Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sự vận hành các biện pháp, công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.31 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ

BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1
MÔN LUẬT NGÂN HÀNG
Nhóm : 02
Lớp

: N02

Trường: Đại học Luật Hà Nội

ĐỀ BÀI
Sự vận hành các biện pháp, công cụ thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Nhà nước.


HÀ NỘI 08/2011

LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài
chính và ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là cơ quan chủ chốt, thiết kế
và vận hành các công cụ Chính sách tiền tệ (CSTT) phục vụ cho mục tiêu điều
tiết vĩ mô trong từng thời kỳ. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đã chỉ
ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn
liền với CSTT và hoạt động của hệ thống ngân hàng. Do vậy, pháp luật phải quy
định hết sức chặt chẽ về cơ chế hoạt động của NHNN trong việc thực hiện
CSTT quốc gia nhằm tránh các ảnh hưởng bất lợi của chính sách tiền tệ đối với
tiến trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Nhằm góp phần tìm hiểu và đem lại
những kiến thức sâu sắc hơn về vấn đề này, chúng em xin lựa chọn đề tài bài tập
nhóm số 11 “Sự vận hành các biện pháp, công cụ thực hiện chính sách tiền tệ


quốc gia của Ngân hàng Nhà nước”.

NỘI DUNG
I. Những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ quốc gia.
1. Khái niệm.
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật NHNN Việt Nam 2010 thì:
“Chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị
đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và
biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Chính sách tiền tệ quốc gia bao gồm hai chính sách chủ yếu:
- Chính sách tiền tệ mở rộng: cung ứng thêm tiền, khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất.., chống suy thoái.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt: giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư,
kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế..., kiềm chế lạm phát.
Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô mà ở đó vai trò của NHNN
được khẳng định. Thông qua các công cụ, biện pháp, NHNN tiến hành việc
kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra.
2. Vị trí của chính sách tiền tệ.

2


CSTT là một trong những chính sách quan trọng nhất trong hệ thống các
công cụ điều tiết vĩ mô mà Nhà nước sử dụng. CSTT có tác động trực tiếp đến
lĩnh vực lưu thông tiền tệ và từ đó tác động đến nền kinh tế. Song nó cũng có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa,
chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại đế phát huy hơn nữa vai trò
của mình.

Đối với NHNN thì việc hoạch định và thực thi CSTT là hoạt động cơ bản
nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho CSTT quốc gia được thực hiện có
hiệu quả hơn.
3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Các mục tiêu của CSTT rất đa dạng như kiểm soát lạm phát, ổn định giá
cả, tạo công ăn việc làm (giảm tỷ lệ thất nghiệp), tăng trưởng kinh tế, ổn định thị
trường tài chính, lãi suất, tỷ giá hối đoái...
Do lạm phát cao có tác động xấu đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong khi
đó nguyên nhân lạm phát lại là tiền tệ. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước, kiềm
chế lạm phát, ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu dài hạn của
CSTT. Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi quốc gia mà sẽ có một tỷ lệ lạm phát
phù hợp. Thông thường để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả
NHNN áp dụng CSTT thắt chặt. Bên cạnh đó còn hai mục tiêu là tăng trưởng
kinh tế và tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Để thực hiện hai mục
tiêu này thì NHNN thường thực hiện CSTT mở rộng.
Như vậy, xét cả ba mục tiêu thì ta thấy mục tiêu giảm lạm phát, bình ổn
giá cả mâu thuẫn với hai mục tiêu còn lại trong ngắn hạn. Bởi vì để thực hiện
mục tiêu giảm lạm phát, ổn định giá cả thì phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt. Và như vậy thì trong ngắn hạn không thể thực hiện được hai mục tiêu còn
lại. Ngược lại, khi nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp giảm, nền kinh tế phát triển
quá nóng dẫn đến lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, xét các mục tiêu trên trong dài
hạn thì chúng lại không mâu thuẫn với nhau. Mối quan hệ giữa mục tiêu giảm
thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế không mâu thuẫn cả trong ngắn hạn
và dài hạn.
NHNN đặt ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của CSTT.
Nhưng trong ngắn hạn, dưới áp lực phát triển kinh tế, có thể tạm thời từ bỏ mục
tiêu chủ yếu để hạn chế tình trạng thất nghiệp... NHNN không thể đạt được đồng

