1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA KẾ TOÁN
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
ĐỀ TÀI: CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN VÀ
MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN
GVHD: PGS.TS Ngô Hà Tấn
SVTH: Nguyễn Thị Thành
Lớp : 38K06.3
ĐÀ NẴNG, THÁNG 10 NĂM 2015
1.
2
Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU
Kế toán là một khoa học liên quan đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các
thông tin tài chính và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối tượng sử dụng
trên cơ sở đó để ra các quyết định hợp lý. Kế toán không chỉ phản ánh tài sản của đơn
vị ở trạng thái tĩnh mà còn phản ánh sự vận động của tài sản. Trong quá trình vận động,
tài sản không chỉ biến đổi về mặt hình thái mà còn có sự biến đổi về lượng giá trị. Như
vậy, có thể nói đặc điểm của đối tượng kế toán là vô cùng đa dạng, có tính hai mặt và
vận động. Do đó hệ thống phương pháp kế toán đã được xây dựng để xử lí thông tin
phù hợp với những đặc điểm này của đối tượng kế toán.
Trong thực tế, kế toán phải vận dụng các phương pháp kế toán một cách cực kỳ linh
hoạt để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó là quá trình thu thập
thông tin ban đầu được thực hiện qua phương pháp chứng từ, quá trình xử lý thông tin
được thực hiện qua phương pháp tài khoản-ghi kép, phương pháp đo lường và cuối
cùng là khâu cung cấp thông tin đầu ra được thực hiện bởi phương pháp tổng hợp cân
đối.
Trong hệ thống các phương pháp kế toán, mỗi phương pháp có vị trí, chức năng nhất
định, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xử lý và cung cấp thông tin trên các báo
cáo kế toán và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phương pháp kế toán này
làm tiền đề cho phương pháp kế toán kia và ngược lại tạo thành một hệ thống phương
pháp kế toán hoàn chỉnh
Để nghiên cứu sâu hơn về cơ sở hình thành các phương pháp kế toán và mối quan hệ
giữa các phương pháp kế toán, nhằm trau dồi kiến thức về chuyên ngành kế toán và
chuẩn bị cho mình một “hành trang” để có thể vận dụng vào công tác chuyên môn sau
này, với sự hướng dẫn tận tình của Thầy Ngô Hà Tấn em đã lựa chọn đề tài “Cơ sở
hình thành các phương pháp kế toán và mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán”.
Với kiến thức và trình độ có hạn, chưa có cơ hội tiếp xúc nhiều với thực tế nên “đề
án môn học” này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong nhận
được sự thông cảm và nhận được ý kiến đóng góp của Thầy để bản đề án này được
hoàn thiện hơn.
3
Em xin chân thành cảm ơn!
4
Khoa Kế Toán
Trường Đại Học Kinh tế - Đại Học Đà Nẵng
SVTH: NGUYỄN THỊ THÀNH
GVHTD: PGS.TS. Ngô Hà Tấn
Năm học 2015-2016
A/ CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN
Kế toán có những phương pháp riêng thích hợp với đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
là tài sản và sự tuần hoàn của tài sản trong các giai đoạn sản xuất kinh doanh
Xét trong quan hệ giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản. Đối tượng của kế toán luôn
có tính hai mặt độc lập nhau nhưng luôn cân bằng với nhau về lượng giá trị
Xét trong quá trình tuần hoàn tài sản, đối tượng của kế toán luôn vận động qua các giai
đoạn khác nhau nhưng theo một trật tự xác định và khép kín trong một chu kỳ nhất
định
Mỗi đối tượng cụ thể của kế toán đều gắn với lợi ích kinh tế, quyền lợi và trách nhiệm
của nhiều phía
Trên cơ sở phương pháp luận và những đặc điểm cơ bản của đối tượng kế toán người
ta đã xây dựng các phương pháp của kế toán bao gồm:
I/ Phương pháp chứng từ kế toán
1.Cơ sở hình thành phương pháp chứng từ kế toán
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để thực hiện chức năng nhiệm
vụ của mình, các đơn vị kế toán đã thường xuyên diễn ra các nghiệp vụ kinh tế. Nói
cách khác hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị kế toán được cấu thành bởi các
nghiệp vụ kinh tế.
Nghiệp vụ kinh tế là khái niệm được dùng trong kế toán để chỉ thay đổi tài sản
hay nguồn vốn gắn liền với một hành vi kinh tế cụ thể cần theo dõi, tính toán và ghi
chép. Ví dụ: mua tài sản, hàng hoá; thanh toán tiền hàng, thanh toán nợ; bán sản phẩm,
hàng hóa....Số lượng và qui mô của các nghiệp vụ kinh tế khác nhau giữa các đơn vị kế
toán, tuỳ thuộc qui mô, tính chất hoạt động và đặc điểm kinh doanh của các đơn vị đó.
Với chức năng thông tin và kiểm tra về tình hình kinh tế, tài chính của đơn vị,
kế toán cần phải theo dõi, ghi chép và quản lý có hiệu quả tài sản của đơn vị ngay từ
khi tài sản được hình thành hay bắt đầu có sự vận động, do đó đòi hỏi phải có một
5
phương pháp khoa học để có thể thu nhận được ngay những thông tin về tài sản. Điều
đó, đặt ra cho kế toán nhiệm vụ phải xác định được một phương pháp phù hợp nhằm
phản ánh được các nghiệp vụ kinh tế phù hợp với sự biến động của từng loại tài sản.
Tài sản của đơn vị được hình thành từ nhiều nguồn, liên tục vận động theo
không gian và thời gian với quy mô khác nhau, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh
doanh, tình hình tài chính, trách nhiệm cá nhân và tập thể có liên quan. Do vậy, cùng
với việc lựa chọn phương pháp phản ánh phải lựa chọn được phương thức thông tin về
tình trạng và sự biến động của tài sản cho từng bộ phận hoặc cá nhân chịu trách nhiệm
về nghiệp vụ đó, đồng thời phải thiết lập những đường dây thông tin kịp thời, hữu ích
cho các cấp quản lý về các đối tượng cụ thể.
Xuất phát từ hai lý do trên đây, cần thiết phải xây dựng một phương pháp thu
thập và xử lý thông tin ban đầu các đối tượng kế toán, đó là phương pháp chứng từ kế
toán.
2.Ý nghĩa của phương pháp chứng từ kế toán
Phương pháp chứng từ kế toán có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý kinh tế
cũng như trong công tác kiểm tra phân tích hoạt động kinh tế và bảo vệ tài sản
của đơn vị, vì chứng từ kế toán ghi nhận đầy đủ, chính xác, kịp thời mọi biến
động về tài sản, nguồn vốn và các quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị xảy
ra ở những thời gian và địa điểm khác nhau.
