Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Thực trạng hoạt động của Ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.92 KB, 41 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Trong nền kinh tế thị trường nhà nước muốn điều chỉnh nền kinh tế phát
triển đi đúng đinh hướng nhà nước luôn sử dụng các chính sách vĩ mô để điều
tiết nền kinh tế. Một trong những chính sách kinh tế được các nhà nước áp dụng
hiệu quả đó là chính sách tài khóa và tiền tệ được thực hiện thông qua Ngân
hàng nhà nước và hệ thống các ngân hàng thương mại.
- Mặt khác trước bối cảnh khó khăn suy thoái của nền kinh tế thế giới nói
chung cũng như Việt nam nói riêng Ngân hàng nhà nước là công cụ đắc lực
giúp cho Chính phủ kiểm soát được tình hình tài chính tiền tệ của đất nước cũng
như tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế có thể phát triển một
cách ổn định và bền vững.
- Chính vì vậy mà em chọn đề tài này làm đề tài này để nghiên cứu.
2. Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu và nắm bắt được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức của Ngân hàng nhà nước.
- Tìm hiểu về các chính sách tài khóa va tiền tệ được áp dụng trong thời
gian vừa qua.
- Đưa ra những nhận xét về tác động của các chính sách đó tới nền kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của triết học.
• Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
• Phương pháp trình bày quy nạp, diễn dịch.
• Phương pháp thống kê
5. Bố cục
Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3
chương:
Chương 1 Khái quát về Ngân hàng nhà nước Việt Nam


Chương 2 Thực trạng hoạt động của Ngân hàng nhà nước
Chương 3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hoạt động của Ngân hàng nhà
nước
1


Phần nội dung
Chương 1 Khái quát về Ngân hàng nhà nước
Việt Nam
I. Hoàn cảnh ra đời ngân hàng nhà nước Việt Nam
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa
phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín dụng ngân
hàng được thiết lập và hoạt động chủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa của Nhà
nước Pháp ở Việt Nam. Trong suốt thời kỳ thuộc địa, sự hình thành và phát
triển của hệ thống tiền tệ, tín dụng đều do Chính phủ Pháp xếp đặt, bảo hộ
thông qua Ngân hàng Đông Dương. Thực chất, Ngân hàng Đông Dương hoạt
động với tư cách là một Ngân hàng phát hành Trung ương, đồng thời là một
ngân hàng kinh doanh đa năng bao gồm các nghiệp vụ ngân hàng thương mại
và nghiệp vụ đầu tư.
Sau Cách mạng tháng 8, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chính
quyền cách mạng là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ độc lập, tự chủ, công
cụ quan trọng của chính quyền để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhiệm vụ này
dần trở thành hiện thực khi bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân Việt Nam ngày một tiến triển mạnh mẽ với những chiến thắng
vang dội trên khắp các chiến trường và vùng giải phóng không ngừng được mở
rộng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính
phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu mới. Trên cơ sở chủ trương chính
sách mới về tài chính- kinh tế mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (tháng 2/
1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là:

Quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho bạc
nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với
mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt lịch sử, là
kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc
2


lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng ở nước ta. Từ đó đến nay, gắn liền với sự phát triển của từng thời kỳ
cách mạng, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ( từ tháng 1/1960 đến nay là Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam) đã từng bước lớn mạnh và phát triển, góp phần quan
trọng vào việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín dụng và hệ
thống Ngân hàng Việt Nam, phục vụ tích cực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
II. Quá trình phát triển của Ngân hàng Nhà nước
Quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam kể từ khi Ngân
hàng Quốc gia Việt nam ra đời đến nay có thể chia thành 4 thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ 1951-1954
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương
đối trong hệ thống tài chính, thực hiện trọng trách đầu tiên: Phát hành giấy bạc
Ngân hàng, thu hồi giấy bạc Tài chính; Thực hiện quản lý Kho bạc Nhà nước
góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân sách; Phát
triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hóa, tăng cường lực
lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
2. Thời kỳ 1955-1975
Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc vừa xây dựng,
chiến đấu, vừa chi viện cho cách mạng giải phóng miền Nam. Trong thời kỳ
này, Ngân hàng Quốc gia thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn vật

giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế trong chiến tranh
phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy
mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
giải phóng miền Nam.
3. Thời kỳ 1975-1985