3



thời tất cả các mục tiêu trong ngắn hạn và thường thì NHNN theo đuổi một mục
tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
4. Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Công cụ thực hiện CSTT là các hoạt động được thực hiện bởi NHNN
nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông và
lãi suất thị trường, để từ đó đạt được các mục tiêu của CSTT quốc gia. Do đó,
việc sử dụng công cụ, hình thức để thực hiện CSTT quốc gia rất quan trọng.
Để đạt được mục tiêu mà CSTT quốc gia đề ra, NHNN sử dụng một số
công cụ để tác động vào lượng tiền cung ứng và các chỉ tiêu khác (Điều 10 Luật
NHNN Việt Nam 2010) đó là: Tái cấp vốn; Lãi suất; Dự trữ bắt buộc; Tỷ giá
hối đoái; Nghiệp vụ thị trường mở thông qua hai biện pháp là biện pháp kinh tế
và biện pháp hành chính.
II. Sự vận hành các biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
của Ngân hàng nhà nước.
NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thông qua hai biện pháp, đó là: biện
pháp kinh tế và biện pháp hành chính.
1. Biện pháp kinh tế.
Biện pháp kinh tế là biện pháp mà các chủ thể quản lý sử dụng các đòn
bẩy kinh tế và các lợi ích kinh tế nhằm điều chỉnh các đối tượng quản lý theo ý
chí của chủ thể quản lý.
Trong việc thực hiện CSTT quốc gia của NHNN, biện pháp kinh tế là
biện pháp được thực hiện thông qua cơ chế pháp lí là các hợp đồng, dựa trên
nguyên tắc thỏa thuận giữa NHNN với khách hàng; ví dụ như hợp đồng tái cấp
vốn, hợp đồng mua bán các giấy tờ có giá… Như vậy, biện pháp kinh tế được sử
dụng với hai công cụ: Tái cấp vốn và Nghiệp vụ thị trường mở. Như các loại
hợp đồng khác, các hợp đồng trong biện pháp này được duy trì trên cơ sở lợi ích
của cả hai phía, biện pháp kinh tế mang đặc trưng là tính mềm dẻo, tôn trọng sự
tự nguyện thỏa thuận của các chủ thể, đảm bảo thi hành bằng sự thiện chí cũng
như mục đích lợi ích từ các phía. Biện pháp này không mang tính bắt buộc như

biện pháp hành chính. Tính linh hoạt, thi hành ngay của biện pháp này được
thúc đẩy qua cơ chế lợi ích. Khi giao kết các hợp đồng trước hết các tổ chức tín
dụng đểu hướng đến mục đích mang lại lợi nhuận cho chính bản thân mình, vì
lợi ích của bản thân mình mà tham gia giao kết hợp đồng.

4


2. Biện pháp hành chính.
Biện pháp hành chính là cách thức tác động trực tiếp của cơ quan quản lý
cấp trên (hoặc các nhà chức trách) lên đối tượng và khách thể quản lý bằng các
mệnh lệnh, các quyết định dứt khoát mang tính bắt buộc nhằm đạt mục tiêu đề ra
trong những tình huống quản lý nhất định. Đặc điểm của biện pháp hành chính
là tính bắt buộc và tính quyền lực.
Trong CSTT, biện pháp hành chính là biện pháp mà NHNN sử dụng
thông qua cơ chế pháp lí, định hướng bằng các quyết định hành chính như:
quyết định tăng, giảm lãi suất cơ bản và tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức
tín dụng; quyết định điều chỉnh tỉ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với ngoại
tệ… Theo đó, có ba công cụ sử dụng biện pháp hành chính để thực thi CSTT, đó
là: Công cụ lãi suất, Dự trữ bắt buộc và Tỉ giá hối đoái.
Hiện nay, về cơ bản NHNN Việt Nam áp dụng khá linh hoạt cả hai biện
pháp trên. Mỗi biện pháp đều có những ưu điểm nhất định để điều chỉnh các
hoạt động đặc thù. Tuy nhiên, do nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi từ cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp, mọi vấn đề đều quyết định bằng mệnh lệnh hành
chính sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nên đôi khi biện
pháp hành chính vẫn bị lạm dụng mà coi nhẹ biện pháp kinh tế. Vai trò của biện
pháp hành chính không thể phủ nhận, song việc lạm dụng các biện pháp hành
chính cũng đưa đến một số hậu quả không tốt như giảm lòng tin từ phía người
dân, các tổ chức tín dụng bất bình, đôi khi biện pháp quá cứng nhắc không đáp
ứng được tính biến động liên tục của thị trường tiền tệ… Trong nền kinh tế thị

trường, biện pháp kinh tế đang dần khẳng định ưu thế so với các biện pháp hành
chính bằng tính tự nguyện, tính mềm dẻo cũng như các lợi ích mà chúng điều
chỉnh. (cắt)
III. Sự vận hành các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ Quốc gia
của Ngân hàng nhà nước.
Điều 10 Luật NHNN Việt Nam 2010 quy định: “Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước quyết định việc sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị
trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo quy định của Chính phủ”.
1. Công cụ tái cấp vốn.

