Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Sử dụng biện pháp trực quan trong dạy học phân môn kể chuyện ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.1 KB, 64 trang )

“Sử dụng biện pháp trực quan trong dạy học
phân môn Kể chuyện ở lớp 4”

Nguyễn Thị Hương

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỉ 21, thế kỉ của nền
văn minh trí tuệ và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và thông
tin cùng với sự vươn lên nhanh chóng của các cường quốc.Trong khi đó Việt
Nam chúng ta vẫn xếp vào những nước nghèo và chậm phát triển mặc dù
chúng ta có đầy đủ những điều kiện cần thiết để vươn lên.Vấn đề đặt ra là
phải đào tạo ra một thế hệ người lao động mới có đủ trình độ , năng lực và
phẩm chất để có thể sử dụng triệt để những nguồn lực của đất nước – vai trò
của giáo dục là đặc biệt quan trọng, đây chính là nguồn động lực để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Vì vậy, cần đầu tư cho giáo dục một
cách toàn diện, đúng mức. Trước tiên là bậc Giáo dục Tiểu học vì đây là bậc
học đầu tiên, nền tảng, các em sẽ là người lao động trong thế kỉ mới , sẽ là
những người quyết định việc đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc trên
thế giới.
Để các em có thể trở thành chủ nhân thực sự của đất nước thì ngay từ
bậc Tiểu học, các em phải được đào tạo một cách cơ bản tạo cơ sở nền móng
vững chắc cho sự phát triển toàn diện của một con người. Lứa tuổi học sinh
Tiểu học có những đặc điểm tâm sinh lý riêng rất hồn nhiên, ngây thơ, ham

1


thích khám phá những điều mới lạ, hấp dẫn. Đó là những mầm non khỏe
mạnh tràn đầy nhựa sống sẽ trở thành người lao động xã hội chủ nghĩa trong
tương lai. Chính vì lý do trên giáo dục tiểu học ngày càng được đổi mới sao


cho phù hợp với tầm nhận thức và tâm sinh lí của trẻ.
Hiện nay, giáo dục đã có nhiều đổi mới mang tính đột phá nhằm phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.Thầy trở thành người chỉ
đạo, hướng dẫn, học sinh chủ động, tích cực chiếm lĩnh, tự tìm ra tri thức.
Đây là phương pháp dạy học tích cực và đang được sử dụng thành công trong
trường học góp phần nâng cao chất lượng tiếp thu bài giảng của học sinh.
Bên cạnh đó, con đường nhận thức chân lí khách quan của học sinh
Tiểu học cũng chính là con đường nhận thức chung của loài người, đó là từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn. Học sinh tiếp thu bài giảng qua các giác quan :thính giác, thị giác, vị
giác, khứu giác, xúc giác. Vì vậy, cần sử dụng hình vẽ, tranh ảnh, vật mẫu,
băng ghi âm, ghi hình…hỗ trợ cho bài giảng. Đó là những phương tiện trực
quan giúp cho các em có thể tiếp thu được bài học nhanh nhất và dễ dàng
nhất.
Vấn đề trực quan hiện nay được giáo viên rất quan tâm và đang được
sử dụng khá phong phú trong các bài dạy. Tuy nhiên đồ dùng trực quan chưa
được sử dụng một cách có hiệu quả và triệt để. Là một giáo viên Tiểu học
trong tương lai tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Sử dụng biện pháp trực quan
trong dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4” với hy vọng kết quả nghiên cứu
sẽ giúp cho tôi và các đồng nghiệp của tôi sau này sử dụng đồ dùng trực quan
có hiệu quả cao và đúng mức độ hơn. Ở Tiếng Việt lớp 4, phân môn Kể
chuyện đã được tách riêng vói phân môn Tập đọc, vì thế giờ Kể chuyện giúp
học sinh củng cố lại nội dung của các chủ điểm, phát triển vốn từ và rèn kỹ

2


năng kể chuyện sáng tạo. Do đó đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu vấn đề trực
quan trong phân môn Kể Chuyện ở khối lớp 4 là vô cùng cần thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề trực quan đã được rất nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quan tâm
và đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác nhau. Đặc biệt đã có nhiều tài liệu có
giá trị được công bố.
Về mặt lí luận có tác giả “Phan Trọng Ngọ, Dương Triệu Hoa, Lê
Tràng Địch”, trong cuốn “Vấn đề trực quan trong dạy học” .Ngoài ra còn rất
nhiều tác giả khác quan tâm đến vấn đề này.
“Xu hướng phát triển của hệ thống phương tiện kỹ thuật với việc đổi
mới phương pháp dạy học”
Trần Đức Vượng
Thông tin Khoa học giáo dục số 106/2004
“Vấn đề tổ chức xây dựng và sử dụng phần mềm dạy học ở bậc Tiểu học”
Đào Thái Lai
Tác giả Đàm Hồng Quỳnh đã cho ra đời hai cuốn sách “Hướng dẫn sử
dụng và tự làm thiết bị dạy học môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học” Nxb Giáo
dục năm 1999 và “ Hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học môn Tiếng Việt ở lớp
1”. Tác giả nêu lên cơ sở khoa học và thực tiễn trong sử dụng và tự làm thiết
bị dạy học, tạo ra khả năng tối ưu trong việc trình bày vấn đề một cách sâu sắc.
Như vậy, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn
đề trực quan ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau và đã chỉ ra được tính ưu
việt của trực quan đối với dạy học ở Tiểu học. Trong phạm vi của khóa luận
và thời gian cho phép tôi chỉ tìm hiểu “Sử dụng biện pháp trực quan trong dạy
học phân môn Kể chuyện ở lớp 4”, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3


3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy học sử dụng đồ dùng trực quan trong phân môn Kể

chuyện phương tiện trực quan đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trực quan trong dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4 trường tiểu học
Lưu Quý An, thị xã Phúc Yên, Vĩnh Phúc.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn việc sử dụng đồ dùng trực
quan trong phân môn Kể chuyện ở lớp 4, đề xuất những hướng dẫn sử dụng
đồ dùng trực quan nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Kể chuyện ở
tiểu học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận này tôi đi vào giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề trực quan trong dạy học phân
môn Kể chuyện ở lớp 4.
- Tìm hiểu đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4.
- Hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Kể
chuyện 4.
- Thể nghiệm một số giáo án.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu thành công khóa luận này sẽ góp phần giúp cho các
giáo viên biết cách sử dụng hợp lý các đồ dùng trực quan để đạt hiệu quả và
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp tổng hợp lý luận

4


+ Phương pháp điều tra, thống kê, phân loại, tổng hợp.

