Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Một số vấn đề pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.55 KB, 99 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với mỗi quốc gia, Ngân hàng đóng vai trò là “huyết mạch” của nền kinh
tế. Bởi vậy, hoạt động ngân hàng liên quan chặt chẽ đến quá trình phát triển kinh tế
xã hội. Bằng hoạt động của mình, các NHTM đã điều tiết vốn từ những nơi nhàn rỗi
đến những nơi có nhu cầu về vốn, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Trong hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Với những đặc tính riêng vốn có, cho vay trở thành lĩnh vực hoạt động có
nhiều nguy cơ rủi ro nhất trong tổng thể hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng
thương mại. Điều này bắt buộc các NHTM phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn
chế tối đa rủi ro này, biện pháp được coi là hữu hiệu nhất chính là áp dụng các biện
pháp bảo đảm tiền vay. Bởi bảo toàn vốn trong hoạt động cho vay luôn là mối quan
tâm hàng đầu của các NHTM, cho vay phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả. Việc bảo
toàn được nguồn vốn thông qua các biện pháp bảo đảm tiền vay của NHTM không
chỉ là mối quan tâm của ngân hàng với vai trò là người trực tiếp cho vay; mà còn là
sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước trong quản lý và điều hành lĩnh vực tiền tệ ngân hàng. Bảo đảm an toàn hoạt động cho vay của ngân hàng không những đảm
bảo an toàn cho NHTM hoạt động hiệu quả mà đồng thời có tác dụng tích cực góp
phần bình ổn và phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững.
Nhằm đảm bảo sự an toàn, ổn định và hạn chế tối đa rủi ro thì cần thiết
phải có sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động cho vay của NHTM nói
riêng và hoạt động tín dụng của TCTD nói chung. Ở nước ta, kể từ khi ban hành
Luật NHNN và Luật các TCTD (tháng 10 năm 1997), thì các Quy định pháp luật
về BĐTV và một số vấn đề liên quan đến BĐTV được ban hành và thực thi đã
góp phần không nhỏ trong việc bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế, sự đổi thay của xã hội, các quy định về
BĐTV đã bộc lộ những bất cập, đặc biệt là sự thiếu đồng bộ trong xử lí các vấn đề
liên quan đến BĐTV nói chung, tài sản bảo đảm nói riêng.
Việt Nam đã ra nhập WTO, và ngày càng hòa nhập vào các quan hệ đa
phương quốc tế. Như vậy, không những khoảng cách về phát triển kinh tế xã hội


phải được thu hẹp mà khoảng cách về luật pháp cũng phải được rút ngắn. Đó là cơ

1


Khoá luận tốt nghiệp
hội và cũng là thách thức cho chúng ta trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực tài chính- ngân hàng, những ảnh
hưởng tiêu cực của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế. Do vậy, Vai trò của các
biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng mà đặc biệt là các biện pháp bảo đảm tiền vay là
rất lớn. Trên thực tế, BĐTV trong các NHTM đã được quan tâm, nhưng còn
không ít những khó khăn bất cập phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật về
BĐTV, từ khâu công chứng, chứng thực hợp đồng bảo đảm tiền vay, đăng kí giao
dịch bảo đảm tiền vay đến việc xử lí tài sản bảo đảm. Với mong muốn góp phần
vào việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp lý về bảo đảm tiền vay, tôi đã
lựa chọn đề tài Khóa luận tốt nghiệp với tiêu đề: “Một số vấn đề pháp luật về bảo
đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về lĩnh vực bảo đảm tiền vay của các NHTM dưới các góc độ khác nhau như:
Hoàn thiện quy chế bảo đảm an toàn trong cho vay của các ngân hàng thương mại
Việt Nam, Nguyễn Văn Hưng, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà Nội 2003; Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng,
Trần Thị Minh Tâm, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà nội 2003;
Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Sở Giao dịch Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Nguyễn Văn Minh, luận văn
thạc sỹ kinh tế, Học viện ngân hàng, Hà Nội 2006; Pháp luật về giao dịch bảo đảm
trong hoạt động cho vay của các TCTD ở Việt Nam, Dương Thị Bình, Luận văn
thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội 2006; Giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các NHTM trên

địa bàn Hà Nội, Phạm Hùng Thắng, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia,
Hà Nội 2007; Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, Trần Quang Minh, Tạp chí Ngân
hàng, số 12/2001; Xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, Trần Luyện, Tạp
chí Ngân hàng, số 1,2/2004; Một số bất cập và kiến nghị liên quan đến việc đăng
ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, Nguyễn
Khánh Thắng, Tạp chí Ngân hàng, số 5/2006…

2


Khoá luận tốt nghiệp
Nhìn chung, các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào phân tích việc thực
thi các quy định về bảo đảm tiền vay, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, giao dịch bảo
đảm, hoặc nghiên cứu về bảo đảm tiền vay trong khuôn khổ thực hiện quy định về
bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Những nghiên
cứu này chủ yếu thực hiện ở mức độ khái quát tại ngân hàng thương mại và việc
thực hiện nghiên cứu về bảo đảm tiền vay là một khía cạnh trong việc tìm kiếm
các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng hoặc chỉ
nghiên cứu dưới góc độ kinh tế, nghiệp vụ. Ngày nay, nước ta đang từng bước hội
nhập sâu, rộng với nền kinh tế thế giới, cơ chế kinh tế được vận hành theo cơ chế
thị trường, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tếWTO. Do đó, nhiều quy định pháp luật, nhất là các quy định pháp luật trong lĩnh
vực kinh tế cần phải có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình mới, và pháp luật
trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói chung và pháp luật về bảo đảm tiền vay
cũng không nằm ngoài yêu cầu đó.
Đề tài “Một số vấn đề pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho
vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay”, tuy không phải là đề tài hoàn toàn mới
nhưng vẫn còn rất cần thiết, vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa thực tiễn
và là một trong những vấn đề đang được quan tâm, đây là vấn đề cần được các
NHTM và NHNN cùng quan tâm, chia sẻ những quan điểm và biện pháp, để có
thể nâng cao hiệu quả trong hoạt động tín dụng của từng TCTD cũng như của toàn

Hệ thống ngân hàng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu các vấn đề lí luận cơ bản liên quan đến bảo đảm
tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
- Tìm hiểu các quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm tiền vay
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay
- Thông qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về bảo đảm tiền vay.
4. Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu được sử dụng
- Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật về bảo đảm tiền vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay.

3


Khoá luận tốt nghiệp
- Phạm vi nghiên cứu: Các quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm tiền
vay ở Việt Nam nói chung và đi sâu phân tích các quy định về bảo đảm tiền vay
bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nói riêng. Thông qua đó đưa ra một số giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu, từ phương pháp luận duy vật biện chứng, các quy luật của triết học
Mác- Lê nin đến các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, điều tra xã hội học kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Các lý luận
liên quan đến hoạt động ngân hàng đã được tổng hợp, đúc kết sẽ được sử dụng
làm tài liệu cho việc nghiên cứu đề tài cùng với vận dụng kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học có liên quan đến hoạt động ngân hàng để làm sâu sắc
thêm các luận điểm.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, danh mục kí hiệu các chữ viết tắt, kết luận, danh mục

văn bản pháp luật và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho
vay của các ngân hàng thương mại.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay.