5


Theo khoản 1 Điều 11 Luật NHN Việt Nam 2010 quy định: “Tái cấp vốn
là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Nhà nước nhằm cung ứng vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán cho tổ chức tín dụng”.
Công cụ tái cấp vốn được sử dụng dưới hình thức cho vay, chiết khấu, tái
chiêt khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Thông qua công cụ tái cấp vốn, NHNN thực hiện việc điều tiết lượng tiền
trong lưu thông nhằm đạt được các chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời
kỳ. Sự điều tiết lưu thông tiền tệ của NHNN thông qua việc sử dụng công cụ tái
cấp vốn được thực hiện ở chỗ:
- Khi cần tăng thêm lượng tiền cung ứng trong lưu thông, NHNN sẽ hạ
thấp lãi suất tái cấp vốn, tăng hạn mức tái cấp vốn. Biện pháp này sẽ khuyến
khích các Ngân hàng Thương mại (NHTM) đến NHNN để vay vì giá cả tín dụng
giảm, mặt khác, khối lượng tín dụng được cấp sẽ tăng lên.
- Ngược lại, khi cần giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông, NHNN sẽ
tăng lãi suất cấp vốn lên, làm giảm hạn mức tái cấp vốn. Biện pháp này làm
giảm khối lượng tín dụng, giảm nhu cầu vay vốn.

Khoản 2 Điều 11 Luật NHNN Việt Nam 2010 quy định ba hình thức tái
cấp vốn sau đây:
Thứ nhất, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đây là hình
thức cho vay của NHNN dành cho TCTD là ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm
cố các giấy tờ có giá thuộc sở hữu của ngân hàng này như tín phiếu kho bạc, tín
phiếu NHNN, công trái, trái phiếu…
Thứ hai, chiết khấu giấy tờ có giá. Chiết khấu giấy tờ có giá của ngân
hàng là nghiệp vụ NHNN mua ngắn hạn các loại giấy tờ có giá còn thời hạn
thanh toán, mà các loại giấy tờ có giá này đã được ngân hàng giao dịch trên thị
trường sơ cấp hoặc thứ cấp.
Thứ ba, bên cạnh hai hình thức tái cấp vốn phổ biến nêu trên, hiện nay
NHNN đang áp dụng một số hình thức tái cấp vốn khác như cho vay bù đắp
thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ và cho vay qua đêm trong thanh toán điện
tử liên ngân hàng.
+ Khi thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, sau khi kết thúc phiên thanh
toán bù trừ tại địa phương, căn cứ vào chênh lệch thiếu giữa số tiền chuyển đi và
số tiền chuyển đến, các NHTM sẽ đề nghị NHNN cho vay bù đắp để đảm bảo
thanh toán thành công. Việc cho vay này không yêu cầu phải thế chấp tài sản.

6


Thời gian cho vay tối đa đến 10 ngày. Lãi suất cho vay nhìn chung khá cao là
0,1-0,15%/ngày. Đến năm 2003, lãi suất này được điều chỉnh còn 0,03%/ngày.
+ Năm 2002, NHNN chính thức triển khai hệ thống thanh toán điện tử
liên ngân hàng. Theo đó, cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng là một hình thức tái cấp vốn của NHNN đối với các ngân hàng. Đây là một
hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Mục đích của hình
thức cho vay qua đêm là để tất toán các tài khoản thấu chi của TCTD tại thời
điểm cuối ngày làm việc. Hình thức cho vay qua đêm có một số đặc điểm như:

thời gian giải quyết khoản vay nhanh; thời hạn cho vay rất ngắn, các khoản cho
vay tối đa chỉ 02 ngày làm việc, sau đó nếu không hoàn trả thì NHNN sẽ thực
hiện các biện pháp xử lý để thu hồi nợ; lãi suất cho vay cao và hiện nay
0,033%/ngày, tức 1%/tháng, lãi suất này chỉ yếu mang tính chất trừng phạt đối
với các ngân hàng, đối tượng vay vốn chỉ là các Ngân hàng thương mại có tham
gia thanh toán điện tử liên ngân hàng.
Việc thực hiện chính sách tái cấp vốn giúp cho NHNN thực hiện vai trò
của mình là người cho vay cuối cùng đối với các TCTD rơi vào tình trạng khó
khăn trong việc thanh toán, có thể kiểm soát được hoạt động của các TCTD.
2. Công cụ lãi suất.
Khoản 1, Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định
“Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại
lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.”
Công cụ lãi suất được NHNN thực hiện dưới hình thức công bố lãi suất cơ
bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp với
nhu cầu vốn trên thị thị trường. (đã cắt)
Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm ảnh hưởng trực tiếp
tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng
thay đổi theo. Điều này giúp cho NHNN thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng
theo mục tiêu của từng thời kì. (đã cắt)
Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, NHNN sẽ sử dụng chính sách
thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm
điều hòa lượng tiền trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.
Trong trường hợp thiểu phát, NHNN sẽ giảm lãi suất cơ bản và lãi suất tái
cấp vốn với các TCTD. Giải pháp này không những có dụng mở rộng khả năng
cấp tín dụng của TCTD với khách hàng mà còn góp phần giảm nhu cầu gửi tiền