3


Là giai đoạn khôi phục kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất
nước nhà. Nhiệm vụ cụ thể của ngành Ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ thống
Ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống Ngân hàng của chế
độ cũ ở miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa đã được quốc hữu hóa và sáp nhập vào hệ thống Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả nước, phát
hành các loại tiền mới của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thu hồi
các loại tiền cũ ở cả hai miền Nam- Bắc vào năm 1978. Trong giai đoạn này, hệ
thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ ngân
sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường.
4. Thời kỳ 1986 đến nay
Là quá trình đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống Ngân hàng Việt Nam:
- Tháng 7/1987: Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 218/CT cho phép
làm thử việc chuyển hoạt động của Ngân hàng sang kinh doanh XHCN.
- Tháng 3/1988: Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT với
định hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh
doanh.
- Tháng 5/1990: Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố 2 Pháp lệnh

về ngân hàng ( Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính). Sự ra đời của 2 Pháp lệnh Ngân
hàng đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam
từ một cấp sang hai cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng và thực thi nhiệm
vụ của một Ngân hàng trung ương; các ngân hàng thương mại và tổ chức tín
dụng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng
trong khuôn khổ pháp luật.
- Tháng 10/1993, quan hệ hợp tác giữa Việt nam và cộng đồng tài chính
quốc tế (Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu
Á) được tái lập và khơi thông.
4


- Ngày 2/12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ
chức tín dụng được Quốc hội khóa X chính thức thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/10/1998.
- Ngày 16/6/2010 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các tổ
chức tín dụng được Quốc hội khóa XII chính thức thông qua và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2011. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan
ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng Ngân
hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung
ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm
ổn định giá trị đồng tiền; bảo đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống
các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán
quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống Ngân hàng đã

góp phần xứng đáng vào những thành tựu của cách mạng Việt Nam, góp phần
củng cố nền độc lập, tự chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ghi nhận những đóng góp to lớn của
ngành Ngân hàng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà
nước đã phong tặng và ban thưởng nhiều danh hiệu cao quý cho các tập thể và
cá nhân của ngành. Năm 1996, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập, ngành
Ngân hàng vinh dự được đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh. Đặc biệt, ngày
6/5/2006, tại Lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập, ngành Ngân hàng đã vinh dự
được Đảng, Nhà nước trao tặng phần thưởng cao quý nhất - Huân chương Sao
vàng; vào dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Ngành (27/4/2011), ngành Ngân hàng
đã vinh dự được đón nhận huân chương Hồ Chí Minh lần thứ 2.
III.Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Theo điều 2 của Nghị định số 96 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của ngân hàng nhà nước là:
5


Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Nghị
định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ
và những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:
1. Trình Chính phủ dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội ; dự thảo nghị
định của Chính phủ theo chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật hàng năm
của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt và các dự án, đề án theo sự phân
công của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
2. Trình Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
dài hạn, năm năm, hàng năm; chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
hành động và các dự án, công trình quan trọng thuộc lĩnh vực ngân hàng; dự
thảo quyết định, chỉ thị và các văn bản khác thuộc thẩm quyền chỉ đạo, điều

hành của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của pháp luật.
3. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị thuộc lĩnh vực quản lý của Ngân
hàng Nhà nước.
4. Chỉ thị, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật,
chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án, công trình quan trọng thuộc phạm
vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước đã được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngân hàng
Nhà nước.
5. Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, trình Chính phủ để trình
Quốc hội; sử dụng lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và
các công cụ khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; trình Chính phủ đề
án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
6. Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng,
trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, đổi tên và chấp thuận
việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng; hướng dẫn về các điều

6


kiện thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp
luật.
7. Kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng;
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng theo quy định của pháp luật.
8. Về quản lý ngoại hối:
a) Quản lý các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên
lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật;
b) Xác định Dự trữ ngoại hối Nhà nước; kiểm soát Dự trữ quốc tế;
c) Xác định tỷ giá giữa Việt Nam đồng và ngoại tệ; tổ chức và phát triển

thị trường ngoại tệ; xây dựng cơ chế tỷ giá trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định.
9. Về xây dựng cán cân thanh toán quốc tế:
a) Thu nhập, tổng hợp, lập, dự báo và theo dõi việc thực hiện cán cân thanh
toán quốc tế của Việt Nam; báo cáo tình hình thực hiện cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam theo quy định của pháp luật.
b) Làm đầu mối cung cấp số liệu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
cho các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
10. Về quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của người cư trú là tổ chức kinh
tế, tổ chức tín dụng và cá nhân theo quy định của pháp luật:
a) Thực hiện quản lý nhà nước đối với việc vay, trả nợ nước ngoài của các
doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công; giám sát, theo dõi việc vay, trả
nợ nước ngoài của khu vực tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra việc bảo lãnh vay
nước ngoài của các ngân hàng thương mại và của các tổ chức khác được phép
cấp bảo lãnh vay nước ngoài theo quy định của pháp luật;
b) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan xây dựng hạn mức vay
thương mại nước ngoài hàng năm của các doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc
khu vực công và dự báo mức vay nước ngoài hàng năm của khu vực tư nhân
trong cả nước gửi Bộ Tài chính tổng hợp để trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt;
7


c) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính điều hành hạn mức vay thương mại
nước ngoài hàng năm của doanh nghiệp, tổ chức khác đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt;
d) Tổng hợp tình hình vay, trả nợ nước ngoài hàng năm của các doanh
nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công và khu vực tư nhân; báo cáo Thủ
tướng Chính phủ, đồng gửi Bộ Tài chính để tổng hợp chung tình hình về vay,
trả nợ nước ngoài hàng năm của cả nước;

