Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.98 KB, 87 trang )

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, đấu thầu được áp dụng trên nhiều lĩnh vực nhưng nhiều nhất vẫn là
trong lĩnh vực xây dựng công trình. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, phương
thức đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có vai trò to lớn đối với chủ đầu tư,
nhà thầu và nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, vì mục tiêu khi tham gia đấu thầu là phải giành được
chiến thắng nên việc xây dựng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu có ý nghĩa rất
quan trọng. Chính mục tiêu này sẽ là động lực để doanh nghiệp phát huy được tính
năng động, sáng tạo trong đấu thầu, tích cực tìm kiếm thông tin, xây dựng các mối
quan hệ, tìm mọi cách nâng cao uy tín, thương hiệu trên thị trường. Và trong quá
trình thực hiện dự án, với yêu cầu phải đảm bảo đúng tiến độ, đúng kế hoạch và
hoàn thành càng sớm càng tốt đã thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi cách nâng cao
năng lực về kỹ thuật công nghệ tiên tiến để rút ngắn thời hạn thi công, điều này sẽ
giúp ích rất nhiều cho doanh nghiệp trong các cuộc đấu thầu sau này.
Việc thắng thầu sẽ giúp doanh nghiệp tạo được công ăn việc làm và thu nhập
cho người lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,
ngược lại nếu doanh nghiệp trượt thầu thì sẽ không có việc làm, không tạo được thu
nhập cho người lao động, hiệu quả kinh doanh giảm sút, nếu kéo dài thì sẽ dẫn đến
thua lỗ, phá sản.
Mặc khác hiện nay nhiều nhà thầu không chú trọng đến công tác xây dựng
năng lực cạnh tranh của mình dẫn đến hệ quả là không đáp ứng được yêu cầu đề ra
của chủ đầu tư, dẫn đến công trình bị chậm tiến độ, chất lượng kém, thậm chí không


đủ năng lực để hoàn thành công trình.
Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà Nẵng có chức năng
chính là xây dựng các công trình giao thông, dân dụng, thủy lợi và thủy điện. Trong
những năm vừa qua Công ty đã tham gia đấu thầu và giành được một số công trình
lớn, có hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay khi thị trường xây


2

dựng đang sôi động và cạnh tranh quyết liệt bởi các yếu tố như:
- Xu thế hội nhập, các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài xuất hiện ngày càng
nhiều.
- Các doanh nghiệp xây dựng trong nước mạnh lên sau quá trình đổi mới, sắp xếp,
cổ phần hóa.
- Hầu như tất cả các hợp đồng thi công của công ty nhận được trước đây chủ yếu
thông qua hình thức đấu thầu hạn chế hoặc giao thầu. Tuy nhiên kể từ khi Luật đấu thầu
có hiệu lực hình thức đấu thầu rộng rãi gần như áp dụng cho tất cả các gói thầu (các
nhà thầu có đủ năng lực đều được tham gia dự thầu).
- Công tác quản lý, giám sát của các chủ đầu tư và các cơ quan quản lý nhà nước
về xây dựng được tăng cường và xiết chặt sau một thời gian dài bị buông lỏng. Các yêu
cầu về kỹ thuật, chất lượng cũng được nâng cao hơn.
Tất cả những sự kiện trên dự báo mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
xây dựng sẽ quyết liệt hơn. Do đó, để tồn tại và phát triển thì đòi hỏi các doanh
nghiệp xây dựng phải không ngừng tìm tòi các giải pháp để xây dựng năng lực cạnh
tranh, từ đó nâng cao khả năng thắng thầu. Đây là phương thức cạnh tranh đặc trưng
được sử dụng rộng rãi và gần như bắt buộc trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Cạnh
tranh thông qua việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian
thi công.
Từ cách đặt vấn đề đó, với tư cách là cán bộ đang trực tiếp tham gia trong
công tác quản lý đấu thầu của thành phố Đà Nẵng, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng

lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng
Công trình Đô thị Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá năng lực cạnh tranh hiện có, các tiềm năng và các nhân
tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty trong lĩnh vực đấu thầu xây
dựng, kết hợp với các nghiên cứu lý thuyết, đề tài đề xuất các giải pháp xây dựng
năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty CP Đầu tư Xây dựng


3

Công trình Đô thị Đà Nẵng.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng của doanh nghiệp, các nhân tố bên trong, nhân tố bên ngoài; Các tiêu
chí đánh giá năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng; Đánh giá thực trạng năng
lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty, từ đó phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty để đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm xây dựng năng lực cạnh tranh của Công ty CP Đầu tư Xây dựng Công trình
Đô thị Đà Nẵng trong đấu thầu xây dựng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng của Công ty CP Đầu tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà
Nẵng.
Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu những vấn đề về xây dựng năng lực
cạnh tranh của Công ty CP Đầu tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà Nẵng giới hạn
trong phạm vi đấu thầu xây dựng.

+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu kết quả hoạt động đấu thầu từ năm
2008 đến nay và định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp
phân tích, so sánh, thu thập và xử lý thông tin, thống kê, mô hình hoá và các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng cơ bản ở cấp độ vĩ mô quản lý nhà nước
được Chính phủ và cơ quan quản lý ngành là Bộ Kế hoạch và Đầu tư hằng năm ban
hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn và Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh, thành