- Phương pháp chứng từ kế toán là cơ sở để phân loại, tổng hợp các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh để ghi vào các sổ kế toán theo từng đối tượng kế toán cụ thể,
nó đảm bảo tính pháp lý cho các số liệu trong sổ kế toán và các số liệu thông tin
kinh tế của đơn vị
Ví dụ: “Phiếu thu” là một loại chứng từ kế toán ghi nhận số tiền mặt đã nhập quỹ, là
căn cứ để ghi tăng tiền mặt trên sổ kế toán tiền mặt, nếu không có “phiếu thu” nhân
viên kế toán không được phép ghi tăng tiền mặt trên sổ kế toán
- Phương pháp chứng từ là căn cứ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, từ đó phát hiện và ngăn ngừa những hiện tượng vi phạm
chính sách, chế độ, thể lệ kinh tế tài chính do Nhà nước ban hành, những hành
vi tham ô, lãng phí tài sản nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị
Ví dụ: “Hóa đơn giá trị gia tăng” là cơ sở quan trọng để cơ quan thuế kiểm soát số thuế
GTGT đơn vị kế toán phải nộp khi bán hàng hay được khấu trừ khi mua hang
Phương pháp chứng từ là phương tiện thông tin nhanh cho công tác lãnh đạo
nghiệp vụ ở đơn vị, phục vụ cho công tác phân tích kinh tế hàng ngày ở đơn vị.
Nhờ có phương pháp chứng từ kế toán mà các bộ phận, chức năng, các cá nhân
có liên quan nhận biết kịp thời các hoạt động kinh tế tài chính xảy ra, từ đó có
những quyết định đúng đắn, phù hợp góp phần quản lý hiệu quả các hoạt động
kinh tế tài chính trong đơn vị
-
6
Ví dụ: “Bảng thanh toán tiền lương” cho người lao động đã được duyệt của giám đốc
công ty là căn cứ để Phòng tài chính - Kế toán thực hiện trả lương cho người lao động.
- Phương pháp chứng từ gắn sự phát sinh của các nghiệp vụ kinh tế với trách nhiệm
vật chất của các cá nhân, đơn vị có liên quan với các nghiệp vụ. Qua đó, chứng từ góp
phần vào việc thực hiện triệt để hạch toán kinh doanh nội bộ và gắn trách nhiệm vật
chất với từng cá nhân đơn vị cụ thể. Phương pháp chứng từ là cơ sở pháp lý cho việc
kiểm tra việc chấp hành chính sách, chế độ và thể lệ về kinh tế tài chính; kiểm tra tình
hình chấp hành các mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên; kiểm tra kinh tế, kiểm tra kế toán
trong đơn vị; kiểm tra và xác định trách nhiệm vật chất của các đơn vị, bộ phận, các cá
nhân đối với nghiệp vụ kinh tế, tài chính được phản ánh trong chứng từ kế toán.
Như vậy, chứng từ kế toán có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý của đơn vị.Nó
ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp đến chất lượng các khâu sau của công tác kế toán và
thông tin kế toán.
Với những ý nghĩa đó, phương pháp chứng từ phải được sử dụng trong tất cả các đơn
vị kế toán, không phân biệt các ngành sản xuất, các thành phần kinh tế khác nhau.
II/Phương pháp tài khoản-ghi kép
1.Cơ sở hình thành phương pháp tài khoản ghi kép
Qua tìm hiểu về đối tượng kế toán, ta thấy đặc điểm của đối tượng kế toán vừa
có tính hai mặt, tính vận động, tính đa dạng, vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính
vận động của đối tượng kế toán được biểu hiện ở các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong
quá trình hoạt động của đơn vị. Các nghiệp vụ kinh tế này diễn ra thường xuyên và
được ghi chép phản ánh lại một cách kịp thời, đầy đủ qua chứng từ kế toán. Có thể nói,
qua phương pháp chứng từ chúng ta biết được thông tin về sự hình thành một nghiệp
vụ kinh tế phát sinh liên quan đến tình trạng và sự vận động của từng đối tượng toán kế
toán. Tuy nhiên, các nghiệp vụ kinh tế trong doanh nghiệp phát sinh rất nhiều, do đó số
lượng chứng từ rất lớn và khác nhau về đối tượng phản ánh về thời gian địa điểm, quy
mô của nghiệp vụ. Bên cạnh đó, chứng từ chỉ là hình thức “sao chụp” lại nghiệp vụ
kinh tế, nghĩa là mới chỉ cung cấp được những thông tin ban đầu một cách riêng lẽ, mà
quản lý thì luôn cần những thông tin mang tính tổng hợp về tình hình của từng loại tài
sản, từng nguồn vốn, từng quá trình kinh doanh. Có như vậy mới thực hiện sự giám sát
và phản ánh chặt chẽ tình hình biến động của toàn bộ tài sản, nguồn vốn và hoạt động
kinh doanh của đơn vị.
Hơn nữa, mỗi nghiệp vụ kinh tế thường phản ánh mối quan hệ giữa các đối
tượng kế toán với nhau. Bản thân phương pháp chứng từ kế toán không thể hiện được
mối quan hệ này.
7
Ví dụ: doanh nghiệp chi tiền mặt mua vật liệu nhập kho với số tiền là 1.000.000
đồng. Nghiệp vụ này làm tiền mặt (tài sản) của doanh nghiệp giảm đi 1.000.000 đồng
và vật liệu (tài sản) của doanh nghiệp tăng 1.000.000 đồng, như vậy giữa tiền mặt và
vật liệu có mối quan hệ với nhau.
Với phương pháp chứng từ, kế toán sẽ lập một phiếu chi để chứng minh cho
việc chi tiền, lập phiếu nhập kho để chứng minh việc vật liệu đã nhập kho. Tự bản thân
hai chứng từ này chỉ sao chụp lại nghiệp vụ kinh tế, chưa phản ánh mối quan hệ giữa
tiền và vật liệu. Do đó chưa phục vụ tốt cho việc quản lý, kiểm tra về mọi mặt của tài
sản. Trong khi đó, quản lý kinh tế rất cần những thông tin tổng hợp về từng đối tượng
kế toán cụ thể và sự biến động của một đối tượng kế toán phải được xem xét trong mối
quan hệ với đối tượng kế toán khác.
Từ những vấn đề trên và yêu cầu của việc quản lý tài sản trong các doanh
nghiệp đã đặt ra cho kế toán phải xây dựng một phương pháp xử lý thông tin có khả
năng tổng hợp phản ánh được tình hình và sự biến động của từng loại đối tượng kế
toán cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa các đối tượng kế toán. Đó chính là phương
pháp tài khoản và ghi kép.
2.Ý nghĩa của phương pháp tài khoản -ghi kép
- Phương pháp tài khoản- ghi kép giúp kế toán xử lý các thông tin ban đầu ghi nhận
trên các chứng từ kế toán, từ đó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và sự
biến động của từng loại tài sản, nguồn vốn, quá trình hoạt động của các đơn vị kế toán
nhằm phục vụ công tác quản lý đạt hiệu quả.