4


Khoá luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MAI
1.1. Khái quát chung về hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Khái niệm về cho vay của ngân hàng thương mại
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng của TCTD. Theo đó, TCTD sẽ giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định,
theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Điểm khác biệt giữa cho
vay và các hình thức cấp tín dụng khác của TCTD như chiết khấu các chứng từ có
gía, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính là: trong nghiệp vụ cho vay, TCTD
giao một khoản tiền nhất định, trong một thời gian nhất định cho bên đi vay để
dùng vào mục đích nhất định và bên đi vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi khi đến
hạn. Điều này có nghĩa là, khoản tiền vay được chuyển giao một cách trực tiếp
hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay.
Hoạt động cho vay của NHTM thực chất là giao dịch hợp đồng. Chủ thể
tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (NHTM) và bên đi vay (khách hàng
vay). Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa NHTM và khách hàng vay là

hợp đồng tín dụng ngân hàng. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, Bên cho vay
thông thường là TCTD được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy
định của Luật các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, các tổ chức khác không phải là tổ
chức tín dụng nếu được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép thực hiện hoạt
động tín dụng thì cũng có thể là bên cho vay trong hợp đồng tín dụng và cũng phải
thỏa mãn những điều kiện nhất định theo luật định.
Hoạt động cho vay và đầu tư để kiếm lời từ tiền huy động là một trong
những hoạt động cơ bản nhất của NHTM. Và mọi hình thức cho vay của NHTM
đều vì mục tiêu lợi nhuận. Mỗi loại hình thức cho vay có những đặc điểm riêng về
thủ tục, điều kiện, độ an toàn… nhưng chúng đều có chung đặc điểm là luôn phải
đối mặt với nguy cơ mất an toàn khi đưa tiền cho người vay sử dụng. Là doanh
nghiệp kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại luôn tìm mọi biện pháp để

5


Khoá luận tốt nghiệp
thu được mức lợi nhuận cao nhất thông qua cho vay và cung ứng dịch vụ thanh
toán cho nền kinh tế, nhưng đồng thời phải đạt được mục tiêu là an toàn cao nhất
cho tài sản của mình.
Đặc điểm hoạt động cho vay
Cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, các ngân hàng sử dụng
nguồn tiền huy động để cho vay, các khoản cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn, là
hoạt động mang lại nguồn thu lớn cho ngân hàng. Tiền lãi thu được từ hoạt động
cho vay được dùng để trả cho người gửi tiền, trang trải chi phí hoạt động của ngân
hàng, phần còn lại chính là lợi nhuận của ngân hàng. Như vậy, hiệu quả cho vay
đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM.
Hoạt động cho vay là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, và rủi ro trong
hoạt động tín dụng nói chung, trong hoạt động cho vay nói riêng luôn là nguy cơ
tiềm ẩn mà mỗi ngân hàng phải gánh chịu. Các rủi ro này thường xuất hiện khi

khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả hoặc trả không đầy đủ cả vốn gốc và
lãi. Rủi ro này phát sinh do hoạt động kinh doanh của khách hàng gặp khó khăn từ
các nguyên nhân chủ quan và khách quan, do khách hàng cố tình lừa đảo chiếm
dụng vốn của ngân hàng, do khả năng yếu kém của cán bộ tín dụng ngân hàng
trong quá trình thẩm định dự án cho vay… Như vậy, có thể nói, rủi ro tín dụng chỉ
có thể được hạn chế bằng các biện pháp nhất định chứ không thể loại trừ rủi ro.
Các loại cho vay của ngân hàng thương mại:
Thông thường hoạt động cho vay được phân loại theo một số tiêu thức nhất
định như sau:
Theo mục đích sử dụng tiền vay:
Theo tiêu chí này, các khoản cho vay được phân thành hai loại: Cho vay
kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Mục đích sử dụng tiền vay khác nhau sẽ ảnh
hưởng đến khả năng hoàn trả tiền vay. Do vậy, ngân hàng có thể thiết lập những
điều kiện ràng buộc khác nhau đối với người vay tùy thuộc vào mục đích sử dụng
tiền vay. Các điều kiện ràng buộc đó có liên quan đến các vấn đề như nguồn tiền
để trả nợ, về các bảo đảm của người vay… cũng như có thể đưa ra những ưu đãi
nhất định đối với người vay. Khi cho vay kinh doanh, với việc tạo dựng được
niềm tin và khẳng định được hiệu quả của phương án sử dụng tiền vay, ngân hàng

6


Khoá luận tốt nghiệp
có thể không đòi hỏi khách hàng phải có những bảo đảm khác như cầm cố, thế
chấp tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Nhưng khi cho vay tiêu dùng, do tiền
vay không tạo thêm thu nhập cho người vay, nên ngoài việc căn cứ vào thu nhập
ổn định trong hiện tại và tương lai của người vay như tiền lương, thưởng, ngân
hàng còn yêu cầu người vay phải dùng tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ ba để bảo
đảm cho khoản vay.
Theo thời hạn sử dụng tiền vay của khách hàng:

Theo tiêu chí này, các khoản cho vay của ngân hàng được phân thành hai
loại: Cho vay không thời hạn và cho vay có thời hạn.
Cho vay không thời hạn thực chất là khoản cho vay mà thời hạn và thời
điểm hoàn trả không được xác định vào thời điểm cho vay và ghi trong hợp đồng.
Thay vào đó là những điều kiện liên quan tới việc hoàn trả của người vay và việc
thu hồi tiền cho vay của ngân hàng. Với cách quy định những điều kiện như vậy,
ngân hàng đã tạo cho người vay điều kiện để ổn định hoạt động sản xuất kinh
doanh trong quá trình sử dụng tiền vay. Loại cho vay không có thời hạn chỉ được
giới hạn áp dụng đối với một số khách hàng nhất định, tiền cho vay được sử dụng
vào những mục đích nhất định.
Cho vay có thời hạn được chia thành ba loại: cho vay ngắn hạn (thời hạn
dưới 12 tháng), cho vay trung hạn (thời hạn trên 12 tháng đến 5 hoặc 7 năm) và
cho vay dài hạn (trên 5 hoặc trên 7 năm). Việc phân chia các khoản vay theo các
thời hạn cụ thể như trên giúp cho ngân hàng có thể theo dõi, giám sát được các
khoản vay một cách chặt chẽ, đồng thời kế hoạch hóa, cân đối được các nguồn
vốn của ngân hàng. Mặt khác, việc cho vay với những thời hạn cụ thể còn là căn
cứ để xác định các mức lãi suất cần thu của ngân hàng, và giúp cho người vay có
căn cứ để lựa chọn các thời hạn vay phù hợp nhu cầu sử dụng của mình, giảm chi
phí trả lãi đến mức có thể.
Theo điều kiện bảo đảm khoản vốn vay:
Theo tiêu chí này, các khoản cho vay của ngân hàng được chia thành hai
loại: Cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Cho vay có bảo đảm bằng tài sản là những khoản cho vay mà theo đó,
người vay hoặc người bảo lãnh phải chuyển cho ngân hàng một lượng tài sản nhất