4

tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về đấu thầu để phù hợp với sự phát triển và hội
nhập của ngành. Ở cấp độ vi mô là doanh nghiệp, tại thành phố Đà Nẵng đã được
một số công ty về thi công xây dựng nghiên cứu xây dựng quy trình khi tham gia dự
thầu như Công ty Cổ phần Dinco, Công ty TNHH Một thành viên Xây dựng và Phát
triển Hạ tầng Đà Nẵng, Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình 545…. Tuy nhiên,
tất cả những nghiên cứu này chỉ dừng lại ở mức xây dựng các bước cơ bản và mang
tính chất thủ tục khi tham gia dự thầu mà chưa đi sâu nghiên cứu các vấn đề về kỹ
năng lập hồ sơ dự thầu, lập giá, nâng cao năng lực về tài chính. Mặc khác, trước đây
các hợp đồng thi công của các công ty nhận được chủ yếu thông qua hình thức đấu thầu
hạn chế hoặc giao thầu mà không phải đấu thầu rộng rãi, vì vậy hầu hết các doanh
nghiệp chưa chú trọng đến việc xây dựng năng lực cạnh tranh trong đấu thầu cũng là vấn
đề dễ hiểu.
Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu, giải quyết một số vấn đề cơ bản và cụ thể hóa
Luật đấu thầu, các văn bản về đấu thầu của cơ quan quản lý nhà nước vào tình hình thực

tế của công ty nhằm xây dựng khả năng cạnh tranh để thắng thầu mà các nghiên cứu
trước đây chưa đề cập đến đó là: Cạnh tranh thông qua việc xây dựng các giải pháp
nhằm hoàn thiện kỹ năng xây dựng hồ sơ dự thầu và tham gia đấu thầu; Các giải
pháp về tài chính; Xây dựng liên danh, liên kết; Quản lý hiệu quả chi phí, nâng cao
chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, rút ngắn thời gian thi công.
Những vấn đề chưa giải quyết được của luận văn
Hoạt động đấu thầu là cả một quá trình và rất phức tạp, do điều kiện và khả
năng có hạn nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản về xây dựng năng
lực cạnh tranh trong đấu thầu như đã nêu ở trên mà chưa giải quyết được một số vấn đề
khác như: Hiệu quả trong và sau đấu thầu; Tham gia đấu thầu quốc tế; Liên danh với các
nhà thầu nước ngoài…Vì vậy những nghiên cứu tiếp theo sẽ góp phần hoàn thiện quá
trình đấu thầu của các doanh nghiệp xây dựng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục các chữ viết tắt, các


5

bảng, các hình vẽ và đồ thị, nội dung của luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu xây dựng và cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng
Chương 2: Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Đầu
tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà Nẵng
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của
Công ty Cổ phần Đầu tư Xây dựng Công trình Đô thị Đà Nẵng


6

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
VÀ CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
1.1. Những vấn đề cơ bản về đấu thầu
Theo Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 [18, tr. 7-10] một số thuật ngữ được
hiểu như sau:
1.1.1. Khái niệm đấu thầu
Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các điều kiện của bên mời
thầu để thực hiện các gói thầu về mua sắm hàng hóa, xây lắp, dịch vụ tư vấn.
Đấu thầu là phương thức tổ chức quá trình cạnh tranh giữa những người bán
để nhằm tối đa hoá lợi ích của người mua. Thực chất đây là quá trình mua và bán có
cạnh tranh diễn ra giữa một người mua với nhiều người bán trong trường hợp mà
việc xác định tương quan giữa giá cả với số lượng và chất lượng hàng hóa, dịch vụ
gặp khó khăn.
Đây là phương thức mua bán khá thông dụng và có hiệu quả được sử dụng
phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Khái niệm đấu thầu xây dựng
Đấu thầu xây dựng (hay còn gọi là đấu thầu thi công xây lắp) là phương thức
cạnh tranh được áp dụng rộng rãi đối với các dự án đầu tư trong lĩnh vực xây dựng
cơ bản. Đấu thầu xây dựng là cuộc cạnh tranh công khai giữa các nhà thầu với cùng
một điều kiện nhằm dành được công trình (hay dự án) xây dựng do chủ đầu tư mời
thầu, xét thầu và chọn thầu theo các quy định về đấu thầu của nhà nước.
1.1.3. Nhà thầu
Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư cách hợp lệ theo quy định của pháp
luật tham gia đấu thầu. Nhà thầu có thể là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp, nhà
cung cấp trong đấu thầu mua sắm, nhà tư vấn trong đấu thầu cung cấp dịch vụ.
1.1.4. Gói thầu
Là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được phân chia theo tính


7


chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp lý nhằm đảm bảo tính
đồng bộ của dự án. Trong trường hợp mua sắm thì gói thầu có thể là một loại đồ
dùng, trang thiết bị hoặc phương tiện.
1.1.5. Dự án
Theo định nghĩa chung nhất thì dự án là tổng thể các hoạt động phụ thuộc lẫn
nhau nhằm tạo ra một sản phẩm đơn chiếc trong giới hạn cho phép về thời gian,
không gian và nguồn lực. Dự án là tập hợp các đề xuất để thực hiện một phần hay
toàn bộ công việc nhằm đạt được mục tiêu hay yêu cầu nào đó trong một thời gian
nhất định dựa trên nguồn vốn xác định.
1.1.6. Chủ đầu tư
Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở
hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án theo quy định của pháp
luật.
1.1.7. Bên mời thầu
Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh
nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp
luật về đấu thầu.
1.1.8. Các hình thức đấu thầu
Theo Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 [18,tr. 24-26] có các hình thức đấu thầu
sau:
1.1.8.1. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu
tham dự. Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải thông báo mời
thầu theo quy định tại điều 5 của Luật đấu thầu để các nhà thầu có thông tin tham
dự. Bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời thầu cho các nhà thầu có nhu cầu tham
gia đấu thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn
chế sự tham gia của các nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà
thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng.
Đây là hình thức áp dụng chủ yếu trong đấu thầu.



