Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.36 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM MINH TÙNG
340902

ĐỀ TÀI

CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: ThS. MAI THANH HIẾU

Hà Nội 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong khoá luận đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của khoá luận chưa từng được ai công
bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.

Xác nhận của giáo viên hướng dẫn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT



BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLHS

Bộ luật hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

VKSQSTW

Viện kiểm sát quân sự trung ương


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi tố vụ án hình sự là quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, với mục đích duy trì trật tự xã hội, đảm bảo tính pháp chế xã hội
chủ nghĩa, mọi hành vi phạm tội đều phải bị truy cứu TNHS nhưng không vì thế
mà xử oan người vô tội. Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người

bị hại là một trường hợp đặc biệt mà vấn đề truy cứu TNHS của người có dấu
hiệu phạm chỉ đặt ra khi người bị hại có yêu cầu khởi tố.
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại xuất phát từ
yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người bị hại, tuy nhiên vẫn bảo
vệ được lợi ích của Nhà nước, tiết kiệm được chi phí ngân sách nhà nước. Chế
định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt hại
mất mát của người bị hại. Mặt khác, xét về mức độ nguy hiểm của hành vi,
những tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 105 có tính nguy hại cho xã hội
không cao, không có những tình tiết tăng nặng TNHS.
Chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên
được quy định tại BLTTHS năm 1988, tuy nhiên bộc lộ không ít những nhược
điểm, hạn chế. Để khắc phục những vướng mắc còn tồn tại trong BLTTHS năm
1988, đồng thời đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, BLTTHS năm 2003
được ban hành, tiếp tục ghi nhận và kể thừa những quy định của pháp luật về
chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại từ BLTTHS năm
1988. Tuy nhiên, qua quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật, BLTTHS năm 2003
ngoài những điểm tích cực cũng đã bộc lộ không ít hạn chế bất cập. Không ít
những trường hợp quy định của pháp luật còn có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn
đến áp dụng pháp luật khác nhau, thậm chí trong nhiều trường hợp còn chưa có
quy định cụ thể của pháp luật để điều chỉnh.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm khoá luận tốt
nghiệp đại học. Tác giả mong muốn tìm hiểu sâu hơn những quy định của pháp


2

luật về chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, để qua đó
đánh giá thực trạng và đưa ra những kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật của chế định này.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
Thông qua việc nghiên cứu chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, khoá luận góp phần
làm rõ hơn những vấn đề lý luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Khoá luận mang tính chất là tài liệu tham khảo, đề xuất những kiến nghị
hoàn thiện quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật của chế
định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, đáp ứng được yêu cầu
cải cách tư pháp Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm, ý nghĩa, nội dung chế định khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
- Xác định một số bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy
định pháp luật tố tụng hình sự về nội dung của chế định.
- Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật của chế định, đồng thời nâng cao hiệu
quả áp dụng của chế định.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của BLTTHS năm và các văn bản pháp luật liên quan cũng
như thực tiễn thi hành chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


3

Khoá luận tập trung nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm liên quan

đến chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại và thực trạng
thi hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu khoá luận dựa trên yêu cầu cải cách tư pháp của nhà
nước, dựa trên đường lối của Đảng và Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời dựa trên thực tiễn áp dụng chế
định trên thực tế. Khoá luận có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, logic, ví dụ để từ đó phân tích
sâu hơn nội dung khoá luận.
6. Kết cấu khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận được chia làm 3 chương:
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề lí luận về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại
CHƯƠNG 2: Nội dung chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
CHƯƠNG 3: Thực trạng thi hành chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại và những kiến nghị hoàn thiện chế định khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại


4

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI
1.1. Khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại
Để hiểu rõ khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại, trước tiên cần phân tích khái niệm khởi tố vụ án hình sự và khái
niệm người bị hại.
Về khái niệm khởi tố vụ án hình sự, cần khẳng định rằng khởi tố vụ án

hình sự không phải là hành vi tố tụng mà là một giai đoạn tố tụng. Khởi tố vụ án
hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Cho
đến thời điểm hiện nay, khái niệm khởi tố vụ án hình sự có nhiều cách diễn đạt
khác nhau, xuất phát từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng các quan điểm
đều thừa nhận rằng đây là giai đoạn tố tụng đầu tiên, là cơ sở pháp lý để tiến
hành các giai đoạn tiếp theo của hoạt động tố tụng hình sự.
Theo Từ điển Luật học thì, “Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng xác định có dấu hiệu phạm tội để tiến hành điều tra, phát
hiện tội phạm” [43, tr. 429] Theo đó, trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm
quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm. Khởi
tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, tạo cơ sở để tiến hành điều tra.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động
của Cơ quan điều tra, kiểm sát hoặc xét xử, ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
khi xác định có dấu hiệu tội phạm và đó là giai đoạn mở đầu cho quá trình tố
tụng hình sự” [44, tr. 352]
Theo sách Bình luận khoa học BLTTHS năm - Nhà xuất bản Công an
nhân dân – PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên) – Hà Nội 2004 thì “Khởi tố vụ
án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng và từ đó các quan hệ tố
tụng bắt đầu phát sinh.” Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thể hiện sự quan trọng
và ý nghĩa cấp thiết thông qua việc các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
trên cơ sở những thông tin ban đầu thu thập được đi đến xác định có hay không


5

có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự để đưa ra
quyết định phù hợp.
Có thể nói, khởi tố vụ án hình sự với tính chất là một giai đoạn độc lập và
đầu tiên của tố tụng hình sự, có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác
định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức

(tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự. Giai đoạn này nhằm làm cơ sở cho
việc xác định một người nào đó có hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không[41,
tr. 19]
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi các cơ quan có thẩm
quyền nhận được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra
được một trong hai quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án
hình sự.
Mục tiêu và cũng là nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là các
cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định dấu hiệu tội phạm, bảo đảm phát hiện
nhanh chóng mọi hành vi phạm tội diễn ra trên thực tế thông qua hoạt động tiếp
nhận tin tức ban đầu về tội phạm, kiểm tra, xác minh nhằm xác định có dấu hiệu
tội phạm không và có căn cứ khởi tố hay không được khởi tố vụ án hình sự, để
qua đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự cho phù hợp.
Dấu hiệu tội phạm chính là những tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội nói
chung, thu thập được thông qua những nguồn như tin báo, tố giác tội phạm của
công dân, tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do chính cơ
quan có thẩm quyền khởi tố thu thập được…, chưa phải tài liệu về người phạm
tội cụ thể nào. Những dấu hiệu ban đầu đó chỉ mới cho phép xác định có tội
phạm xảy ra, còn ai là người có hành vi phạm tội thì cần thiết phải tiến hành
những hoạt động tố tụng hình sự khác, trong giai đoạn tố tụng hình sự khác,
bằng những hoạt động nghiệp vụ khác, mới có thể xác định được. Nhất thiết khi
đã xác định có dấu hiệu tội phạm thì cần khởi tố vụ án hình sự ngay, vì đó chính
là cơ sở cho các hoạt động điều tra, xác định tội phạm sau này, nhằm phát hiện
người phạm tội nhanh nhất có thể, làm tiền đề khởi tố bị can.


6

Có dấu hiệu phạm tội chính là căn cứ cần và đủ để khởi tố vụ án hình sự
trong một vụ án hình sự thông thường.

Dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở những thông tin thu được từ
những nguồn nhất định. Điều luật quy định 5 nguồn thông tin cụ thể làm cơ sở
xác định có dấu hiệu tội phạm, đó là: Tố giác của công dân; Tin báo của cơ
quan, tổ chức; Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, toà án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng
Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu
hiệu cua tội phạm; Người phạm tội tự thú.
Năm nguồn thông tin nêu trên mới chỉ là những cơ sở ban đầu để cơ quan
tiến hành tố tụng có thẩm quyền nghiên cứu (xác minh, thẩm tra hay bằng các
biện pháp tố tụng hình sự khác...) nhằm xác định có đủ hay không đủ căn cứ để
khởi tố vụ án hình sự. Những thông tin từ các nguồn không thoả mãn là một
trong năm nguồn kể trên không được coi là cơ sở xác định căn cứ khởi tố vụ án
hình sự.
Sau khi xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thẩm
quyền khởi tố ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự được đưa ra khi cơ quan có thẩm quyền
khởi tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở
pháp lý đầu tiên cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, chứng minh tội
phạm, người phạm tội. Trong chừng mực nhất định, quyết định khởi tố vụ án
hình sự còn giúp định hướng điều tra đúng đắn ngay từ đầu.
Theo TS. Vũ Gia Lâm, “Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hình thức
văn bản tố tụng, xác định sự việc xảy ra trên thực tế có dấu hiệu của tội phạm”
[25, 43]. Quyết định khởi tố vụ án hình sự, xét từ góc độ giá trị pháp lý là văn
bản pháp lý làm cơ sở ban đầu để tiến hành một cách hợp pháp các hoạt động
tiếp theo nhằm làm rõ vụ án hình sự và là cơ sở pháp lý trực tiếp của các quan
hệ tố tụng hình sự phát sinh liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự


7


Sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền mới được phép tiến hành hoạt động tố tụng tiếp theo, trừ các trường
hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc quả tang theo quy định tại các
Điều 81, 82 BLTTHS năm và khá nghiệm hiện trường quy định tại đoạn 2 Điều
150 BLTTHS năm có thể được thực hiện trước khi khởi tố.
Nếu như việc xác định có dấu hiệu tội phạm là căn cứ để khởi tố vụ án
hình sự thông thường thì bảy căn cứ sau đây lại là căn cứ để không khởi tố vụ án
hình sự.“Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án
hình sự có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
Tội phạm được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết,
trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác”.(Điều 107 BLTTHS). Sau khi
xác định được căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm
quyền ra quyết dịnh không khởi tố vụ án hình sự.
Tương tự như quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố
vụ án hình sự cũng là văn bản pháp lý của người có thẩm quyền khởi tố xác định
thông tin về tội phạm hoặc một sự kiện không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự.
Tuy nhiên, về hậu quả pháp lý của hai loại văn bản này lại hoàn toàn khác nhau.
Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự,
có tính độc lập với các giai đoạn tố tụng khác, trong giai đoạn này, các cơ quan
có thẩm quyền khởi tố bằng các biện pháp nghiệp vụ của mình, trên cơ sở quy
định của pháp luật, tiến hành xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm, tạo
cơ sở quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xác định tội phạm và người phạm tội ở
các giai đoạn tố tụng tiếp theo, đảm bảo không để lọt tội phạm, không có tình
trạng oan sai, để từ đó đưa ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình
sự.
Từ những khái niệm và phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về khởi tố
vụ án hình sự như sau: “Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng



8

hình sự, độc lập với các giai đoạn tố tụng khác, trong nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, các cơ quan có thẩm quyền bằng quyền năng được pháp luật tố tụng hình
sự trao cho, thực hiện các biện pháp nhằm xác định có hay không có dấu hiệu
tội phạm để quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự”
Để có thể làm rõ khái niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại cần thiết phải hiểu được khái niệm thế nào là người bị hại.
Người bị hại là một thuật ngữ quen thuộc được sử dụng rộng rãi trong
khoa học pháp lí về tố tụng hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ người bị hại
này không được sử dụng thống nhất trong pháp luật tố tụng hình sự của các
nước trên thế giới. Đơn cử như pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp,
Liên bang Nga hay Việt Nam dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó pháp
luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố
cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại”, hay gọi là
“nạn nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”.. Vì vậy, để có khái niệm thống nhất và
đầy đủ về người bị hại cần xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý, theo Từ điển thuật ngữ Luật học, Nhà
xuất bản Từ điển Bách khoa, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2006, “người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra.
Người bị hại chỉ có thể là thế nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất,
về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”. [43, tr. 198]
Dưới góc độ pháp luật thực định thì khoản 1 Điều 51 BLTTHS quy định:
“người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra”. Phân tích điều luật có thể thấy người bị hại thường được hiểu là cá nhân cụ
thể bị hành vi phạm tội xâm hại. Thiệt hại họ phải chịu có mối quan hệ nhân quả
đối với hành vi phạm tội. Điều này cũng đồng nghĩa với việc bác bỏ quan điểm
cho rằng thiệt hại do tội phạm gây ra cũng có thể là thiệt hại gián tiếp, không có

mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội.