7



của các tổ chức cá nhân tại các TCTD, trên cơ sở đó hạn chế việc rút tiền ra khỏi
lưu thông một cách dễ dàng.
Công cụ lãi suất giúp NHNN điều chỉnh được lượng tiền cung ứng khi các
công cụ khác hoạt động kém hiệu quả. Song, việc quy định lãi suất cơ bản mặc
nhiên triệt tiêu đi động lực cạnh tranh giữa các TCTD, làm giảm hiệu quả phân
bổ nguồn vốn trong nền kinh tế.
3. Công cụ tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là giá của đồng tiền này được tính theo một đồng tiền
khác. Tỷ giá hối đoái cũng được hiểu là tỉ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai
quốc gia khác nhau. Theo khoản 5 Điều 6 Luật NHNN Việt Nam 2010 thì: “Tỷ
giá hối đoái của đồng Việt Nam là giá của một đơn vị tiền tệ nước ngoài tính
bằng đơn vị tiền tệ của Việt Nam.”
Theo quy định tài Điều 13 Luật NHNN Việt Nam 2010 thì:
“Điều 13. Tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung
cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
2. Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá hối đoái, quyết định chế độ tỷ giá,
cơ chế điều hành tỷ giá.”
Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay là không ấn định một cách cứng
nhắc bằng mệnh lệnh hành chính, chênh lệch nhiều với tỷ giá thực tế giao dịch
trên thị trường mà là tỷ giá thực tế hình thành khách quan trên thị trường có tổ
chức và thị trường tự do. Thay thế việc quản lý mang tính hành chính của
NHNN bằng một cơ chế mềm dẻo hơn, ít mang tính áp đặt hơn, dựa vào công cụ
kinh tế là chính nhưng không buông lỏng, thả nổi tỷ giá một cách tuỳ tiện.
Hoạt động điều chỉnh tỷ giá hối đoái của NHNN được thực hiện như sau:
NHNN can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và
bán ra được điều chỉnh linh hoạt. Khi thị trường dư cầu ngoại tệ, làm cho giá
ngoại tệ tăng, NHNN điều chỉnh giảm tỷ giá hối đoái, kịp thời bán ngoại tệ can
thiệp, hạ nhiệt thị trường. Trong thời điểm thị trường dư cung ngoại tệ, làm cho
giá ngoại tệ giảm, NHNN điều chình tăng tỷ giá hối đoái, mua ngoại tệ vào ở

mức hợp lý, bảo đảm tỷ giá không giảm sâu, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế
nhập siêu.
4. Công cụ dự trữ bắt buộc.

8


Theo Khoản 1 Điều 14 Luật NHNN Việt Nam 2010 thì: “Dự trữ bắt buộc
là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia.”.
Hoạt động tín dụng luôn có độ rủi ro là rất cao và việc quy định dự trữ bắt
buộc với TCTD trước hết là một biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động
kinh doanh tín dụng của TCTD. Khi TCTD lập quỹ dự trữ bắt buộc tại NHNN
thì số tiền này sẽ được gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHNN và do
NHNN quản lý. Số tiền dự trữ bắt buộc này, TCTD không được phép đưa vào
hoạt động kinh doanh, chỉ được phép sử dụng vào mục đích chi trả nhằm giải
tỏa các khoản nợ cũng như cứu vãn tổ chức tín dụng khỏi nguy cơ phá sản.
Thông qua quy định về dự trữ bắt buộc này, NHNN có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động đến việc tăng hoặc giảm khối lượng tiền trong lưu thông, bình
ổn thị trường tiền tệ. Vai trò này thể hiện rõ ràng nhất khi có hiện tượng lạm
phát và thiểu phát.
NHNN nước sẽ quyết định giảm dự trữ bắt buộc đối với các TCTD khi có
hiện tượng thiểu phát. Trong hoạt động này NHNN đã đẩy một lượng tiền đáng
kể từ khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng vào thị
trường, đáp ứng nhu cầu của thị trường.
NHNN sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt có nghĩa là Ngân hàng sẽ
quy định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hút tiền từ lưu thông vào dự trữ nhằm mục
tiêu đẩy lùi lạm phát, giảm nguy cơ rủi ro đối với thị trường tiền tệ khi nền kinh
tế có hiện tượng lạm phát.
5. Nghiệp vụ thị trường mở

Theo quy định tại Khoản 1, Điều 15 Luật NHNN Việt Nam năm 2010 thì:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua,
bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng.”
Như vậy, nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHNN mua vào hoặc bán
ra giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán
giấy tờ có giá, NHNN tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các
TCTD, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất
thị trường. Đối tượng của nghiệp vụ này bao gồm các tín phiếu kho bạc, tín
phiếu Ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác khi cần thiết…