8

1.1.8.2. Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu phải mời tối thiểu
năm nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm tham gia đấu thầu.
Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp sau:
+ Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho
gói thầu.
+ Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu
có tính chất nghiên cứu thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng
yêu cầu của gói thầu.
Trường hợp thực tế có ít hơn năm nhà thầu tham dự thì chủ đầu tư phải trình
người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn
chế hoặc áp dụng hình thức khác.
1.1.8.3. Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để đàm phán ký kết hợp đồng, đây là trường hợp đặc biệt được áp dụng trong
các trường sau:
+ Sự cố bất khả kháng do thiên tai địch họa, sự cố cần khắc phục ngay thì
chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ
định ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư được chỉ định
tiến hành thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm
ngày kể từ ngày chỉ định thầu
+ Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài
+ Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia, dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia,
an ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng quyết định khi thấy cần thiết
+ Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng
công suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ mà trước đó đã được mua từ một nhà

thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu khác do phải đảm bảo tính tương
thích của thiết bị, công nghệ
+ Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá trị dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua


9

sắm hàng hóa, xây lắp có giá trị dưới một tỷ đồng thuộc dự án phát triển; gói thầu
mua sắm hàng hóa có giá trị dưới một trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán
mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu.
1.2. Vai trò của đấu thầu
Đấu thầu nói chung và đấu thầu xây dựng nói riêng là một trong những
phương thức kinh doanh có hiệu quả cao, điều này đã được khẳng định không chỉ ở
Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Nó góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển, đặc biệt là trong ngành xây dựng, mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các nhà
thầu, chủ đầu tư và nền kinh tế quốc dân.
1.2.1. Đối với chủ đầu tư
Thông qua đấu thầu chủ đầu tư sẽ lựa chọn được nhà thầu có khả năng đáp
ứng cao nhất các yêu cầu đề ra, tiết kiệm vốn, đúng tiến độ công trình. Việc áp dụng
đấu thầu trong xây dựng sẽ giúp cho công tác quản lý vốn đầu tư được hiệu quả
hơn, hạn chế và khắc phục tình trạng thất thoát vốn đầu tư ở các khâu trong quá
trình thực hiện dự án.
Mặt khác đấu thầu sẽ giúp chủ đầu tư chủ động trong việc lựa chọn đối tác,
tránh lệ thuộc vào một nhà thầu duy nhất, dễ dẫn đến tình trạng độc quyền. Ngoài ra
trong quá trình đấu thầu, từ khâu chuẩn bị tổ chức, xét thầu, thương thảo ký kết hợp
đồng, giám sát thi công, ... đều đòi hỏi đôi ngũ cán bộ của chủ đầu tư phải có trình
độ chuyên môn, quản lý cao để lựa chọn được nhà thầu tốt nhất và tổ chức giám sát
nhà thầu trong suốt quá trình thực hiện dự án đảm bảo chất lượng và đúng tiến độ.
Điều này đòi hỏi các cán bộ của chủ đầu tư bắt buộc phải tự nâng cao trình độ của
mình để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc

1.2.2. Đối với các nhà thầu
Hoạt động đấu thầu đã giúp nhà thầu có được môi trường cạnh tranh lành
mạnh, phát huy tối đa tính chủ động, năng động trong công việc tìm kiếm cơ hội
tham gia đấu thầu. Cũng chính nhờ đấu thầu đã thúc đẩy nhà thầu phải không ngừng
nâng cao trình độ mọi mặt như tổ chức quản lý, đào tạo nâng cao tay nghề đội ngũ
cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực máy móc thiết bị, ... từ đó góp phần nâng cao năng


10

lực cạnh tranh của nhà thầu. Đồng thời thông qua các cuộc đấu thầu dù thắng hay
trượt cũng sẽ giúp nhà thầu tích luỹ được kinh nghiệm cạnh tranh, tiếp thu được
những kiến thức, công nghệ mới, tiên tiến hiện đại.
1.2.3. Đối với Nhà nước
Thông qua đấu thầu, công tác quản lý trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ
bản của nhà nước ngày càng được nâng cao, nguồn vốn được sử dụng có hiệu quả,
hạn chế được thất thoát, lãng phí. Khi đấu thầu các doanh nghiệp phải sử dụng mọi
biện pháp cạnh tranh để thắng thầu, trong đó có biện pháp giảm giá. Vì vậy nhà
nước phải bỏ ra một khoản tiền ít hơn dự toán để xây dựng công trình và từ đó tiết
kiệm tối đa cho ngân sách Nhà nước.
Đấu thầu giúp nhà nước tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh, đồng
thời qua đó có đủ thông tin thực tế và khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự
của chủ đầu tư, của nhà thầu.
1.3. Các khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng
1.3.1. Các quan niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh được hiểu là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa
những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau.
Theo tiến trình của lịch sử các học thuyết kinh tế, các học giả cũng đã đưa ra
rất nhiều những quan niệm về cạnh tranh.

Trong tác phẩm “Quốc phú luận” của Adam Smith, tác giả đã cho rằng cạnh
tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Vì sự cạnh
tranh trong quá trình của cải quốc dân tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị trường
và giá cả, do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị trường. Theo Smith
“cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích
lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả
năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng lớn nào”.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác là
cạnh tranh giữa những người sản xuất và liên quan tới sự cạnh tranh này là cạnh


11

tranh giữa những người sản xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh tranh này
diễn ra dưới ba góc độ: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động
giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất
lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá
để thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc gia
tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia nhau giá trị thặng dư. Ba góc độ cạnh tranh
cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực hiện giá trị và sự phân
phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong lý luận cạnh tranh của
Các Mác.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới
xây dựng lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận kinh tế ở nửa
đầu thế kỷ ấy nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư bản chủ
nghĩa để chỉ đạo cạnh tranh, kết quả là họ đã cho ra đời tư tưởng về thể chế kinh tế
cạnh tranh hoàn hảo, lấy thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm cốt lõi. Cạnh
tranh hoàn hảo là một trong những giả thiết cơ bản của lý luận kinh tế này. Trong
kinh tế học cổ điển mới, thị trường được giả định là thị trường không có độc quyền,
không có cọ sát, tự động giữ được cân đối, những người tham gia thị trường cũng

được giả định là có đầy đủ thông tin như nhau. Trong nền kinh tế cạnh tranh hoàn
hảo, người sản xuất phải bố trí sản xuất theo thị hiếu của người tiêu dùng, còn người
tiêu dùng phải chọn lựa hàng hoá và dịch vụ bằng hình thức tiền tệ.
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự
phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.
Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra
các phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao
hơn, từ đó, nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh
tranh đã thúc đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu
mới trên nhiều lĩnh vực.
Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng với
ảnh hưởng của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là cuộc đấu