7


Khoá luận tốt nghiệp
định và ngân hàng sẽ được xử lí tài sản đó để thu hồi tiền cho vay khi người vay vi

phạm những điều khoản quy định ghi trong hợp đồng vay. Như vậy, ngân hàng
cho khách hàng vay dựa trên cơ sở cầm cố, thế chấp tài sản thuộc sở hữu (hoặc sử
dụng) của người vay được đưa ra làm vật bảo đảm cho khoản vay. Các tài sản có
thể là vàng, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác, các khoản phải thu, đất đai, nhà
cửa, cổ phiếu, bảo lãnh (như một sự bảo đảm) của bên thứ ba… Nếu người vay
không trả được nợ đúng hạn như đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lí tài sản bảo
đảm để thu nợ.
Cho vay không có tài sản bảo đảm là những khoản cho vay mà người vay
không phải chuyển tài sản cho ngân hàng để tạo nguồn thu nợ cho ngân hàng khi
người vay không thực hiện được cam kết khi vay. Không có tài sản bảo đảm khi
cho vay luôn được bổ sung bằng các điều kiện ràng buộc khác của ngân hàng
nhằm bảo đảm cho việc thu hồi được nợ đã cho vay của ngân hàng. Cho vay
không có bảo đảm bằng tài sản là việc cho vay của ngân hàng dựa trên uy tín,
năng lực tài chính và khả năng tạo thu nhập đủ mức để trả nợ khoản vay của người
vay. Trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, ngân
hàng phải tự gánh chịu tổn thất.
Tóm lại, tùy thuộc vào tính chất khoản vay, vào mối quan hệ (tín nhiệm
hay không tín nhiệm) giữa khách hàng vay với ngân hàng mà ngân hàng có thể
yêu cầu hoặc không yêu cầu người vay phải có biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
tài sản. Mọi khoản cho vay đều có bảo đảm từ uy tín, khả năng tài chính có được
từ hiệu quả sản xuất kinh doanh hoặc từ tài sản của người vay. Bảo đảm của người
vay thể hiện cam kết của người vay cho việc trả nợ đúng hạn. Tuy nhiên, do việc
cho vay luôn đồng hành với rủi ro, nên ngân hàng phải quan tâm hơn đến những
tài sản bảo đảm mà ngân hàng có thể bán hoặc dựa vào đó để thu nợ khi người vay
không trả được nợ đúng hạn. Nguồn trả nợ của khách hàng cho khoản tiền đã vay
của ngân hàng là thu nhập từ các hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động kinh
doanh từ việc sử dụng tiền vay của ngân hàng nói riêng, đây là nguồn trả nợ chính
của người vay. Tuy nhiên, xét trên quan điểm tạo nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn
trả nợ thứ nhất không đủ hoặc không có để người vay có thể trả nợ đúng hạn đã


8


Khoá luận tốt nghiệp
cam kết, ngân hàng thường phải áp dụng hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài
sản cầm cố, thế chấp.
Theo phương thức hoàn trả:
Theo tiêu chí này, các khoản cho vay của ngân hàng được chia thành hai
loại: Cho vay trả một lần cả gốc và lãi; và cho vay trả từng phần theo định kỳ.
Việc hoàn trả tiền vay phụ thuộc vào chu kỳ, đặc điểm và kế hoạch sử dụng tiền
vay của khách hàng vay. Việc ngân hàng định ra các phương thức phân chia cách
thức trả nợ để nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng khi trả nợ, tránh tình
trạng căng thẳng về tài chính cho khách hàng trong quá trình sử dụng tiền vay,
đồng thời cũng tạo điều kiện cho ngân hàng xây dựng và thực hiện kế hoạch cho
vay một cách tốt nhất
Các loại khách hàng vay:
Khách hàng vay cũng là một trong những tiêu chí để phân loại các khoản
cho vay của ngân hàng. Việc phân chia khách hàng vay thành các nhóm khách hàng
là một định hướng quan trọng trong chiến lược về chính sách khách hàng của các
NHTM. Cách phân loại vay này giúp cho ngân hàng có được cơ sở tốt trong việc
thiết lập các điều kiện cho vay và những ưu đãi có thể vận dụng trong cho vay ứng
với mỗi loại khách hàng. Chẳng hạn, điều kiện và ưu đãi dành cho nhóm khách
hàng vay là các đơn vị kinh doanh sẽ khác với nhóm khách hàng vay cho tiêu dùng.
Và nếu như khách hàng vay là các đơn vị kinh doanh lớn sẽ khác với doanh nghiệp
nhỏ và vừa, khách hàng truyền thống khác với khách hàng mới… Việc phân loại
cho vay theo nhóm khách hàng vay thường liên quan nhiều đến chính sách cho vay
của ngân hàng, bởi khách hàng vay tiền của ngân hàng rất đa dạng bao gồm: Chính
phủ, tổ chức tài chính, doanh nghiệp và các cá nhân.
Ngân hàng cho Chính phủ vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Chính
phủ. Hình thức cho vay Chính phủ phổ biến nhất hiện nay là ngân hàng mua tín

phiếu và trái phiếu do Kho bạc phát hành. Phải nói rằng, khả năng hoàn trả của
Chính phủ là rất cao, tuy nhiên ngân hàng cũng phải chú ý đến rủi ro lãi suất, rủi
ro thanh khoản và rủi ro hối đoái khi cho Chính phủ vay, bởi lãi suất tín phiếu, trái
phiếu Chính phủ thường là lãi suất cố định.

9


Khoá luận tốt nghiệp
Ngân hàng cho vay đối với các tổ chức tài chính như các ngân hàng, các
công ty tài chính, các quỹ tín dụng… nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số
công ty chứng khoán vay vốn ngắn hạn của NHTM trong quá trình bảo lãnh và
phân phối chứng khoán cho công ty phát hành. Hình thức cho vay đa dạng, có thể
cho vay trực tiếp trên thị trường liên ngân hàng hoặc cho vay gián tiếp thông qua
nắm giữ chứng khoán. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên uy tín của
người vay hoặc dựa trên bảo lãnh của người thứ ba và cầm cố các chứng khoán có
tính thanh khoản cao.
Khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các ngân hàng thương mại là
doanh nghiệp. Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay nhằm tăng thêm vốn để sản
xuất kinh doanh. Phần lớn các khoản cho vay này đều có cầm cố hoặc thế chấp tài
sản. Có thể nói, đây là khoản mục tài sản có khả năng sinh lời cao nhất nhưng
cũng đồng thời là khoản mục tài sản có nguy cơ xảy ra mất an toàn cao nhất.
Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua
sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển, du học… các
khoản vay này thường có rủi ro cao, vì vậy ngân hàng thường đòi hỏi người vay
phải có tài sản đảm bảo.
Ngoài các cách phân loại như đã trình bày ở trên, tùy thuộc vào yêu cầu quản
lý các khoản cho vay của ngân hàng và yêu cầu giám sát việc sử dụng tiền vay của
khách hàng, các ngân hàng còn có thể phân chia các khoản cho vay thành nhiều
loại, theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nhưng những tiêu thức trên được hầu hết các

ngân hàng sử dụng, và được coi là những loại cho vay chính của các ngân hàng.
1.1.2. Các nguyên tắc cho vay
Nguyên tắc cho vay được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng của Nhà
nước trong từng giai đoạn. Theo quy định của pháp luật hiện hành, có hai nguyên
tắc chủ đạo trong hoạt động cho vay, đó là:
- Nguyên tắc sử dụng vốn vay đúng mục đích. Theo nguyên tắc này thì
khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã sử dụng trong hợp
đồng tín dụng ngân hàng. Do đó, TCTD và khách hàng vay phải thỏa thuận và ghi
rõ mục đích sử dụng vốn vay trong hợp đồng tín dụng ngân hàng, khi ngân hàng
cho vay, khách hàng phải giải trình rõ về mục đích sử dụng vốn vay, qua đó ngân