- Phương pháp tài khoản – ghi kép sẽ giúp cho kế toán dễ dàng phân loại thông tin trên
chứng từ kế toán và phản ánh một cách có hệ thống vào hệ thống sổ sách kế toán được
mở dưới hình thức các tài khoản kế toán để theo dõi cho từng đối tượng kế toán.Cụ
thể:
Thông qua phương pháp tài khoản – ghi kép có thể hệ thống hóa được thông tin về tài
sản và các hoạt động kinh tế tài chính ở các đơn vị, phục vụ cho hoạt động và quản lý
kinh tế về tài chính của nhà nước và đơn vị.
Thông qua phương pháp tài khoản – ghi kép có thể hệ thống hóa thông tin cụ thể chi
tiết về tình hình tài sản và sự vận động của tài sản ở cùng đơn vị phục vụ cho yêu cầu
quản lý doanh nghiệp, yêu cầu phân cấp quản lý trong đơn vị cũng như yêu cầu quản lý
tài sản của đơn vị
Thông qua phương pháp tài khoản – ghi kép có thể hệ thống hóa được số liệu theo các
chỉ số kinh tế tài chính để lập được các báo cáo kế toán định kỳ
- Thực hiện phương pháp tài khoản – ghi kép giúp cho kế toán có được phương pháp
lưu trữ các thông tin của kế toán một cách tốt nhất và có tính khoa học cao nhất.Thông
8
qua phương pháp này giúp người làm công tác kế toán thực hiện lưu trữ các thông tin
kế toán được thuận tiện, dễ dàng
III/Phương pháp đo lường đối tượng kế toán
1.Cơ sở hình thành phương pháp đo lường đối tượng kế toán
Tại bất cứ một đơn vị nào khi sử dụng tài sản để đạt được mục tiêu, đơn vị đều quan
tâm đến các tài sản đó được hình thành từ đâu và tài sản đó được sử dụng như thế nào.
Để đáp ứng yêu cầu này, kế toán có chức năng cung cấp thông tin về sự hình thành và
sử dụng tài sản của đơn vị. Như vậy, đối tượng kế toán là các tài sản sử dụng trong đơn
vị được kế toán nghiên cứu trong mối quan hệ với nguồn hình thành tài sản của đơn vị.
Tài sản thể hiện nguồn lực kinh tế được sử dụng tại đơn vị và tình hình phân bổ các
nguồn lực đó. Nguồn hình thành tài sản thể hiện nguồn gốc tài sản của đơn vị. Việc
nghiên cứu tài sản không thể tách rời với nguồn hình thành tài sản đó.
Kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản của đơn vị ở trạng thái tĩnh mà còn nghiên cứu
tài sản ở trạng thái động. Tài sản của đơn vị vận động thông qua các hoạt động sử dụng
tài sản để đạt được mục tiêu đã định. Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động biến đổi.
Trong kế toán, điều này thể hiện rõ ở đối tượng kế toán. Trong quá trình hoạt động, tài
sản và nguồn vốn của đơn vị không đứng im mà nó luôn vận động, chuyển hóa từ dạng
này sang dạng khác trong quá trình sản xuất, kết thúc một chu kì nó lại được bắt đầu
bởi một chu kì với sự gia tăng quy mô, số lượng giúp doanh nghiệp không những tồn
tại mà còn phát triển mạnh. Do đó, để nghiên cứu sự vận động của tài sản trong đơn vị,
kế toán phải phản ánh kịp thời sự thay đổi về mặt hình thái vật chất và giá trị của tài
sản trong quá trình sử dụng tài sản cho hoạt động của đơn vị. Mặt khác, kế toán cần
phải thu thập, đo lường, phản ánh và cung cấp thông tin về chi phí và doanh thu phát
sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị để giúp người sử dụng thông tin kế toán
đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực kinh tế tại đơn vị, có thể là tiền, máy móc
thiết bị hay nguyên vật liệu…. Tuy nhiên, tài sản ở đơn vị bao gồm nhiều loại khác
nhau và được thể hiện dưới các dạng khác nhau. Để đo lường, ghi nhận sự hình thành
và vận động của từng loại tài sản ta có thể sử dụng thước đo hiện vật như: ki-lô –gam,
lít, mét….hoặc thước đo thời gian lao động như: giờ, ngày, tháng…hoặc thước đo giá
trị .Việc sử dụng thước đo hiện vật phải căn cứ vào đặc tính tự nhiên của từng đối
tượng cụ thể để lựa chọn thước đo phù hợp. Thước đo hiện vật có thể giúp đơn vị theo
dõi số lượng hiện có và tình hình biến động của từng loại tài sản nhưng không thể cho
biết một các tổng quát quy mô toàn bộ tài sản của đơn vị.
Trong hoạt động của đơn vị còn phát sinh các quan hệ kinh tế ngoài tài sản của đơn vị.
Thuộc về các quan hệ này gồm: các quan hệ kinh tế phát sinh do hợp đồng chuyển
giao quyền sử dụng, các quan hệ nghĩa vụ của đơn vị trong việc sử dụng của cải xã
9
hội….các quan hệ kinh tế này cũng được đặt ra nhu cầu phải thuộc đối tượng nghiên
cứu của kế toán.
Trong nền kinh tế hàng hóa, các mối quan hệ kinh tế này được phản ánh thông qua giá
cả, biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Như vật, xuất phát từ tính đa dạng về mặt biểu hiện
vật chất của đối tượng kế toán cũng như xuất phát từ chức năng cung cấp thông tin của
kế toán về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và các dòng lưu chuyển tiền trong
doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng thước đo chung - thước đo giá trị
Ví Dụ: công ty ABC ngày 31/12/N có các loại tiền sau: 520.000.000đ; 30.000 USD;
10.000£; 50 lượng vàn SJC.Câu hỏi đặt ra là tổng số tiền trong khối tài sản của đơn vị
trên là bao nhiêu? Với đơn vị tính hiện vật, kế toán không thể tổng hợp thông tin về
tiền của đơn vị ABC. Để có câu trả lời cần phải sử dung một đơn vị tính cho doanh
nghiệp ABC như sau:
Loại tiền
Số lượng
Quy đổi ra VNĐ
1.nội tệ
520.000.000
520.000
30.000
480.000
10.000
250.000
50
825.0002075.000.00
0
Ghi chú
2.ngoại tệ
+USD
Tính theo tỷ giá
ngày 31/12/20X2
+ £
3.Vàng
Cộng
Tính theo giá khi
mua
2075.000.000
=>Nhận xét: Việc sử dụng thước đo tiền tệ là đặc trưng cơ bản của kế toán. Bằng thước
đo tiền tệ kế toán có thể tính toán, tổng hợp được giá trị của các đối tượng kế toán, qua
đó cung cấp những thông tin hữu ích cho người sử dụng thông tin.
