Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Chế độ tỷ giá cố định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.12 KB, 22 trang )

Đại học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa Kinh Tế -Luật
Môn: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài : Chế độ tỷ giá cố định
Danh sách nhóm thực hiện (Lớp K07402A):
1.Vương Kim Liên
2.Hồ Ngọc Hân
3.Lưu Thị Tú Trinh
4.Trần Hà Minh Hường
5.Nguyễn Thị Tuấn Anh
6.Trần Thị Thanh Thảo
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
Tp.HCM, tháng 9/2009
Mục lục:
I.Khái quát về tỷ giá hối đoái.
1.Khái niệm chế độ tỷ giá.
2.Các chế độ tỷ giá
3.Căn cứ xác định chế độ tỷ giá trong lịch sử
II.Chế độ tỷ giá cố định
1.Khái niệm
2.Quá trình hình thành và phát triển
2.1.Chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm đơn vị ( chế độ bản vị vàng)
2.2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods ( chế độ cố định theo định danh)
2.3. Chế độ tỷ giá cố định được áp dụng ở một số nước hịên nay
3.Ưu và nhược điểm
4.Sự can thiệp của ngân hàng TW trong việc điều tiết chế độ tỷ giá cố định
III.Diễn biến quá trình sử dụng chế độ tỷ giá cố định ở Việt Nam
Trang 2
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
I.Khái quát về chế độ tỷ giá hối đoái:
*Khái niệm tỷ giá :


Tỷ giá nói chung là số đơn vị đồng tiền định giá trên một đơn vị đồng tiền yết giá. Đối
với một quốc gia cụ thể thì tỷ giá là số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ, nghĩa là đồng
ngoại tệ đóng vai trò là đồng tiền yết giá, còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định
giá.
1.Khái niệm chế độ tỷ giá: Về mặt thuật ngữ, chế độ tỷ giá (Exchange rate regime)
còn có các tên gọi khác nhau như cơ chế tỷ giá (exchange rate mechanism) hay cấu trúc tỷ
giá (exchange rate arrangement). Tỷ giá vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một công cụ
của chính sách kinh tế của chính phủ.Vì là công cụ của chính sách kinh tế nên tỷ giá chứa
đựng những yếu tố chủ quan, chính vì vậy, các quốc gia luôn xây dựng những quy tắc, cơ
chế xác định và điều tiết tỷ giá của riêng mình. Tập hợp các quy tắc, cơ chế xác định và
điều tiết tỷ giá của một quốc gia tạo nên chế độ tỷ giá của quốc gia này.
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản là
chế độ tỷ giá "thả nổi" theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá hối đoái,
hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái "cố định" theo đó nhà nước sẽ can thiệp
để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của nước mình với đồng tiền (các) nước khác không đổi,
hoặc là một chế độ nằm giữa hai giải pháp góc đó.
2.Các chế độ tỷ giá
Tính chất đa dạng của các chế độ tỷ giá phụ thuộc vào vai trò của chính phủ và vai trò
của thị trường trong việc hình thành tỷ giá. Theo mức độ can thiệp tăng dần của chính phủ,
có thể nêu ra 3 chế độ tỷ giá đặc trưng : Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn , chế độ tỷ giá thả
nổi có điều tiết, chế độ tỷ giá cố định.
3.Căn cứ xác định tỷ giá trong lịch sử
- Căn cứ giá ngang giá vàng - chế độ bản vị vàng
- Căn cứ vào giá trị đồng Bảng Anh - Chế độ bản bị đồng Bảng Anh
Trang 3
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
- Căn cứ vào giá trị đồng Đô-la Mỹ - Chế độ tỷ giá đồng Đô-la Mỹ
- Căn cứ vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường
- Kết hợp giữa cung cầu ngoại tệ trên thị trường và sự điều tiết của chính phủ.
II.Chế độ tỷ giá cố định.

