Trường đại học sư phạm hà nội 2
KHOA GIáO Dục TIểU HọC
********************
Vũ thị lan anh
RèN LUYN K NNG T DUY SNG
TO CHO HC SINH LP 5 QUA DY
HC GII CC BI TP I LNG
V O I LNG
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Toán Tiểu học
Hà Nội - 2013
1
Trường đại học sư phạm hà nội 2
KHOA GIáO Dục TIểU HọC
********************
Vũ thị lan anh
RèN LUYN K NNG T DUY SNG
TO CHO HC SINH LP 5 QUA DY
HC GII CC BI TP I LNG
V O I LNG
Khoá luận tốt nghiệp đại học
Chuyên ngành: Toán Tiểu học
Người hướng dẫn khoa học
GV. Phạm huyền trang
Hà Nội 2013
2
Lời cảm ơn
Trong thời gian qua, ngoài sự nỗ lực của bản thân, đề tài khoá luận
được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của giảng viên
Phạm Huyền Trang. Em xin trân trọng gửi tới cô giáo lời biết ơn chân thành
và sâu sắc nhất. Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè luôn là nguồn cổ vũ
động viên để tôi thêm nghị lực hoàn thành khoá luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên khoá luận này chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót cần được góp ý, sửa chữa. Tôi xin chân thành cảm
ơn đã nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh
viên!
Hà Nội, tháng 5 năm 2013.
Sinh viên
Vũ Thị Lan Anh
3
Lời cam đoan
Em xin cam đoan đề tài Rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo cho học
sinh lớp 5 qua dạy học giải các bài tập Đại lượng và đo Đại lượng mà kết
quả mà em đã trực tiếp nghiên cứu, tìm tòi thông qua sự hướng dẫn của thầy
cô, sự giúp đỡ của bạn bè.
Trong quá trình nghiên cứu, em có sử dụng tài liệu của một số nhà
nghiên cứu, một số tác giả đã được trích dẫn đầy đủ. Tuy nhiên, đó chỉ là cơ
sở để em rút ra những vấn đề cần tìm hiểu ở đề tài của mình.
Khoá luận này là kết quả của riêng cá nhân em, không trùng với các kết
quả của các tác giả khác. Những điều em nói ở trên là hoàn toàn đúng sự thật.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Vũ Thị Lan Anh
4
Mục lục
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mở đầu .......................................................................................................... 1
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn ..................................... 7
1.1 Cơ sở lí luận................................................................................................. 7
1.1.1 Tư duy....................................................................................................... 7
1.1.2. Tư duy sáng tạo ....................................................................................... 8
1.1.3. Một số yếu tố đặc trưng của tư duy sáng tạo......................................... 11
1.1.4. Vận dụng tư duy biện chứng để phát triển tư duy sáng tạo cho HS. ..... 16
1.1.5. Cần thiết phải phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh ngay từ bậc Tiểu
học. .................................................................................................................. 17
1.1.6. Tiềm năng của đại lượng trong việc rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo
cho học sinh .................................................................................................... 19
1.2. Cở sở thực tiễn. ......................................................................................... 21
1.2.1. Thực trạng rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh lớp 5 thông qua dạy
học Đại lượng và đo đại lượng ở trường Tiểu học Ngô Quyền. ...................... 21
1.2.2. Nhận xét, đánh giá. ............................................................................... 22
Kết luận chương 1 ........................................................................................... 23
CHNG 2. MT S VN DY HC GII BI TP I
LNG THEO NH HNG BI DNG T DUY SNG TO
CHO HC SINH ...............................................................................25
2.1. Vn 1: Tng quan chng trỡnh i lng lp 5 ............................... 25
2.2. Vn 2: Cỏc dng bi tp v cỏch thc hin cỏc dng bi tp v i
lng lp 5. .................................................................................................. 26
5
2.3. Vn 3: Khuyn khớch hc sinh tỡm ra nhiu cỏch gii trong mt bi
toỏn. ............................................................................................................. 37
2.4. Vn 4: Xõy dng h thng cỏc bi toỏn giỳp hc sinh luyn tp ...... 39
Kt lun chng 2 ........................................................................................ 46
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm................................................. 47
3.1. Mục đích thực nghiệm.............................................................................. 47
3.2. Nội dung thực nghiệm .............................................................................. 47
3.3. Chuẩn bị thực nghiệm .............................................................................. 47
3.4. Tổ chức thực nghiệm ................................................................................ 48
Kết luận .................................................................................................... 53
Tài liệu tham khảo ............................................................................ 54
Phụ lục
6
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Thế giới ngày nay đang thay đổi theo một tốc độ luỹ thừa. Nhằm đáp
ứng được những thay đổi nhanh chóng đó trong khoa học, công nghệ, truyền
thông, chúng ta không những dựa trên các giải pháp của quá khứ mà còn phải
tin tưởng vào những quá trình giải quyết các vấn đề mới. Điều này không chỉ
hàm ý nói đến những kỹ thuật mới mà còn nói đến mục tiêu giáo dục. Mục
tiêu của giáo dục phải là phát triển một xã hội trong đó con người có thể sống
thoải mái với sự thay đổi hơn là sự xơ cứng. Vì thế bắt buộc bản thân các nhà
giáo dục phải vừa giữ gìn, lưu truyền tri thức và các giá trị của quá khứ vừa
chuẩn bị cho một tương lai mà ta chưa biết rõ.
Hơn nữa, Toán học có liên quan chặt chẽ với thực tế và có ứng dụng
rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học, công nghệ, sản xuất và
đời sống xã hội hiện đại. Nó thúc đẩy mạnh mẽ các quá trình tự động hoá sản
xuất, trở thành công cụ thiết yếu cho mọi ngành khoa học và được coi là chìa
khoá của sự phát triển.