9


Thông thường khi muốn giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông, đẩy lùi
lạm phát, NHNN bán ra các giấy tờ có giá mà mình đang sở hữu ra thị trường
tiền tệ với mục đích thu hồi bớt lượng tiền khỏi lưu thông, nhờ thế mà sức mua
của đồng nội tệ tăng lên. Ngược lại khi xảy ra tình trạng thiểu phát NHNN vào
lưu thông bằng cách mua lại các giấy tờ có giá trên bằng nguồn dự trữ phát
hành.
III. Thực trạng vận hành các biện pháp và công cụ thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng Nhà nước.
1. Công cụ tái cấp vốn.
Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của NHNN đã đạt được
những kết quả đáng khích lệ như. Hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng
góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các NHTM,
góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng trong những năm vừa qua.
Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn,
các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng
thanh toán. Trường hợp NHTM cổ phần Á Châu vào tháng 10/2003 là ví dụ điển

hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút
tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng,
ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng
thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân
hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho ngân hàng dưới hình
thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, NHTM Á châu tránh được
nguy cơ phá sản và từng bước phục hồi.
Tuy nhiên, thực trạng cho vay tái cấp vốn vẫn còn một số hạn chế:
+ Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung – cầu
vốn trên thị trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng
nhắc và tách xa với lãi suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ
làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không có tác động điều tiết.
+ Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung
nguồn vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các TCTD, các chức năng
nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu CSTT, điều chỉnh quá trình
phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian,
theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy.

10


+ Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn
chế nhất định. Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà
Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không
quá hai ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại
Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới năm ngày làm việc.
2. Công cụ lãi suất.
Giai đoạn 01/12/2005 đến 01/02/2008 lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức ổn
định là 8.25% / năm. Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm
phát, lãi suất cơ bản tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Đến

19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, lên mức
14%/năm. Bên cạnh đó, 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi lãi suất
tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên: Tăng lần 1, lãi suất tái cấp
vốn lên 13%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm; Tăng lần 2, lãi suất tái cấp
vốn lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm.
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Lãi suất đã giảm
dần từ mức 14% xuống chỉ còn 7% vào tháng 4/2009. Cũng trong những quý
đầu năm 2009, NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn từ 15%/năm
xuống 14%/năm, 13%/năm, 11%/năm, 9,5%/năm; Lãi suất chiết khấu từ
13%/năm xuống 12%/năm, 11%/năm, 9%/năm và 7,5%/năm; Lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các NHTM từ 15%/năm xuống
14%/năm, 13%/năm, 11%/năm và 9,5%/năm.
Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng
trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, NHNN đã quyết định điều chỉnh lãi
suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết
khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009, và giữ nó ổn định trong
mười tháng đầu 2010. Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và
lãi suất tái cấp vốn tăng 1%/năm. Và từ cuối năm 2010 cho đến những tháng đầu
năm 2011, lãi suất cơ bản luôn được duy trì ở mức 9%.
Mặc dù đã có vai trò nhất định trong việc thực hiện CSTT trong những
năm qua, nhưng việc thực hiện công cụ lãi suất vẫn còn nhiều hạn chế. Thời
gian qua, mặc dù NHNN đã từng bước đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, nhưng
thực tế cho thấy lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu do
NHNN ban hành có tác động hạn chế đến lãi suất thị trường. Các lãi suất trên

11


chưa thực sự phát huy được vai trò định hướng lãi suất thị trường, mối quan hệ

giữa các lãi suất của NHN và lãi suất thị trường còn chưa thực sự gắn kết chặt
chẽ. Trước tình hình lãi suất huy động tăng cao, NHNN đã ban hành cơ chế lãi
suất trần huy động VNĐ. Cơ chế lãi suất trần huy động VNĐ ra đời nhằm ngăn
chặn nguy cơ bùng phát một cuộc đua tăng lãi suất huy động ở tầm cao. Hiện
nay, lãi suất trần huy động VNĐ của các NHTM ở mức 14%/năm. Việc quy định
lãi suất trần gây khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng.
- Đối với ngân hàng nhỏ
Nguồn vốn chủ yếu của các NHTM nhỏ chủ yếu là nguồn tiết kiệm huy
động từ dân cư, còn tài khoản tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp tại ngân
hàng thì không đáng kể. Họ không có nguồn tiền gửi từ kho bạc, Nhà nước, tập
đoàn kinh tế và cũng không có trái phiếu chính phủ để vay NHNN. Do đó, họ
phải huy động ở mức cao để có vốn, vì thế cho vay ra cao. Đồng thời, phía
người gửi tiền muốn gửi lãi suất cao bởi lạm phát kỳ vọng rất cao. Lạm phát
hiện nay khá cao, do đó, nếu áp dụng lãi suất huy động 14%/năm thì sẽ không
công bằng và cũng không còn tính thị trường. Vì vậy, để có thể huy động được
vốn thì các NHTM phải tăng lãi suất, kéo theo lãi suất huy động vốn ngày càng
“phình” rất xa trần 14%. Thực tế, có doanh nghiệp đang phải vay ngân hàng với
lãi suất lên đến 21-23%/năm.
- Đối với các ngân hàng lớn.
Thường các ngân hàng lớn, ngân hàng quốc doanh có nhiều nguồn đầu
vào và huy động dễ dàng hơn. Vì vậy, nguồn vốn của các ngân hàng này lớn và
chi phí huy động thấp hơn các ngân hàng nhỏ. Tuy nhiên, do các ngân hàng nhỏ
đua nhau tăng lãi suất nên các ngân hàng lớn dù không thiếu vốn cũng phải tăng
lãi suất để giữ khách. Từ thực tế đó, nếu NHNN quy định lãi suất trần 14% gây
khó khăn cho NHTM lớn, đặc biệt là các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, nếu
như họ không tăng lãi suất thì họ bị mất dần khách hàng gửi và khách hàng đang
gửi thì rút ra để gửi ở các ngân hàng khác có lãi suất cao hơn, mà họ tăng thì vi
phạm về quy định lãi suất trần.
Việc các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất trần khiến doanh nghiệp gặp
khó khăn bởi lãi suất tiền vay ngân hàng quá cao, khó mà làm ăn có lãi. Điều