10


Khoá luận tốt nghiệp
hàng xác định lượng vốn, thẩm định tính khả thi của lượng vốn cho vay. TCTD có
quyền kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn của khách hàng. Trong
quá trình sử dụng vốn vay, nếu phát hiện ra khách hàng sử dụng vốn vay không
đúng mục đích thì TCTD có quyền chấm dứt việc cho vay và thu hồi nợ trước
hạn.
- Nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi vốn vay theo đúng thời hạn đã thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng. Theo nguyên tắc này, số tiền khách hàng vay nhận được
chỉ được sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng ngân hàng (thời hạn vay vốn). Khi hết hạn hợp đồng người đi
vay phải trả cả gốc lẫn lãi. Tùy thuộc vào phương thức cho vay mà nghĩa vụ hoàn
trả tiền vay được thực hiện bằng nhiều cách. Ví dụ, theo phương thức cho vay trả
góp: khi vay vốn, khách hàng và TCTD xác định và thỏa thuận số lãi tiền vay phải
trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho
vay; tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên đi vay khi trả hết nợ gốc
và lãi. Đối với khoản vay nhằm mục đích phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh

thì thường được thanh toán một lần khi đến hạn. Việc hoàn trả cả gốc và lãi vốn
vay là một yêu cầu bất kỳ người cho vay nào cũng đòi hỏi người đi vay cam kết
thực hiện, đây là cơ sở để tiến hành giao dịch cho vay. Để thực hiện tốt nguyên tắc
này, trước hết ngân hàng phải xác định kỳ hạn nợ phù hợp với từng khoản vay,
nhằm bảo đảm vốn vay luân chuyển phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh.
1.2. Khái luận về bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm BĐTV của NHTM
Trong lịch sử kinh doanh của các ngân hàng, cho vay có bảo đảm bằng tài
sản luôn được xem là hình thức cho vay phổ biến nhất, bởi lẽ nó giúp cho các
ngân hàng hạn chế được phần lớn các rủi ro tín dụng và góp phần đưa các ngân
hàng đến sự phát triển thịnh vượng như ngày nay. Sự bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ
tiền vay, đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của hầu hết các ngân hàng trên thế
giới trong suốt hàng trăm năm qua.
Theo luật dân sự hầu hết các nước trên thế giới, bảo đảm tiền vay là những
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. hợp đồng tín dụng ngân hàng theo

11


Khoá luận tốt nghiệp
pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới là một chế định của luật dân sự. Các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là những quy định của pháp luật đặt
ra và cho phép các chủ thể áp dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ được thực hiện, đồng
thời xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Quan hệ tín dụng thực chất cũng là
quan hệ dân sự nên các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng cũng
dựa trên cơ sở các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong luật dân sự.
Biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp được pháp luật quy định theo một
khuôn mẫu nhất định, có mục đích hướng dẫn cho các chủ thể trong quan hệ nghĩa
vụ (TCTD và khách hàng vay vốn) áp dụng, để đảm bảo cho nghĩa vụ được bảo

đảm thực hiện (nghĩa vụ trả nợ của khách hàng), đồng thời xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên trong biện pháp bảo đảm đó. Pháp luật của hầu hết các
nước không đưa ra khái niệm một cách tổng quát về bảo đảm tiền vay mà chỉ thể
hiện dưới dạng liệt kê từng biện pháp bảo đảm. Chẳng hạn như, trong Bộ luật
Thương mại thống nhất của Mỹ, trong phần IX “bảo đảm các giao dịch” có quy
định các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp, sở hữu động sản, quyền cầm
giữ tài sản; trong Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ được quy định trong quyển 3 “Các phương thức lập quyền sở hữu”
bao gồm cầm cố động sản và cầm cố bất động sản, thế chấp được quy định chung
với quyền ưu tiên, và bảo lãnh; Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định về các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: cầm cố, thế chấp trong quyển II “Vật quyền”,
bảo lãnh trong quyển III “Trái vụ”; Trong Bộ luật dân sự của Liên bang Nga
cũng quy định cụ thể các biện pháp này là cầm cố, thế chấp…
Pháp luật của các nước, các biện pháp bảo đảm trong Luật dân sự cũng
chính là các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Vậy
cần phải hiểu như thế nào về bản chất của sự bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại?
Theo từ điển Luật học, sự bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay, hay còn gọi
là bảo đảm tiền vay, được định nghĩa là “biện pháp được sử dụng để bên cho vay
thu hồi nợ trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay”. Theo pháp luật Việt Nam, ngoài những quy định
trong Bộ Luật dân sự, trong lĩnh vực ngân hàng còn có những quy định cụ thể áp

12


Khoá luận tốt nghiệp
dụng đối với bảo đảm tiền vay như Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997 (được
sửa đổi bổ sung năm 2004), Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 (thay
thế các Nghị định 178/1999/NĐ-CP; Nghị định 165/1999/NĐ-CP; Nghị định

85/2002/NĐ-CP)… Bảo đảm tiền vay thông thường chỉ được xem là biện pháp
thay thế, việc quyết định cấp tín dụng hay không là do tính khả thi của dự án, khả
năng tài chính của khách hàng vay chứ không phải ở tài sản bảo đảm tiền vay.
Chính vì vậy, bảo đảm tiền vay tuy có vai trò rất quan trọng, nhưng không phải
lúc nào cũng là yếu tố cần thiết khi vay vốn ngân hàng. Việc bảo đảm tiền vay
không phải quyết định hoàn toàn việc vốn vay sẽ được hoàn trả nhưng rủi ro trong
hoạt động cho vay của các TCTD sẽ phần nào được giảm bớt. Tuy nhiên, bảo đảm
tiền vay thường được áp dụng trong các trường hợp: khả năng trả nợ vốn vay của
khách hàng còn hạn chế; khi kinh tế đất nước có thể xảy ra lạm phát, làm mất giá
số tiền đã cho vay của TCTD, dễ làm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của khách
hàng vay vốn, do đó dễ dẫn đến việc vi phạm thời hạn trả nợ.
Theo nghĩa rộng, bảo đảm tiền vay là việc thiết lập các điều kiện nhằm xác
định khả năng thực có của khách hàng đối với việc hoàn trả vốn vay đúng thời
hạn. Bảo đảm tiền vay không chỉ đơn thuần và duy nhất là cho vay phải có tài sản
đảm bảo (thông qua thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh) mà cần hiểu nó theo nghĩa
rộng. Trước đây, việc bảo đảm tiền vay đơn thuần chỉ được hiểu là việc TCTD đòi
hỏi khách hàng phải có tài sản để làm cơ sở bảo đảm cho khoản vay. Trong trường
hợp khách hàng không hoàn trả được, tài sản sẽ thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng hoặc bị phát mại để trả nợ.
Trong thực tiễn, bảo đảm tiền vay cần được nhìn nhận dưới góc độ rộng hơn,
góc độ đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay. Theo đó, thực hiện bảo đảm tiền
vay là việc ngân hàng đưa ra cơ sở kinh tế, pháp lý để xác định xem nguồn tiền
khách hàng trả nợ cho ngân hàng lấy từ đâu, khách hàng có phải là người có trách
nhiệm trong việc trả nợ không và đưa ra các cơ sở pháp lý là các hợp đồng để
chứng minh quyền hợp pháp của mình trong đòi nợ và thanh lý tài sản bảo đảm.
Bảo đảm tiền vay cần phải thực hiện là một quá trình, từ trước khi cho vay, trong
khi cho vay và sau khi cho vay đến khi khoản vay được hoàn trả cả gốc lẫn lãi.