đ) Hướng dẫn và tổ chức việc đăng ký các khoản vay nước ngoài của các
doanh nghiệp, tổ chức khác thuộc khu vực công và khu vực tư nhân (kể cả các
khoản vay được Chính phủ bảo lãnh);
e) Giám sát các luồng tiền tệ liên quan đến hoạt động vay, trả nợ nước
ngoài phục vụ cho việc tổng hợp cán cân thanh toán quốc tế, điều hành chính
sách tiền tệ và quản lý ngoại hối;
g) Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về rủi ro từ nợ của khu vực doanh
nghiệp;
h) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về quản lý vay, trả nợ nước
ngoài theo quy định của pháp luật.
11. Về quản lý cho vay và thu hồi nợ nước ngoài của Chính phủ, tổ chức
kinh tế, tổ chức tín dụng:
a) Phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định mức,
nguồn vốn, hình thức, đối tượng, cơ chế quản lý cho vay và thu hồi nợ nước
ngoài của Chính phủ;
b) Quy định điều kiện, đối tượng, hình thức và cơ chế quản lý cho vay, thu
hồi nợ nước ngoài đối với người cư trú là tổ chức tín dụng;
c) Quy định điều kiện, thủ tục, quy trình cấp phép và trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định cho phép người cư trú là tổ chức kinh tế cho vay, thu hồi
nợ nước ngoài;
d) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về cho vay và thu hồi nợ nước
ngoài theo quy định của pháp luật.

8


12. Về đàm phám, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng:
a) Phối hợp với các cơ quan có liên quan chuẩn bị nội dung, tiến hành đàm
phán, ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế theo ủy quyền của Chính phủ

về ODA với Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB), Ngân hàng Phát triển
châu Á (Asian Develoment Bank – ADB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (International
Monetary Fund – IMF);
b) Tổng hợp theo định kỳ và thông báo cho Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, các cơ quan có liên quan về tình hình rút vốn và thanh toán thông qua
hệ thống tài khoản của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA mở tại các
ngân hàng.
13. Đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các ngân
hàng và tổ chức tiền tệ quốc tế theo ủy quyền của Chủ tịch nước, Chính phủ:
a) Thực hiện chức năng thành viên tại Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư
quốc tế (International Investment Bank – IIB), Ngân hàng Hợp tác kinh tế quốc
tế (International Bank For Economic Cooperation – IBEC);
b) Làm đầu mối phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trong việc thực
hiện điều lệ, chính sách của IMF, WB, ADB, IIB, IBEC và các chương trình ổn
định kinh tế vĩ mô do IMF, WB, ADB thực hiện tại Việt Nam; cung cấp thông
tin, số liệu định kỳ hoặc đột xuất theo quy định của các tổ chức nêu trên; đề
xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các chính sách và biện pháp để phát
triển và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức nêu trên.
14. Về việc thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương:
a) Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát
hành, thu hồi, thay thế và tiêu hủy tiền;
b) Thực hiện tái cấp vốn để cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện
thanh toán cho nền kinh tế;
c) Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở;

9


d) Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng; quản lý nhà nước đối với

hoạt động thanh toán; cung ứng dịch vụ thanh toán; tổ chức thực hiện chính
sách khuyến khích, mở rộng và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt sau
khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
đ) Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho Kho bạc Nhà nước;
e) Tổ chức hệ thống thông tin và cung ứng dịch vụ thông tin ngân hàng;
quản lý các tổ chức hoạt động thông tin tín dụng; phân tích xếp hạng tín dụng
doanh nghiệp Việt Nam;
g) Thực hiện các nghiệp vụ khác của Ngân hàng Trung ương.
15. Quyết định phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư thuộc thẩm
quyền; thẩm định và kiểm tra việc thực hiện các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
ngân hàng theo quy định của pháp luật.
16. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của pháp luật; được
sử dụng các khoản trích từ nguồn thu hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về
ngoại hối, tiền tệ và hoạt động ngân hàng để phục vụ công tác chuyên môn,
nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
17. Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng theo quy định của pháp luật.
18. Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ
khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực ngân hàng theo quy
định của pháp luật.
19. Quyết định các chủ trương, biện pháp cụ thể và chỉ đạo thực hiện cơ
chế hoạt động của các tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động
ngân hàng; quản lý và chỉ đạo hoạt động đối với các tổ chức sự nghiệp thuộc
thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
20. Thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp
có vốn nhà nước:
a) Xây dựng đề án thành lập, sắp xếp, tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu doanh
nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo thực hiện sau khi đề án được phê duyệt;
10



b) Phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh
vực ngân hàng;
c) Trình Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm theo thẩm quyền
các chức danh thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám
đốc các tổ chức tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước khác thuộc phạm vi
quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
21. Hướng dẫn và kiểm tra hoạt động của hội, tổ chức phi chính phủ trong
ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước; xử lý hoặc
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật của hội, tổ chức phi Chính phủ theo quy định của pháp luật.
22. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thuộc thẩm
quyền; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền; thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí theo quy định của pháp luật.
23. Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của
Ngân hàng Nhà nước theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành
chính của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; quyết định và chỉ
đạo đổi mới phương thức làm việc, hiện đại hóa công sở và ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.
24. Quản lý ngạch công chức, viên chức chuyên ngành thuộc lĩnh vực ngân
hàng;
a) Tổ chức thi nâng ngạch viên chức; ban hành tiêu chuẩn chuyên môn
nghiệp vụ ngạch viên chức được phân công, phân cấp quản lý theo quy định của
pháp luật;
b) Xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của ngạch công chức thuộc
lĩnh vực ngân hàng để Bộ Nội vụ ban hành.
25. Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử

dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển, chế độ nghỉ hưu, khen

11


thưởng, kỷ luật, tiền lương và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ, công
chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước.
26. Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cơ chế về tiền lương, tuyển dụng
và sử dụng cán bộ, công chức, viên chức phù hợp với đặc thù của Ngân hàng
Nhà nước.
27. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giao và theo quy định của pháp luật.
IV. Cơ cấu tổ chức Ngân Hàng nhà nước Việt Nam
Trên cơ sở Nghị định 96/2008/NĐ-CP, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành các Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, như sau:
- Vụ Chính sách tiền tệ: Tham mưu, giúp Thống đốc xây dựng chính sách
tiền tệ Quốc gia và sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo quy định của
pháp luật.
- Vụ Quản lý ngoại hối: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối theo quy định của pháp
luật.
- Vụ Thanh toán: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà
nước về lĩnh vực thanh toán trong nền kinh tế quốc dân theo quy định của pháp
luật.
- Vụ Tín dụng: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước
về lĩnh vực tín dụng ngân hàng và điều hành thị trường tiền tệ theo quy định của
pháp luật.
- Vụ Dự báo thống kê tiền tệ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công
tác dự báo, thống kê tiền tệ theo quy định của pháp luật.

- Vụ Hợp tác quốc tế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức năng
quản lý Nhà nước về hợp tác và hội nhập quốc tế thuộc phạm vi quản lý của
NHNN theo quy định của pháp luật.
- Vụ Kiểm toán nội bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện kiểm toán
nội bộ hoạt động của các đơn vị thuộc NHNN.
12


- Vụ Pháp chế: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện quản lý Nhà nước
bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong ngành ngân
hàng.
- Vụ Tài chính- Kế toán: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện công tác
tài chính, kế toán, đầu tư xây dựng cơ bản của NHNN và quản lý Nhà nước về
kế toán, đầu tư xây dựng cơ bản của ngành Ngân hàng theo quy định của pháp
luật.
- Vụ Tổ chức cán bộ: Tham mưu, giúp Thống đốc, ban cán sự Đảng
NHNN thực hiện công tác tổ chức, biên chế, quản lý, sử dụng cán bộ, công
chức, viên chức; chế độ tiền lương và các chế độ khác thuộc phạm vi quản lý
của NHNN theo quy định của pháp luật.
- Vụ Thi đua khen thưởng: Tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước
về công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Ngân hàng theo quy định của
pháp luật.
- Văn phòng: Tham mưu, giúp Thống đốc chỉ đạo và điều hành hoạt động
ngân hàng; thực hiện công tác cải cách hành chính của NHNN; quản lý hoạt
động thông tin, tuyên truyền, báo chí, văn thư, lưu trữ của ngành Ngân hàng
theo quy định của pháp luật; thực hiện công tác hành chính, lễ tân, văn thư, lưu
trữ tại trụ sở chính NHNN.
- Cục Công nghệ tin học: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện nhiệm
vụ quản lý Nhà nước chuyên ngành về lĩnh vực công nghệ tin học trong phạm
vi toàn ngành Ngân hàng.