Để sử dụng thức đo giá trị, ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách và báo cáo
kế toán cần thiết phải sử dụng một phương pháp đó là phương pháp đo lường đối
tượng kế toán. Phương pháp đo lường đối tượng kế toán là phương pháp kế toán để
quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về
một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối
tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định. Đo lường đối tượng kế toán là một
phương pháp nhằm giải quyết những vấn đề trong quá trình xử lý thông tin kế toán. Để
10
có được thông tin về tình hình hiện có, sự biến động và sự chuyển hóa của mỗi đối
tượng kế toán cần phải sử dụng thước đo giá trị - loại thước đo có tính chất tổng hợp,
ưu việt hơn hẳn thước đo hiện vật và thước đo thời gian lao động. Đó chính là nguồn
gốc hình thành nên phương pháp đo lường các đối tượng kế toán
2.Ý nghĩa của phương pháp đo lường các đối tượng kế toán:
Phương pháp đo lường các đối tượng kế toán có vai trò rất lớn không chỉ trong công
tác kế toán mà còn trong công tác quản lý:
- Phản ánh đúng giá trị thực tế của tài sản hiện có trong một doanh nghiệp tại một
thời điểm tính giá.
- Cho phép xác định và tổng hợp nhiều thông tin cần thiết cho công tác quản lý kinh
tế. Ví dụ, thông qua việc tính giá kế toán cung cấp cho người sử dụng những thông tin
quan trọng như: giá trị từng loại tài sản của đơn vị, giá thành của các loại sản phẩm…
- Giúp các đơn vị tính toán tổng hợp các chi phí hoạt động từ đó có thể xác định
được kết quả hoạt động của đơn vị, qua đó đánh giá hiệu quả của các mặt hoạt động
Trong thực tế, qua phương pháp đo lường các đối tượng kế toán các doanh nghiệp
xác định được chi phí đã bỏ ra để sản xuất sản phẩm làm cơ sở xác định giá thành sản
phẩm.Chỉ tiêu giá thành sản phẩm là chỉ tiêu quan trọng đối với các nhà quản trị doanh
nghiệp trong việc phân tích, đánh giá tính hợp lý của các khoản chi phí.Trong trường
hợp phát hiện có các chi phí bất hợp lý như chi phí vật liệu tăng, chi phí điện năng
tăng, chi phí quản lý sản xuất tăng…thì các nhà quản trị sẽ phải xác định nguyên nhân
xảy ra tình trạng xấu đối với hoạt động sản xuất để có biện pháp khắc phục
-Thông qua phương pháp đo lường đối tượng kế toán mới có thể ghi nhận, phản ánh
các đối tượng kế toán vào chứng từ, tài khoản và tổng hợp các thong tin có liên quan
đến các báo cáo kế toán
=> Phương pháp đo lường đối tượng kế toán là một trong những phương pháp kế
toán rất quan trọng, sử dụng để định giá các đối tượng kế toán dựa trên những nguyên
tắc nhất định, làm căn cứ ghi nhận vào các tài khoản kế toán qua đó cung cấp những
thông tin tổng hợp về tình hình hoạt động của các đơn vị kế toán
IV/Phương pháp tổng hợp cân đối
1.Cơ sở hình thành của phương pháp tổng hợp- cân đối kế toán
Kế toán là một công cụ quản lý quan trọng trong các tổ chức. Với các phương pháp
chứng từ, tài khoản và ghi kép, đo lường đối tượng kế toán; kế toán bước đầu đã thực
hiện các công việc thu thập, xử lý những thông tin liên quan đến tài sản, nguồn vốn và
sự vận động của tài sản. Trong quá trình đó, kế toán có thể cung cấp nhanh những
thông tin để người quản lý nắm bắt và chỉ đạo kịp thời các hoạt động hàng ngày.
11
Chẳng hạn, mỗi phiếu nhập kho và xuất kho vật liệu có thể cho biết tình hình thực tế về
nhập-xuất kho loại vật liệu đó. Đồng thời, nhờ vận dụng kỹ thuật đo lường thích hợp,
kế toán có thể cung cấp thông tin về vật liệu nhập kho hay xuất kho có giá trị bao
nhiêu. Thông qua tài khoản kế toán có thể nhận biết tình hình tăng giảm chung của loại
vật tư đó trong kỳ. Tuy nhiên, số lượng và giá trị của toàn bộ các loại vật liệu cũng như
từng loại vật liệu ở đơn vị là bao nhiêu? Ở kho nào? Tình hình tăng giảm trong kỳ ra
sao? Vật liệu thừa thiếu qua kiểm kê như thế nào? Rõ ràng là các phương pháp kế toán
đề cập ở những chương trước chưa thể giúp kế toán cung cấp thông tin có tính tổng
hợp, tính đa dạng của người quản lý về tình hình vật tư. Do vậy, cần có cách thức tổng
hợp các thông tin theo các yêu cầu của người sử dụng.
Trong thực tế, nhu cầu về thông tin kế toán của những ai quan tâm đến lợi ích
của đơn vị rất đa dạng. Có thể chia thành nhu cầu của hai loại đối tượng. Một là nhu
cầu của những người ngoài đơn vị, như: các cơ quan quản lý Nhà nước, ngân hàng, nhà
đầu tư, nhà cung cấp và các tổ chức khác. Những đối tượng này thường quan tâm
thông tin về tài sản, nguồn vốn, kết quả của quá trình kinh doanh để đánh giá tình hình
tài chính, kết quả hoạt động và dự kiến khả năng hoạt động trong tương lai của đơn vị,
qua đó có cơ sở để ra quyết định. Nhóm thứ hai gồm các nhà quản lý các cấp trong đơn
vị. Nhu cầu thông tin của nhóm đối tượng này không chỉ là thông tin tổng hợp như
nhóm trên mà còn là những thông tin chi tiết hơn, liên quan một hoạt động, một quá
trình cụ thể trong đơn vị. Các phương pháp chứng từ kế toán, đo lường và tài khoảnghi kép chỉ mới dừng lại ở việc thu thập và xử lý; hoặc thông tin một phần nhu cầu
trên. Như vậy, cần phải có một phương pháp tiếp theo để kế toán thực hiện việc tổng
hợp và cung cấp thông tin theo nhu cầu của người sử dụng. Đó là phương pháp tổng
hợp - cân đối kế toán.