13



Khoá luận tốt nghiệp
Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay là những biện pháp mà các tổ chức tín
dụng áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể
xảy ra trong hoạt động cho vay của mình, cụ thể là bảo đảm cho việc thu hồi vốn
và lãi suất cho vay. Bảo đảm tiền vay là những biện pháp bảo đảm việc trả nợ vốn
vay (cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của
bên thứ ba, cầm cố, thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay). Hay bảo đảm
tiền vay là sự cam kết của người đi vay đối với người cho vay dựa trên các quy
định của Nhà nước, nhằm thiết lập, áp dụng các biện pháp tác động mang tính chất
dự phòng để đảm bảo việc trả nợ vốn vay, ngăn ngừa vi phạm và tạo khả năng
khắc phục những hậu quả do vi phạm nghĩa vụ trả nợ gây ra. [18]
Theo khoản 1, Điều 2 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP, ngày 29 tháng 12
năm 1999, bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để có thể thu hồi được các khoản
nợ đã cho khách hàng vay. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng xác định nguồn
thu nợ khi cho vay chính là thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách
hàng. Tuy nhiên, rủi ro luôn luôn là nguy cơ. Do vậy, mọi khách hàng vay, mọi
khoản vay đều mang lại những khoản thu nhập như đã dự tính trước từ hoạt động
sản xuất, kinh doanh của mình để hoàn trả nợ. Trường hợp khách hàng không trả
được nợ vay, hoặc trả nợ không đúng thời hạn như trong cam kết tại hợp đồng tín
dụng thì ngân hàng sẽ gặp rủi ro và phải gánh chịu tổn thất về tài chính. Để hạn
chế thiệt hại khi gặp rủi ro từ khách hàng của mình, ngân hàng thường áp dụng
biện pháp bảo đảm tiền vay, hình thức bảo đảm có thể là cho vay có bảo đảm bằng
tài sản hoặc không có tài sản đảm bảo.
Theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 (thay thế
Nghị định 178) thì bảo đảm tiền vay không được định nghĩa một cách cụ thể, mà
dưới dạng liệt kê từng biện pháp bảo đảm; giống với cách thức của hầu hết các
nước trên thế giới. Nghị định 163 quy định chi tiết việc áp dụng biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo khoản 1 Điều 318 của Bộ luật Dân sự (cầm cố

tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp), việc bảo
đảm tiền vay của tổ chức tín dụng và giao dịch dân sự của các tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác có thỏa thuận về biện pháp bảo đảm đều áp dụng chung các

14


Khoá luận tốt nghiệp
quy định tại Nghị định này. Như vậy, Nghị định 163 đã có bước phát triển mới,
tạo sự bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế.
Thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay không đồng nghĩa với việc
khoản cho vay của ngân hàng sẽ không gặp rủi ro, tài sản đảm bảo tiền vay sẽ là
nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất không thể thanh toán được nợ. Tài
sản cầm cố, thế chấp bảo đảm cho khoản vay thực chất là biện pháp nhằm hạn chế
mức độ thiệt hại cho ngân hàng khi gặp phải rủi ro do người vay không trả được
nợ đúng hạn và đầy đủ.
Xét từ góc độ kinh tế, sự bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay là một
biện pháp mang tính kinh tế, trong đó bên chủ nợ (ngân hàng) dùng giá trị tài sản
của người vay hoặc của người thứ ba để khấu trừ nghĩa vụ. Hay nói cách khác,
việc bảo đảm bằng tài sản của chính người vay hoặc tài sản của người thứ ba sẽ
tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho việc khấu trừ nghĩa vụ của người vay với ngân
hàng. Ở góc độ này, biện pháp bảo đảm tiền vay chỉ có ý nghĩa khi tài sản đem
bảo đảm có khả năng phát mại dễ dàng và giá trị tài sản bảo đảm đủ lớn để thanh
toán hết số nợ vay cho ngân hàng. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro bằng bảo đảm
tiền vay được xem xét, phân tích trên cơ sở hội tụ các yếu tố như uy tín, sự tín
nhiệm, khả năng tài chính của khách hàng vay, tính khả thi của dự án, khả năng
hoàn vốn của khách hàng.
Xét từ góc độ pháp lý, bảo đảm tiền vay có bản chất là một quan hệ pháp
luật mà hệ quả pháp lý của việc xác lập quan hệ đó là tạo ra quyền ưu tiên cho một
bên (bên nhận bảo đảm- bên có quyền), trong việc theo đuổi các tài sản bảo đảm

để thu hồi nợ cho mình; đồng thời cũng tạo ra các nghĩa vụ cho bên bảo đảm trong
việc giúp đỡ bên nhận bảo đảm thực hiện quyền ưu tiên của mình trên tài sản bảo
đảm. Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định ở nhiều nước,
người ta chấp nhận rằng sự bảo đảm cho một nghĩa vụ dân sự nói chung và nghĩa
vụ trả nợ tiền vay nói riêng có thể được xác lập bằng một hợp đồng (gọi là hợp
đồng bảo đảm) hoặc bằng các quy định sẵn có của pháp luật, thậm chí được xác
lập theo quyết định của Tòa án. Chẳng hạn, theo Điều 2116 Bộ luật Dân sự Pháp,
quyền thế chấp trên một bất động sản có thể được xác lập theo luật định, theo
quyết định của Tòa án hoặc theo thỏa thuận giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo

15


Khoá luận tốt nghiệp
đảm. Tuy nhiên, trên thực tế, trong thực tiễn giao dịch ngân hàng, sự bảo đảm cho
các nghĩa vụ trả nợ tiền vay trong hợp đồng tín dụng thường được xác lập bằng
một thỏa thuận giữa chủ tài sản (người vay hoặc người thứ ba) và bên cho vay
(chủ nợ) là ngân hàng thương mại. Theo đó, chủ tài sản cam kết để bên chủ nợ là
ngân hàng được quyền ưu tiên đòi nợ người vay từ số tiền bán tài sản bảo đảm.
Với cam kết này, chủ tài sản đã đặt mình vào tình trạng bị hạn chế về quyền định
đoạt với các tài sản đem bảo đảm, đồng thời chấp nhận dành cho bên chủ nợ là
ngân hàng quyền được ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ bất luận tài
sản đó nằm trong sự quản lý hay cầm giữ của ai. Như vậy, xét về góc độ pháp lý,
sự bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền vay bằng tài sản tuy có thể được thiết lập bằng
nhiều cách khác nhau, nhưng cách chủ yếu vẫn là thông qua một hợp đồng giữa
một bên là chủ tài sản (có thể là bên vay hoặc người thứ ba) với bên kia là chủ nợ
(ngân hàng). Giao dịch bảo đảm này tạo ra cơ sở pháp lý cho việc ngân hàng được
ưu tiên thanh toán nợ từ tài sản bảo đảm, so với các chủ nợ khác không được bảo
đảm bằng tài sản đó. Hay nói cách khác, giao dịch bảo đảm tiền vay đem đến cho
ngân hàng khả năng pháp lý trong việc kiểm soát tài sản bảo đảm tiền vay, khả

năng chi phối đối với quyền định đoạt tài sản bảo đảm và khả năng đòi nợ trước
các chủ nợ khác.
Ở mức độ khái quát, có thể nói rằng giao dịch bảo đảm tiền vay thực chất là
một loại hình cụ thể của giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Vì thế giao
dịch này có đầy đủ các dấu hiệu và thuộc tính cơ bản của giao dịch bảo đảm nghĩa
vụ dân sự. Những dấu hiệu này phản ánh bản chất của giao dịch bảo đảm nói
chung và giao dịch bảo đảm tiền vay nói riêng, bao gồm:
Thứ nhất, giao dịch BĐTV tạo ra hệ quả pháp lý là: một mặt, hạn chế
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với các tài sản bảo đảm của chủ sở
hữu tài sản; mặt khác, thiết lập cho bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) là ngân hàng
quyền được ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ so với các chủ thể
khác (là những chủ thể không được bảo đảm bằng tài sản đó). Đây là đặc điểm
quan trọng nhất phản ánh rõ nét bản chất của giao dịch bảo đảm nghĩa vụ dân sự
nói chung và giao dịch bảo đảm tiền vay nói riêng. Nếu không có thuộc tính này,
sự bảo đảm bằng tài sản sẽ không còn nhiều ý nghĩa nữa trong việc bảo đảm thi