7. Dự kiến kết cấu khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần:
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc sử dụng biện pháp trực
quan trong dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4
Chương 2: Hướng dẫn sử dụng một số đồ dùng trực quan trong dạy học
phân môn Kể chuyện ở lớp 4
Chương 3: Thể nghiệm
Phần kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo

5


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ
DỤNG BIỆN PHÁP TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC
PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4

1.1. Cơ sở lý luận về trực quan và phương tiện trực quan trong
dạy học
1.1.1. Các khái niệm về trực quan
Theo từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004.
- Trực quan là những vật dụng cụ thể hay ngôn ngữ cử chỉ làm cho học
sinh có được những hình ảnh cụ thể về những điều được học.
- Phương tiện trực quan là những đồ dùng trong dạy học để cho học
sinh quan sát tiếp thu bài học đạt được mục đích dạy học.
- Đồ dùng dạy học được hiểu là những dụng cụ trực quan để giáo viên

và học sinh thực hiện quá trình dạy học hay những phương tiện và đồ dùng
phi kĩ thuật.
- Thiết bị dạy học là các phương tiện kĩ thuật và các đồ vật có tính chất
vật lý là kim khí, máy móc…. . gọi là thiết bị dạy học (PGS, TS Đặng Thành
Hưng).
Trước kia nói đến đồ dùng trực quan là nói đến các đồ dùng quen thuộc
như tranh ảnh, vật thật, mô hình bản đồ, biểu bảng…. . Trong đổi mới giáo
dục hiện nay có thêm nhiều đồ dùng trực quan mang tính chất hiện đại như:
Máy chiếu, máy vi tính, đĩa mềm…… Người ta dùng cụm từ trực quan là tên
gọi chung trong đó bao gồm :các đồ dùng trực quan, thiết bị dạy học, phương
tiện trực quan.
Quá trình dạy học gồm hoạt động dạy và hoạt động học, cũng như bất
cứ quá trình sản xuất nào nó cũng cần những phương tiện nhất định. Trong

6


giáo dục có nhiều phương tiện dạy học khác nhau. Tuy vậy trong đề tài này
tôi chỉ nghiên cứu về việc sử dụng các phương tiện trực quan theo quan điểm
hiện đại thể hiện trong định nghĩa sau:
Trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan sát sự
vật bằng các giác quan mà là hành động tác động lên sự vật làm biến đổi các
dấu hiệu bề ngoài của chúng, làm cái bản chất, các mối liên hệ, quan hệ có
tính quy luật của chúng được bộc lộ, được phơi bày một cách cảm tính mà
nếu không có những tác động đó thì chúng mãi là bí ẩn đối với con người.
1.1.2. Các loại hình đồ dùng trực quan thường được sử dụng trong
dạy học phân môn Kể chuyện
- Tranh: tranh là những tác phẩm hội hoạ phản ánh hiện thực bằng
đường nét, hình mảng và màu sắc.
- Ảnh: ảnh là những tác phẩm nghệ thuật ghi lại bằng khí cụ quang học

(như máy ảnh) hình ảnh người, vật, phong cảnh sau đó in, phóng trên giấy
ảnh.
- Bản đồ: bản đồ là sự thể hiện thu nhỏ quy ước của bề mặt trái đất lên
mặt phẳng, xây dựng trên cơ sở toán học, phản ánh sự phân bố,trạng thái và
mối quan hệ tương quan của các hiện tượng tự nhiên và xã hội loài người.
- Mô hình: mô hình là những vật cùng hình dạng, có thể thu nhỏ và
phóng to nhằm mô phỏng hình dạng, cấu tạo, hoạt động của vật gốc, để nhằm
nghiên cứu, học tập.
- Vật mẫu: vật mẫu là những vật sẵn có trong tự nhiên, trong đời sống
xã hội được dùng nguyên dạng (con cá, con ve, củ gừng, múi bưởi…. ) hoặc
đã được xử lý (mẫu ngâm, mẫu nhồi, mẫu ép khô…. )
- Băng ghi âm: băng ghi âm là loại băng mềm bằng chất dẻo có phủ
một lớp mỏng chất từ tính, ghi lại âm thanh (lời nói, ca nhạc, tiếng động…)và
phát lại nội dung đó qua máy ghi âm.

7


- Băng ghi hình: băng ghi hình là loại băng mềm bằng chất dẻo có phủ
một lớp mỏng chất từ tính, ghi lại đồng thời hình ảnh và âm thanh của các sự
vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trong đời sống xã hội và phát lại nội dung
đó qua máy thu hình (ti vi).
- Phim đèn chiếu: phim đèn chiếu là loại hình phim ghi hình trên phim
bằng phương pháp chụp ảnh (trên phim dương bản) hoặc vẽ, viết trực tiếp
(trên bản trong, trên giấy bóng kính, giấy can,…. ) được chiếu lên màn ảnh
hoặc quan sát trực tiếp bằng cách nhìn qua ống nhòm.
- Ngoài ra trong phân môn Kể chuyện còn sử dụng một loại hình trực
quan được dùng phổ biến từ bậc Mẫu giáo, đó là trực quan quy ước. Trực
quan quy ước được hiểu là việc giáo viên đưa ra bất kì một vật thể nào đó và
hướng dẫn HS tưởng tượng ra một sự vật tương ứng có trong truyện kể.

