiên, dân
cư và hoạt động ở các miền địa hình trên đất nước ta, cung cấp cho học sinh
những biểu tượng địa lí, bước đầu hình thành một số khái niệm cụ thể, xây dựng
một số mối quan hệ địa lí đơn giản.
Về kĩ năng:
- Bước đầu vận dụng được một số khái niệm đơn giản về bản đồ (hiểu bản
đồ, đọc bản đồ, đọc tên địa danh, một số đối tượng,…) và tranh ảnh địa lí.
- Bước đầu rèn luyện kỹ năng so sánh, phân tích số liệu, tranh ảnh, kĩ năng
phân tích các mối quan hệ đơn giản.
20


Về thái độ:
- Hình thành và phát triển ở học sinh thái độ và thói quen ham hiểu biết, yêu
thiên nhiên đất nước, con người, có ý thức và hành động bảo vệ thiên nhiên.
- Bước đầu hình thành thế giới quan khoa học cho học sinh, hạn chế những
hiểu biết sai lệch, mê tín dị đoan trước những hiện tượng địa lí tự nhiên. Vì vậy
việc dạy học địa lí không những chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức đơn
thuần mà còn phải hình thành, phát triển các năng lực tự học. Đó là những
nhiệm vụ song song và có tầm quan trọng như nhau.
1.1.8.2. Nội dung phần Địa lí lớp 4
Kiến thức địa lí ở bậc tiểu học được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu
(lớp 1, 2, 3) kiến thức môn Địa lí được tích hợp ở mức cao trong các chủ đề

khác nhau của môn Tự nhiên và Xã hội. Sang giai đoạn 2 (lớp 4, 5) Địa lí được
tách thành hai phần riêng, cụ thể nội dung địa lí lớp 4 gồm có:
- Bản đồ và cách sử dụng bản đồ nhằm giúp học sinh làm quen với một
nguồn tri thức, một phương tiện học tập rất đặc trưng của địa lí gồm các bài:
Bài 2: Làm quen với bản đồ
Bài 3: Làm quen với bản đồ (tiếp theo)
Qua nội dung này, học sinh vừa biết được ý nghĩa của bản đồ, vừa bước đầu học
cách sử dụng bản đồ trong học tập môn Địa lí.
- Thiên nhiên và con người ở các vùng khác nhau.
* Thiên nhiên và hoạt động của con người ở miền núi và trung du.
Bài 1: Dãy Hoàng Liên Sơn
Bài 2: Một số dân tộc ở Hoàng Liên Sơn
Bài 3: Hoạt động sản xuất của người dân ở Hoàng Liên Sơn
Bài 4: Trung du Bắc Bộ
Bài 5: Tây Nguyên
Bài 6: Một số dân tộc ở Tây Nguyên
Bài 7: Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên
Bài 8: Hoạt động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên (tiếp theo)
21


Bài 9: Thành phố Đà Lạt
Bài 10: Ôn tập
* Thiên nhiên và hoạt động của con người ở miền đồng bằng
Bài 11: Đồng bằng Bắc Bộ
Bài 12: Người dân ở đồng bằng Bắc Bộ
Bài 13: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ
Bài 14: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ (tiếp theo)
Bài 15: Thủ đô Hà Nội
Bài 16: Thành phố Hải Phòng

Bài 17: Đồng bằng Nam Bộ
Bài 18: Người dân ở đồng bằng Nam Bộ
Bài 19: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Nam Bộ
Bài 20: Hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng Nam Bộ (tiếp theo)
Bài 21: Thành phố Hồ Chí Minh
Bài 22: Thành phố Cần Thơ
Bài 23: Ôn tập
Bài 24: Dải đồng bằng duyên hải miền Trung
Bài 25: Người dân và hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng duyên hải
miền Trung
Bài 26: Người dân và hoạt động sản xuất của người dân ở đồng bằng duyên hải
miền Trung (tiếp theo)
Bài 27: Thành phố Huế
Bài 28 Thành phố Đà Nẵng
* Vùng biển Việt Nam
Bài 29: Biển, đảo và quần đảo
Bài 30: Khai thác khoáng sản và hải sản ở vùng biển Việt Nam
Bài 31 - 32: Ôn tập

22


1.1.8.3. Cấu trúc của một bài học Địa lí lớp 4
Cấu trúc của một bài địa lí trong sách giáo khoa như sau:
Phần cung cấp kiến thức: Gồm các thông tin từ các kênh chữ và các thông
tin từ kênh hình được khai thác qua các hoạt động học tập của học sinh (quan
sát, sử dụng các phương tiện trực quan,…)
Phần câu hỏi hoặc yêu cầu hoạt động:
+ Các câu hỏi hoặc hoạt động giữa bài nhằm gợi ý cho giáo viên tổ chức
cho học sinh làm việc với kênh hình (chủ yếu là tranh ảnh, bản đồ, biểu đồ) để

khai thác thông tin địa lí hoặc rèn luyện các kĩ năng địa lí cơ bản.
+ Các câu hỏi ở cuối bài chủ yếu là các câu hỏi tự luận nhằm giúp giáo
viên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ nhận thức so với mục tiêu bài học và củng
cố kiến thức cho học sinh.
Phần tóm tắt trọng tâm của bài được in đậm, đây còn được gọi là phần ghi
nhớ.
1.1.8.4. Bản đồ được sử dụng trong phần Địa lí lớp 4
Hình thành kĩ năng sử dụng bản đồ cho học sinh yêu cầu phải có phương
tiện là bản đồ.Các loại bản đồ phục vụ cho chương trình địa lí lớp 4 gồm:
- Bản đồ trong sách giáo khoa: Mỗi bài học trong sách giáo khoa cần biểu thị
một số đối tượng địa lí người ta thường có lược đồ tương ứng.
- Bản đồ giáo khoa treo tường: Các lược đồ trong sách giáo khoa thường rất đơn
giản, để học sinh có thể tìm hiểu được nhiều thông tin về đối tượng hơn thì giáo
viên cần sử dụng tới những bản đồ treo tường có kích thước lớn.
- Bản đồ câm: Tuỳ theo yêu cầu của bài học và việc thiết kế bài dạy của giáo
viên mà giáo viên chuẩn bị bản đồ câm tương ứng.
- Atlat địa lí: Có thể lựa chọn sử dụng một số hình bản đồ phù hợp trong cuốn
Atlat địa lí Việt Nam trong bài học.

23


×