16


Khoá luận tốt nghiệp
hành nghĩa vụ của người có nghĩa vụ đối với chủ nợ. Đặc điểm này còn giúp phân
biệt quyền của chủ nợ có bảo đảm với quyền của chủ nợ không có bảo đảm trong
quá trình chiếm hữu, quản lý, theo đuổi tài sản và bán tài sản để thu hồi nợ. Sự
khác biệt này còn thể hiện ở chỗ, khi giao dịch bảo đảm được thiết lập, chủ nợ có
bảo đảm sẽ có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ, bất luận tài
sản đó đang nằm trong tay ai, trong khi các chủ nợ không có bảo đảm bằng tài sản
đó không có quyền này. Cần phải lưu ý thêm rằng, việc thiết lập một giao dịch bảo
đảm giữa chủ nợ với chủ tài sản (có thể là con nợ hoặc người thứ ba) đối với một
khối tài sản bảo đảm cụ thể nào đó, không hề ngăn cản chủ nợ này thực hiện
quyền yêu cầu Tòa án cho phép kê biên, phát mại các tài sản khác không phải là

tài sản bảo đảm của con nợ, với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, nếu khối tài
sản đem bảo đảm không đủ để thanh toán nợ cho chủ nợ này. Đây chính là nội
dung của nguyên tắc mọi tài sản của con nợ đều được sử dụng để thanh toán cho
các chủ nợ của họ [19,tr.130 trog pl lv Thắng]. Nguyên tắc này cũng được ghi
nhận rất rõ tại Điều 2092 BLDS Pháp, quy định “người nào bị ràng buộc vào một
nghĩa vụ cá nhân thì phải thực hiện nghĩa vụ bằng tất cả tài sản của mình, động
sản và bất động sản hiện có và sẽ có”. Trong quan hệ cho vay có bảo đảm bằng
tài sản, nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, nếu đến hạn mà người vay không trả
nợ thì chủ nợ là ngân hàng có quyền tự động trích tiền trên tài khoản của người
vay để tự thu hồi nợ, hoặc tổ chức phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho
mình theo trình tự do pháp luật quy định nếu người vay không có tài khoản tại
ngân hàng hoặc trên tài khoản của họ không có tiền. Trong trường hợp tài sản bảo
đảm không phát mại được hoặc phát mại được nhưng không đủ thanh toán nợ thì
ngân hàng có quyền yêu cầu Tòa án cho phép kê biên, phát mại các tài sản khác
của người vay để thu hồi nợ, với tư cách là một chủ nợ không có bảo đảm. Trong
trường hợp này, ngân hàng có quyền tương đương như các chủ nợ không có bảo
đảm khác trong việc yêu cầu kê biên và bán đấu giá các tài sản thuộc quyền sở
hữu của bên vay để thu hồi nợ. Cơ sở để pháp luật quy định quyền này cho ngân
hàng là: Tài sản của người có nghĩa vụ là bảo đảm chung cho những người có
quyền, tương ứng với tỷ lệ quyền của mỗi người đó đối với người có nghĩa vụ, trừ

17


Khoá luận tốt nghiệp
khi người có quyền có lí do chính đáng để được hưởng ưu đãi từ việc thanh toán
tài sản (Điều 2093 BLDS Pháp).
Thứ hai, mục đích của giao dịch bảo đảm tiền vay là bảo đảm thi hành
nghĩa vụ trả nợ tiền vay theo hợp đồng tín dụng. Nghĩa vụ này được xác định bao
gồm nợ gốc, nợ lãi, các khoản phụ phí, tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng và

tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Do mục đích
của việc thiết lập bằng tài sản là để thi hành một nghĩa vụ tài sản cụ thể nên trong
trường hợp nghĩa vụ cần được bảo đảm không tồn tại thì sự bảo đảm sẽ không còn
cần thiết nữa. Điều này khẳng định tính chất phụ thuộc của giao dịch bảo đảm vào
nghĩa vụ tài sản phát sinh từ giao dịch được bảo đảm.
Thứ ba, giao dịch bảo đảm tiền vay có tính chất là một hợp đồng phụ,
hiệu lực của nó phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng chính (hợp đồng tín
dụng). Như vậy, nếu hợp đồng chính (hợp đồng tín dụng) mà vô hiệu thì đương
nhiên dẫn đến sự vô hiệu theo của hợp đồng bảo đảm tiền vay. Ngược lại, nếu
hợp đồng bảo đảm tiền vay bị vô hiệu thì không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của
hợp đồng tín dụng, và khoản vay theo hợp đồng tín dụng trở thành khoản vay
không có bảo đảm bằng tài sản.
Thứ tư, đối tượng của giao dịch bảo đảm tiền vay luôn là một tài sản hoặc
một khối tài sản cụ thể trị giá được bằng tiền. Đối với giao dịch cầm cố hoặc thế
chấp thì nhất thiết các bên phải xác định rõ khối tài sản đem bảo đảm cho nghĩa vụ
trả nợ tiền vay là những tài sản cụ thể nào. Còn đối với giao dịch bảo lãnh thì về
nguyên tắc là mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người bảo lãnh đều có
thể trở thành tài sản đem bảo lãnh cho nghĩa vụ trả nợ của người vay đối với ngân
hàng. Các tài sản này phải bảo đảm những tiêu chuẩn cần thiết theo luật định như:
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay hoặc của người thứ ba (người bảo
lãnh); có giá trị lớn hơn giá trị khoản vay; được phép giao dịch và không có tranh
chấp; được mua bảo hiểm nếu là tài sản bắt buộc phải mua bảo hiểm theo quy
định của pháp luật. Việc xác định rõ khối tài sản đem bảo đảm trong giao dịch bảo
đảm tiền vay là rất quan trọng, nhằm thiết lập quyền ưu tiên cho ngân hàng trong
việc theo đuổi tài sản đó để thu hồi nợ, đồng thời ngăn cản các chủ nợ không được
bảo đảm bằng tài sản đó thực hiện những hành vi chi phối đối với tài sản, gây bất

18



Khoá luận tốt nghiệp
lợi cho phía ngân hàng. Ngoài ra, việc xác định rõ khối tài sản bảo đảm tiền vay
còn nhằm mục đích ngăn ngừa nguy cơ người vay tìm cách tẩu tán tài sản để trốn
nợ của ngân hàng khi khoản vay không được thanh toán vào ngày đáo hạn.
Thứ năm, tài sản bảo đảm trong giao dịch bảo đảm tiền vay chỉ có thể được
phát mại khi người vay không thi hành nghĩa vụ trả nợ vào ngày đáo hạn. Việc
phát mại này phải được thực hiện theo phương án mà các bên đã thỏa thuận hoặc
phương án do pháp luật quy định, trên tinh thần bảo đảm quyền lợi và lợi ích hợp
pháp cho cả hai bên (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm) theo nguyên tắc công
bằng. Trên thực tế, đôi khi tài sản bảo đảm được các bên trong hợp đồng bảo đảm
thỏa thuận bán cho người thứ ba trước khi nghĩa vụ trả nợ tiền vay đến hạn, nhằm
tránh nguy cơ mất giá của tài sản bảo đảm. Trong trường hợp đó, số tiền bán tài
sản đương nhiên là vật thay thế cho tài sản bảo đảm, nếu các bên tham gia giao
dịch bảo đảm không có thỏa thuận nào khác.
Ngoài những đặc điểm cơ bản nêu trên, giống như bất cứ giao dịch bảo
đảm nào, giao dịch bảo đảm tiền vay còn thể hiện một số nét đặc thù như: chủ thể
nhận bảo đảm luôn là ngân hàng thương mại; tính phổ biến của giao dịch bảo đảm
tiền vay trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại; nghĩa vụ được bảo
đảm bởi giao dịch bảo đảm tiền vay là một nghĩa vụ đặc thù – mang tính rủi ro cao
và có ảnh hưởng mang tính dây chuyền. Đây không phải là những đặc thù mang
tính điển hình, nhưng cần được các nhà làm luật quan tâm, để có thể ban hành một
số quy định riêng về bảo đảm tiền vay cho các ngân hàng. Chẳng hạn, pháp luật có
thể trao quyền rộng rãi hơn cho các ngân hàng trong việc nhận tài sản bảo đảm và
lựa chọn phương thức xử lí tài sản bảo đảm. Mặt khác, cũng cần có những quy
định pháp luật nhằm gắn trách nhiệm của ngân hàng với việc thẩm tra kỹ lưỡng tài
sản bảo đảm tiền vay trước khi quyết định cho vay trên cơ sở cá thể hóa trách
nhiệm của người tiến hành công việc thẩm định tài sản bảo đảm, quy định trách
nhiệm của ngân hàng trong việc theo dõi, giám sát, quản lý tài sản bảo đảm nhằm
ngăn ngừa nguy cơ cán bộ, nhân viên ngân hàng lợi dụng sơ hở của pháp luật tiếp
tay cho khách hàng lừa đảo ngân hàng.