2. Ý nghĩa của phương pháp tổng hợp-cân đối kế toán
Phương pháp tổng hợp cân đối cung cấp những thông tin khái quát, tổng hợp nhất về
tài sản, nguồn vốn, về quá trình kinh doanh và kết quả kinh doanh của đơn vị mà các
phương pháp kế toán khác như chứng từ, tài khoản – ghi kép, đo lường đối tượng kế
toán không thể cung cấp được. Những thông tin được xử lý trên các báo cáo kế toán
do phương pháp tổng hợp cân đối kế toán tạo ra có ý nghĩa to lớn cho những quyết
định quản lý có tính chiến lược trong nhiều mối quan hệ qua lại các yếu tố, các quá
trình, kiểm tra tình hình chấp hành kế hoạch, phát hiện và ngăn ngừa tình trạng mất cân
đối và dựa vào kết quả đã thực hiện để điều chỉnh, cụ thể hóa các kế hạch kinh tế, quản
lý một cách tốt hơn việc thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp trong các lĩnh vực tài
chính và quá trình kinh doanh. Phương pháp tổng hợp - cân đối giúp doanh nghiệp thấy
được trực trạng tài chính của đơn vị mình,thấy được mối quan hệ tỷ lệ giữa các loại tài
sản và quá trình tuần hoàn của các loại tài sản trong doanh nghiệp
Ví dụ Bảng cân đối kế toán:
12
+ Ở phần tài sản: các chỉ tiêu được sắp xếp theo trình tự tính thanh khoản giảm dần do
đó có thể biết được mức độ thanh khoản (tiền và khoản tương đương tiền > các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn > các khoản phải thu ngắn hạn > hàng tồn kho)…
+ Phần nguồn vốn: thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp với chủ nợ và chủ
sở hữu là khác nhau: trách nhiệm với chủ nợ cao hơn chủ sở hữu nên phần “Nợ phải trả
được xếp trước phần “Vốn chủ sở hữu”…
Phương pháp tổng hợp – cân đối có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý các
hoạt động kinh tế tài chính. Dựa vào những thông tin từ bảng tổng hợp – cân đối kế
toán các cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà quản trị doanh nghiệp, ngân hàng và các
đối tượng sử dụng thông tin khác có thể nhận biết được tình hình, kết quả hoạt động
của đơn vị một cách toàn diện cũng như từng mặt hoạt động cụ thể. Qua đó, có thể
kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, tình hình tài chính, tình
hình chấp hành các chính sách, chế độ, thể lệ kinh tế tài chính ở đơn vị nhằm đề ra các
giải pháp, quyết định hữu hiệu.
a) Ý nghĩa của Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa và công dụng rất quan trọng đối với công tác quản
lý kinh tế. Căn cứ vào thông tin của Bảng cân đối kế toán những người sử dụng
thông tin có thể nghiên cứu, đánh giá tổng quát tình hình và kết quả hoạt động
SXKD, cơ cấu của tài sản và nguồn vốn, trình độ sử dụng tài sản và nguồn vốn ở
một thời điểm nhất định và triển vọng kinh tế tài chính của đơn vị, từ đó có thể đưa
ra các quyết định có lợi cho hoạt động của mình. Ngoài ra Bảng cân đối kế toán còn
có tác dụng kiểm tra tính chính xác của số liệu kế toán.
Ví dụ: Dựa vào Bảng cân đối kế toán người sử dụng thông tin sẽ nắm bắt được xu
hướng biến động của tài sản, nguồn hình thành tài sản của đơn vị kế toán. Bảng cân
đối kế toán còn cung cấp thông tin về sự biến động của từng loại tài sản, nguồn
vốn, qua đó giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá tính hợp lý trong việc thay
đổi kết cấu tài sản của đơn vị kế toán. Chẳng hạn, TSCĐ của một doanh nghiệp
tăng mạnh (số cuối năm cao hơn đầu năm), lúc này người sử dụng thông tin biết
chắc chắn rằng doanh nghiệp đang mở rộng đầu tư về cơ sở vật chất, kỹ thuật, qua
đó có thể dự báo nhu cầu về nguyên vật liệu sử dụng gia tăng và doanh thu bán
hang cũng sẽ tăng mạnh trong thời gian tới.
b) Ý nghĩa của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh cung cấp thông tin về doanh thu , chi phí và lợi nhuận
trong một kì hoạt động của doanh nghiệp. Căn cứ vào Báo cáo kết quả kinh doanh các
13
đối tượng quan tâm có thể đánh giá về kết quả và hiệu quả hoạt động sau mỗi thời kì,
trên cơ sở đó dự báo về tương lai của DN.
Báo cáo kết quả kinh doanh giúp các đối tượng quan tâm nhận diện rõ ràng các mối
quan hệ cơ bản trong hoạt động kinh doanh , từ đó dự báo về lợi nhuận cũng như dòng
tiền trong tương lai của DN. Để đứng vững và phát triển trong hoạt động kinh doanh,
một doanh nghiệp cần tạo ra đủ tiền để mua sắm các tài sản mới cũng như thay thế các
tài sản cũ để duy trì và mở rộng năng lực hoạt động của mình , trong đó lợi nhuận là
một nhân tố quan trọng trong bức tranh tài chính tổng thể và là một nguồn chủ yếu để
tạo tiền cho DN.
Bên cạnh đó, Báo cáo kết quả kinh doanh còn giúp các đối tượng quan tâm đánh giá
mức độ đóng góp cho xã hội của DN. Một DN tạo ra lợi nhuận tức là DN đó đã sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội(lực lượng xã hội và các nguyên liệu đầu vào
của quá trình sản xuất kinh doanh).
Ví dụ: Trong mẫu định dạng nhiều năm của công ty XYZ, chúng ta thấy doanh số bán
lẻ hàng năm của công ty dần dần tăng, trong khi doanh số bán hàng của công ty vẫn
giữ nguyên và thậm chí có xu hướng giảm nhẹ, tuy nhiên, chi phí hoạt động luôn giữ
nguyên ngay cả khi tổng doanh số tăng lên. Khi đó chúng ta có thể kết luận đây là dấu
hiệu tốt đối với quản lý vì nó giúp duy trì chi phí để hoạt động kinh doanh. Nếu chi phí
lãi suất của công ty cũng giảm đi, thì chúng ta có thể suy đoán khả năng công ty đã
thanh toán một trong các khoản vay của mình. Cuối cùng nếu là thu nhập thuần tăng
đều qua các năm, thì có nghĩa là công ty đang tăng trưởng tốt.
c) Ý nghĩa của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh các dòng tiền thu, chỉ trong một kì hoạt động
của doanh nghiệp. Cùng với bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ tạo nên bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của DN.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giúp cho các đối tượng sử dụng biết DN đã tạo ra tiền từ
những nguồn nào và chi tiêu tiền cho những mục đích gì. Trên cơ sở đó, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ sẽ giúp các đối tượng sử dụng đánh giá về khả năng trang trải công nợ,
chi trả cổ tức trong tương lai của doanh nghiệp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin bổ sung để đánh giá về hiệu quả
hoạt động trong kì hiện tại và dự báo triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai mà
đôi khi báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp báo cáo lỗ do phát sinh các
khoản chi phí lớn không chi tiền, như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí dự
14
phòng nợ phải trả , thể hiện tình hình tài chính u ám của công ty, Báo cáo lưu chuyển
tiền tệ sẽ là nguồn cung cấp thông tin hữu ích để đánh giá về khả năng đáp ứng các
nghĩa vụ với các nhà cung cấp tín dụng, khách hàng, người lao động và các nhà đầu tư
trong tương lai gần của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, có những trường hợp doanh nghiệp trong thời kì tăng trưởng mạnh, sử
dụng nhiều tiền để mở rộng khối lượng hàng bán trong khi nguồn tiền thu về từ khách
hàng thường chậm hơn so với thời điểm thanh toán tiền cho nhà cung cấp. điều này dẫn
tới sự nguy hiểm trong tình hình tài chính của doanh nghiệp: mặc dù có lợi nhuận(trên
báo cáo kết quả kinh doanh) nhưng hoạt động kinh doanh có thể đã sử dụng tiền nhiều
hơn so với số tiền tạo ra, khi đó doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán
công nợ cũng như chi trả cổ tức cho các nhà đầu tư
Phương pháp này cùng với phương pháp chứng từ kế toán, tài khoản và ghi kép, đo
lường đối tượng kế toán hình thành nên một hệ thống phương pháp kế toán hoàn chỉnh.