1.1.3. Vai trò của đồ dùng trực quan trong dạy học
Đồ dùng trực quan giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dạy học.
1.1.3.1. Đẩy mạnh hoạt động nhận thức của học sinh
- Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học giúp học sinh nhận thức
một cách nhanh nhất những hành động chuyển ngôn ngữ bên ngoài thành
ngôn ngữ bên trong, là tư duy từ chỗ chưa biết đến hiểu biết, đến kĩ năng kỹ
xảo và vận dụng vào thực tiễn.
- Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học giúp học sinh biết cách tổ
chức có kế hoạch, có suy nghĩ, biết tư duy một cách độc lập linh hoạt, biết
ghi nhớ một cách khoa học, hợp lý, biết tưởng tượng một cách chính xác,
đúng hướng.
1.1.3.2. Giúp học sinh tự khám phá hoàn chỉnh kiến thức
- Theo hướng dạy học đổi mới, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự
khám phá chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì đồ dùng
trực quan trở nên rất đắc lực.

8


- Các đồ dùng trực quan làm cụ thể hoá, chính xác hoá những nội dung
kiến thức ở trong sách giáo khoa. Thông qua tranh ảnh minh hoạ, học sinh có
thể tự hiểu một cách cụ thể về các sự vật, nhân vật, sự kiện được mô tả trong
bài học. Nhiều đồ dùng trực quan nhất là băng ghi âm, ghi hình, máy chiếu
trực tiếp trình bày nội dung kiến thức cơ bản của đối tượng nghiên cứu dưới
dạng hệ thống hoá, khái quát hoá, đơn giản hoá hiện thực phức tạp muôn màu
muôn vẻ của đời sống tự nhiên và xã hội tạo điều kiện cho các em biết phân
tích, so sánh, suy nghĩ độc lập để tìm ra tri thức.
1.1.3.3. Phát triển ngôn ngữ cho học sinh
Phân môn Kể chuyện có nhiệm vụ mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ,

phát triển tư duy và rèn kỹ năng nói cho học sinh. Phân môn Kể chuyện có
nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu được nghe kể chuyện của học sinh, phát triển ngôn
ngữ, đặc biệt là kĩ năng nghe – nói. Do đó trong quá trình sử dụng đồ dùng
trực quan, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh năng lực quan sát, năng lực
ghi nhớ, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp để từ việc quan sát đó học sinh kể
được câu chuyện bằng ngôn ngữ của mình một cách sáng tạo, đồng thời rèn
cho học sinh kĩ năng nói trước đông người dưới dạng độc thoại thành đoạn
bài theo phong cách nghệ thuật.
1.1.3.4. Giáo dục nhân cách cho học sinh
Phương tiện trực quan trong phân môn Kể chuyện có tác động trực tiếp
và mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách của học sinh Tiểu học thông qua hệ
thống tranh ảnh, vật thật, vật mẫu, nhất là qua băng ghi âm, ghi hình…. Các
em được trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy những câu chuyện kể hay, chuẩn xác
với giọng trầm bổng, tha thiết giúp các em cảm nhận được sự hấp dẫn, cảm
động, giàu ý nghĩa của câu chuyện, giúp các em rút ra được những bài học
nhận thức thấm thía.
Như vậy sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học phân môn Kể
chuyện góp phần bồi dưỡng cho học sinh về nhận thức, tình cảm, đạo đức
hình thành phẩm chất con người mới, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

9


1.1.3.5. Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh
Như ta đã biết, hứng thú là trạng thái được đặc trưng bởi khát vọng học
thật sự nỗ lực, tự nguyện trong quá trình nghiên cứu, khám phá, nắm vững tri
thức. Hứng thú học tập là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
nhận thức của học sinh. Vì thế, để kích thích hứng thú học sinh cần phải sử
dụng các đồ dùng trực quan trong dạy học, giúp các em có hứng thú khám phá
tri thức từ những đồ dùng trực quan.

Tuy vậy, khi sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên phải có những định
hướng và gợi mở rõ ràng để các em tự tìm hiểu, phát hiện và giải quyết vấn đề
tạo khả năng tích cực hoá hoạt động của học sinh.
1.1.3.6. Hợp lý hoá quá trình dạy học của giáo viên và học sinh
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học góp phần hợp lý hoá quá
trình dạy của giáo viên vì nhiều hoạt động dạy học đã được bản thân đồ dùng
trực quan thực hiện. Ví dụ như việc đọc mẫu trong giờ Kể chuyện đã được
thay thế bằng máy ghi âm, băng ghi hình, CD. Việc sử dụng đồ dùng trực
quan giúp giảm nhẹ công việc của giáo viên, để tập trung hướng dẫn học sinh
hành động. Ngoài ra việc sử dụng đồ dùng trực quan còn hợp lý hoá quá trình
học của học sinh vì thay việc nghe giáo viên hướng dẫn để ghi nhớ nội dung
câu chuyện, học sinh chuyển sang hành động với đồ dùng trực quan như quan
sát tranh ảnh, vật thật để nắm được nội dung. Từ đó các em biết kể lại chuyện
theo ngôn ngữ của mình, việc học bớt căng thẳng mệt mỏi, tăng cường hứng
thú, giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn.
1.1.4. Chức năng của đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Kể
chuyện
Đồ dùng trực quan là công cụ đắc lực để đạt được mục đích dạy học
trong phân môn Kể chuyện. Đồ dùng trực quan thể hiện một số chức năng
sau:
+ Chức năng minh hoạ: Chúng ta đều biết rằng vốn sống, vốn hiểu biết,
vốn từ ngữ của học sinh Tiểu học có những hạn chế nhất định. Trong khi đó,