12

tranh giữa các đối thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh ngày càng được
xem như là cuộc đấu tranh giữa các đối thủ với mục đích đánh bại đối thủ. Đặc biệt,
trước xu thế hội nhập như hiện nay, cạnh tranh giữa các đối thủ ngày càng phức tạp
và khốc liệt hơn. Bây giờ, cạnh tranh không còn ý nghĩa là đối lập với độc quyền,
thị trường cạnh tranh không chỉ đơn thuần là đối lập với thị trường độc quyền. Cạnh
tranh không còn là phương tiện để đạt mục tiêu, khả năng cạnh tranh đã đạt đến
trạng thái như là một một tư tưởng.
1.3.2. Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Hiện nay đấu thầu xây dựng và các vấn đề liên quan đến nó được rất nhiều
sách, báo, tài liệu và các văn bản của nhà nước đề cập đến nhưng chưa thấy tài liệu
nào đưa ra một định nghĩa cụ thể về cạnh tranh trong đấu thầu nói chung và cạnh
tranh trong đấu thầu xây dựng nói riêng. Chúng ta có thể hiểu cạnh tranh trong đấu
thầu theo hai cách sau:
- Theo nghĩa hẹp: Cạnh tranh trong đấu thầu là sự phát huy sức mạnh của

nhà thầu này so với các nhà thầu khác về giá bỏ thầu, chất lượng công trình, tiến độ
thi công nhằm thoả mãn tối ưu các yêu cầu của bên mời thầu. Quan niệm này cho
thấy mục tiêu cạnh tranh của các doanh nghiệp là thắng thầu, sự cạnh tranh chỉ bó
hẹp trong phạm vi một cuộc đấu thầu công trình, chưa chỉ ra được sự cạnh tranh của
doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh vì mỗi doanh nghiệp hàng
năm đều tham gia đấu thầu rất nhiều công trình khác nhau với nhiều đối thủ khác
nhau trong những thời điểm và địa điểm khác nhau, do đó theo định nghĩa như trên
thì các vấn đề cạnh tranh trong đấu thầu không thể xác định một cách toàn diện và
đầy đủ vì vậy ta có thể hiểu cạnh tranh theo một nghĩa khác.
- Theo nghĩa rộng: Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là quá trình đấu tranh
quyết liệt giữa các doanh nghiệp xây dựng kể từ khi bắt đầu tìm kiếm thông tin, đưa
ra các giải pháp tham gia đấu thầu, bảo đảm trúng thầu, ký kết và thực hiện hợp
đồng cho tới khi hoàn thành công trình bàn giao cho chủ đầu tư, thời gian bảo hành
theo yêu cầu của chủ đầu tư. Có thể mô tả quá trình cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng bằng sơ đồ 1.1.


13

TÌM KIẾM
THÔNG TIN

Chuẩn bị và

Đưa ra bịên pháp

Trượt thầu

THAM GIA
ĐẤU THẦU

Trúng thầu
KÝ HỢP
ĐỒNG
Thực hiện hợp đồng
NGHIỆM THU
BÀN GIAO

Sơ đồ 1.1 : Quá trình cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Chức năng tìm kiếm thông tin được giao cho bộ phận Kế hoạch, bộ phận này
có trách nhiệm thực hiện những công việc sau:
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo, đài…(sẽ được
Bên mời thầu thông báo) để nhận biết thông tin về gói thầu.
- Liên hệ với Bên mời thầu để tìm hiểu về gói thầu như: Giá trị gói thầu,
nguồn vốn, khả năng tham gia của các đối thủ, nguồn cung cấp nguyên vật liệu,
những yêu cầu về kỹ thuật, tiến độ…
- Trên cơ sở dữ liệu đầu vào phối hợp với các bộ phận liên quan như phòng
kỹ thuật để biết được khả năng đáp ứng về mặt kỹ thuật, phòng tài vụ để biết được
khả năng đáp ứng về mặt tài chính, phòng vật tư thiết bị để biết được khả năng cung
ứng vật tư thiết bị của công ty những dữ liệu đầu vào báo cáo cho lãnh đạo Công ty
tìm kiếm các thông tin về đấu thầu (về chủ đầu tư, đặc điểm dự án, nguồn vốn, các
đối thủ có thể tham gia,...) nghiên cứu quyết định có tham gia hay không, nếu có thì
tiếp tục tiến hành các bước tiếp theo là tiến hành khảo sát thực tế kết hợp với phân
tích tài liệu tìm ra các giải pháp hợp lý nhất để trúng thầu.


14

Nếu thắng thầu thì tiến hành thương thảo với bên mời thầu để ký kết hợp
đồng giao nhận thầu, tổ chức thi công, nghiệm thu, bàn giao. Ngược lại, nếu trượt
thầu thì tìm kiếm các thông tin về các công trình khác.

1.3.3. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh
tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của người dân.
1.3.4. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong
và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm và
dịch vụ, vì vậy người ta còn phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với
năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.
1.3.5. Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp là toàn bộ
những năng lực về tài chính, thiết bị công nghệ, marketing, nguồn nhân lực, tổ chức
quản lý... mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tạo ra lợi thế của mình so với các đối
thủ cạnh tranh khác nhằm thoả mãn tối đa đòi hỏi của thị trường.
Để có thể dễ nhìn thấy được năng lực năng lực cạnh tranh trong đấu thầu của
các doanh nghiệp, chúng ta tiến hành xem xét lý thuyết về quá trình chấm thầu của
Tổ chuyên gia xét thầu, để từ đó xem xét đánh giá được thực trạng của Công ty và
đề xuất những giải pháp:
Lý thuyết về quá trình chấm thầu của Tổ chuyên gia xét thầu:
Tiêu chuẩn đánh giá một hồ sơ dự thầu thông qua các bước sau:
- Tiêu chuẩn năng lực kinh nghiệm:
+ Năng lực về thi công (số công trình tương tự đã thi công).
+ Năng lực về tài chính: Khả năng huy động vốn, cung ứng vốn cho công
trình, hiệu quả sử dụng vốn, cam kết tín dụng của ngân hàng…
+ Máy móc, thiết bị thi công.