Không những thế, xuất phát từ những yêu cầu xã hội đối với sự phát
triển nhân cách của thế hệ trẻ, từ những đặc điểm của nội dung mới và từ bản
chất của quá trình học tập buộc chúng ta phải đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh. Việc học tập tự giác tích
cực, chủ động và sáng tạo đòi hỏi học sinh phải có ý thức về những mục tiêu
đặt ra và tạo được động lực trong thúc đẩy bản thân họ tư duy để đạt được mục
tiêu đó. Trong việc rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ở trường Tiểu học,
môn Toán đóng vai trò rất quan trọng. Nội dung giảng dạy của Tiểu học luôn
gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống. Mỗi môn học ở Tiểu
học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Các
kiến thức, kỹ năng của môn Toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học
1
sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới
hiện thực. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó
đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung,
phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh
nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước.
Không chỉ có vậy, trong các môn học, môn Toán là môn có vị trí rất
quan trọng. Nó góp phần quan trọng trong việc rèn luyện tư duy, phương pháp
giải quyết vấn đề... Việc giúp học sinh hình thành kiến thức và rèn luyện kĩ
năng về môn Toán có tầm quan trọng đáng kể vì điều đó giúp các em định
hướng trong không gian, gắn liền việc học tập với cuộc sống xung quanh và
hỗ trợ học sinh học tập tốt các môn học khác như: mĩ thuật, tập viết, TNXH,
thủ công. Mặt khác chương trình toán 5 có vị trí đặc biệt quan trọng trong
chương trình toán Tiểu học. Nếu coi Toán 4 là sự mở đầu thì Toán 5 là sự phát
triển tiếp theo và ở mức cao hơn, hoàn thiện hơn ở mức sâu hơn, trừu tượng
và khái quát hơn, tường minh hơn so với giai đoạn các lớp 1, 2, 3. Do đó, cơ
hội hình thành và phát triển các năng lực tư duy, trí tưởng tượng không
gian, khả năng diễn đạt (bằng ngôn ngữ nói và viết ở dạng khái quát và trừu
tượng) cho HS sẽ nhiều hơn, phong phú hơn và vững chắc hơn so với các lớp
trước. Như vậy, Toán 5 sẽ giúp HS đạt được những mục tiêu dạy học Toán
không chỉ ở Toán 5 mà toàn cấp Tiểu học.
Không những vậy, trong các kiến thức của môn Toán thì phần Đại
lượng và đo đại lượng là kiến thức khó dạy vì tri thức khoa học về Đại lượng
và đo Đại lượng và tri thức môn học được trình bày có khoảng cách... Đối với
nội dung giảng dạy về đo lường các em đã được làm quen từ lớp 1 và hoàn
chỉnh ở lớp 5. Các bài tập về chuyển đổi đơn vị đo lường mang tính khái quát
cao, nó là một thuộc tính trừu tượng của các sự vật và hiện tượng. Đó là một
trong những bài tập có tác dụng rèn luyện tư duy tốt.
2
1.2. Cơ sở thực tiễn
Thực tế trong quá trình giảng dạy đổi các đơn vị đo lường tôi thấy có
đầy đủ các dạng: đổi từ đơn vị nhỏ sang đơn vị lớn và ngược lại rồi đổi từ danh
số đơn sang danh số phức và ngược lại v.v. Đối với lứa tuổi Tiểu học, hoạt
động nhận thức chủ yếu dựa vào hình dạng bên ngoài, chưa nhận thức rõ
thuộc tính đặc trưng của sự vật. Do đó, học sinh rất khó khăn trong việc nhận
thức Đại lượng.
Bên cạnh đó, việc dạy học giải các dạng toán về Đại lượng trong thực
tế nhiều giáo viên còn lúng túng, chưa nắm vững kiến thức khoa học của tuyến
kiến thức này, chưa khai thác được quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức
môn học. Học sinh còn hay nhầm lẫn trong quá trình luyện tập nên hiệu quả
học tập chưa cao mà đặc biệt các bài tập về chuyển đổi đơn vị đo lường lại có
hiệu quả cao trong việc rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh Tiểu học. Hơn
thế nữa, vấn đề rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo cho học sinh đã được nhiều
tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Với tác phẩm "Sáng tạo toán
học" nổi tiếng, nhà toán học kiêm tâm lý học G.Polya đã nghiên cứu bản chất
của quá trình giải toán, quá trình sáng tạo toán học. Đồng thời trong tác phẩm
"Tâm lý năng lực toán học của học sinh",
Krutecxiki đã nghiên cứu cấu trúc năng lực toán học của học sinh. ở
nước ta, các tác giả Hoàng Chúng, Nguyễn Cảnh Toàn, Phạm Văn Hoàn,
Nguyễn Bá Kim, Vũ Dương Thụy, Tôn Thân, Phạm Gia Đức, đã có nhiều
công trình giải quyết những vấn đề về lý luận và thực tiễn việc phát triển tư
duy sáng tạo cho học sinh. Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo
trong hoạt động dạy học Toán được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy
nhiên, việc rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo thông qua dạy giải các bài tập
Đại lượng và đo Đại lượng ở Tiểu học thì các tác giả chưa khai thác và đi sâu
vào nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu là: "Rèn luyện kĩ
năng tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 qua dạy học giải các bài tập Đại
lượng v đo Đại lượng.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khoá luận này là nghiên cứu và đề xuất một số vấn đề
nhằm góp phần rèn luyện yếu tố tư duy sáng tạo cho học sinh lớp 5 qua dạy
học giải bài tập Đại lượng và đo Đại lượng.
3. GIả THUYếT KHOA HọC
Nếu dạy học Đại lượng và đo Đại lượng theo định hướng bồi dưỡng tư
duy sáng tạo cho học sinh thì có thể góp phần đổi mới phương pháp dạy học
trong giai đoạn hiện nay và nâng cao chất lượng dạy học Toán ở trường Tiểu học.
4. NHIệM Vụ NGHIÊN CứU
5. KHáCH THể Và ĐốI TƯợNG NGHIÊN CứU
5.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học giải các bài tập Đại lượng
lớp 5.