1.2.2. Các loại bảo đảm tiền vay

19


Khoá luận tốt nghiệp
Theo pháp luật của các nước và thực tế cho thấy có rất nhiều loại bảo đảm
tiền vay được các TCTD cho vay chấp thuận. Có thể phân loại theo các nhóm sau:
Bảo đảm tiền vay bằng các biện pháp mang tính chất truyền thống và
không truyền thống:
- Các biện pháp mang tính chất truyền thống: được quy định chủ
yếu trong Bộ luật dân sự như: cầm cố, thế chấp, đặt cọc, phạt vi phạm, bảo
lãnh ngân hàng, ký cược, ký quỹ. Trong đó, biện pháp đặt cọc, phạt vi phạm
vừa có tác dụng ngăn ngừa việc không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, vừa có ý
nghĩa chế tài theo thỏa thuận trong trường hợp nghĩa vụ không được thực hiện
đúng hoặc không thực hiện.
BLDS 2005 hiện hành ghi nhận bảy biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự như trên. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về bảo đảm tiền vay cũng như
thực tiễn pháp lý về bảo đảm tiền vay, người ta chỉ biết đến ba biện pháp chủ yếu
là: cầm cố, thế chấp và bảo lãnh bằng tài sản.
* Cầm cố tài sản:
Về mặt ngữ nghĩa, cầm cố tài sản là việc một người cầm trước (giữ sẵn) tài
sản của người khác để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa
vụ, bảo đảm cho quyền lợi và lợi ích của mình. [20, tr.301,302]
BLDS 2005 quy định “cầm cố tài sản là việc một bên (bên cầm cố)
giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, theo quy định hiện hành, biện
pháp cầm cố có những đặc điểm cơ bản là: bên cầm cố bắt buộc phải giao tài
sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố giữ, bên cầm cố có thể chính
là người có nghĩa vụ hoặc bên thứ ba đứng ra cầm cố tài sản của mình để bảo

đảm việc trả nợ của bên có nghĩa vụ. Tài sản bảo đảm bằng cầm cố thường là
động sản vì về nguyên tắc tài sản này phải được chuyển giao cho bên nhận
cầm cố giữ, dù pháp luật hiện hành không chỉ định rõ tài sản cầm cố phải là
động sản hay bất động sản. Việc cầm cố tài sản phải được lập thành văn bản
(có thể lập thành văn bản riêng, hoặc ghi trong hợp đồng chính), việc cầm cố
tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố.
Nhận thấy, một đặc điểm quan trọng của biện pháp cầm cố là người cầm cố

20


Khoá luận tốt nghiệp
không thể sử dụng, khai thác và thu lợi nhuận từ tài sản cầm cố (vì tài sản đó
đã được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ).
* Thế chấp tài sản:
Về mặt lý luận, thế chấp là một biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản,
theo đó một bên dùng tài sản để bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ, nhưng
không có việc chuyển giao tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp.
BLDS 2005 quy định: “thế chấp tài sản là việc một bên (gọi là bên thế
chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
đối với bên kia (gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho
bên nhận thế chấp”. Như vậy, gắn liền với đặc điểm không chuyển giao tài sản,
bên thế chấp vẫn giữ được cho mình quyền khai thác công dụng của tài sản, sử
dụng tài sản để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc sinh hoạt hàng
ngày của mình. Thậm chí, nếu không muốn tự khai thác tài sản, bên thế chấp có
thể cho người khác thuê, mượn tài sản… Đây chính là ưu thế của biện pháp thế
chấp nếu xét từ góc độ lợi ích của bên thế chấp. Còn đối với bên nhận thế chấp,
quyền và lợi ích của họ tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn (vì tài sản thế chấp vẫn nằm trong
tay người khác và hoàn toàn có thể bị mất mát, hỏng hóc, thậm chí bị tẩu tán bất
cứ lúc nào). Như vậy, các NHTM phải quan tâm nhiều hơn đến việc áp dụng

những biện pháp đặc biệt để kiểm soát tài sản thế chấp nhằm hạn chế các rủi ro
tổn thất cho mình.
* Bảo lãnh
Trong giao lưu dân sự, khi bên có nghĩa vụ không còn khả năng thực hiện
nghĩa vụ thì bảo lãnh chính là biện pháp để bảo đảm quyền lợi của người có
quyền. Theo nghĩa chung nhất, bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên có
quyền về việc họ sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho người có nghĩa vụ nếu đến thời
hạn mà người có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình.
Về mặt lý luận, bản chất của bảo lãnh là biện pháp bảo đảm đối nhân, nghĩa
là bên nhận bảo lãnh sẽ không xác lập một vật quyền lên tài sản cụ thể của bên
bảo lãnh.

21


Khoá luận tốt nghiệp
Điều 361, BLDS 2005 quy định: “bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây
gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh)
sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu như đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ”. Như vậy, từ định nghĩa này, có thể nhận thấy, bảo
lãnh đơn thuần chỉ là một cam kết thực hiện nghĩ vụ tài sản thay cho người có
nghĩa vụ, chứ không đòi hỏi người bảo lãnh phải cam kết dùng một hoặc một số
tài sản cụ thể của mình để bảo đảm cho việc thi hành nghĩa vụ bảo lãnh. Và biện
pháp bảo lãnh chỉ được hiểu là bảo lãnh đối nhân. Còn trường hợp người bảo lãnh
cam kết trả nợ thay cho người có nghĩa vụ bằng một khối tài sản cụ thể của mình
thì được xem là biện pháp cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba. Điểm
khác biệt cơ bản nhất của biện pháp bảo lãnh so với cầm cố, thế chấp bằng tài sản
của bên thứ ba là ở chỗ, trong biện pháp bảo lãnh, tài sản bảo đảm cho việc thi

hành nghĩa vụ của người bảo lãnh không được xác định cụ thể, nghĩa là mọi tài
sản của người bảo lãnh đều có thể được yêu cầu kê biên, phát mại khi có bằng
chứng về việc bên bảo lãnh không thực hiện cam kết của mình đối với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh). Điều này đồng nghĩa với việc bên nhận bảo lãnh
không thể xác lập một vật quyền lên tài sản cụ thể của bên bảo lãnh, không có
quyền ưu tiên đối với tài sản của người bảo lãnh
- Các biện pháp không mang tính chất truyền thống:
Bảo hiểm trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ trả nợ,
được xem xét như một loại bảo hiểm tự nguyện. Người mua bảo hiểm chính là
khách hàng vay vốn tại ngân hàng, người được bảo hiểm là ngân hàng cho vay,
doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập một cách hợp pháp và được
phép kinh doanh bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm phát sinh khi khách hàng không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ do các nguyên nhân như: khách hàng bị phá sản hoặc do gặp
các sự kiện bất khả kháng. Đây là một biện pháp hữu hiệu, bởi nó có lợi cho tất cả
các chủ thể. Về phía ngân hàng thì sẽ có nhiều cơ hội nhận lại khoản tiền cho vay
(cả gốc lẫn lãi) mặc dù không phải là chủ thể tham gia hợp đồng bảo hiểm; khách
hàng thì sẽ đảm bảo được uy tín, thanh danh của mình trong trường hợp không thực