15


+ Nguồn nguyên vật liệu cung cấp cho công trình.
+ Nguồn nhân lực.
- Tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật:
+ Đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng vật tư.
+ Giải pháp kỹ thuật và biện pháp tổ chức thi công
+ Tiến độ thi công.
- Tiêu chuẩn giá:
+ Nhà thầu nào có giá đánh giá thấp nhất và nhỏ hơn giá gói thầu sau khi đã
sửa sai sót về số học, hiệu chỉnh sai lệch được kiến nghị là đơn vị trúng thầu với giá
đã hiệu chỉnh.
Sau khi xem xét về quá trình chấm thầu của Tổ chuyên gia, chúng ta có thể
phân loại hai nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh trong đấu thầu
xây dựng của doanh nghiệp:
- Nhóm nhân tố năng lực kinh nghiệm của Công ty gồm:
+ Năng lực về thi công (số công trình tương tự đã thi công).
+ Nguồn nguyên vật liệu cung cấp cho công trình.
+ Năng lực về tài chính: Khả năng huy động vốn, cung ứng vốn cho công
trình, hiệu quả sử dụng vốn, cam kết tín dụng của ngân hàng…
+ Máy móc, thiết bị thi công.
+ Nguồn nhân lực.
- Nhóm nhân tố liên quan đến kỹ năng xây dựng hồ sơ đấu thầu và tham gia
đấu thầu của Công ty gồm:
+ Đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng vật tư.
+ Giải pháp kỹ thuật và biện pháp tổ chức thi công.
+ Tiến độ thi công.
+ Định giá: Nhà thầu nào có giá đánh giá thấp nhất và nhỏ hơn giá gói thầu
sau khi đã sửa sai sót về số học, hiệu chỉnh sai lệch được kiến nghị là đơn vị trúng
thầu với giá đã hiệu chỉnh.



16

1.4. Các công cụ cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Qua việc phân tích lý thuyết về quá trình chấm thầu, chúng ta thấy trong đấu
thầu xây dựng các nhà thầu thường sử dụng những công cụ cạnh tranh sau:
1.4.1. Cạnh tranh bằng giá dự thầu (Liên quan đến kỹ năng xây dựng hồ sơ dự
thầu)
Đây là chỉ tiêu quan trọng, nó quyết định việc doanh nghiệp có trúng thầu
hay không. Nếu xây dựng được mức giá bỏ thầu tốt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp
có khả năng trúng thầu cao đồng thời cũng bảo đảm được hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Giá bỏ thầu liên quan đến rất nhiều yếu tố như trình độ tổ chức, quản lý của
doanh nghiệp, kỹ thuật thi công, khả năng áp dụng công nghệ tiên tiến, năng lực tài
chính của doanh nghiệp,... Việc xác định giá để đánh giá là xác định chi phí trên
cùng một mặt bằng về kỹ thuật, tài chính, thương mại và các yếu tố khác nhằm so
sánh, xếp hạng các hồ sơ dự thầu. Hồ sơ dự thầu có giá đánh giá thấp nhất sẽ được
xếp thứ nhất. Vì vậy, để giá bỏ thầu có ưu thế cạnh tranh thì đòi hỏi doanh nghiệp
phải có chính sách giá linh hoạt dựa trên cơ sở: năng lực thực sự của doanh nghiệp;
mục tiêu tham gia đấu thầu; quy mô, đặc điểm, địa điểm của dự án, các phong tục
tập quán của địa phương có dự án thi công,....
Thông thường thì việc xây dựng giá bỏ thầu phụ thuộc lớn vào mục tiêu đấu
thầu của nhà thầu như: kiếm lợi nhuận, tạo công ăn việc làm hay mở cửa thị trường
mới. Tuỳ theo những mục tiêu cụ thể mà nhà thầu xây dựng những mức giá phù hợp
để đạt được mục tiêu.
1.4.2. Cạnh tranh bằng chất lượng công trình
Chất lượng sản phẩm là khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng, một sản
phẩm hay công trình được coi là tốt khi nó đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của khách
hàng. Để nâng cao năng lực cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn luôn giữ
vững và không ngừng nâng cao chất lượng công trình, đây là điều kiện không thể
thiếu được nếu doanh nghiệp xây dựng muốn giành chiến thắng trong cạnh tranh

đấu thầu. Trong lĩnh vực xây dựng, chất lượng công trình là vấn đề sống còn đối với


17

doanh nghiệp. Việc nâng cao chất lượng công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng,
nó được thể hiện trên các mặt:
+ Nếu chất lượng công trình tốt sẽ góp phần tăng uy tín, thương hiệu của
doanh nghiệp qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường.
+ Khi chất lượng công trình được nâng cao thì hiệu quả sản xuất kinh doanh
tăng, doanh thu, lợi nhuận tăng theo, đời sống của công nhân viên được nâng lên,
kích thích mọi người làm việc nhiều hơn.
Khi cạnh tranh bằng phương thức này, các nhà thầu cạnh tranh với nhau
không chỉ bằng chất lượng cam kết trong công trình đang tổ chức đấu thầu mà còn
cạnh tranh thông qua chất lượng các công trình khác đã xây và đang xây dựng.
Trên thực tế cho thấy hậu quả của công trình xây dựng kém chất lượng để lại
thường là rất nghiêm trọng, gây thiệt hại không chỉ là tiền bạc mà còn là con người.
Hiện nay Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định rõ trách nhiệm của chủ đầu
tư, do đó mà các chủ đầu tư ngày càng xem trọng chất lượng công trình vì vậy mà
chất lượng công trình được xem là công cụ mạnh trong đấu thầu xây dựng.
1.4.3. Cạnh tranh bằng tiến độ thi công (Liên quan đến kỹ năng xây dựng hồ sơ
dự thầu)
Tiến độ thi công là bảng kế hoạch tổng hợp việc thực hiện các bước công
việc trong công tác thi công công trình của nhà thầu. Tiến độ thi công thể hiện
những cam kết của doanh nghiệp về các mặt chất lượng, an toàn lao động, thời hạn
bàn giao công trình. Bảng tiến độ thi công giúp chủ đầu tư đánh giá được năng lực
của nhà thầu trên các mặt như trình độ quản lý, kỹ thuật thi công, năng lực máy móc
thiết bị, nhân lực.
Nếu như trước đây khi xem xét, đánh giá, lựa chọn nhà thầu trong các cuộc
đấu thầu chủ đầu tư thường chọn nhà thầu bỏ giá thấp, giá càng thấp thì khả năng