5.2. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tư duy của học sinh lớp 5 trong
quá trình giải các bài tập về Đại lượng và một số biện pháp nhằm rèn luyện kĩ
năng tư duy sáng tạo cho học sinh thông qua hệ thống các bài tập Đại lượng
lớp 5.
6. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
6.1. Nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu về giáo dục học môn Toán, tâm lý học, lý luận
dạy học môn Toán.
- Các sách báo, các bài viết về khoa học Toán phục vụ cho đề tài.
- Các công trình nghiên cứu có các vấn đề liên quan trực tiếp đến đề tài.
6.2. Quan sát
- Dự giờ, quan sát việc dạy học của giáo viên và việc học của học sinh
trong quá trình khai thác các bài tập sách giáo khoa.
6.3. Thực nghiệm sư phạm
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm với lớp học thực nghiệm và lớp học
đối chứng trên cùng một lớp đối tượng.
4
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Tư duy
Hiện thực xung quanh có nhiều cái mà con người chưa biết. Nhiệm vụ
của cuộc sống và hoạt động thực tiễn luôn đòi hỏi con người phải hiểu biết cái
chưa biết đó ngày một sâu sắc, đúng đắn và chính xác hơn, phải vạch ra những
cái bản chất và những quy luật tác động của chúng. Quá trình nhận thức đó
gọi là tư duy.
Tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính, bản chất
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật hiện tượng trong
hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết (theo tâm lý học đại cương Nguyễn Quang Cẩn)
Theo từ điển triết học: "Tư duy, sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ
chức một cách đặc biệt là bộ não, là quá trình phản ánh tích cực thế giới khách
quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận. Tư duy xuất hiện trong quá
trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và đảm bảo phản ánh thực tại
một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật. Tư duy chỉ tồn
tại trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và lời nói, là
hoạt động chỉ tiêu biểu cho xã hội loài người cho nên tư duy của con người
được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với lời nói và những kết quả của tư
duy được ghi nhận trong ngôn ngữ. Tiêu biểu cho tư duy là những quá trình
như trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, việc nêu lên là những vấn đề nhất
định và tìm cách giải quyết chung, việc đề xuất những giả thiết, những ý niệm.
Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ nào đó".
Từ đó ta có thể rút ta những đặc điểm cơ bản của tư duy :
5
- Tư duy là sản phẩm của bộ não con người và là một quá trình phản
ánh tích cực thế giới khách quan
- Kết quả của quá trình tư duy bao giờ cũng là một ý nghĩ và được thể
hiện qua ngôn ngữ
- Bản chất của tư duy là ở sự phân biệt, sự tồn tại độc lập của đối tượng
được phản ánh với hình ảnh nhận thức được qua khả năng hoạt động của con
người nhằm phản ánh đối tượng
- Tư duy là quá trình phát triển năng động và sáng tạo
- Khách thể trong tư duy được phản ánh với nhiều mức độ khác nhau từ
thuộc tính này đến thuộc tính khác, nó phụ thuộc vào chủ thể là con người
1.1.2. Tư duy sáng tạo
Theo định nghĩa trong từ điển thì sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải
quyết vấn đề mới không bị gò bó và phụ thuộc vào cái đã có. Nội dung của
sáng tạo gồm hai ý chính có tính mới (khác cái cũ, cái đã biết) và có lợi ích
(giá trị hơn cái cũ). Như vậy, sự sáng tạo cần thiết cho bất kỳ hoạt động nào
của xã hội loài người. Sáng tạo thường được nghiên cứu trên nhiều phương
diện như là một quá trình phát sinh cái mới trên nền tảng cái cũ, như một kiểu
tư duy, như là một năng lực của con người.
Các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về tư duy sáng
tạo. Theo Nguyễn Bá Kim: "Tính linh hoạt, tính dộc lập và tính phê phán là
những điều kiện cần thiết của tư duy sáng tạo, là những đặc điểm về những
mặt khác nhau của tư duy sáng tạo. Tính sáng tạo của tư duy thể hiện rõ nét ở
khả năng tạo ra cái mới, phát hiện vấn đề mới, tìm ra hướng đi mới, tạo ra kết
quả mới. Nhấn mạnh cái mới không có nghĩa là coi nhẹ cái cũ" (Nguyễn Bá
Kim - Phương pháp dạy học bộ môn Toán)
Theo Tôn Thân quan niệm: "Tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc lập
tạo ra ý tưởng mới, độc đáo, có hiệu quả giải quyết vấn đề cao". Và theo tác
giả "Tư duy sáng tạo là tư duy độc lập và nó không bị gò bó phụ thuộc vào cái
6
đã có. Tính độc lập của nó bộc lộ vừa trong việc đặt mục đích vừa trong việc
tìm giải pháp. Mỗi sản phẩm của tư duy sáng tạo đều mang rất đậm dấu ấn
của mỗi cá nhân đã tạo ra nó. (Tôn Thân - Xây dựng hệ thống câu hỏi và bài
tập nhằm bồi dưỡng một số yếu tố của tư duy sáng tạo cho học sinh khá và
giỏi Toán ở trường THCS Việt Nam, luận án phó Tiến sỹ khoa học sư phạm Tâm lý, Viện khoa học giáo dục Hà Nội)
Nhà tâm lý học người Đức Mehlhow cho rằng "Tư duy sáng tạo là hạt
nhân của sự sáng tạo cá nhân, đồng thời là mục tiêu cơ bản của giáo dục"
Theo ông, tư duy sáng tạo được đặc trưng bởi mức độ cao của chất lượng, hoạt
động trí tuệ như tính mềm dẻo, tính nhạy cảm, tính kế hoạch, tính chính xác.
Trong khi đó, J.DanTon lại cho rằng "Tư duy sáng tạo đó là những năng lực
tìm thấy những ý nghĩa mới, tìm thấy những mối quan hệ, là một chức năng
của kiến thức, trí tưởng tượng và sự đánh giá, là một quá trình, một cách dạy
và học bao gồm những chuỗi phiêu lưu, chứa đựng những điều như: sự khám
phá, sự phát sinh, sự đổi mới, trí tưởng tượng, sự thí nghiệm, sự thám hiểm".