10


những câu chuyện kể thường đề cập tới những sự vật, hiện tượng, sự việc xa
lạ với vốn sống, vốn từ ngữ của các em, nếu không được giảng giải rõ ràng sẽ
gây trở ngại cho việc hiểu thấu đáo nội dung câu chuyện, sự tưởng tượng của
học sinh dễ bị sai lệch, chệch hướng. Trong những trường hợp này, giáo viên

sử dụng đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng minh hoạ cho lời giảng giải, lời kể
của giáo viên, bổ sung thêm những thông tin, hình ảnh mà giáo viên không
thể trình bày được.
+ Chức năng thông tin: đồ dùng trực quan đóng vai trò chính trong việc
cung cấp những nội dung thông tin để học sinh học tập, thực hành. Chẳng hạn
với kiểu bài nghe- kể lại câu chuyện vừa nghe thầy(cô) kể trên lớp thì câu
chuyện được trình bày thành tranh kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong sách giáo
khoa sẽ giúp các em nhanh chóng nắm được nội dung chính của câu chuyện
để từ đó các em biết dùng ngôn ngữ của mình kể lại câu chuyện đầy đủ, hấp
dẫn.
+ Chức năng định hướng: những đồ dùng trực quan như tranh, ảnh
minh hoạ, máy ghi âm…. chính là những tài liệu vật chất có tính tiền đề gợi
mở, định hướng, tác động vào giác quan của học sinh, để lại một ấn tưởng rất
sâu đậm. Từ cái nhìn cụ thể trên tranh,ảnh minh hoạ học sinh lại vẽ ra những
bức tranh minh hoạ trong đầu mình- tranh ảnh minh hoạ thực sự đã góp phần
kích thích, định hướng cho tưởng tượng của các em bay bổng, bay xa.
+ Chức năng bồi dưỡng: bồi dưỡng vốn sống, tình cảm, thẩm mỹ, năng
lực trí tuệ và tư tưởng cho học sinh thông qua đồ dùng trực quan.
Qua đó chúng ta thấy rằng đồ dùng trực quan có vị trí vô cùng quan
trọng trong dạy học phân môn Kể chuyện ở Tiểu học nói chung và ở lớp 4 nói
riêng. Sử dụng đồ dùng trực quan giúp cho giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn. Tuy
vậy, cũng nên tuỳ từng câu chuyện cụ thể mà lựa chọn loại hình trực quan cho
phù hợp.

11


1.1.5. Cơ sở giáo dục học
Quan niệm trực quan trong dạy học đã có từ ngàn xưa và đạt đến điểm
đỉnh trong lý luận dạy học của các nhà sư phạm J. A. Cômenxky (1592 –

1670), JJ. Rutxoo (1712 – 1788), Petxtalozi (1746- 1827), KĐ. Usinxki
(1824 – 1780)…. . vv…
Theo quan niệm thông thường, trực quan là chủ thể sử dụng một hay
nhiều giác quan để quan sát từ đó tạo ra các hình ảnh bên ngoài của đối tượng
nhận thức. Quan niệm này được hình thành trên hai cơ sở chủ yếu đó là cơ sở
triết học và xã hội. Về mặt xã hội, nhằm khắc phục lối dạy học nhồi sọ đang
ngự trị trong các trường học thời bấy giờ. Về triết học, phương pháp dạy học
trực quan được dựa trên thuyết “ duy cảm” học thuyết đề cao vai trò của cảm
giác trong quá trình nhận thức.
Mặc dù mang tính duy cảm nhưng cách hiểu trực quan và phương pháp
trực quan theo quan niệm truyền thống là một bước tiến bộ so với dạy học
kinh viện trước đây. Theo đó, học tập được bắt đầu từ sự quan sát hiện tượng
bên ngoài. Thông qua quan sát, học sinh sẽ thu nhận được những bằng chứng
về sự vật hiện tượng, tạo ra niềm tin đối với tri thức được truyền thụ, chống
lại lối dạy học giáo điều theo kiểu nhồi nhét kiến thức cho học sinh.
Tuy vậy trong thời đại hiện nay, lối dạy học theo kiểu truyền thống
không còn phù hợp nữa và quan niệm về trực quan cũng thay đổi theo quan
niệm hiện đại: trực quan theo đúng nghĩa của nó không đơn giản chỉ là quan
sát các sự vật bằng các giác quan, mà là hành động tác động lên sự vật, làm
biến đổi các dấu hiệu bề ngoài của chúng làm cho các bản chất, các mối liên
hệ, quan hệ có tính quy luật của chúng được bộc lộ, được phơi bày một cách
cảm tính mà nếu không có sự tác động đó thì chúng còn mãi bí ẩn đối với
nhận thức con người.

12


1.1.5. Cơ sở tâm lý học
Giai đoạn học sinh Tiểu học chủ yếu là từ 6 đến 11 tuổi, đây là giai
đoạn có nhiều biến đổi quan trọng về tâm lý, sinh lý. Ở độ tuổi này năng lực

chú ý thấp, trí nhớ kém bền vững chủ yếu là tư duy cụ thể phát triển, tư duy
trừu tượng bước đầu hình thành và phát triển nhưng còn yếu. Trong giai đoạn
này học sinh luôn hiếu động, thích các đồ chơi mới lạ, hấp dẫn với nhiều màu
sắc sặc sỡ nhưng lại rất nhanh chán. Đối với trẻ những điều mới lạ thường
kích thích các em tò mò, muốn tìm hiểu khám phá. Nhận thức của các em vẫn
mang tính cảm tính đi từ cái cụ thể đến cái khái quát, từ tư duy cụ thể đến tư
duy trừu tượng. Do vậy phương pháp dạy học trực quan thường được các thầy
cô sử dụng trong nhiều tiết học của bậc Tiểu học. Trên cơ sở tìm hiểu tâm lý
học sinh Tiểu học, có thể chia học sinh Tiểu học thành 2 nhóm lớp:
+ Nhóm lớp 1, 2, 3: Bao gồm các em từ 6 đến 9 tuổi.
+ Nhóm lớp 4, 5 : Bao gồm các em từ 9 đến 11 tuổi.
* Nhóm lớp 4,5: Ở giai đoạn này, tư duy cụ thể vẫn tiếp tục phát triển,
tư duy trừu tượng đang dần dần hình thành và chiếm ưu thế, nghĩa là học sinh
có khả năng thực hiện các thao tác trí tuệ với ngôn ngữ và các loại kí hiệu của
các môn học để tiếp thu tri thức. Các em đã biết quan sát tìm ra các dấu hiệu
đặc trưng bản chất của các sự vật hiện tượng, biết phân biệt chi tiết các dấu
hiệu để đi đến so sánh tổng hợp, có khả năng tri giác các sự vật như một chỉnh
thể thống nhất, có mục đích và phương hướng rõ ràng. Khi khái quát hoá, các
em đã biết dựa vào dấu hiệu bản chất bên trong để tìm ra khái niệm, quy luật.
Các em đã biết quan sát các sự vật hiện tượng theo diễn biến, vận động, từ
một hiện tượng các em có thể biết nhiều nguyên nhân. Bước đầu các em có
khả năng lập luận trong phán đoán của mình, không chỉ xác lập mối quan hệ
giữa nguyên nhân đến kết quả mà còn xác lập được mối quan hệ từ kết quả
đến nguyên nhân.