trúng thầu càng cao mà không chú trọng đến các mặt khác và hậu quả là nhiều công
trình kéo dài tiến độ thi công, chất lượng thấp kém ảnh hưởng nghiệm trọng đến
mọi mặt đời sống kinh tế xã hội.
Vì vậy hiện nay khi xem xét, chấm thầu thì chủ đầu tư chú trọng nhiều hơn


18

đến chất lượng, tiến độ. Giá bỏ thầu tuy vẫn là yếu tố quan trọng nhưng không còn
tình trạng bỏ giá thấp hơn giá sàn đến bốn mươi phần trăm, thậm chí đến năm mươi
phần trăm như trước kia. Giá bỏ thầu hiện nay thường được quy định không được
chênh lệch năm mươi phần trăm so với giá dự toán và cơ cấu giá phải hợp lý, khoa
học và phù hợp với giá cả thị trường địa phương nơi đặt dự án.
1.4.4. Cạnh tranh bằng năng lực tài chính
Hiện nay các chủ đầu tư trước khi ra quyết định còn xem xét đến khả năng
ứng vốn thi công và khả năng huy động vốn của nhà thầu. Thực tế vừa qua cho thấy
trong rất nhiều dự án, các nhà thầu đã trúng thầu nhờ có năng lực tài chính tốt .
1.4.5. Cạnh tranh bằng máy móc thiết bị, công nghệ thi công
Đối với doanh nghiệp xây dựng, máy móc thiết bị được xem là bộ phận chủ
yếu và quan trọng nhất trong tài sản cố định của doanh nghiệp. Nó là thước đo trình
độ kỹ thuật, là thể hiện năng lực hiện có đồng thời là nhân tố quan trọng góp phần
tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu.
Trong quá trình chấm thầu năng lực về máy móc thiết bị được chủ đầu tư
xem xét rất kỹ, bởi vì nó có tác động rất lớn đến chất lượng và tiến độ thi công. Khi
đánh giá năng lực về máy móc thiết bị và công nghệ chủ đầu tư thường đánh giá các
mặt sau:
- Tính hiện đại của thiết bị, công nghệ, biểu hiện ở các thông số như tên nhà
sản xuất, nước sản xuất, năm sản xuất, model, công suất, giá trị còn lại của thiết bị.
- Tính trạng đồng bộ của thiết bị, công nghệ, vì nếu thiết bị đồng bộ sẽ đảm
bảo sự phù hợp gữa thiết bị, công nghệ với phương pháp sản xuất; giữa chất lượng,

độ phức tạp của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
- Tính hiệu quả: Thể hiện qua việc sử dụng máy móc thiết bị sẽ tác động như
thế nào đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng huy động và phát huy tối đa
nguồn lực về máy móc thiết bị sẵn có phục vụ cho mục đích cạnh tranh của nhà
thầu.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng của doanh nghiệp


19

Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là điều
kiện tiên quyết quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trên thị trường, để có được
năng lực cạnh tranh thì doanh nghiệp phải trải qua một quá trình xây dựng bộ máy
tổ chức, xây dựng chiến lược kinh doanh (trong đó bao gồm các chiến lược về sản
phẩm, thị trường, nhân lực, công nghệ, cạnh tranh). Việc tạo dựng môi trường bên
trong và thích ứng với môi trường bên ngoài tốt sẽ làm cơ sở cho vững chắc cho
doanh nghiệp hoạt động. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp có thể chia làm hai nhóm:
1.5.1. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong là các nhân tố phát sinh từ trong lòng doanh nghiệp có ảnh
hưởng đến việc củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đó là:
1.5.1.1. Nguồn lực tài chính
Đây là nguồn lực quan trọng nhất và quyết định đến mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh đều là hoạt động đầu tư mang tính chất sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường
sản xuất kinh doanh hàng hóa, doanh nghiệp phải có vốn bằng tiền hay bằng nguồn
lực tài chính để thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh. Với nguồn lực tài
chính này doanh nghiệp sẽ chi cho các hoạt động như đầu tư mới, mua nguyên vật
liệu, trả lương cho công nhân.

Trong đấu thầu xây dựng năng lực tài chính được xét trên hai phương diện:
- Năng lực tài chính mạnh giúp doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ thi công,
bảo đảm chất lượng, tiến độ và tạo niềm tin cho chủ đầu tư đồng thời nâng cao uy
tín, thương hiệu của nhà thầu.
- Trong đấu thầu với khả năng tài chính mạnh sẽ được chủ đầu tư đánh giá cao
vì đối với các nguồn vốn không phải ngân sách nhà nước trong các hồ sơ mời thầu
chủ đầu tư thường yêu cầu nhà thầu tự ứng vốn trước thi công cho đến khi có khối
lượng nghiệm thu rồi mới thanh toán, do đó chỉ có những doanh nghiệp có năng lực
tài chính mạnh mới đáp ứng được. Mặt khác, với nguồn lực tài chính mạnh sẽ cho
phép doanh nghiệp quyết định ra giá bỏ thầu một cách sáng suốt và hợp lý.