Trong cuốn: "Sáng tạo Toán học", G.Polya cho rằng: "Một tư duy gọi là
có hiệu quả nếu tư duy đó dẫn đến lời giải một bài toán cụ thể nào đó. Có thể
coi là sáng tạo nếu tư duy đó tạo ra những tư liệu, phương tiện giải các bài
toán sau này. Các bài toán vận dụng những tư liệu phương tiện này có số
lượng càng lớn, có dạng muôn màu muôn vẻ thì mức độ sáng tạo của tư duy
càng cao. Thí dụ: lúc những cố gắng của người giải vạch ra được các phương
thức giải áp dụng cho những bài toán khác. Việc làm của người giải có thể là
sáng tạo một cách gián tiếp, chẳng hạn, lúc ta để lại một bài toán tuy không
giải được nhưng tốt vì đã gợi ra cho người khác những suy nghĩ có hiệu quả".
Tác giả Trần Thúc Trình đã cụ thể hóa sự sáng tạo với người học Toán:
"Đối với người học Toán, có thể quan niệm sự sáng tạo đối với họ, nếu họ
đương đầu với những vấn đề đó, để tự mình thu nhận được cái mới mà họ chưa
từng biết. Như vậy, một bài tập cũng được xem như là mang yếu tố sáng tạo
7
nếu các thao tác giải nó không bị những mệnh lệnh nào đó chi phối (từng phần
hay hoàn toàn), tức là nếu người giải chưa biết trước thuật toán để giải và phải
tiến hành tìm hiểu những bước đi chưa biết trước. Nhà trường phổ thông có thể
chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng hoạt động sáng tạo theo nội dung vừa trình bày.
Theo định nghĩa thông thường và phổ biến nhất của tư duy sáng tạo thì
đó là tư duy sáng tạo ra cái mới. Thật vậy, tư duy sáng tạo dẫn đến những tri
thức mới về thế giới về các phương thức hoạt động. Lene đã chỉ ra các thuộc
tính sau đây của tư duy sáng tạo:
- Có sự tự lực chuyển các tri thức và kỹ năng sang một tình huống sáng tạo
- Nhìn thấy những vấn đề mới trong điều kiện quen biết "đúng quy cách"
- Nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết
- Nhìn thấy cấu tạo của đối tượng đang nghiên cứu
- Kỹ năng nhìn thấy nhiều lời giải, nhiều cách nhìn đối với việc tìm hiểu
lời giải (khả năng xem xét đối tượng ở những phương thức đã biết thành một
phương thức mới)
- Kỹ năng sáng tạo một phương pháp giải độc đáo tuy đã biết nhưng
phương thức khác (Lene, Dạy học nêu vấn đề, NXBGD 1977)
Tư duy sáng tạo là tư duy tích cực và tư duy độc lập nhưng không phải
trong tư duy tích cực đều là tư duy độc lập và không phải trong tư duy độc lập
đều là tư duy sáng tạo và có thể biểu hiện mối quan hệ giữa các khái niệm
dưới dạng vòng trong đồng tâm
Tư duy tích cực
Tư duy độc lập
Tư duy sáng tạo
8
Có thể nói đến tư duy sáng tạo khi học sinh tự khám phá, tự tìm cách
chứng minh mà học sinh đó chưa biết đến. Bắt đầu từ tình huống gợi vấn đề,
tư duy sáng tạo giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong tình huống đó với hiệu quả
cao, thể hiện ở tính hợp lý, tiết kiệm, tính khả thi và cả ở vẻ đẹp của giải pháp.
Nói chung, tư duy sáng tạo là một dạng tư duy độc lập, tạo ra ý tưởng
mới độc đáo và có hiệu quả giải quyết vấn đề cao.
1.1.3. Một số yếu tố đặc trưng của tư duy sáng tạo
Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học, về cấu trúc
của tư duy sáng tạo, có năm đặc trưng cơ bản sau:
- Tính mềm dẻo
- Tính nhuần nhuyễn
- Tính độc đáo
- Tính hoàn thiện
- Tính nhạy cảm vấn đề
1.1.3.1. Tính mềm dẻo
Tính mềm dẻo của tư duy là năng lực dễ dàng đi từ hoạt động trí tuệ này
sang hoạt động trí tuệ khác, từ thao tác tư duy này sang thao tác tư duy khác.
Nó vận dụng linh hoạt các hoạt động phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng
hoá, khái quát hóa, cụ thể hoá và các phương pháp suy luận như: quy nạp, suy
diễn, tương tự, dễ dàng chuyển từ giải pháp này sang giải pháp khác, điều
chỉnh kịp thời hướng suy nghĩ khi gặp trở ngại.
Tính mềm dẻo của tư duy còn là năng lực thay đổi dễ dàng, nhanh
chóng trật tự của hệ thống tri thức chuyển từ góc độ quan niệm này sang góc
độ quan niệm khác, định nghĩa lại sự vật, hiện tượng, gạt bỏ sơ đồ tư duy có
sẵn và xây dựng phương pháp tư duy mới. Nó tạo ra sự vật mới trong những
quan hệ mới, hoặc chuyển đổi quan hệ, nhận ra bản chất sự vật và điều phán
đoán. Suy nghĩ không rập khuôn, không áp dụng một cách máy móc các kiến
thức kỹ năng đã có sẵn vào hoàn cảnh mới, điều kiện mới, trong đó có những
yếu tố đã thay đổi, có khả năng thoát khỏi ảnh hưởng kìm hãm của những
9
kinh nghiệm, những phương pháp, những cách suy nghĩ đã có từ trước. Đó là
nhận ra vấn đề mới trong điều kiện quen thuộc, nhìn thấy chức năng mới của
đối tượng quen biết.
Ví dụ: Một bếp ăn tập thể cần lấy ở kho ra 6 kg gạo để nấu cơm nhưng
chỉ có một cái cân có hai đĩa và một quả cân 1 kg. Hỏi người đầu bếp phải làm
thế nào để với số lần cân ít nhất lấy đựoc số gạo đó?