13


Dạy học trực quan phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học
sinh Tiểu học và phù hợp với phương pháp dạy học tích cực hiện nay. Vì vậy,

giáo viên cần phải quan tâm đúng mức đến phương pháp dạy học trực quan,
sử dụng phương tiện trực quan một cách hợp lý, phù hợp với tâm lý của học
sinh Tiểu học trong các giai đoạn khác nhau.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng biện pháp trực quan trong
dạy học phân môn Kể chuyện ở lớp 4
Phân môn Kể chuyện có tác dụng về nhiều mặt như bồi dưỡng tâm hồn,
trau dồi vốn sống, vốn từ ngữ, vốn văn học, phát triển óc tưởng tượng, năng
lực trí tuệ cho học sinh (rèn luyện trí nhớ, óc phán đoán, óc suy luận
logic….). Ở lứa tuổi Tiểu học nghe kể chuyện là một nhu cầu tất yếu, không
thể thiếu được.
Việc sử dụng các biện pháp trực quan trong phân môn Kể chuyện
không thể không đề cập tới các phương tiện trực quan khác nhau như tranh,
ảnh, phim đèn chiếu, băng ghi âm, băng ghi hình,…. . đôi khi còn dùng những
vật thật để minh hoạ cho một số tình tiết có liên quan tới nội dung câu
chuyện. Ở nhiều nước trên thế giới, giờ kể chuyện được thực hiện trong
những phòng chuyên biệt bố trí sẵn các phương tiện cốt yếu như phông màn,
đạo cụ, quần áo đóng hoạt cảnh, con rối, máy ghi âm, máy chiếu phim đèn
chiếu, đầu máy video,…. để tạo ra môi trường phù hợp với nội dung từng câu
chuyện. Còn ở nước ta, do chưa có đủ điều kiện về cơ sở vật chất nên việc
xây dựng những phòng chuyên biệt dành riêng cho tiết kể chuyện là chưa có.
Nhìn chung phân môn Kể chuyện hiện nay đã được chú trọng hơn so với
trước đây. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy trong các trường Tiểu học ở nước ta
cho thấy sự chuẩn bị của giáo viên chưa thực sự chu đáo và sự tiếp nhận của
học sinh còn yếu trong phân môn này.

14


Khi thực tập tại trường Tiểu học Lưu Quý An, Phúc yên, Vĩnh Phúc –
một ngôi trường được thành lập vào tháng 10/1998, cho tới nay trường đã đạt

được rất nhiều thành tích về học tập cũng như các hoạt động khác. Đội ngũ
cán bộ và giáo viên của trường đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, số lượng
học sinh của trường ngày càng đông. Tuy nhiên cơ sở vật chất của trường vẫn
chưa đáp ứng được số phòng học 2 buổi/ngày cho tất cả các lớp. Nhà trường
chưa có đủ các phòng học chức năng theo quy định. Vì vậy việc học sinh
được tiếp xúc với các thiết bị dạy học hiện đại còn hạn chế, việc sử dụng các
phương tiện trực quan trong dạy học cũng không được chú trọng nhiều. Khi
dự giờ một số tiết giảng dạy phân môn Kể chuyện ở khối lớp 4 tôi có thu
được một số kết quả sau:
1.2.1. Sự chuẩn bị của giáo viên
Một thực tế cho thấy giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 4 nắm rất
chắc về quy trình giảng dạy của ba kiểu bài kể chuyện lớp 4. Tất cả các giáo
viên đều có sự chuẩn bị chu đáo về giáo án giảng dạy và được nhà trường
trang bị đầy đủ về sách giáo khoa, sách giáo viên. Tuy nhiên, giáo viên chỉ
chuẩn bị trên cơ sở lý thuyết, giáo viên nắm rõ quy trình, nắm rõ nội dung câu
chuyện nhưng một số giáo viên không hoàn toàn thuộc truyện mà khi kể phải
cầm văn bản truyện, và đặc biệt sự chuẩn bị về phương tiện trực quan không
được chu đáo. Mặc dù ở lớp 4 kiểu bài kể chuyện đã nghe, đã đọc và kiểu bài
kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia ít sử dụng tới các phương tiên trực
quan như tranh, ảnh minh hoạ, máy ghi âm, máy ghi hình…. . Tuy nhiên kiểu
bài kể chuyện đã nghe thầy(cô) kể trên lớp, do được trình bày thành tranh
kèm lời dẫn giải ngắn gọn trong sách giáo khoa, nên giáo viên chỉ dựa vào
những bức tranh trong sách giáo khoa làm phương tiện trực quan khi yêu cầu
học sinh quan sát hình ảnh trong sách chứ rất ít thầy(cô) phóng to hình ảnh
này. Hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy đã