- Cục Phát hành và kho quỹ: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện chức
năng quản lý Nhà nước và chức năng Ngân hàng Trung ương về lĩnh vực phát
hành và kho quỹ theo quy định của pháp luật.
- Cục Quản trị: Giúp Thống đốc quản lý tài sản, tài chính, cơ sở vật chất
kỹ thuật, hậu cần, bảo vệ, an ninh trật tự, an toàn cơ quan, chăm lo đời sống,
sức khỏe cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc trụ sở
chính NHNN.

13


- Sở Giao dịch: Tham mưu, giúp Thống đốc thực hiện các nghiệp vụ
Ngân hàng Trung ương.
- Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng: Cơ quan trực thuộc NHNN
thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giám sát
chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý Nhà nước
của NHNN; Tham mưu, giúp Thống đốc NHNN quản lý Nhà nước đối với các
tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác; thực hiện phòng, chống rửa tiền theo quy định của pháp luật.
- NHNN Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Là các đơn vị
phụ thuộc của NHNN, chịu sự điều hành và lãnh đạo tập trung, thống nhất của
Thống đốc NHNN; có chức năng tham mưu, giúp Thống đốc quản lý Nhà nước
về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ
Ngân hàng trung ương theo ủy quyền của Thống đốc.
- Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh: Đơn vị phụ thuộc của
NHNN, thực hiện nhiệm vụ đại diện theo sự ủy quyền của Thống đốc NHNN.
- Viện Chiến lược ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước trực thuộc
NHNN VN, có chức năng nghiên cứu và xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển ngành Ngân hàng; tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ ngân hàng phục vụ cho yêu cầy quản lý Nhà nước của NHNN về tiền

tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Trung tâm Thông tin tín dụng: Tổ chức sự nghiệp Nhà nước thuộc
NHNN, có chức năng thu nhận, xử lý, lưu trữ, phân tích, dự báo thông tin tín
dụng phục vụ cho yêu cấu quản lý Nhà nước của NHNN; thực hiện các dịch vụ
thông tin ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.
- Thời báo ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN; là cơ
quan ngôn luận, diễn đàn xã hội và là công cụ tuyên truyền, phổ biến đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và hoạt động của
ngành Ngân hàng theo quy định của NHNN và của pháp luật.
- Tạp chí ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp Nhà nước thuộc NHNN; là cơ
quan ngôn luận và diễn đàn về lý luận, nghiệp vụ, khoa học và công nghệ ngân
14


hàng; có chức năng tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, hoạt động ngân hàng và những thành tựu
về khoa học, công nghệ của ngành Ngân hàng và lĩnh vực liên quan theo quy
định của NHNN và của pháp luật.
-

Trường bồi dưỡng cán bộ ngân hàng: Đơn vị sự nghiệp có thu thuộc

cơ cấu tổ chức của NHNN, có chức năng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến
thức, kỹ năng quản lý Nhà nước và chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực ngân
hàng phục vụ yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức của NHNN và của ngành ngân hàng theo quy hoạch, kế hoạch
đã được Thống đốc phê duyệt.
V. Vai trò của ngân hàng nhà nước trong nền kinh tế
Trên cơ sở quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chính
phủ đã ban hành Nghị định quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện nay, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thực hiện theo Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Chính phủ.
Về cơ cấu tổ chức, theo Nghị định 96/2008/NĐ-CP, Ngân hàng Nhà nước có 24
đơn vị trực thuộc, trong đó 19 đơn vị giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng Ngân hàng trung ương, 5
đơn vị là tổ chức sự nghiệp. Ngân hàng nhà nước có các chức năng là:
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ngân hàng độc quyền phát hành
tiền
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao
đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý
mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều
tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được
lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng lãi suất
để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.

15


2. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng
trung gian
a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán chuyển nhượng, bù trừ
của các ngân hàng trung gian
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở
tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai
trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán
lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng
trung ương kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài
chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ

thống

tài

chính

vào

những

thời

điểm

nhất

định.

b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống
ngân hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền
mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên
phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung
ương, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống
ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược
lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý
một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng
trung gian.
c. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân

hàng trung gian.
Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng
định rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những
đợt rút tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất
trở thành âm, vì có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ
tin tưởng vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì
không đủ tiền mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân
16


hàng trung gian không còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi về kịp
những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung ương vay tiền như cứu
cánh cuối cùng.
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi
là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất
của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng
duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ
in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó
có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân
để thanh toán cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy
lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung
gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương,
ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian
sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì
khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung ương với lãi suất cao
hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các ngân
hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng
cung ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm

lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền
trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân
hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của
hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Đây là một công cụ
giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.

3. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho Chính
phủ
17


a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ
Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho
bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung
ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của
ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử
dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ
tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường.
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như:
vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước
thuế, … và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương
thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như:
chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp chính phủ
vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung
ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho
chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động
theo.
Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho
vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là

can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô.
b. Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ
Với tư cách là đại lý cho chính phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính
phủ tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt
chính phủ trong các thỏa thuận tài chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và
thanh toán với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách này nó có thể phát hành trái
phiếu, cổ phiếu…cho chính phủ kể cả trong và ngoài nước.
Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm
trực tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã
làm tác động đến kinh tế vĩ mô.
c. Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ
Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động
18


của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả
của chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô.
Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ
trong chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián
tiếp ảnh hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi
tiêu khác cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô.
4. Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia
Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp
khẩn cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống
khan hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh…
Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ, …. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ,
ngân hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi
nắm trong tay công cụ này ngân hàng trung ương(NHTU) có thể can thiệp bất
kì lúc nào vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng
hoặc giảm giá. NHTW với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ,

nó tạo ra hai tác động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối
đoái của đồng tiền trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất,
thu nhập và giá cả và đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô.
5. Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương
Mọi họat động của ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến
cung ứng tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả,
sản lượng quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh
hưởng sâu sắc đến nền kinh tế.

a. Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế
Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính
sách cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt.
Giả sử vào thời điểm ta nghiên cứu, đường cung ứng tiền tương ứng của
ngân hàng là LS0 ứng với nhu cầu tiền trong nền kinh tế là LD. Nền kinh tế đạt
19


bình quân tạm thời trên thị trường tiền tệ tại điểm bình quân E0 cho biết: với
mức bình quân ấy lượng cung ứng tiền là L0 và lãi suất là R0.
Bây giờ, cho rằng ngân hàng trung ương quyết định thắt chặt cung ứng tiền
để hạn chế lạm phát (LS0 tới LS1) trong khi LD vẫn không thay đổi. Chính
điều này đã làm cho lãi suất tăng vọt từ R0 đến R1. E0 di chuyển đến E1. Lúc
này tiền sẽ khan hiếm hơn (do lượng cung giảm). Tiền khan hiếm thì giá trị của
đồng tiền sẽ tăng theo do đó lạm phát sẽ giảm.
Ngược lại, giả sử sau một khỏang thời gian chống lạm phát với cái giá là
sự suy thoái (tiền khan hiếm, lãi suất cao bên cạnh đó sự thắt chặt tiền tệ của
ngân hàng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay), ngân hàng trung
ương bắt đầu chuyển sang cung ứng tiền nới lỏng. Tổng cung tiền tệ tăng từ
LS1 lên LS2, cắt LD tại E2, lúc này lượng tiền tệ tăng lên L2 và lãi suất giảm
xuống còn R2. Lúc này thì nền kinh tế phải đối mặt với thách thức mới là lạm

phát có thể gia tăng (do có quá nhiều tiền trong lưu thông). Vì thế cho nên mỗi
lần áp dụng mức lãi suất hay lượng cung ứng tiền ngân hàng trung ương phải
đắn đo suy nghĩ những tác hại thiệt hơn cho mỗi chính sách tiền tệ.
Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn.
Điều này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia
tăng tiêu dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm
công nhân, giảm thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng
trưởng với giácả tăng cao hơn trước.
Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và
tiền trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt
giảm chi tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá
phải trả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương.
Khi ngân hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành
điều tiết nền kinh tế.

20


b. Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của
ngân hàng trung ương.
b1. Mục tiêu:
- Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho mục đích đảm bảo cho nền kinh tế
có tăng trưởng, tức là giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng
tiềm năng sản xuất, chống suy thoái…
- Chính sách tiền tệ phải hướng về ổn định giá cả: Giá cả có lạm phát
thấp là mục tiêu của mọi nền kinh tế vì mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân
sẽ dương, do đó đời sống của người lao động sẽ tốt hơn và người dân sẽ tin
chính phủ hơn. Sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ và nền kinh tế sẽ có sức bật về

đầu tư lâu dài, giá trị đồng tiền nội địa sẽ ổn định.
-

Phải tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng

tài chính ổn định được hiểu là bằng chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương
phải ổn định họat động tài chính của hệ thồng tài chính trong nước một cách
gián tiếp… hướng quản lý các họat động của nó phù hợp với các mục tiêu kinh
tế. Làm hài hòa các lợi ích của các tổ chức tài chính để nó phục vụ tốt nhất cho
lợi ích chung của cả nền kinh tế.
-

Góp phần mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế: Các tiềm năng như

đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người… mục tiêu cuối cùng của
chính sách là khai thác và phát triển các ngưồn lực một cách có hiệu quả
nhất.Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng điều tiết cung ứng tiền của
ngân hàng trung ương.
- Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng
tiền.Khi xem xét mục tiêu trung gian (lãi suất,dự trữ,tỷ giá) trong họat động
điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, thì những mục tiêu này thực
chất chỉ là phương tiện giúp cho ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu là
điều tiết nền kinh tế. Xét về ngắn hạn lãi suất, dự trữ, tỷ giá thay đổi ảnh hưởng
một cách nhanh chóng đến tiêu dùng và đầu tư và đến nền kinh tế. Từ đó về mặt
ngắn hạn các nhà kinh tế học xem ba tác nhân trên là những mục tiêu trung
gian.
21


• Lãi suất

Lãi suất là tỉ lệ phần trăm giữa khỏan tiền ngưởi vay trả cho người cho vay trên
tiền vốn trong một khoảng thời gian nhất định như 1 năm, 1 tháng.

Giả sử lúc đầu lãi suất của thị trường tiền tệ là R0, ở mức lãi suất này nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân là AD0 và sản lượng quốc gia là Y0.
Bây giờ cho rằng ngân hàng trung ương và chính phủ quyết định nâng lãi suất
để giảm lạm phát. Lãi suất cao hơn làm cho việc vay tiền trở nên khó khăn hơn
do thế sản xuất không dám tiêu dùng nhiều vốn và sản xuất có xu hướng giảm
sút. Do lãi suất cao nên người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn và nhu cầu
tiêu dùng giảm xuống. Đường cầu AD0 dịch chuyển đến AD1. Tiêu dùng và
đầu tư giảm làm giá cả giảm từ P0 xuống P1, sản lượng tụt xuống Y1 và nền
kinh tế đi vào tình trạng suy thoái.
Ngược lại khi lãi suất hạ xuống R2, sản xuất sẽ tiêu dùng nhiều vốn hơn,
sản xuất được đẩy mạnh, lãi suất thấp người tiêu dùng sẽ tiết kiệm ít hơn và đầu
tư và chi tiêu nhiều hơn do đó cầu sẽ tăng lên. Giá cả cũng sẽ tăng và sản lượng
quốc gia do đó cũng tăng lên.
• Dự trữ
Khi ngân hàng trung ương sử dụng tỷ lệ dữ trự bắt buộc như một công cụ,
nó tác động trực tiếp đến cung ứng tiền. Lúc đó dự trữ bắt buộc là công cụ mà
cung ứng tiền là mục tiêu.
22


Khi ngân hàng trung ương không sử dụng cách điều tiết trực tiếp bằng việc
áp đặt tỷ lệ dựtrữ bắt buộc, nó có thể tác động đến dự trữ bắt buộc bằng cung
ứng tiền. Đó là cách điều tiết gián tiếp. Bằng việc bán chứng khoán ra để thu
tiền về (giảm lượng tiền trong lưu thông, tiền từ đó khan hiếm dần), từ đó mà
lãi suất tăng lên và làm giảm việc cho vay. Khi ngân hàng trung ương xuất tiền
ra để mua chứng khóan (tăng cung ứng tiền cho nền kinh tế, tiền dễ dàng để có
hơn) do đó làm giảm lãi suất, tăng khả năng cho vay. Trong trường hợp này

cung ứng tiền là công cụ mà dự trữ là mục tiêu.
• Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái được xem là giá của một đồng tiền trên sự so sánh với một
đồng tiền nước khác ( kí hiệu là E ).
Bằng việc thay đổi cung ứng tiền, ngân hàng trung ương có thể làm tăng
hay giảm giá đồng tiền nội địa so với nước ngòai. Khi ngân hàng trung ương
tăng cung ứng tiền từ LS0 lên LS2, có quá nhiều đơn vị tiền nội địa trong sự so
sánh với nước ngoài, hay nói cách khác chỉ cần ít tiền nước ngoài hơn để đổi
lấy một đơn vị đồng nội tệ, do vậy giá trị đồng tiền trong nước giảm từ RV0
xuống RV2 ( tỉ giá trao đổi từ E0 lên E2 ). Trong trường hợp ngược lại, khi
ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ, giảm cung ứng tiền xuống còn LS1,
đồng tiền trong nước trở nên khan hiếm hơn và từ đó giá trị đồng tiền trong
nước tăng lên đến RV1. Tỉ giá trao đổi giảm xuống E1.
Hay cũng có cách khác, là cách như Hoa Kì làm trong năm 1995. Hoa Kì
bán ngọai tệ để rút tiền nội địa về (thu hẹp cung ứng tiền) nhằm tăng giá đồng
tiền nội địa. Và bán đồng nội tệ để mua ngoại tệ (tăng cung ứng tiền) nhằm
giảm giá đồng nội tệ.
Khi đồng tiền trong nước bị mất giá (tức là với một đơn vị ngọai tệ có thể
đổi nhiều đồng nội tệ hơn) lúc đó sẽ làm gia tăng xuất khẩu (bán hàng ra nước
ngòai và thu tiền về bằng ngọai tệ, khi đổi ra nội tệ sẽ có lợi hơn do đồng nội tệ
đã mất giá hơn trước ), do đó sẽ làm tăng GDP. Và khi đồng tiền nội tệ tăng giá
sẽ làm tăng nhập khẩu.