Khi học sinh giải bài toán này các em phải dựa vào các dữ kiện có trong
bài cùng với vốn kinh nghiệm của bản thân để suy luận, lập luận tìm cách lấy
6 kg gạo từ trong kho với số lần cân ít nhất. HS suy nghĩ và bắt đầu thử thách
cách cân khác nhau. Qua các lần cân như vậy, HS sẽ chuyển từ cách suy luận
này sang cách suy luận khác. Ngoài ra, cách giải dạng toán này cũng không
tuân theo một khuôn mẫu nào cả, giúp các em chống lối suy nghĩ rập khuôn,
máy móc.
Như vậy, tính mềm dẻo là một trong những đặc điểm cơ bản của tư duy
sáng tạo. Do đó, để rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh ta có thể cho các
em giải các bài tập mà thông qua đó rèn luyện được tính mềm dẻo của tư duy.
Để bồi dưỡng, rèn luyện tính mềm dẻo của tư duy sáng tạo cho HS thì trong
quá trình dạy học Đại lượng và đo đại lượng, cần chú ý rèn luyện các thao tác
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá, cụ thể hoá và các phương
pháp suy luận như quy nạp, suy diễn, tương tự nhằm giúp học sinh dễ dàng
chuyển từ hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác. Bên cạnh đó cần
đưa ra các dạng toán có nhiều cách giải, hoặc các bài toán không theo mẫu
nhằm rèn cho HS kỹ năng dễ dàng chuyển từ giải pháp này sang giải pháp
khác. Một số nội dung trong mạch Đại lượng và đo đại lượng chiếm ưu thế
trong việc rèn luyện loại hình tư duy này như: khối lượng, thời gian, tiền Việt
Nam, dung tích, độ dài.
1.1.3.2. Tính nhuần nhuyễn
Tính nhuần nhuyễn của tư duy thể hiện ở năng lực tạo ra một cách
nhanh chóng sự tổ hợp giữa các yếu tố riêng lẻ của các hình huống, hoàn
10
cảnh, đưa ra giả thuyết mới. Các nhà tâm lý học rất coi trọng yếu tố chất lượng
của ý tưởng sinh ra, lấy đó làm tiêu chí để đánh giá sáng tạo.
Tính nhuần nhuyễn được đặc trưng bởi khả năng tạo ra một số lượng
nhất định các ý tưởng. Số ý tưởng nghĩ ra càng nhiều thì càng có nhiều khả
năng xuất hiện ý tưởng độc đáo, trong trường hợp này số lượng làm nảy sinh
ra chất lượng. Tính nhuần nhuyễn còn thể hiện rõ nét ở 2 đặc trưng sau:
- Một là tính đa dạng của các cách xử lý khi giải toán, khả năng tìm
được nhiều giải pháp trên nhiều góc độ và tình huống khác nhau. Đứng trước
một vấn đề phải giải quyết, người có tư duy nhuần nhuyễn nhanh chóng tìm và
đề xuất được nhiều phương án khác nhau và từ đó tìm được phương án tối ưu.
- Hai là khả năng xem xét đối tượng dưới nhiều khía cạnh khác nhau; có
cái nhìn sinh động từ nhiều phía đối với các sự vật hiện tượng chứ không phải
là cái nhìn bất biến, phiến diện, cứng nhắc.
Trong dạy học Đại lượng và đo Đại lượng để rèn luyện tính nhuần
nhuyễn của tư duy sáng tạo cho HS cần phải rèn luyện cho HS kỹ năng xử lí
khi giải toán một cách đa dạng, tìm được nhiều giải pháp trên nhiều góc độ
khác nhau. GV có thể khai thác các dạng bài tập này thông qua một số nội
dung trong mạch Đại lượng và đo Đại lượng như: khối lượng, thời gian, tiền
Việt Nam, dung tích...
1.1.3.3. Tính độc đáo
Tính độc đáo của tư duy được đặc trưng bởi các khả năng:
- Khả năng tìm ra những hiện tượng và những kết hợp mới
- Khả năng nhìn ra những mối liên hệ trong những sự kiện mà bên ngoài
liên tưởng như không có liên hệ với nhau
- Khả năng tìm ra những giải pháp lạ tuy đã biết những giải pháp khác
Các yếu tố cơ bản trên không tách rời nhau mà trái lại chúng có quan hệ
mật thiết với nhau, hỗ trợ bổ sung cho nhau. Khả năng dễ dàng chuyển từ
hoạt động trí tuệ này sang hoạt động trí tuệ khác (tính mềm dẻo) tạo điều kiện
11
cho việc tìm được nhiều giải pháp trên nhiều góc độ và tình huống khác nhau
(tính nhuần nhuyễn). Nhờ đó, đề xuất được nhiều phương án khác nhau mà có
thể tìm được giải pháp lạ, đặc sắc (tính độc đáo). Các yếu tố này có quan hệ
khăng khít với các yếu tố khác như: tính chính xác, tính hoàn thiện, tính nhạy
cảm vấn đề. Tất cả các yếu tố đặc trưng nói trên cùng góp phần tạo nên tư duy
sáng tạo, đỉnh cao nhất trong các hoạt động trí tuệ của con người.
Ví dụ: Có 1 cái cân đĩa và 1 quả cân 200g. Làm thế nào để lấy ra được
2,2 kg gạo từ 1 túi gạo có 9kg với số lần cân ít nhất?
1.1.3.4. Tính hoàn thiện
Tính hoàn thiện là khả năng lập kế hoạch, phối hợp các ý nghĩa và hành
động, phát triển ý tưởng, kiểm tra và kiểm chứng ý tưởng.