15


được khai thác rất nhiều và việc lựa chọn các bài giáo án điện tử để giảng dạy

phân môn Kể chuyện cũng được áp dụng nhiều bởi không những học sinh sẽ
được quan sát hình ảnh động thay vì hình ảnh tĩnh của tranh, ảnh minh hoạ
mà còn có sự kết hợp với các yếu tố về âm thanh giúp cho bài giảng thêm
phần hấp dẫn, lôi cuốn học sinh. Tuy nhiên một số giáo viên rất ngại sử dụng
bởi sự cầu kì về soạn giảng và cũng vì ở một số trường chưa được trang bị
đầy đủ thiết bị trình chiếu.
Khi thực tập tại trường Tiểu học Lưu Quý An - Phúc Yên - Vĩnh Phúc
tôi có hỏi một số giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 4 về việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy phân môn Kể chuyện thì các giáo
viên đều đưa ra ý kiến cho rằng, việc sử dụng phương tiện trực quan sẽ giúp
ích rất nhiều cho học sinh, giúp học sinh khắc ghi nội dung câu chuyện tốt
hơn, sẽ bồi dưỡng trí tuệ và óc tưởng tượng của học sinh. Tuy nhiên các giáo
viên đều phản ánh rằng hiện nay rất ít trường Tiểu học trang bị cho giáo viên
đồ dùng trực quan để dạy học phân môn Kể chuyện. Khi được hỏi về việc sử
dụng máy ghi âm đã được giáo viên thu âm trước nội dung câu chuyện ở nhà
hoặc sử dụng máy ghi âm thu âm giọng kể của giáo viên khác cho tiết dạy của
mình, các giáo viên cho rằng sử dụng máy ghi âm có rất nhiều ưu điểm như
người kể chuyện không chỉ trình bày lại đúng nội dung câu chuyện mà còn
trình bày một cách sinh động có ngữ điệu, nhịp điệu của lời thoại, đúng trạng
thái tâm lý của nhân vật. Hơn nữa, băng ghi âm kể chuyện còn có tác dụng lôi
cuốn, hấp dẫn, kích thích hứng thú học tập của học sinh, giúp cho học sinh dễ
dàng tiếp nhận được tính diễn cảm của ngôn ngữ văn chương và góp phần làm
giảm bớt công việc của giáo viên trên lớp. Việc sử dụng băng ghi âm ghi lại
giọng của mình hay của giáo viên khác cũng đều có tác dụng tốt. Tuy nhiên
bên cạnh một số ưu điểm cũng có một số hạn chế vì tốn kém và chi phí cao,
như kinh phí để đầu tư hệ thống loa và tăng âm cho các lớp học. Lớp học

16



đông, nếu không được trang bị về loa, học sinh dưới cuối lớp sẽ không nghe
thấy. Một hạn chế nữa đó là học sinh chỉ nghe câu chuyện chứ không được
vừa nghe vừa quan sát cử chỉ, điệu bộ của giáo viên, lạm dụng băng ghi âm sẽ
dẫn tới tình trạng giáo viên không nhớ câu chuyện.
Từ đó giáo viên cần có sự kết hợp hài hoà, đúng mức loại hình trực
quan dùng máy ghi âm.
1.2.2. Thực tiễn tiếp nhận của học sinh
Qua khảo sát dự giờ ở trường tiểu học Lưu Quý An, chúng tôi nhận
thấy một tình trạng chung mà học sinh lớp 4 thường mắc phải trong phân môn
Kể chuyện đó là: học sinh thường không nhớ câu chuyện, hay bỏ sót những
chi tiết chính của câu chuyện. Kĩ năng kể chuyện của các em còn yếu, các em
kể mà chưa thuộc truyện, diễn đạt còn lủng củng. Đối với kiểu bài kể chuyện
được chứng kiến hoặc tham gia thì học sinh chưa biết cách sắp xếp theo trình
tự câu chuyện, thời gian diễn ra trong câu chuyện còn lộn xộn, kể chuyện
rườm rà, chưa hay. Kĩ năng nói của các em chưa rõ ràng, còn ấp úng, nhiều
câu cụt. Khi nghe giáo viên kể chuyện, học sinh phân biệt rất tốt giọng của
các nhân vật trong truyện, tuy nhiên các em chưa biết cách thể hiện giọng kể
của các nhân vật, đôi khi còn lẫn giữa giọng của nhân vật này với nhân vật
kia.
1.2.3. Thực tiễn dạy học kể chuyện ở lớp 4
* Đối với kiểu bài nghe - kể lại câu chuyện vừa nghe thầy, cô kể trên lớp.
- Trong dạy học kiểu bài này, giáo viên còn bám quá sát văn bản khi
kể, chưa sử dụng câu hỏi gợi ý giúp học sinh đặt lời thuyết minh cho tranh
cũng như giúp học sinh kể lại câu chuyện đúng ngữ điệu, giọng kể của nhân
vật.
* Đối với kiểu bài kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc

17



- Giáo viên chưa hướng dẫn để học sinh biết sắp xếp lại các ý của câu
chuyện mà chỉ gợi ý cho học sinh một số câu chuyện học sinh đã biết, đã
được học để học sinh tự kể theo suy nghĩ của mình, kể một cách chung chung
những gì mà học sinh nhớ.
* Đối với kiểu bài kể lại câu chuyện đã được chứng kiến hoặc tham gia.
Vì đây là một kiểu bài kể chuyện tương đối khó nên học sinh thường
không biết bắt đầu kể từ đâu, giáo viên có hướng dẫn học sinh thông qua gợi
ý giống như sách giáo khoa, tuy nhiên giáo viên chưa giúp các em lập dàn ý
một cách chi tiết cho câu chuyện, chỉ hướng dẫn chung chung. Vì vậy các em
thường khó khăn trong kể diễn biến của câu chuyện và thường kể chuyện một
cách lộn xộn.
Trong khi hướng dẫn học sinh kể chuyện, giáo viên thường không sử
dụng bất kì loại hình trực quan nào, do đó tiết kể chuyện thuộc kiểu bài này
thường diễn ra rất khô khan và nhàm chán.
Thực tế dự giờ cho thấy phân môn Kể chuyện vẫn chưa thực sự được
chú trọng nhiều và việc đầu tư về phương tiện dạy học cũng như sử dụng
phương tiện dạy học vẫn còn rất hạn chế ở các trường Tiểu học hiện nay.
Tóm lại, giáo dục và đào tạo đang là vấn đề thách thức của toàn cầu.
Hiện nay các quốc qia trên thế giới đang nỗ lực đổi mới nội dung và phương
pháp giáo dục – đào tạo với nhiều mô hình, biện pháp khác nhau nhằm mở
rộng quy mô, nâng cao tính tích cực trong dạy học một cách toàn diện, dạy
làm sao để giúp người học hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói
quen học tập thụ động. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các
thành tố liên quan trong đó phương tiện dạy học là một thành tố quan trọng.
Nói chung, trong quá trình dạy học các phương tiện dạy học sẽ giúp
giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một
cách thuận lợi. Đặc biệt, trong dạy học ở Tiểu học, với đặc điểm tâm sinh lý,

18



đặc điểm nhận thức của các em thì việc sử dụng các phương tiện trực quan sẽ
góp phần nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu
quả của quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho
các em. Phát huy hết vai trò của đồ dùng trực quan trong dạy học là bước tiến
quan trọng của sự thành công trong giáo dục.