23


Do những lý do trên tỉ giá hối đoái có tác động đến kinh tế vĩ mô và nắm
được tỉ giá hối đoái này chính phủ cần ngân hàng trung ương điều tiết lượng
cung ứng tiền.
b2. Các công cụ điều tiết

• Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở có 2 lọai: được phép mua bán chứng khoán vào
những thời điểm nhất định sau khi nghiệp vụ được tiến hành và lọai không được
phép mua bán lại.
Khi ngân hàng trung ương đem chứng khóan ra thị trường mở để bán nó
thu tiền hay séc về, cho nên:
- Giảm lượng cung tiền mắt trong lưu thông từ đó giảm khả năng cho vay
của các ngân hàng trung gian.
- Khi ngân hàng trung gian mua chứng khóan của ngân hàng trung ương
thì dự trữ tiền của nó sẽ giảm xuống và khả năng cung ứng tiền của nó bị thắt
chặt.
- Lượng chứng khoán tăng lên, chứng khoán trở nên thừa và giá của nó
sẽ giảm xuống, lãi suất của nó sẽ tăng lên. Lãi suất chứng khoán tăng lên buộc
các ngân hàng phải tăng lãi suất để tránh tình trạng người dân rút tiền ra khỏi
ngân hàng để đầu tư vào chứng khoán. Lãi suất ngân hàng tăng làm lượng tiền
cung ứng giảm và do đó tiền trở nên khan hiếm, do đó tỉ giá và giá cả hàng hóa
giảm xuống. Và ngược lại khi ngân hàng trung ương ra thị trường mở để mua
chứng khoán.
Như vậy khi ngân hàng trung ương thực hiện nghiệp vụ bán, nó thắt chặt
cung ứng tiền, tăng lãi suất, giảm tỉ giá và giá cả hạ xuống và ngược lại khi thực
hiện nghiệp vụ mua.
• Lãi suất cho vay chiết khấu
Được ngân hàng trung ương quyết định trong cả hai trường hợp:
+ Cho vay bình thường với kí quỹ khi ngân hàng trung gian kẹt thanh
tóan.
+ Cho vay dưới hình thức cứu cánh cuối cùng.
24


Lãi suất cho vay chiết khấu có cả hai tác dụng: trực tiếp và gián tiếp. Tác

động gián tiếp là nó làm tăng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian
và do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm
tăng hay giảm dự trữ của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến lượng cho
vay tiêu dùng và đầu tư trong kinh tế.
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì đó là biến cố quan
trọng. Lãi suất tăng khiến ngân hàng trung gian không thể vay mượn của ngân
hàng trung ương nhiều và dễ dàng như trước. Do đó nó phải giảm lượng cho
vay và hậu quả là tổng cầu và sản lượng giảm theo. Điều này cũng làm cho
ngân hàng trung gian ý thức rằng khi cần vay thì ngân hàng trung gian phải trã
lãi suất cao, do đó ngân hàng trung gian sẽ từ từ nâng lãi suất của mình để khỏi
thiệt hại nặng khi phải vay của ngân hàng trung ương. Lãi suất tiếp tục thắt chặt
lượng cung tiền và tác động đến nền kinh tế. Và ngược lại khi giảm lãi suất
chiết khấu.
• Dự trữ bắt buộc
Sự thay đổi trong tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng cung của tiền
và ảnh huởng sâu sắc đến nền kinh tế.
• Chính sách tiền mặt
Ngoài việc có thể thay đổi cơ số tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở và
cho vay chiết khấu ngân hàng trung ương có thể có những cách khác như:
- Khi ngân hàng tung tiền mặt ra mua ngọai tệ trên thị trưởng ngọai tệ,
tức khắc nó làm tăng giá trị của đồng ngọai tệ (ngọai tệ trong lưu thông ít đi,
lượng tiền nội tệ thì tăng thêm ), nâng tỉ giá lên cao. Cung ứng tiền nội tệ tổng
thể lập tức bành trướng sau đó và ngược lại khi bán ngọai tệ.
- Khi ngân sách chính phủ thâm hụt nó sẽ cho chính phủ vay, lượng tiền
mặt nó cho vay làm tăng lượgn tiền trong lưu thông và tăng cung ứng tiền trong
nền kinh tế thông qua việc chi tiêu của chính phủ.

25



×