này khiến nhiều doanh nghiệp không dám vay vốn phát triển sản xuất, và nguồn
tiền trong lưu thông bị hạn chế.
3. Công cụ tỷ giá hối đoái.

12


Năm 2006 tỷ giá USD/VNĐ lần đầu được điều hành thử nghiệm theo cơ
chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ
trên thị trường theo mục tiêu điều hành. Tỷ giá USD/VNĐ có xu hướng tăng
nhẹ, nhưng nhìn chung được giữ tương đối ổn định trong thời gian dài.
Năm 2008 là năm đầy biến động của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.
+ Giai đoạn đầu (từ 01/01/2008 - 25/03/2008): Tỷ giá trên thị trường liên
ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp
nhất là 15.560 đồng/USD).
+ Giai đoạn 2 (từ 26/03 - 16/07): Tăng với tốc độ chóng mặt. Trong giai
đoạn này, tỷ giá tăng dần và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên
đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần.
+ Giai đoạn 3 (từ 17/07 - 15/10): tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD
xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong
giai đoạn từ tháng 8 - tháng 11.
+ Giai đoạn 4 (từ 16/10 trở đi): tỷ giá USD tăng trở lại. Tỷ giá USD/VNĐ
tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ.
Bước sang năm 2009, cùng với gói kích cầu của Chính phủ, ngày
24/3/2009, NHNN đã nới rộng biên độ tỷ giá khởi đầu cho sự tăng tỷ giá cả năm
2009. Yếu tố tâm lý kỳ vọng bắt đầu xuất hiện: lo sợ lạm phát tăng cao từ việc
kích thích kinh tế tăng trưởng và sự mất giá VNĐ trong thời gian tới dẫn đến
tình trạng găm giữ USD làm căng thẳng thêm cung cầu ngoại tệ.
Năm 2010, thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong hơn 9
tháng đầu năm, dao động nhẹ quanh mức 18.544 VNĐ/USD; từ tháng 10, tỷ giá

thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.
Bước vào năm 2011, ngày 11/02/2011, NHNN công bố quyết định tăng tỷ
giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VNĐ, từ 18.932 VND lên 20.693
VND (tăng 9,3%), đồng thời thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân
hàng thương mại từ +/-3% xuống còn +/-1%. Với hành động này, NHNN đã làm
giảm bớt những áp lực đối với dự trữ ngoại hối của Việt Nam, hỗ trợ tích cực
cho lĩnh vực xuất khẩu, từ đó làm giảm bớt áp lực đối với cán cân thương mại.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, việc Việt Nam
bình ổn được thị trường ngoại tệ, tỷ giá vẫn giữ tương đối ổn định đã nhận được
sự đánh giá cao của các tổ chức tài chính quốc tế, củng cố lòng tin của các nhà
đầu tư nước ngời và doanh nghiệp trong nước vào khả năng điều hành kinh tế vĩ
mô của chính phủ với sự hoạt động hiệu quả của NHNN Việt Nam.
13


Tuy nhiên, việc điều hành công cụ tỷ giá hối đoái vẫn còn có nhiều hạn
chế. Trong những năm qua, nhìn chung tỷ giá hối đoái ngày càng tăng dần, điều
này đem lại một số tác động tiêu cực như sau:
+ Tước hết, sự phá giá đồng nội tệ có thể dẫn đến sự gia tăng giá hàng
xuất khẩu và giá của hàng sản xuất và tiêu dùng trong nước và điều này ảnh
hưởng đến cầu và cung của hàng hóa sản xuất và tiêu dùng trong nước. Cung
của hàng hóa này có thể giảm trong khi cầu của chúng tăng sẽ tạo áp lực lên lạm
phát trong nền kinh tế hiện nay.
+ Thứ hai, đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ vay nợ bằng USD cao sẽ phải
gánh chịu thêm một gánh nặng nợ “từ trên trời rơi xuống” khi điều chỉnh tăng tỷ
giá. Còn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phụ thuộc phần lớn vào nhập
khẩu nguyên liệu từ nước ngoài sẽ phải chịu mức tổn thất lớn do giá nguyên liệu
nhập khẩu tăng cao, đẩy giá thành tăng, giảm tính cạnh tranh và tác động làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
4. Công cụ dự trữ bắt buộc.