B/ MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN
I/Khái quát mối quan hệ giữa các phương pháp kế toán
Trong tổ chức công tác kế toán ở đơn vị, kế toán có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các
phương pháp kế toán nhằm thu nhập thông tin cho việc quản lí một cách thường xuyên,
liên tục và có hệ thống, bởi vậy, nó cần nhiều phương pháp. Các phương pháp đó có
liên kết chặt chẽ với nhau và tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh các phương pháp. Tính
hệ thống này được thể hiện trên hai phương diện:
Phương diện phản ánh: Mỗi phương pháp kế toán có vị trí, chức năng nhất định, đóng
vai trò quan trọng trong quá trình xử lý và cung cấp các thông tin trên báo cáo kế toán
và giữa chúng có quan hệ chặc chẽ với nhau thể hiện ở trình tự vận dụng các phương
pháp kế toán. Phương pháp kế toán này làm tiền đề cho phương pháp kế toán kia và
ngược lại tạo thành một phương pháp kế toán hoàn chỉnh. Cụ thể khi có nghiệp vụ kinh
tế phát sinh kế toán phải lập chứng từ để minh chứng cho nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra
và hoàn thành. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên chứng từ được phản ánh vào các sổ
kế toán có liên quan bằng cách vận dụng mối quan hệ đối ứng tài khoản và ghi kép.
Mặt khác, việc ghi chép kế toán vào các tài khoản và sổ sách liên quan phải được ghi
chép bằng thước đo giá trị, do đó cần tiến hành đo lường các đối tượng kế toán nhằm
xác định đúng giá trị tài sản mà không có một sai xót trọng yếu nào. Cuối kỳ kinh
doanh kế toán phát họa nên bức tranh tổng thể về tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ, cần phải sử dụng phương pháp tổng hợp – cân đối
kế toán để cung cấp những thông tin tổng quát nhất và những thông tin phản ánh thực
chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ các sổ sách kế toán
15
Về phương diện giám đốc: Mỗi phương pháp đáp ứng một yêu cầu khác nhau trong
việc quản lí các đối tượng kế toán và đồng thời chúng tạo thành một tổng thể hoàn
chỉnh các phương tiện để kiểm tra giám đốc. Phương pháp chứng từ cho phép kiểm tra
giám đốc một cách tỉ mỉ từng hành vi kinh tế diễn ra và ngăn chặn kịp thời những hành
vi kinh tế không lành mạnh trong đơn vị sẽ không được diễn ra bởi sự kiểm tra các thủ
tục lập chứng từ. Tài khoản – ghi kép một phương pháp hệ thống hoá thông tin theo
những mục tiêu đã định trước quy nạp những hiện tượng kinh tế cùng loại cho phép
kiểm tra giám đốc mức độ thực hiện của từng đối tượng, từng loại hoạt động kinh tế...
Đồng thời khi kết thúc một niên độ kế toán cần thiết phải có nhãng thông tin tổng quát
để phân tích, đánh giá thành quả của một quá trình sản xuất kinh doanh. Tóm lại, các
phương pháp kế toán có vị trí riêng biệt đồng thời quan hệ mật thiết với nhau tạo nên
tính hệ thống của nó. Chúng ta có thể tóm tắt quan hệ giữa các phương pháp kế toán
như sơ đồ sau:
Phương pháp
chứng từ kế toán
Chứng từ kế toán
Phương pháp
tính giá
Phương pháp tài
khoản và ghi sổ
kép
Tài khoản kế toán
(sổ kế toán)
Các báo cáo kế
Phương pháp
hợphệ– giữa
cân các phương pháptoán
Sơ đồ: Mốitổng
quan
kế toán cơ bản
đối
II.Mối quan hệ cụ thể giữa các phương pháp kế toán
Từng nghiệp vụ
kinh tế phát
Từng đối tượng
kế toán cụ thể
(từng chỉ tiêu
kinh tế cụ thể)
Thông tin tổng
hợp và khái
quát về đối
tượng của hạch
toán kế toán
1. Mối quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp tài khoản ghi kép
Tất cả các chứng từ kế toán do doanh nghiệp lập hoặc từ bên ngoài chuyển đến đều
sẽ được tập trung vào bộ phận kế toán doanh nghiệp. Bộ phận kế toán kiểm tra và sau
khi xác minh tính pháp lý của chứng từ này thì sẽ sử dụng để ghi sổ kế toán theo hình
thức tài khoản và ghi kép. Kế toán vận dụng các chứng từ nhằm sao chụp, phản ánh
toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh. Sau đó những nghiệp vụ, kinh tế, tài
16
chính này được hệ thống hóa theo trình tự thời gian, không gian nhất định. Thể hiện là
tổ chức vận dụng hệ thống hóa thông tin theo từng loại đối tượng (mức độ tổng hợp,
chi tiết) từng loại chỉ tiêu phục vụ nhu cầu của người sử dụng theo phương tiện vật
chất là hệ thống các sổ kế toán.
Phương pháp chứng từ cung cấp cơ sở và bằng chứng để kế toán ghi vào sổ bằng
phương pháp tài khoản. Để kiểm tra tính chính xác và xác thực của số liệu trên sổ kế
toán ( sản phẩm của phương pháp tài khoản) thì phải căn cứ vào chứng từ ( kết quả của
phương pháp chứng từ kế toán)
Ví dụ: tại công ty ABC có nghiệp vụ phát sinh như sau:
16/01/20X2 mua 20.000 kg vật liệu A của công ty P về nhập kho, giá mua chưa thuế
GTGT 10.000đ/kg, thuế GTGT 10%. Tiền hàng đã thanh toán bằng chuyển khoản. Khi
vật tư về đến kho của doanh nghiệp, bộ phận nhận hàng (phòng cung ứng) sẽ căn cứ
vào các chứng từ như : giấy đề nghị mua hàng, đơn đặt hàng đã được duyệt, hợp đồng
kinh tế đã ký kết, để tiến hành kiểm nghiệm về số lượng, chất lượng, quy cách… và lập
phiếu nhập kho. Từ đó để tiến hành ghi kép vào sổ kế toán.