Các hệ thống tỷ giá khác nhau đã và đang được các nước sử dụng trong khi đang hội
nhập với phần còn lại của thế giới - cụ thể là chế độ tỷ giá thả nổi thuần túy, thả nổi có
quản lý, tỷ giá cố định, hay một chuẩn tiền tệ (currency board) giống như Argentina. Mỗi
hệ thống đều có ảnh hưởng đối với tính hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài
khoá
1.Khái niệm chế độ tỷ giá cố định
Tỷ giá được quyết định bởi NHTW. NHTW công bố mức tỷ giá chính thức và cam
kết can thiệp để duy trì một mức tỷ giá cố định, gọi là tỷ giá trung tâm trong một biên độ
hẹp đã được định trước và để duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước với đồng
tiền nước ngoài theo giá công bố giá đã ấn định thì NHTW phải điều hòa lượng ngoại tệ
trên thị trường ngoại hối để đảm bảo cân bằng cung cầu ngoại tệ.
Một ví dụ điển hình là hiệp định Bretton Woods, khi mỗi đồng tiền đều được định giá
theo vàng nên giá trị của chúng đối với nhau cố định, và các chính phủ can thiệp vào thị
trường ngoại hối để đảm bảo tỷ giá hối đoái không dao động quá ±1% tỷ giá ban đầu.
Với môi trường tỷ giá hối đoái cố định, nhiệm vụ quản lý các rủi ro phát sinh do
dao động tỷ giá trong một công ty đa quốc gia ít khó khăn hơn. Tuy nhiên, vẫn có rủi ro là
chính phủ sẽ thay đổi giá trị của đồng tiền.
2.Quá trình hình thành và phát triển
Lịch sử phát triển thế giới trải qua nhiều thăng trầm, từ những thời kỳ phát triển mạnh,
tăng trưởng nhanh đến những giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với đó là sự phát
triển của thị trường tài chính thế giới và sự thay dổi chế độ tỉ giá. Căn cứ trên tiêu thức là
sự phát triển của cả hệ thống tài chính thế giới thì chế độ tỷ giá đã trải qua các thời kỳ cơ
Trang 4
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
bản : chế độ tỷ giá hối đoái cố định một cách tự nhiên theo bản vị vàng, chế dộ tỷ giá hối
đoái cố định theo danh định Bretton Woods, Chế độ tỷ giá hối đoái Giamaica, Chế độ tỷ
giá hối đoái bán thả nổi đặc trưng hiện nay , …
Với mục đích tìm hiểu về chế độ tỷ giá cố định bài viết sẽ chỉ tập trung vào chế độ bản
vị vàng, chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods và chế độ tỷ giá cố định hiện hành trên thế
giới.

2.1.Chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm đơn vị ( chế độ bản vị vàng)
Cho đến thời kỳ cận đại thương mại quốc tế vẫn hoạt động trên cơ sở “Bản vị hàng
hóa”, kim loại là hàng hóa ( chủ yếu là vàng, bạc) được đúc thành từng khối với chức năng
làm phương tiện trao đổi và lưu thông trong nền kinh tế. Thời kỳ đầu kim loại được đúc
chủ yếu ở dạng tùy ý , thành những thỏi hay những chiếc vòng về sau để phù hợp với giao
thương quốc tế những phát kiến đã tiêu chuẩn hóa tiền tệ về trọng lượng, chất lượng và
nhãn mác. Ở dạng tinh khiết , bản vị hàng hóa kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị đầy đủ
của các đồng xu, tức giá trị tiền tệ của chúng cũng là giá trị kim loại của đồng xu. Mặc dù
nước Anh hoạt động dưới chế độ bản vị vàng trong hầu hết thế kỷ XIX nhưng chế độ này
vẫn chưa được áp dụng phổ biến cho đến những năm 1870. Thập niên 1870 đánh dấu việc
chuyển sang chế độ bản vị vàng của hầu hết các nước châu Âu mà dẫn đầu là Đức, Mỹ
cũng chuyển sang chế độ này vào 1879. Đến 1880 bản vị vàng đã phát triển thành Hệ
thống tiền tệ quốc tế với hầu hết các nước áp dụng.Giai đoạn 1880 – 1914 được xem là
thời kỳ hoàng kim của bản vị vàng. Trong chế độ bản vị vàng tỷ giá hối đoái giữa hai đồng
tiền được xác định trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng giữa hai đồng tiền với nhau, so sánh
đó gọi là ngang giá vàng hay đồng giá vàng. Tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá vàng rất
ít, nó giao động xung quanh đồng giá vàng và trong giới hạn của điểm vàng (Điểm vàng là
điểm mà ở đó nếu tỷ giá vượt qua hoặc nhỏ hơn thì sẽ xảy ra hiện tượng nhập vàng hoặc
xuất vàng để thanh toán hợp đồng mua bán ngoại thương). Giới hạn lên xuống của tỷ giá
hối đoái là ngang giá vàng cộng hoặc trừ chi phí vận chuyển vàng giữa các nước hữu quan.
Chế độ bản vị vàng cũng đã trải qua nhiều biến đổi, lúc mới hình thành là chế độ bản vị
Trang 5
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
tiền vàng ( chế độ cố định theo vàng) sau đó chuyển dần sang chế độ bản vị vàng thoi và
cuối cùng là chế độ bản vị vàng hối đoái.
Hoạt động của chế độ bản vị vàng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản sau. Thứ nhất, các
quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng. Thứ hai, xuất khẩu và nhập
khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt động.Do vàng được chu chuyển tự do giữa
các quốc gia nên tỷ giá trao đổi thực tế trên thị trường tự do không biến động đáng kể so
với bản vị vàng. Thứ ba, ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một lượng vàng dự trữ