NHNN thường sử dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong vai trò là công cụ điều
hành chính sách tiền tệ, giúp kiểm soát khối lượng tiền cung ứng, do đó, tùy vào
mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ mà tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy
định khác nhau.
Bảng 01: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD Việt Nam
từ tháng 01/2008- 01/2011
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (VNĐ)

Văn bản

11%1- 5%2

187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008

10%1- 4%2

2560/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008

8%1- 2%2

2811/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008

6%1- 2%2

2951/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008

5%1- 1%2

3158/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008


3%1 - 1%2

379/QĐ-NHNN ngày 24/02/2009

14


(1): đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 12 tháng
(2): đối với tiền gửi kỳ hạn từ 12 tháng trở lên

Bảng 01 cho thấy từ tháng 01/2008 - 01/2011 đến nay, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được điều chỉnh giảm, việc điều chỉnh này của NHNN, một mặt, nhằm đưa
ra tín hiệu nới lỏng tiền tệ; mặt khác mở rộng khả năng cho vay, kích thích các
ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng, tích cực cung ứng vốn cho
nền kinh tế.
Việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc có một số ưu điểm sau:
+ Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng không
phận biệt đối với các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
+ NHN có thể tác động nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng thông
qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
+ NHNN có thể sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tạo ra mối quan hệ
phụ thuộc về vốn giữa NHNN với các ngân hàng thương mại, từ đó tăng khả
năng quản lý, kiểm soát đối với hoạt động của ngân hàng thương mại
Bên cạnh đó, việc sử dụng công cụ này cũng có một số nhược điểm:
+ Công cụ này tỏ ra thiếu tính linh hoạt, vì một sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ
dự trữ bắt buộc sẽ gây ra sự bất ổn đến hoạt động của các ngân hàng vì có thể
khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình trạng mất
"khả năng thanh toán ngay". Đồng thời, việc thay đổi thường xuyên tỷ lệ dự trữ
bắt buộc khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc quản lý
thanh khoản, làm phát sinh tăng chi phí.

+ Dự trữ bắt buộc giống như một hình thức thuế thu nhập vô hình đối với
các ngân hàng vì các ngân hàng phải giữ lại một phần tiền gửi không được sử
dụng vào mục đích sinh lời theo yêu cầu trong khi đó vẫn phải trả lãi tiền gửi
cho khách hàng gửi tiền.
5. Nghiệp vụ thị trường mở.
Từ khi chính thức đi vào hoạt động đến nay (ngày 12/7/2000) nghiệp vụ
thị trường mở đã có hiệu quả đặc biệt trong việc điều tiết thị trường tiền tệ, điển
hình là trong giai đoạn từ năm 2008 đến nay, bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tín
dụng tại Mỹ là nhanh ra thế giới, và Việt Nam cũng không nằm trong tầm ảnh
hưởng đó.
Cuối năm 2007, đầu năm 2008, NHNN vẫn duy trì thị trường mở, với việc
cung ứng 20.000 tỷ đồng để hỗ trợ các TCTD giải quyết tình trạng mất cân đối
15


vốn khả dụng tạm thời, song những ngân hàng nhỏ vẫn không thể tiếp cận được
với thị trường này vì không đủ điều kiện (không có nguồn vốn để dự trữ giấy tờ
có giá). Ngày 13/02/2008, NHNN ban hành Quyết định số 346/QĐ-NHNN về
việc phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc với tổng giá trị tín phiếu phát hành là
20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất 7,8%/năm, ngày phát hành
17/03/2008. Như vậy, để thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, NHNN đã chủ
động phát hành tín phiếu NHNN nhằm thu bớt tiền trong lưu thông với mục đích
ổn định tiền tệ.
Đến nay, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của NHNN đã thu được một
số thành tựu nhất định, nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo chủ ý chủ
NHNN nên NHNN kiểm soát được hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ này mà
không chịu ảnh hưởng cảu bất kỳ nhân tố nào khác; là công cụ linh hoạt, chính
xác, ít tốn kém về chi phí và thời gian.
Bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc: Thị trường tiền tệ
còn có sự phân tách và chủ yếu chịu sự chi phối của 5 NHTM Nhà nước; số