19


Chương 2. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG MỘT SỐ ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN
TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN Ở LỚP 4

Để sử dụng có hiệu quả các đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn
Kể chuyện ở lớp 4, trước hết giáo viên cần nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của
phân môn này đồng thời nắm được khái quát về chương trình và nội dung của
phân môn này để từ đó có thể lựa chọn các đồ dùng trực quan phù hợp với
từng bài.
2.1. Chương trình phân môn Kể chuyện ở lớp 4
2.1.1. Mục tiêu của phân môn Kể chuyện ở lớp 4
Phân môn Kể chuyện giúp học sinh:
- Củng cố kĩ năng kể chuyện đã được hình thành và rèn luyện ở các lớp
1, 2, 3 đồng thời hình thành những kĩ năng mới về kể chuyện.
- Mở rộng hiểu biết, góp phần hình thành nhân cách con người mới.
2.1.2. Nhiệm vụ của phân môn Kể chuyện lớp 4
* Phát triển kĩ năng nghe và nói cho học sinh bao gồm:
- Kĩ năng nghe:
+ Nghe trong hội thoại: nhận ra thái độ tình cảm của người nói qua nội
dung bài nói, ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt.
+ Nghe hiểu văn bản: nghe các tác phẩm văn học dân gian, các bài thơ,

vở kịch…; nhớ được nội dung, nhân vật, chi tiết có giá trị nghệ thuật; tập
nhận xét về nhân vật và sự kiện trong truyện.
- Kĩ năng nói: kể lại một truyện đã đọc hoặc một việc đã làm, tập thay
đổi ngôi khi kể chuyện.
* Củng cố mở rộng và tích cực hoá vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình
tượng và tư duy logic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực đời sống qua nội
dung câu chuyện.

20


* Bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem
lại niềm vui tuổi thơ trong hoạt động học tập môn Tiếng Việt.
2.1.3. nội dung, chương trình phân môn Kể chuyện lớp 4
Phân môn Kể chuyện ở lớp 4 gồm 3 kiểu bài: kể chuyện đã nghe thầy
cô kể trên lớp; kể chuyện đã nghe, đã đọc; kể chuyện đã được chứng kiến
hoặc tham gia. Với 10 chủ điểm trong chương trình lớp 4, 3 kiểu bài này được
thực hiện một cách hợp lý ở các tuần trong mỗi một chủ điểm.
Chủ điểm

Tuần Nội dung

Thương người như 1

Kể chuyện “ Sự tích hồ Ba Bể”

thể thương thân

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Đọc bài thơ “ Nàng


2

tiên Ốc” và kể lại
3

Kể một câu chuyện đã được nghe, được đọc về
lòng nhân hậu

Măng mọc thẳng

4

Kể chuyện “ Một nhà thơ chân chính”

5

Kể một câu chuyện mà em đã được nghe, được
đọc về tính trung thực

6

Kể một câu chuyện về lòng tự trọng

Trên đôi cánh ước 7

Kể chuyện “ Lời ước dưới trăng”



Kể một câu chuyện về những ước mơ đẹp hoặc


8

những ước mơ viển vông, phi lí
9

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia: Kể
chuyện về một ước mơ đẹp của em hoặc của
bạn bè, người thân

Có chí thì nên

11

Kể chuyện “ Bàn chân kì diệu”

12

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Kể một câu chuyện
về người giàu nghị lực

21


13

Kể một câu chuyện em được chứng kiến hoặc
trực tiếp tham gia thể hiện tinh thần kiên trì
vượt khó


Tiếng sáo diều

14

Kể chuyện “ Búp bê của ai?”

15

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Kể một câu chuyện
có nhân vật là những đồ chơi của trẻ em hoặc
những con vật gần gũi với em

16

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia: Kể
một câu chuyện có liên quan đến đồ chơi của
em hoặc của các bạn xung quanh

Người ta là hoa đất

17

Kể chuyện “ Một phát minh nho nhỏ”

19

Kể chuyện “ Bác đánh cá và gã hung thần”

20


Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Kể một câu chuyện
về người có tài

21

Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia: Kể
chuyện về một người có khả năng hoặc có sức
khoẻ đặc biệt mà em biết

Vẻ đẹp muôn màu

22

Kể chuyện “ Con vịt xấu xí”

23

Kể chuyện đã nghe, đã đọc” Kể một câu chuyện
ca ngợi cái đẹp, phản ánh cuộc đấu tranh giữa
cái đẹp với cái xấu, cái thiện với cái ác

24

Kể chuyện về việc em hoặc người xung quanh
đã làm gì để giữ gìn xóm làng, đường phố,
trường học xanh, sạch, đẹp

Những người quả 25

Kể chuyện “ Những chú bé không chết”


cảm

Kể một câu chuyện nói về lòng dũng cảm

26

22


27

Kể một câu chuyện về lòng dũng cảm mà em
được chứng kiến hoặc tham gia

Khám phá thế giới

29

Kể chuyện “ Đôi cánh của ngựa trắng”

30

Kể chuyện đã nghe, đã đọc: Kể một câu chuyện
về du lịch hay thám hiểm

31

Kể một câu chuyện về một cuộc du lịch hay
cắm trại mà em được tham gia


Tình yêu cuộc sống 32
33

Kể chuyện “ Khát vọng sống”
Kể chuyện đã nghe, đã đọc: kể một câu chuyện
về tinh thần lạc quan, yêu đời