trong mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành để đảm bảo việc chuyển đổi từ tiền ra
vàng không gặp trở ngại.
Hoạt động kinh tế vĩ mô dưới chế độ bản vị vàng có những đặc trưng. Tồn tại luồng
vàng ròng chảy từ quốc gia có thâm hụt đế quốc gia có thặng dư cán cân thanh toán. Cung
ứng tiền tăng ở quốc gia có thặng dư cán cân thanh toán sẽ tạo ra các hiệu ứng : tạo áp lực
tăng giá, lãi suất có xu hướng giảm, tăng nhập khẩu từ quốc gia có thâm hụt cán cân thanh
toán. Cung ứng tiền giẩm ở các quốc gia thâm hụt cán cân thanh toán sẽ tạo ra các hiệu ứng
: tạo áp lực giảm giá, lãi suất có xu hướng tăng, giảm nhập khẩu từ quốc gia có thặng dư
cán cân thanh toán. Quá trình này diễn ra thường xuyên, liên tục chùng nào cán cân thanh
toán của các nước chưa đạt đến trạng thái cân bằng.
2.2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods ( chế độ cố định theo định danh)
Cuộc đại suy thoái kinh tế vào năm 1929 -1933 đã làm sụp đổ hệ thống ngân hàng trên
thế giới. Cùng với nó là sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng, hệ thống tiền tệ quốc tế trở nên
rệu rã, mất liên kết. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II những cuộc thương thuyết về tái
thiết IMS đã diễn ra giữa Mỹ và Anh. Cuối cùng Hội nghị tiền tệ quốc tế bao gồm 44 nước
diễn ra ở Bretton Woods, New Hampshire (từ ngày 1/7 đến 20/7 năm 1944) đã phê chuẩn
BWS.
BWS có hai điểm cơ bản đó là hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng có thể điều
chính và hình thành hai tổ chức quốc tế mới là Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International
Trang 6
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
Monetary Fund) và Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế còn được gọi tắt là Ngân hàng
thế giới (WB – World Bank).
BWS hình thành hệ thống chế độ tỷ giá cố định nhưng có thể điều chỉnh. Mỗi quốc gia
được ấn định một tỷ giá trung tâm với USD và được phép dao động trong biên độ ± 1% .
Tỷ giá đồng USD tự nó được cố định với giá vàng là $35/ounce. Việc cố định tỷ giá USD
vào giá vàng là đảm bảo cho BWS có được sự tin tưởng vì năm 1945 dự trữ vàng của Mỹ
chiếm 70% dự trữ vàng của thế giới, mặt khác chính phủ Mỹ cam kết duy trì chuyển đổi
USD ra vàng không hạn chế tại mức giá cố định $35/ounce. Do đó USD là một công cụ dự
trữ đáng tin cậy cho ngân hàng các nước. USD đã trở thành cầu nối cho toàn bộ hệ thống