Như vậy, quan hệ giữa chứng từ và phương pháp tài khoản – ghi kép có mối quan hệ
chặt chẽ cả về nghiệp vụ ghi chép và số liệu.
2 Mối quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp đo lường
Phương pháp chứng từ là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các
nghiệp vụ kinh tế được thể hiện dưởi hình thứ là hệ thống bản chứng từ và kế hoạch
luân chuyển chứng từ. Với chức năng thông tin và kiểm tra về tình hình kinh tế, tài
chính của đơn vị, kế toán cần phải theo dõi, ghi chép và phản ánh các đối tượng kế
toán ngay khi tài sản mới được hình thành hay bắt đầu có sự vận động.
Chính vì vậy, phương pháp chứng từ là cơ sở đầu tiên của công việc kế toán, là công
việc của kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và hoàn thành vào
các chứng từ theo mẫu quy định, theo thời gian và địa điểm phát sinh của nghiệp vụ
đó. Với nội dung quy định trong chứng từ, nó là cơ sở để kế toán phản ánh kịp thời,
đầy đủ và chính xác mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Do kế toán dùng thước đo giá trị là thước đo bắt buộc, nhưng các đối tượng kế toán
thì đa dạng, có thể biểu hiện dưới góc độ giá trị hoặc hiện vật, thời gian… Để có cơ sở
phản ánh vào các chứng từ kế toán và thực hiện chức năng thông tin đến người sử dụng
thì phải sử dụng phương pháp đo lường. Vận dụng phương pháp này, kế toán có thể
xác định được giá trị của các đối tượng kế toán chưa được thể hiện bằng một lượng giá
trị nhất định, trên cơ sở đó ghi nhận vào chứng từ kế toán. Cụ thể: khi nhận được các
chứng từ nhập, xuất kho do bộ phận thủ kho chuyển đến, kế toán vật tư phải kiểm tra
chứng từ, đối chiếu…cuối cùng là tiến hành ghi đơn giá và tính thành tiền dựa trên số
lượng trên chứng từ nhập kho. Việc tính giá trên các phiếu xuất kho được thực hiện
17
theo một trong các phương pháp tính giá nguyên vật liệu (công cụ ,dụng cụ), tùy theo
tính chất và phương pháp hạch toán kế toán riêng của từng doanh nghiệp được quy
định tại chuẩn mực kế toán hàng tồn kho
Như vậy, quan hệ giữa phương pháp chứng từ và phương pháp đo lường là quan hệ
về mặt giá và lượng của từng đối tượng kế toán.
3 Mối quan hệ giữa phương pháp đo lường và phương pháp tài khoản – ghi kép
Phương pháp tài khoản – ghi kép là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận
động của tài sản theo từng loại dựa trên mối quan hệ vốn có của các đối tượng kế toán.
Phương pháp tài khoản – ghi kép được thể hiện dưới hình thức là hệ thống tài khoản kế
toán và ghi kép vào tài khoản.
Tài khoản kế toán dùng để phản ánh và giám đốc một cách thường xuyên, liên tục và
có hệ thống các đối tượng kế toán riêng biệt trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, có sự tồn tại và
vận động khác nhau, có yêu cầu quản lý khác nhau nên mỗi đối tượng kế toán được mở
một tai khoản tương ứng.
Ghi sổ kép là công việc của kế toán dùng ghi một nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào ít
nhất hai tài khoản theo đúng nội dung kinh tế và mối quan hệ khách quan của các tài
khoản. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có nội dung kinh tế nhất định được phản ánh vào tài khoản liên quan
đã giúp cho việc giám đốc chặt chẽ các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Qua khái lược về phương pháp tài khoản – ghi kép, có thể thấy được để phản ánh các
đối tượng kế toán thường phải sử dụng ít nhất hai tài khoản và khi ghi sổ kế toán phải
phản ánh công việc đó bằng cách ghi kép. Nhưng không thể ghi kép vào tài khoản kế
toán bằng các thước đo khác nhau, mà phải quy về một thước đo để có thể đánh giá,
thông tin đúng các đối tượng kế toán của một doạnh nghiệp. Thước đo được sử dụng
là thước đo giá trị. Để lượng hóa các đối tượng kế toán bằng thước đo tiền tệ và sử
dụng phương pháp tài khoản và ghi kép thì bắt buộc phải sử dụng phương pháp tính
giá.
Tóm lại, mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và phương pháp đo
lường là mối quan hệ về mặt giá trị trên từng tài khoản kế toán
4. Mối quan hệ giữa phương pháp đo lường với phương pháp tổng hợp cân đối:
Tổng hợp cân đối là một phương pháp kế toán trong quy trình kế toán ở một đơn vị
nhằm cung cấp thông tin cho người sử dụng thông tin qua các báo cáo kế toán
Báo cáo kế toán được tổng hợp từ các số liệu kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế về tài sản
và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất
18
định.Số liệu trên báo cáo kế toán giúp cho doanh nghiệp đánh giá và phân tích được
tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, từ đó có biện pháp bảo vệ và sử
dụng tài sản mang lại hiệu quả cao nhất
Thông thường phương pháp tổng hơp cân đối kế toán được sử dụng vào thời điểm cuối
kỳ kế toán.Nhưng để có số liệu lên các biểu tổng hợp và các bảng cân đối kế toán, kế
toán viên phải tổng hợp từ các số liệu kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp và phải tính
giá các đối tượng còn tồn cuối kỳ kế toán,tính hao mòn tài sản cố định….để đảm bảo
cho các thông tin cuối kỳ kế toán chính xác
+ Chẳng hạn: Vào cuối kì kế toán để có được số liệu của chỉ tiêu “dự phòng giảm giá
hàng tồn kho” trên bảng cân đối kế toán, kế toán phải thực hiện kiểm kê số lượng hàng
tồn kho tại kho của đơn vị, tính toán theo đơn giá thị trường và so sánh với giá trị giá
gốc của nó. Nếu trường hợp giá thị trường bé hơn giá gốc của hàng tồn kho, thì phải
trích lập dự phòng bằng với khoản giá trị chênh lệch của giá thị trường và giá gốc.
+Doanh nghiệp X tính và lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho cho năm 2014 như sau:
Tên HTK
Số lượng HTK
Đơn giá thị trường
tại 31/12/2013
Mức dự phòng
31/12/2013
Đơn giá thực tế
TB trên sổ kế
toán
1.vật liệu A
1.500
40.000
35.000
7.500.000
2.vật liệu B
600
11.500
13.000
0
3. vật liệu C
200
17.500
16.000
300.000
55.000
56.000
0
4. Thành phẩm 1.200
Tổng cộng
7.800.000
+ Số dư đầu năm 2013 của TK 159: 3.200.000. Số dự phòng giảm giá hàng tồn kho
phải lập thêm trong năm 2014 sẽ là: 4.600.000 và giá trị này sẽ được sử dụng để phản
ánh chỉ tiêu “dự phòng giảm giá hàng tồn kho” trên BCĐKT của doanh nghiệp tại thời
điểm lập báo cáo.