1.1.3.5. Tính nhạy cảm vấn đề
Tính nhạy cảm vấn đề có các đặc trưng sau:
- Khả năng nhanh chóng phát hiện vấn đề
- Khả năng phát hiện ra mâu thuẫn, sai lầm, thiếu logic, chưa tối ưu từ
đó có nhu cầu cấu trúc lại, tạo ra cái mới
Các yếu tố cơ bản của tư duy sáng tạo nêu trên đã biểu hiện khá rõ ở
học sinh nói chung và đặc biệt rõ nét đối với học sinh khá giỏi. Trong học tập
Toán mà cụ thể là trong hoạt động giải toán, các em đã biết di chuyển, thay
đổi các hoạt động trí tuệ, biết sử dụng xen kẽ phân tích và tổng hợp, dùng
phân tích trong khi tìm tòi lời giải và dùng tổng hợp để trình bày lời giải. ở
học sinh khá và giỏi cũng có sự biểu hiện các yếu tố đặc trưng của tư duy sáng
tạo. Điều quan trọng là người giáo viên phải có phương pháp dạy học thích
hợp để có thể bồi dưỡng và phát triển tốt hơn năng lực sáng tạo ở các em
1.1.3.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo
Nhu cầu của tư duy sáng tạo không chỉ do đòi hỏi của tương lai mà còn
do nhu cầu hiện tại. Các trường học tốt nhất là các trường dạy học sinh khám
phá, thử thách còn gia đình cũng là những kích thích tố cho học sinh phát triển
tư duy sáng tạo. Vậy tư duy sáng tạo là gì? Sự sáng tạo được coi như một
12
thuộc tính đặc biệt và tương đối huyền bí. Các nhà nghiên cứu đã gắn thuộc
tính này vào một trong bốn thuộc tính của tư duy sáng tạo:
- ý tưởng hay sản phẩm của tư duy sáng tạo
- Quá trình sáng tạo
- Người sáng tạo
- Môi trường sáng tạo
1.1.3.7 Quá trình sáng tạo
ở lĩnh vực quá trình sáng tạo, khuyến khích quá trình sáng tạo quan
trọng hơn là giải pháp hay kết quả cuối cùng. Các bước của quá trình sáng tạo
được tổng kết ở 5 giai đoạn sau:
1. Kích thích: Những kích thích tư duy sáng tạo bắt nguồn từ tính tò mò
hay thắc mắc và thích hỏi.
2. Khám phá: Tư duy sáng tạo căn cứ vào những điều đã biết để biết để
tìm ra những điều chưa biết. Trẻ em cần được giúp đỡ và hướng dẫn để trẻ có
khả năng khám phá, đôi khi phải xem xét lại từ đầu tất cả những gì mà các em
đã tiếp nhận một cách tự nhiên. Có nhiều nguyên tắc và kỹ năng có thể sử
dụng cho khám phá như:
- Đa dạng hoá tư duy
- Có xét đoán khác nhau
- Phát huy nỗ lực
- Bố trí thời gian
- Khích lệ tham gia
3. Lập kế hoạch: Giai đoạn này liên quan đến ba bộ phận thường đan
xen nhau:
- Xác định vấn đề hay nhiệm vụ
- Thu thập thông tin
- Làm cho sự vật xuất hiện rõ ràng
13
4. Hoạt động: Quá trình sáng tạo bắt đầu từ một ý tưởng hay một loạt ý
tưởng. Chúng ta cần tạo điều kiện để trẻ em hiện thực hoá tư duy sáng tạo
bằng các hoạt động.
5. Tổng kết: Khi một ý tưởng đã thực hiện hoá, một vấn đề đã được giải
quyết, một khám phá đã kết thúc thì tiếp đó là việc đánh giá và tổng kết bằng
những câu hỏi: Chúng ta đã làm gì? Chúng ta đã đạt được mục đích chưa?...
Các giai đoạn này có thể đan xen nhau và trẻ em có thể bắt đầu hoặc kết
thúc ở bất kỳ giai đoạn nào.
1.1.4. Vận dụng tư duy biện chứng để phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh.
Tư duy biện chứng có thể phản ánh đúng đắn thế giới xung quanh và
nhiệm vụ của người thầy giáo là rèn luyện cho học sinh năng lực xem xét các
đối tượng và hiện tượng trong sự vận động, trong những mối liên hệ, mối mâu
thuẫn và trong sự phát triển.
Bên cạnh đó, tư duy biện chứng rất quan trọng, nó là cái giúp ta phát
hiện vấn đề và định hướng tìm tòi cách giải quyết vấn đề, nó giúp ta củng cố
lòng tin khi trong việc tìm tòi tạm thời gặp thất bại. Những khi đó ta vẫn vững
lòng tin rằng rồi sẽ có ngày thành công và hướng tìm đến thành công là cố
nhìn cho được mỗi khái niệm Toán học theo nhiều cách khác nhau, càng
nhiều càng tốt.
Cùng với tư duy biện chứng, tư duy sáng tạo là loại hình tư duy đặc
trưng bởi hoạt động và suy nghĩ nhận thức mà những hoạt động nhận thức ấy
luôn theo một phương diện mới, giải quyết vấn đề theo cách mới, vận dụng
trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới, xem xét sự vật hiện tượng, về mối quan
hệ theo một cách mới có ý nghĩa, có giá trị. Muốn đạt được điều đó, khi xem
xét vấn đề nào đó, chúng ta phải xem xét từ chính bản thân nó, nhìn nó dưới
nhiều khía cạnh khác nhau, đặt nó vào những hoàn cảnh khác nhau, như thế
mới giải quyết vấn đề một cách sáng tạo được. Mặt khác, tư duy biện chứng
đã chỉ rõ là khi xem xét sự vật phải xem xét một cách đầy đủ với tất cả tính
14
phức tạp của nó, tức là phải xem xét sự vật trong tất cả các mặt, các mối quan
hệ trong tổng thể, những mối quan hệ phong phú, phức tạp và muôn vẻ của nó
với các sự vật khác. Đây là cơ sở để học sinh học Toán một cách sáng tạo,
không gò bó, đưa ra được nhiều cách giải khác nhau. Điều đó có nghĩa là
chúng ta phải rèn luyện tư duy biện chứng cho học sinh hay nói cách khác là
rèn luyện tư duy biện chứng cho học sinh từ đó có thể rèn luyện được tư duy
sáng tạo cho học sinh.