20

Trong đấu thầu xây dựng, năng lực máy móc thiết bị là một trong những tiêu
chuẩn đánh giá của chủ đầu tư, vì vậy nếu năng lực máy móc thiết bị của nhà thầu
càng mạnh sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh, tăng cơ hội trúng thầu.
1.5.1.2. Nguồn nhân lực
Ngày nay, tất cả chúng ta đều biết rằng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản, then
chốt, có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Khi đánh giá nguồn nhân lực của doanh nghiệp thì chủ đầu tư thường
chú trọng đến các vấn đề:
(i) Cán bộ quản trị cấp cao (ban giám đốc) là những người có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng chiến lược, điều hành và quản lý mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp phụ thuộc vào các
quyết định của họ. Khi đánh giá bộ máy lãnh đạo chủ đầu tư thường quan tâm đến
các tiêu thức như kinh nghiệm lãnh đạo, trình độ quản lý doanh nghiệp, phẩm chất
kinh doanh và các mối quan hệ và xa hơn nữa là khả năng xây dựng một tập thể
đoàn kết, vững mạnh, thúc đẩy mọi người hết mình cho công việc. Điều này sẽ giúp
doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh, tăng thêm năng lực cạnh tranh.

(ii) Cán bộ quản trị cấp trung gian là những người đứng dưới quản trị viên
cao cấp và đứng trên quản trị viên cấp cơ sở. Ở vị trí này họ vừa quản trị các quản
trị viên cấp cơ sở thuộc quyền, vừa điều khiển các nhân viên khác. Chức năng của
họ là thực hiện các kế hoạch và chính sách của doanh nghiệp bằng cách phối hợp
thực hiện các công việc nhằm dẫn đến hoàn thành mục tiêu chung. Để đánh giá
năng lực trình độ của đội ngũ cán bộ cấp này chủ đầu tư thường xem xét trên các
mặt:
+ Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác, thâm niên nghề nghiệp, tác
phong làm việc, sự am hiểu về kinh doanh và pháp luật.
+ Cơ cấu về các chuyên ngành đào tạo phân theo trình độ qua đó cho biết
trình độ chuyên môn hoá và khả năng đa dạng hóa của doanh nghiệp. Thường thì
đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản trị và công nhân lành nghề có chuyên môn về
lĩnh vực chính của doanh nghiệp phải chiếm tỷ trọng ít nhất là 60%.


21

(iii) Các chuyên viên, đây là một trong những khác biệt so với các ngành
khác. Họ là những người không làm quản lý mà chỉ làm nhiệm vụ chuyên môn đơn
thuần. Đó là những kỹ sư, cử nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh như lập dự toán, giám sát thi công và vai trò của họ cũng rất quan trọng.
Chẳng hạn như cá nhân người kỹ sư giám sát thi công có quyền quyết định mọi vấn
đề trong quá trình thi công một hạng mục mà họ được phân công, quyết định của họ
có ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình.
(iv) Cán bộ quản trị cấp cơ sở, công nhân là đội ngũ các nhà quản trị ở cấp
cuối cùng trong hệ thống cấp bậc của các nhà quản trị một doanh nghiệp. Thông
thường họ là những đốc công, tổ trưởng, trưởng ca. Nhiệm vụ của họ là hướng dẫn,
đôn đốc, điều khiển công nhân hoàn thành các công việc hàng ngày theo tiến độ kế
hoạch để đưa đến hoàn thành mục tiêu chung của cả doanh nghiệp. Đây là đội ngũ
quản trị viên lãnh đạo lực lượng lao động trực tiếp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của

doanh nghiệp qua khía cạnh như chất lượng, tiến độ thi công. Và cuối cùng là là đội
ngũ lao động với trình độ tay nghề cao, có khả năng sáng tạo trong công việc, họ
chính là những người thực hiện những ý tưởng, chiến lược của các quản trị cấp cao,
tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
(v) Một vấn đề mà chủ đầu tư quan tâm là khả năng huy động lực lượng công
nhân kịp thời về số lượng và chất lượng để phục vụ cho quá trình thi công công
trình. Đây là việc rất khó vì khác với các ngành sản xuất khác trong ngành xây
dựng, nhu cầu sử dụng công nhân tuỳ thuộc vào tiến độ thi công, số lượng không ổn
định, có khi chỉ cần vài chục công nhân nhưng có khi phải huy động hàng trăm,
thậm chí hàng ngàn công nhân vào phục vụ dự án.
1.5.1.3. Hoạt động Marketing
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Marketing là một công cụ cạnh tranh
đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, tăng doanh thu, hiệu quả của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp nếu xây dựng được chiến lược marketing và biết
cách sử dụng nó trong những tình huống, thời điểm thích hợp thì sẽ giúp doanh
nghiệp đó giữ được ưu thế trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh.


22

Trong lĩnh vực xây dựng, do đặc thù sản phẩm của các doanh nghiệp ngành
này là không thể đưa sản phẩm ra thị trường cho khách hàng lựa chọn như các
ngành công nghiệp khác được mà chủ yếu dựa vào danh tiếng, thương hiệu, chất
lượng của của những công trình đã thi công để khách hàng xem xét và tìm đến yêu
cầu sản xuất sản phẩm. Sự cạnh tranh trực tiếp giữa các doanh nghiệp xây dựng chủ
yếu là sự so sánh về thành tích, về thương hiệu. Thành tích và thương hiệu của
doanh nghiệp càng lớn thì khả năng trúng thầu của doanh nghiệp càng cao. Do đó
trước khi đấu thầu cần phải làm tốt công tác quảng cáo, tiếp thị để nâng cao mức độ
tin cậy của chủ đầu tư với doanh nghiệp, từ đó góp phần vào việc nâng cao khả
năng trúng thầu.