tiền tệ thế giới đến với vàng. Có thể nói USD đã trở thành bản vị của chế độ Bretton
Woods hay còn gọi là đồng đô la vàng. Mỗi quốc gia được yêu cầu duy trì tỷ giá trung tâm
của đồng bản tệ với USD nhưng trong trường hợp cán cân thanh toán quốc tế bị mất cân
đối cơ bản thì có thể tiến hành phá giá hay nâng giá đồng tiền không quá 10% nếu không
được IMF cho phép.
Chế độ Bretton Woods đã đạt được những thành công và kết quả đáng ghi nhận trong
hơn 20 năm (1947-1971) nhưng bản thân nó cũng chứa đựng nhiều bất ổn. Đến năm 1971
tổng thống Mỹ Nixon chính thức bãi bỏ việc đổi ra vàng của USD và tuyên bố phá giá
đồng USD 7,89% ( 1 USD = 0,8185 gam vàng), tháng 3/1971 Mỹ phá giá lần thứ 2 (-10%).
Một loạt sự kiện quan trọng liên tiếp xảy ra sau khi Mỹ phá giá USD, tháng 6 năm 1972
nước Anh thả nổi đồng Pound, tháng 1 năm 1973 Thụy Sĩ cho phép đồng franc thả nổi đối
với USD, tháng 2/1973 Nhật cũng tiếp bước các nước trên. Nạn đầu cơ vào USD vào đầu
tháng 3/1973 ngày càng tăng buộc thị trường ngoại hối phải đóng cửa và khi mở cửa lại
vào ngày 19 tháng 3 năm 1973 thì các đồng tiền của Châu Âu đã liên kết cùng thả nổi với
USD. Như vậy BWS hoàn toàn sụp đổ. Các nhà kinh tế học, các chuyên gia đã đưa ra
nhiều phân tích, lý giải về sự sụp đổ của Bretton Woods , chúng ta có thể tìm hiểu một số
nguyên nhân cơ bản.
Đầu tiên hãy xét đến vấn đề thanh khoản.Theo Robert Triffin, quan hệ bản vị giữa USD
và vàng luôn tồn tại một sự không nhất quán.BWS chỉ có thể hoạt động hiệu quả khi các
Trang 7
Tiểu luận môn Tài chính quốc tế
ngân hang trung ương các nước thành viên còn long tin để nắm giữ USD làm dự trữ, và
long tin vào USD chỉ tồn tại chừng nào ngân hang trung ương Mỹ còn tiếp tục đổi USD ra
vàng với giá $35/ounce. Trong khi đó, thương mại quốc tế phát triển sẽ làm tăng dự trữ
ngoại hối quốc tế mà chủ yếu là USD. Dự trữ ngoại hối quốc tế tăng chỉ có thể xảy ra khi
BP( The Balance of Payments – Cán cân thanh toán quốc tế) của Mỹ phải thâm hụt và BP
của các nước khác là thặng dư., hơn nữa do BP là thặng dư nên để duy trì sức cạnh tranh
thương mại quốc tế buộc các nước phải tiếp tục mua USD vào để ngăn ngừa đồng bản tệ
lên giá . Sau một thời gian nhất định thì tài sản nợ của Mỹ đối với phần thế giới còn lại
tăng lên nhanh chóng.Kết quả là tài sản nợ của Mỹ tăng nhanh hơn lượng vàng Mỹ khai

thác được bổ sung vào dự trữ. Điều này có nghĩa là khả năng chuyển đổi Toàn bộ tài sản
nợ bằng USD ra vàng tại mức giá $35/ounce là không thể thực hiện. Triffin đã tiên đoán
rằng : một khi chính phủ Mỹ mất khả năng thanh toán ( USD được dự tính là sẽ phá giá đối
với vàng ) thì các ngân hang trung ương nước ngoài sẽ chuyển đổi USD dự trữ của mình ra
vàng , do lượng vàng không đủ nên cuối cùng chính phủ MỸ sẽ buộc phải từ chối việc
chuyển đổi từ USD ra vàng , nghĩa là chấm dứt duy trì tỷ giá cố định với USD, làm cho
BWS sụp đổ. Triffin chỉ ra một thế tiến thoái lưỡng nan rằng : một mặt, nếu BP của Mỹ
tiếp tục thâm hụt thì sẽ làm xói mòn hiệu lực của BWS ; mặt khác nếu Mỹ áp dụng các
biện pháp hạn chế thâm hụt BP sẽ dẫn đến thiếu hụt dự trữ quốc tế, điều này làm hạn chế
thương mại quốc tê,tạo áp lực thiểu phát cho nền kinh tế thế giới.
Nếu giải thích theo Định luật Gresham ta có thể nhìn nhận thấu đáo nội dung bên trong
sự sụp đổ của BWS. Thomas Gresham đưa ra định luât : khi tỉ lệ trao đổi giữa hai tài sản là
không nhất quán trên thị trường chính thức và trên thị trường tự do, thì tài sản được định
giá thấp trên thị trường chính thức sẽ bị loại ra khỏi lưu thông, trong khi đó tài sản được
định giá cao sẽ tiếp tục được ở lại trong lưu thông. Áp dụng định luật cho trường hợp
BWS, tỷ lệ trao đổi chính thức giữa USD và vàng là $35/ounce , trong giai đoạn 1959-1969
chỉ số giá cả chung ở Mỹ tăng 40% như vậy nếu các nhân tố khác không đổi thì giá vàng
cũng tăng với mức 40%. Giá vàng trên thị trường tự do luôn chịu áp lực gia tăng dẫn đến
hình thành một thị trường vàng tự do với mức giá cả do cung cầu trên thị trường quyết
Trang 8

×