1.1.5. Cần thiết phải phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh ngay từ cấp
Tiểu học
Theo Luật Giáo dục 2005, những mục tiêu cơ bản của bậc học phổ
thông nói chung, bậc học Tiểu học nói riêng là hình thành và phát triển được
nền tảng tư duy của con người trong thời đại mới, bao gồm: Những kiến thức
và kĩ năng cơ bản như: đọc, viết, tính toán và những kiến thức cơ bản của các
môn học trong nhà trường phổ thông; những kĩ năng tư duy và hoạt động sáng
tạo như: biết cách suy luận, phát hiện và giải quyết vấn đề, biết cách học và tự
học, có tư duy phê phán, tư duy sáng tạo,...; phẩm chất và nhân cách con
người mới như: có bản lĩnh, có ý thức và tinh thần trách nhiệm, trung thực,
biết tự quản lý và làm chủ bản thân, có đời sống nội tâm phong phú, có nhân
cách cao cả... Trong đó, mục tiêu phát triển năng lực giải quyết vấn đề, tư duy
sáng tạo ở người học được vô cùng coi trọng. Điều này thể hiện trong nhà
trường chính là thông qua dạy kiến thức để hình thành và phát triển năng lực
tư duy, phát triển trí tuệ, tư duy sáng tạo và các phẩm chất nhân cách khác của
học sinh. Như vậy, thông qua dạy và học để tạo nền móng trí tuệ, cách thức
giải quyết vấn đề, hoạt động sáng tạo ở người học được xem như một trong
những mục tiêu cơ bản, trọng tâm của giáo dục ở nhà trường phổ thông nói
chung, nhà trường Tiểu học nói riêng trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước hiện nay.
15
Phát triển tư duy sáng tạo cho học sinh cũng chính là đỏi hỏi của chính
bản thân học sinh để có thể có cơ hội học tập tốt hơn, được thừa nhận và tôn
trọng, có điều kiện tốt hơn để thành công. Có tư duy sáng tạo là điều kiện tiên
quyết giúp học sinh có cái nhìn phê phán, biện chứng đối với mọi vấn đề để từ
đó có những giải pháp thích hợp, thông minh, hiệu quả hơn.
Ngoài ra, để phát triển nhân cách toàn diện đòi hỏi cần thiết phải hình
thành tư duy sáng tạo cho học sinh. Trong hoạt động tích cực của bản thân, thì
nhân cách, một cấu trúc gồm đức và tài, năng lực và phẩm chất, trong đó năng
lực sáng tạo chính là yếu tố không thể thiếu của cả năng lực và phẩm chất của
một nhân cách toàn diện. Như vậy, có khả năng tư duy sáng tạo sẽ giúp học
sinh luôn biết điều chỉnh mình (có kĩ năng kiềm chế cảm xúc, kĩ năng giải
quyết mâu thuẫn, tránh xung đột,...) để luôn có trạng thái tâm lý tốt, từ đó
luôn có được thái độ tích cực đối với cuộc sống, có tinh thần khắc phục những
sai lầm, thiếu sót để hoàn thiện bản thân.
Hơn nữa, tư duy sáng tạo là đòi hỏi tự thân của quá trình học tập. Lý
luận dạy học đã chỉ ra rằng tư duy sáng tạo có vai trò rất to lớn đối với hoạt
động nhận thức của con người. Cụ thể, tư duy sáng tạo không chỉ mở rộng giới
hạn của nhận thức mà còn có khả năng để vượt ra ngoài những giới hạn của
kinh nghiệm trực tiếp để đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng tìm ra
những mối quan hệ có tính quy luật giữa chúng với nhau. Tư duy sáng tạo
không chỉ giúp giải quyết những nhiệm vụ trước mắt mà còn có khả năng giải
quyết những nhiệm vụ mang tính lâu dài. Nó cải tạo lại thông tin, giải quyết
những cái tương tự nhưng chưa biết, làm tiết kiệm công sức của con người,
giúp con người hành động hiệu quả hơn. Có tư duy sáng tạo, ngoài giúp cho
việc học tập và tiếp thu tri thức tốt hơn, nó còn giúp học sinh có bộ óc thông
minh, tỉnh táo để phát hiện và giải quyết những vấn đề phức tạp, tránh được
những mối nguy hiểm, những tác động xấu của môi trường xung quanh. Nếu
không có khả năng tư duy sáng tạo thì học sinh không thể và rất khó khăn trong
giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập và trong cuộc sống.
16
Với nhà trường Tiểu học, rèn luyện tư duy đặc biệt là tư duy sáng tạo là
một đòi hỏi của chính quá trình giáo dục, là nhiệm vụ trọng tâm cơ bản trong
mục tiêu giáo dục toàn diện. Tư duy sáng tạo không chỉ đáp ứng quá trình
nhận thức, chiếm lĩnh những tri thức khoa học nền tảng với yêu cầu ngày một
cao mà nó còn là đòi hỏi phải giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ học tập, hoạt
động thực tiễn ngày một cao và phức tạp đối với sự phát triển toàn diện nhân
cách cá nhân, đồng thời thích ứng nhanh với cuộc sống năng động ngày nay
ngay từ khi còn là học sinh đầu bậc học phổ thông.
1.1.6. Tiềm năng của Đại lượng và đo Đại lượng trong việc bồi dưỡng tư
duy sáng tạo cho học sinh.
Trong quá trình học Toán thì kỹ năng vận dụng Toán học là quan trọng
nhất, nhà trường phổ thông không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức
Toán học, mà còn luyện cho học sinh kỹ năng vận dụng tính độc lập, sự độc
đáo và khả năng sáng tạo.