thành viên tham gia các phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở chiếm một tỉ lệ
không cao trong tổng số các TCTD đã được công nhận là thành viên nghiệp vụ
thị trường mở; việc dự báo vốn khả dụng để đưa ra kiến nghị cho nghiệp vụ thị
trường mở vẫn còn nhiều khó khăn, kết quả dự báo vốn khả dụng chủ yếu mang
tính ngắn hạn; hiệu quả điều tiết nghiệp vụ thị trường mở còn chưa cao và hiện
tại quy trình đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá để tham gia nghiệp vụ thị trường mở
vẫn còn nhiều phức tạp…
IV. Giải pháp thực hiện công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Năm 2011, nền kinh tế sẽ phải đối mặt với những khó khăn, thách thức
mới, lớn hơn so với dự báo cuối 2010, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô.
Một trong những giải pháp chủ yếu yêu cầu triển khai thực hiện là phải áp
dụng CSTT chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt phải tiến tới kiềm chế lạm phát cao,
góp phần ổn định giá trị tiền đồng Việt Nam, tăng dần dự trữ ngoại hối. Nhanh
chóng xây dựng các cơ chế, chính sách tăng cường quản lý thị trường ngoại tệ
và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép, không gây trở
ngại cho việc thu hút các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài về nước, tổ chức lại thị
trường kinh doanh vàng. Tăng cường quản lý hoạt động các NHTM, tránh rủi ro
về nợ xấu, bảo đảm tính thanh khoản; khắc phục những bất hợp lý về lợi nhuận
và thu nhập trong lĩnh vực này. Kiểm soát tỷ giá biến động thấp hơn mức lạm
phát kỳ vọng, tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cung và giảm cầu ngoại tệ

16


như năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ. Dành một phần
lượng tiền cung ứng để cho vay tái cấp vốn với lãi suất hợp lý, hỗ trợ tổ chức tín
dụng mở rộng tín dụng ngắn, trung và dài hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, xuất khẩu. NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua lãi suất.

KẾT LUẬN

Để xét chính sách tiền tệ tốt hay chưa tốt đôi khi phải xét ở góc độ toàn xã
hội chứ không chỉ ở góc độ các doanh nghiệp và NHTM. Vì CSTT chỉ có thể
đạt được mục tiêu trong dài hạn nên chắc chắn rằng những CSTT trong ngắn
hạn sẽ không để nào đáp ứng được tất cả các mục tiêu và làm thỏa mãn nhu cầu
của các NHTM cũng như toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, những phản ứng kịp thời
và linh hoạt của CSTT sẽ là một trong những công cụ hữu hiệu điều tiết nền
kinh tế trước những biến động diễn ra hằng ngày theo quy luật chung của nó. Và
để thực hiện điều hành chính sách tiền tệ một cách hiệu quả trong thời gian tiếp
theo NHNN cần rút ra những bài học kinh nghiệm về phản ứng thị trường trước
những sự thay đổi CSTT và bám sát hơn nữa thị trường để phát huy tối đa vai
trò của mình.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2010;
2.Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt
Nam, Hà Nội, 2007.
3. Luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2010;
4. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010;
5. Nhìn lại các công cụ của chính sách tiền tệ thời gian qua và một vài đề
xuất.

6. Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHNN trong việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nguyễn Thu Hường.

7. Phân tích và bình luận chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong thời gian gần đây.

/>8. Nguồn tin trên Internet.


18


MỤC LỤC
Tên đề mục

Trang

Lời mở đầu……………………………………………………01
I. Những vấn đề cơ bản về chính sách
tiền tệ quốc gia………………………………………………..01
1. Khái niệm.………………………………………………….01
2. Vị trí của chính sách tiền tệ………………………………...01
3. Mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.………………….02
4. Công cụ thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia.………………………………………………………02
II. Sự vận hành các biện pháp thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia của Ngân hàng nhà nước……………….03
1. Biện pháp kinh tế…………………………………………..03
2. Biện pháp hành chính………………………………………03
III. Sự vận hành các công cụ thực hiện chính
sách tiền tệ Quốc gia của Ngân hàng nhà nước………………04
1. Công cụ tái cấp vốn………………………………………..04
2. Công cụ lãi suất.……………………………………………06
3. Công cụ tỷ giá hối đoái…………………………………….06
4. Công cụ dự trữ bắt buộc.…………………………………..07
5. Nghiệp vụ thị trường mở…………………………………...08

III. Thực trạng vận hành các biện pháp và
19


công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
của Ngân hàng Nhà nước.…………………………………….08
1. Công cụ tái cấp vốn.………………………………………..08
2. Công cụ lãi suất.……………………………………………09
3. Công cụ tỷ giá hối đoái……………………………………..11
4. Công cụ dự trữ bắt buộc.…………………………………..12
5. Nghiệp vụ thị trường mở…………………………………...14
IV. Giải pháp thực hiện công cụ chính sách
tiền tệ trong thời gian tới.……………………………………..15
V. Kết luận.……………………………………………………15
Danh mục Tài liệu tham khảo…………………………………16

20



×