1.5.1.4. Khả năng liên danh, liên kết
Khả năng liên danh, liên kết là sự kết hợp giữa hai hay nhiều pháp nhân kinh
tế để tạo thành một pháp nhân mới nhằm tăng sức mạnh tổng hợp về năng lực kinh
nghiệm, tài chính và thiết bị công nghệ, giúp doanh nghiệp phát huy điểm mạnh,
khắc phục điểm yếu nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đối với những dự án, công trình có quy mô lớn, những yêu cầu kỹ thuật đôi
khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp thì để tăng khả năng trúng thầu các doanh
nghiệp thường liên danh, liên kết với nhau để tăng năng lực của mình trên thị
trường. Đây là một trong những giải pháp quan trọng và phù hợp nhất, qua đó
doanh nghiệp có khả năng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về công nghệ, mức độ phức
tạp cũng như quy mô của công trình, của dự án .
1.5.1.5. Trình độ và công tác tổ chức lập hồ sơ dự thầu
Đây là công việc hết sức quan trọng vì khả năng cạnh tranh trong đấu thầu
phụ thuộc trực tiếp vào trình độ lập hồ sơ dự thầu. Nhà thầu có thể bị loại ngay từ
vòng đầu do hồ sơ không đảm bảo yêu cầu. Do đó chất lượng hồ sơ thầu là một
trong những tiêu chí cơ bản quyết định nhà thầu có trúng hay không. Việc tổ chức
lập hồ sơ dự thầu đòi hỏi phải trải qua các bước sau:
Trước tiên là nghiên cứu hồ sơ mời thầu, đây là bước quan trọng nhất quyết
định sự thành công hay thất bại của nhà thầu khi tham gia đấu thầu, vì vậy công


23

việc này đòi hỏi phải tiến hành một cách tỷ mỷ, nghiêm túc, đầy đủ các nội dung
trong hồ sơ mời thầu. Yêu cầu phải nắm được tính chất, quy mô, phạm vi đấu thầu,
mức độ phức tạp về kỹ thuật, các yêu cầu về tiến độ thi công, thời hạn hoàn thành,
nguồn vốn đầu tư, phương thức thanh toán, các thông tin về cơ quan tư vấn, giám
sát,...
Đồng thời tiến hành tìm hiểu môi trường đấu thầu, khảo sát hiện trạng mặt
bằng thi công, lập phương án thi công, xây dựng giá dự thầu. Việc tìm hiểu môi

trường đấu thầu bao gồm việc tìm hiểu các điều kiện về thi công, vị trí địa lý, điều
kiện địa hình địa chất, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điều kiện cung ứng vật
tư, nguyên liệu, giá cả thị trường, khả năng khai thác nguyên vật liệu tại chỗ, lao
động phổ thông, khả năng về cung cấp lương thực, thực phẩm, môi trường thiên
nhiên và các điều kiện kinh tế xã hội của dự án... những điều kiện này ảnh hưởng
trực tiếp đến phương án thi công và giá thành công trình. Vì thời gian chuẩn bị hồ
sơ dự thầu rất ngắn nên để khảo sát và xử lý hàng loạt số liệu, thông tin nói trên đòi
hỏi nhà thầu phải có một đội ngũ cán bộ lập hồ sơ dự thầu có trình độ chuyên môn,
có kinh nghiệm và am hiểu kỹ càng tất cả các lĩnh vực.
Công việc cuối cùng, sau khi tiến hành điều tra, khảo sát, xử lý tất cả các vấn
đề có liên quan là công tác xác định giá dự thầu, đây là công việc quan trọng, phức
tạp quyết định đến việc trúng thầu, do đó công việc này đòi hỏi phải do một bộ phận
chuyên nghiệp thực hiện với sự phối hợp chặt chẽ nhịp nhàng và kịp thời của các bộ
phận chuyên môn khác.
1.5.2. Các nhân tố bên ngoài
Cùng với các nhân tố bên trong như đã phân tích ở phần trên, thì các yếu tố
bên ngoài cũng có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Các nhân tố bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp rất
nhiều, nhưng trong khuôn khổ luận văn này chỉ xét những nhân tố có ảnh hưởng
trực tiếp, đó là các nhân tố sau:
1.5.2.1. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm luật và các văn bản dưới luật. Luật gồm có luật


24

trong nước và luật quốc tế, các văn bản dưới luật cũng vậy, có những quy định do
Chính phủ Việt Nam ban hành, có những quy định do các tổ chức quốc tế (WTO,
AFTA, ASEAN) ban hành mà các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào hội
nhập và toàn cầu hoá phải tuân theo. Mọi quy định và luật lệ trong hợp tác kinh

doanh quốc tế đều có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, nó
tác động trực tiếp đến mọi phương diện như tín dụng, thuế, chống độc quyền, bảo
hộ, ưu đãi, bảo vệ môi trường,.. những chính sách này khi tác động lên nền kinh tế
sẽ ra cơ hội cho doanh nghiệp này nhưng đồng thời cũng sẽ tăng nguy cơ cho doanh
nghiệp khác.
Sự ổn định của môi trường pháp lý cũng như sự ổn định chính trị sẽ là một
nhân tố thuận lợi tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, làm tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đồng thời góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của quốc
gia. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn khi phải đối diện với
những thay đổi liên tục của pháp luật, dẫn đến suy yếu năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.5.2.2. Chủ đầu tư
Chủ đầu tư (hay còn gọi là bên mời thầu) là người sở hữu vốn hoặc được
giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện
dự án. Vì vậy có thể xem chủ đầu tư là cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện các vấn
đề liên quan đến dự án trước pháp luật, là người trực tiếp quyết định và lựa chọn hồ
sơ dự thầu của doanh nghiệp. Do vậy, chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn đến các
doanh nghiệp tham gia đấu thầu xây dựng.
Theo Luật đấu thầu thì bên mời thầu có quyền lựa chọn nhà thầu trúng hoặc
huỷ bỏ kết quả lựa chọn theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Việc bên mời thầu
tự thực hiện hay lựa chọn tư vấn lập hồ sơ mời thầu, chọn tư vấn đánh giá hồ sơ dự
thầu có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Họ có thể đưa
ra những yêu cầu mà chỉ có một vài doanh nghiệp định trước mới thắng thầu được.
Trong quá trình đấu thầu, bên mời thầu có quyền yêu cầu các các bên dự
thầu cung cấp các thông tin cần thiết phục vụ cho việc lựa chọn nhà thầu. Nếu bên


×