Các nhà tâm lý học cho rằng: "Sáng tạo bắt đầu từ thời điểm mà các
phương pháp logic để giải quyết nhiệm vụ là không đủ và gặp trở ngại hoặc
kết quả không đáp ứng được các đòi hỏi đặt ra từ đầu hoặc xuất hiện giải pháp
mới tốt hơn giải pháp cũ". Chính vì vậy, điều quan trọng là hệ thống bài tập
cần phải được khai thác và sử dụng hợp lý nhằm rèn luyện cho học sinh khả
năng phát triển tư duy sáng tạo biểu hiện ở các mặt như: khả năng tìm hướng
đi mới (khả năng tìm nhiều lời giải khác nhau cho một bài toán), khả năng tìm
ra kết quả mới (khai thác các kết quả của một bài toán, xem xét các khía cạnh
khác nhau của một bài toán).
Chủ đề Đại lượng chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn trong việc bồi
dưỡng và phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh. Bên cạnh việc giúp học
sinh giải quyết các bài tập sách giáo khoa, giáo viên có thể khai thác các tiềm
năng đó thông qua việc xây dựng hệ thống bài tập mới trên cơ sở hệ thống bài
tập cơ bản, tạo cơ hội cho học sinh phát triển năng lực sáng tạo của mình.
17
Trong quá trình dạy học giáo viên cần dẫn dắt học sinh giải quyết hệ
thống bài tập mới, tạo cho học sinh phát hiện vấn đề mới, đó là vấn đề quan
trọng mà ta cần quan tâm bồi dưỡng cho học sinh.
Có nhiều phương pháp khai thác khác các bài tập cơ bản trong sách giáo
khoa để tạo ra các bài toán có tác dụng rèn luyện tính mềm dẻo, tính nhuần
nhuyễn, tính độc đáo của tư duy.
Trên cơ sở phân tích khái niệm tư duy sáng tạo cùng những yếu tố đặc
trưng của nó và dựa vào quan điểm: bồi dưỡng từng yếu tố cụ thể của tư duy
sáng tạo cho học sinh là một trong những biện pháp để phát triển năng lực tư
duy sáng tạo cho các em. Các bài tập chủ yếu nhằm bồi dưỡng tính mềm dẻo
của tư duy sáng tạo với các đặc trưng: dễ dàng chuyển từ hoạt động trí tuệ này
sang hoạt động trí tuệ khác, suy nghĩ không rập khuôn; khả năng nhận ra vấn
đề mới trong điều kiện quen thuộc, khả năng nhìn thấy chức năng mới của đối
tượng quen biết. Các bài tập chủ yếu nhằm bồi dưỡng tính nhuần nhuyễn của
tư duy sáng tạo với các đặc trưng: khả năng tìm được nhiều giải pháp trên
nhiều góc độ và hoàn cảnh khác nhau, khả năng xem xét đối tượng dưới
những khía cạnh khác nhau. Các bài tập chủ yếu nhằm bồi dưỡng tính nhạy
cảm vấn đề của tư duy sáng tạo với các đặc trưng: nhanh chóng phát hiện
những vấn đề tìm ra kết quả mới, tạo được bài toán mới, khả năng nhanh
chóng phát hiện ra các mâu thuẫn, thiếu logic.
Ngoài ra, tư duy Đại lượng mang những nét đặc trưng quan trọng và cơ
bản của tư duy Toán học. Việc phát triển tư duy thông qua các bài tập Đại
lượng luôn gắn với khả năng phát triển trí tưởng tượng, phát triển tư duy về
Đại lượng luôn gắn liền với việc phát triển của phương pháp suy luận. Như
vậy, để nâng dần cấp dộ tư duy trong dạy học Đại lượng, việc dạy học phải
giúp học sinh hình thành và tích luỹ các phép toán một cách vững chắc, biết
cách tính, đổi các đơn vị đo Đại lượng, biết giải quyết các bài toán về Đại
lượng, tìm ra những cách giải quyết mới... Như vậy, tiềm năng của chủ đề Đại
lượng và đo Đại lượng trong việc bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh là rất lớn.
18
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh lớp 5 thông qua dạy
học Đại lượng và đo đại lượng ở trường Tiểu học Ngô Quyền.
1.2.1.1 Điều tra thực trạng
1.2.1.1.1 Mục đích điều tra
Tìm hiểu thực trạng rèn luyện kĩ năng tư duy sáng tạo cho học sinh lớp
5 thông qua việc dạy học Đại lượng và đo đại lượng ở trường Tiểu học Ngô
Quyền.
1.2.1.1.2 Đối tượng và địa điểm điều tra
Giáo viên đang trực tiếp giảng dạy khối 5 tại trường Tiểu học Ngô
Quyền. Tổng số giáo viên là 4.
1.2.1.1.3 Nội dung điều tra
Để điều tra thực trạng rèn luyện kỹ năng tư duy sáng tạo cho học sinh
lớp 5 thông qua dạy học giải các bài toán về Đại lượng và đo đại lượng ở
trường Tiểu học Ngô Quyền tôi đã sử dụng phiếu điều tra và đề nghị giáo viên
trả lời các câu hỏi. Bên cạnh đó, tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp một số
giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 5 trường Tiểu học Ngô Quyền.
1.2.1.2 Phân tích kết quả điều tra
Qua bảng thống kê kết quả điều tra( phụ lục 2), có thể rút ra một số kết
luận sau:
- Theo kết quả điều tra, tôi nhận thấy rằng hiện nay nhiều giáo viên đã
hiểu đúng về tư duy sáng tạo, tuy nhiên tỉ lệ giáo viên hiểu sai nghĩa về tư duy
sáng tạo vẫn còn khá đông. Có rất nhiều giáo viên vẫn quan niệm rằng: Tư
duy sáng tạo là tư duy hợp lý để nhanh chóng đưa ra cách giải đúng cho một
bài toán.
- Hầu hết giáo viên đều chú ý đến việc rèn kĩ năng tư duy sáng tạo cho
học sinh không chỉ trong dạy học toán mà còn trong dạy học nói chung. Và họ
cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng tư duy cho
19