Như vậy, có thể kết luận rằng mối quan hệ giữa phương pháp đo lường và phương
pháp tổng hợp - cân đối chính là quan hệ về mặt số liệu của từng đối tượng kế toán
tương ứng trên bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp
19
5.Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và phương pháp tổng hợp –
cân đối
- Phương pháp tài khoản – ghi kép là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình
vận động của tài sản theo từng loại dựa trên mối quan hệ vốn có của các đối tượng kế
toán. Phương pháp tài khoản – ghi kép được thể hiện dưới hình thức là hệ thống tài
khoản kế toán và ghi kép vào tài khoản.
- Tài khoản kế toán dùng để phản ánh và giám đốc một cách thương xuyên, liên tục
và có hệ thống các đối tượng kế toán riêng biệt trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Mỗi đối tượng kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, có sự tồn tại và
vận động khác nhau, có yêu cầu quản lý khác nhau nên mỗi đối tượng kế toán được mở
một tai khoản tương ứng.
- Ghi sổ kép là công việc của kế toán dùng ghi một nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào
ít nhất hai tài khoản theo đúng nội dung kinh tế và mối quan hệ khách quan của các tài
khoản. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có nội dung kinh tế nhất định được phản ánh vào tài khoản liên quan
đã giúp cho việc giám đốc chặt chẽ các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
- Qua khái lược về phương pháp tài khoản – ghi kép, có thể thấy được để phản ánh
các đối tượng kế toán thường phải sử dụng ít nhất hai tài khoản và khi ghi sổ kế toán
phải phản ánh công việc đó bằng cách ghi kép. Nhưng không thể ghi kép vào tài khoản
kế toán bằng các thước đo khác nhau, mà phải quy về một thước đo để có thể đánh giá,
thông tin đúng các đối tượng kế toán của một doạnh nghiệp. Thước đo được sử dụng
là thước đo giá trị. Để lượng hóa các đối tượng kế toán bằng thước đo tiền tệ và sử
dụng phương pháp tài khoản và ghi kép thì bắt buộc phải sử dụng phương pháp tính
giá.
Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và Bảng CĐKT
Bảng cân đối kế toán và tài khoản kế toán cùng được sử dụng để phản ánh tài sản và
nguồn vốn. Trong đó, bảng cân đối kế toán phản ánh một cách tổng quát, toàn diện ở
trạng thái tĩnh tại thời điểm lập bảng. Tài khoản kế toán phản ánh tàI sản và nguồn vốn
theo từng loại ở cả trạng thái tĩnh (số dư tài khoản) và trạng thái động (số phát sinh của
tài khoản). Vì vậy, việc lập Bảng cân đối kế toán trên nguyên tắc phải dựa vào số dư
của tài khoản kế toán.
- Đầu kỳ căn cứ vào BCĐKT được lập cuối kỳ trước cũng như danh mục sổ kế toán
được xác định để mở các TK tương ứng nhằm theo dõi từng loại tài sản, nguồn vốn,
các đối tượng kế toán cụ thể khác.
- Số dư đầu kỳ của các TK phản ánh tài sản và nguồn vốn được lấy từ BCĐKT lập
cuối kỳ trước.
20
- Số dư cuối kỳ của các TK phản ánh tài sản và nguồn vốn là cơ sở để lập BCĐKT
mới cho kỳ sau..
Xét 1 kỳ:
NVKT
Tài khoản
BCĐKT
(ghi kép)
SDĐK
Nhiều kỳ: BCĐKT
TK
NVKT
SDCK
SDĐK
BCĐKT
TK
NVKT
Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và Báo cáo KQKD
Số liệu trên tài khoản kế toán là cơ sở để lập báo cáo kết quả kinh doanh. Căn cứ
vào các tài khoản kế toán trong kỳ dùng cho các tài khoản loại 5 “ doanh thu”, loại 6
“chi phí”, loại 7 “thu nhập khác”, loại 8 “chi phí khác”, loại 9 “xác định kết quả kinh
doanh” để lập Báo cáo kết quả kinh doanh.
Mối quan hệ giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và báo cáo LCTT
Lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ không phải là công việc đơn giản đối với kế toán
viên, để thực hiện công việc này kế toán phải căn cứ vào nhiều thông tin, trong đó có
sổ kế toán chi tiết và sổ kế toán tổng hợp các tài khoản phản ánh tiền, gồm TK 111 –
“Tiền mặt”, TK 112 – “Tiền gửi ngân hàng”, TK 113 – “Tiền đang chuyển” và các sổ
kế toán khác có liên quan như sổ kế toán theo dõi các khoản phải thu, kế toán theo dõi
các khoản phải trả, sổ kế toán theo dõi khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn…
Như đã biết, nguồn gốc hình thành các sổ kế toán tổng hợp, chi tiết… chính là số dư
trên các tài khoản tương ứng. Như vậy, giữa phương pháp tài khoản – ghi kép và
phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một
chu trình thông tin thông suốt của kế toán và mối quan hệ được nói đến ở đây (bao
gồm cả ba hình thức Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ) có thể được hiểu là mối quan hệ về mặt số liệu tổng hợp qua trung gian
đó là hệ thống các sổ sách của đơn vị.
21
KẾT LUẬN
Để nghiên cứu đối tượng của mình, hạch toán kế toán đã sử dụng hệ thống các phương
pháp kế toán như phương pháp chứng từ, phương pháp tài khoản- ghi kép, đo lường
các đối tượng kế toán và phương pháp tổng hợp – cân đối. Mỗi phương pháp có vị trí,
chức năng nhất định, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho
nhau, độc lập nhưng không tách rời nhau để từ đó hình thành nên một hệ thống phương
pháp kế toán hoàn chỉnh nhất, hiệu quả nhất. Vì thế, kế toán được xem như là một hệ
thống thông tin trong các tổ chức. Thiết kế hệ thống thông tin kế toán luôn quan tâm
đến mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích để thông tin kế toán thực sự có ích nhưng với
chi phí tiết kiệm nhất có thể.
Một lần nữa, em xin cảm ơn Thầy Ngô Hà Tấn đã truyền đạt, định hướng để em có
thể nắm bắt những nội dung cơ bản, tạo nền tảng cần thiết để em có thể thực hiện đề án
này!
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. NHÀ XUẤT BẢN TÀI CHÍNH HÀ NỘI 2009. Giáo trình NGUYÊN LÝ KẾ
TOÁN. HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
2. NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC. Giáo trình NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN.
TS.TRẦN ĐÌNH KHÔI NGUYÊN (Chủ biên)
3. NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ. Giáo trình NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
4. NHÀ XUẤT BẢN THỐNG KÊ 2009. Giáo trình TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN
HÀNG TP.HCM
-