22


Khoá luận tốt nghiệp
hiện được nghĩa vụ như đã cam kết. Đối với công ty bảo hiểm, sẽ nhận được phí
bảo hiểm. Tuy nhiên, biện pháp này vẫn chưa được áp dụng ở Việt Nam.
Chuyển giao (bán) quyền yêu cầu đòi nợ: đây cũng là biện pháp bảo đảm
tiền vay, được thực hiện bằng cách ngân hàng bán quyền đòi nợ gốc và lãi từ
khách hàng vay cho một người khác, và bằng cách này ngân hàng có thể nhận
được một khoản tiền bằng gốc cộng lãi vốn vay trừ đi một số phần trăm nhất định.
Biện pháp này thường được áp dụng trong trường hợp khách hàng có dấu hiệu
nghi ngờ về khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc do nền kinh tế có thể có

những biến động nhất định, lạm phát có thể bị đẩy lên cao. [ 17.tr24 ]
- Bảo đảm tiền vay hữu hình và bảo đảm tiền vay vô hình:
Bảo đảm tiền vay hữu hình là bảo đảm bằng những tài sản hiện hữu của
người đi vay hoặc bên bảo lãnh như các động sản, bất động sản, hàng hóa…
Bảo đảm tiền vay vô hình là bảo đảm bằng những tài sản phi vật chất của
người đi vay như các tố quyền (thường dưới dạng những giấy tờ nhất định được
chuyển giao cho ngân hàng cầm giữ). Những giấy tờ này được phát hành vì quyền
lợi của ngân hàng hoặc được chuyển giao cho ngân hàng với tính cách là bảo đảm
cho một khoản tiền ứng trước. Hiện nay, theo pháp luật Việt Nam tài sản vô hình
rất đa dạng như quyền sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu tác phẩm nghệ thuật,
khoa học… Luật La tinh gọi các tài sản này là tài sản vô hình tuyệt đối. Tuy
nhiên, cũng còn rất nhiều tài sản vô hình khác mà pháp luật vẫn chưa đề cập đến
như khả năng thu hút thân chủ của một bác sỹ, khả năng thu hút học viên của một
giáo viên… [19]
- Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật:
Bảo đảm đối nhân là loại bảo đảm theo đó người thứ ba dùng uy tín của
mình đứng ra bảo lãnh cho việc thi hành nghĩa vụ.
Bảo đảm đối vật là loại bảo đảm mà trong đó tài sản bảo đảm có thể là
động sản hay bất động sản của khách hàng vay, được thể hiện bằng các biện pháp
như cầm cố, thế chấp, bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Ngoài
ra luật pháp của một số nước còn quy định bảo đảm đối vật như quyền cầm giữ.
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo đảm tiền vay không bằng tài sản.
Đây là cách phân loại bảo đảm tiền vay theo pháp luật Việt Nam (Nghị định

23


Khoá luận tốt nghiệp
178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các TCTD, Nghị định 163/2006/NĐCP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm).
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: cầm cố, thế chấp tài sản của khách

hàng vay hoặc của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Bảo đảm tiền vay không bằng tài sản được áp dụng trong các trường hợp
sau: TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài sản;
TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của
Chính phủ; TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp
của tổ chức đoàn thể chính trị xã hội.
Nếu căn cứ vào mức độ sở hữu của khách hàng vay vốn đối với tài sản
dùng làm bảo đảm, có thể chia các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản làm
hai loại:
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay vốn
hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Việc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ
ba được thực hiện dưới hình thức thế chấp hoặc cầm cố tài sản của bên bảo lãnh
để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng nếu đến hạn trả nợ mà khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình. Bởi
vậy, khi quy định các vấn đề về tài sản được dùng làm bảo đảm, pháp luật cũng
chỉ đề cập đến những điều kiện chung nhất cho các tài sản được dùng làm bảo
đảm và xác định rõ loại tài sản nào được dùng làm bảo đảm dưới hình thức cầm cố
hay thế chấp.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Trong trường hợp
bảo đảm này, tài sản được dùng làm bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ
của khách hàng chưa hình thành hoặc đang trong giai đoạn hình thành, nói cách
khác là tài sản hình thành trong tương lai. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
quyền sở hữu của khách hàng đối với khối tài sản bảo đảm cũng chưa được xác
định. Do tính chất đặc biệt của khối tài sản này và các đặc điểm của loại tài sản
bảo đảm tiền vay mà pháp luật đề ra các quy định riêng, khác với loại bảo đảm
bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và người bảo lãnh.

24



Khoá luận tốt nghiệp
Ngoài các cách phân loại trên, còn có thể phân loại bảo đảm tiền vay bằng
cách liệt kê các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, cầm
giữ tài sản…
Như vậy, TCTD có thể áp dụng rất nhiều các biện pháp bảo đảm tiền vay.
Tuy nhiên, việc áp biện pháp bảo đảm nào đối với mỗi khoản vay lại phụ thuộc
vào các yếu tố như: kinh nghiệm của TCTD trong việc đánh giá rủi ro đối với
khoản vay và đánh giá tài sản bảo đảm, khả năng trả nợ của khách hàng. Tất cả
các biện pháp bảo đảm chỉ có ý nghĩa nếu nó dẫn đến hệ quả là khách hàng vay trả
nợ đầy đủ nợ gốc và lãi vay cho ngân hàng [19].
1.2.3. Các điều kiện đối với tài sản bảo đảm tiền vay
Trong số các loại bảo đảm tiền vay thì bảo đảm tiền vay bằng tài sản là
hình thức được áp dụng phổ biến. Tài sản có thể được phân loại theo nhiều cách:
Theo Luật la tinh thì tài sản được phân loại thành động sản, bất động sản; tài sản
hữu hình, tài sản vô hình, vật tiêu hao và vật không tiêu hao, vật cùng loại và vật
đặc định, vốn và lợi tức, vật được sở hữu và vật không được sở hữu, tài sản công
và tài sản tư. Theo luật Anh-Mỹ thì lại phân thành quyền sở hữu đối nhân và
quyền sở hữu đối vật; đất đai và các tài sản khác gồm tiền, động sản hữu hình mà
không phải tiền, động sản vô hình và các quỹ. Theo luật Việt Nam, Bộ luật dân sự
2005 (chương XI) không đưa ra khái niệm chung về tài sản mà quy định và phân
loại theo cách phân loại của Luật La tinh, phân thành bất động sản và động sản;
vật chính, vật phụ; vật chia được và vật không chia được; vật tiêu hao và vật
không tiêu hao; vật cùng loại và vật đặc định; vật đồng bộ và quyền tài sản.
Tuy nhiên, không phải tất cả các loại tài sản đều có thể đưa ra làm tài sản
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, mà phải dựa trên một số điều kiện mà pháp luật quy
định. Tài sản thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và
được phép gaio dịch, các NHTM sẽ yêu cầu chứng minh rằng tài sản này phải
không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Đối với những tài sản
mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì bên bảo đảm phải mua bảo hiểm cho
tài sản đó. Tại Điều 4, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, quy

định cụ thể về tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm do các bên thỏa thuận và thuộc sở
hữu của bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người này cam

25


×