34

Kể một câu chuyện về một người vui tính mà
em biết

Như vậy, chương trình Kể chuyện lớp 4 gồm 31 tiết ứng với 10 chủ
điểm trong năm. Hai kiểu bài được thực hiện ở chủ điểm đầu tiên trong năm
là kiểu kể chuyện đã nghe thầy, cô kể trên lớp và kiểu bài kể chuyện đã nghe,
đã đọc, riêng kiểu bài kể chuyện đã chứng kiến hoặc tham gia được thực hiện
ở tuần thứ 9 trong chủ điểm “ Trên đôi cánh ước mơ”.
2.2. Nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
Vấn đề trực quan trong dạy học là vô cùng quan trọng, nhưng nếu
không biết cách sử dụng thì đồ dùng trực quan sẽ không được khai thác hết
hiệu quả của nó. Chính vì vậy việc nghiên cứu và đưa ra các cách để sử dụng
các đồ dùng trực quan có hiệu quả là vô cùng cần thiết và phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định
2.2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan phải đáp ứng nhu cầu cần và đủ
Cần: có nghĩa là đáp ứng được sự cần thiết của việc giảng dạy nội dung
kiến thức, nếu thiếu đồ dùng trực quan này thì hiệu quả của tiết dạy sẽ kém đi
hoặc không đạt yêu cầu mong muốn.

23



Ví dụ: Dạy bài kể chuyện “ Những chú bé không chết” của Quy-ra-xkêvích, đề bài yêu cầu : Dựa vào các tranh dưới đây, kể lại từng đoạn của câu
chuyện mới được nghe cô giáo (thầy giáo) kể. Sách giáo khoa đã vẽ bốn hình
minh hoạ cho nội dung câu chuyện. Song giáo viên cần hướng dẫn học sinh
quan sát từng bức tranh, phân tích chi tiết của từng bức tranh sau khi đã kể
cho học sinh nghe câu chuyện để từ việc phân tích tranh minh hoạ kết hợp với
việc nghe giáo viên kể chuyện, học sinh sẽ nắm rõ được nội dung chính của
truyện, nắm được tình tiết chính của từng bức tranh. Từ đó giúp học sinh biết
kể lại từng đoạn của câu chuyện một cách đầy đủ và sáng tạo bằng ngôn ngữ
của mình. Nếu giáo viên chỉ đơn thuần để học sinh nghe mà không hướng dẫn
học sinh dựa vào tranh minh hoạ, hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích
tranh thì học sinh sẽ rất khó nhớ được nội dung của câu chuyện. Giáo viên sẽ
phải kể đi kể lại nhiều lần câu chuyện đó.
Đủ: đủ là có số lượng đồ dùng trực quan cần thiết để hình thành kiến
thức. Giáo viên cần xác định rõ mỗi bài học cần bao nhiêu đồ dùng trực quan
là đủ, căn cứ vào nội dung từng bài cụ thể ở từng kiểu bài, căn cứ vào trình
độ, tâm lý của lứa tuổi học sinh, căn cứ vào đặc điểm các vùng miền khác
nhau và các điều kiện cho phép để lựa chọn các loại hình trực quan cho phù
hợp. Có như vậy đồ dùng trực quan mới phát huy được hết tác dụng trong quá
trình giảng dạy.
Đối với học sinh lớp 4, tư duy cụ thể vẫn tiếp tục phát triển, tư duy trừu
tượng đang dần dần hình thành và chiếm ưu thế. Do đó khi quan sát một bức
tranh, bức ảnh các em đã biết tìm ra các dấu hiệu đặc trưng, bản chất của các
sự vật hiện tượng, biết phân biệt chi tiết. Vì thế, khi sử dụng đồ dùng dạy học
giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách khai thác sâu vào chi tiết quan
trọng. Có như vậy mới phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh

24



trong chiếm lĩnh tri thức và phát huy được vai trò, tác dụng của đồ dùng trực
quan trong dạy học.
Việc trình bày bất kì một đồ dùng dạy học nào, bao giờ cũng kèm theo
lời nói của giáo viên. Chính lời nói của giáo viên đã định hướng học sinh
quan sát vào cái cần thiết, cái bản chất của đối tượng, lời nói của giáo viên và
đồ dùng trực quan trong quá trình dạy học có tác dụng bổ trợ cho nhau rất hữu
hiệu. Sự phối hợp này thay đổi phụ thuộc vào mục đích cụ thể, vào nội dung
bài học, vào chất lượng của đồ dùng trực quan
Có 4 hình thức phối hợp:
- Học sinh tự rút ra tri thức từ quan sát, thao tác với đối tượng trực quan.
- Lời nói của giáo viên giúp cho học sinh hiểu được những mối liên hệ
giữa các hiện tượng mà học sinh nghiên cứu, khám phá, nhận biết trong quá
trình quan sát và tác động vào đồ dùng trực quan.
- Tri thức mới, học sinh tiếp thu được từ sự thông báo bằng lời của
giáo viên, còn trực quan là nhằm cụ thể hoá hoặc khẳng định các tri thức này.
- Giáo viên thông báo mối liên hệ giữa các hiện tượng, rút ra những kết
luận từ sự quan sát của học sinh.
Đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Kể chuyện có cách sử dụng
và những yêu cầu riêng. Do đó cần nắm vững vai trò của từng loại hình đồ
dùng trực quan trong từng bài để xác định được phương pháp khai thác hiệu
quả nhất.
2.2.2. Sử dụng đồ dùng trực quan đúng mục đích
Mỗi tiết học kể chuyện nói chung và mỗi tiết học kể chuyện ở lớp 4 nói
riêng đều đặt ra yêu cầu và mục đích nhất định. Mục đích này quy định hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh, quy định việc lựa chọn
và sử dụng đồ dùng trực quan (tranh, ảnh, vật mẫu,…. ). Sử dụng đồ dùng
trực quan phải bám vào mục đích đã định của bài học. Thông thường, khi sử

25



×