9

Mặc dù đây là cách hiểu phổ biến nhất về người bị hại trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam, song việc xác định người bị hại chỉ là cá nhân hay có thể
là cá nhân, pháp nhân, tổ chức vẫn đang là vấn đề còn nhiều tranh luận.
Theo hướng quan điểm thứ nhất, người bị hại chỉ có thể là cá nhân, không
thể là pháp nhân hay tổ chức. Xuất phát từ các đặc trưng của người bị hại là họ
bị xâm phạm về thể chất, tinh thần và các quyền nhân thân khác gắn liền với cá
nhân, người bị hại không thể là tổ chức. Thiệt hại của họ là thiệt hại thực tế bao
gồm: thiệt hại về thể chất, về tinh thần và về tài sản. Quan điểm này giống như
khái niệm chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự hay khái niệm bị can, bị
cáo, người phạm tội trong pháp luật tố tụng hình sự. Quan điểm này dựa trên
khoản 1 Điều 51 BLTTHS như đã phân tích ở trên, là quan điểm được thừa nhận
rộng rãi trong suốt chiều dài phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Theo hướng quan điểm thứ hai, người bị hại còn có thể là pháp nhân, cơ
quan, tổ chức. Việc xác định người bị hại không chỉ là cá nhân mà bao gồm cả
pháp nhân bị thiệt hại do hành vi phạm tội sẽ đảm bảo sự công bằng giữa các
chủ thể này trong trường hợp cùng bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, bởi
tội phạm thì không chừa một ai, cả cá nhân, pháp nhân hay thậm chí là nhà
nước. Mặt khác, việc chỉ quy định người bị hại là cá nhân sẽ làm nảy sinh hàng
loạt vấn đề khó giải quyết cả từ góc độ lý luận và thực tiễn như: “(i) trường hợp
pháp nhân, tổ chức bị thiệt hại mà tài sản thuộc sở hữu nhà nước, nếu pháp
nhân, tổ chức đó không có đơn yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì,
tài sản nhà nước liệu có được bảo vệ; (ii) pháp nhân bị tội phạm xâm hại trực
tiếp về tài sản và cá nhân bị thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra đều
được xác định là nguyên đơn dân sự liệu có hợp lý; hoặc (iii) trường hợp pháp
nhân bị thiệt hại về thương hiệu, uy tín trong kinh doanh thì họ sẽ tham gia tố

tụng với tư cách gì...”[28, tr. 13]
Do phạm vi đề tài đặt ra yêu cầu nghiên cứu chế định khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, nên


10

chúng tôi phân tích theo pháp luật thực định Việt Nam tức quan điểm thứ nhất,
coi quan điểm thứ hai là ý kiến đóng góp hoàn thiện pháp luật.
Từ những lập luận trên, có thể rút ra kết luận về người bị hại trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam thực định như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại chỉ có thể là cá nhân;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt
hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Thiệt hại về thể chất là bị xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ như bị giết, bị gây thương tích… Thiệt hại về tinh thần là bị
xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín như bị xỉ nhục, vu khống, thoá mạ,
miệt thị… Thiệt hại về tài sản là tài sản của người bị hại bị cướp, bị cưỡng đoạt,
bị trộm cắp… Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là
điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội
phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả
gây ra cho người bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị
hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người
bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
Theo giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà
Nội 2006, tr. 402 của trường Đại học Luật Hà Nội thì chế định pháp luật là một
thuật ngữ Luật học dùng để chỉ một số các quy phạm pháp luật có những đặc
điểm chung giống nhau nhằm điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội tương
ứng.

Như vậy, có thể hiểu chế định pháp luật là tổng hợp các quy phạm pháp
luật cùng điều chỉnh một quan hệ xã hội nhất định, có thể được quy định tại bất
kì một văn bản pháp luật nào, không bắt buộc phải có một quy định riêng về
hình thức, về nội dung của loại quy phạm này, miễn là thoả mãn dấu hiệu có
những đặc điểm chung giống nhau và cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội tương


11

ứng theo quy định của pháp luật hiện hành. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại là một chế định như vậy.
Để chứng minh quan điểm này là đúng, chúng tôi xin đưa ra một vài điều
luật về vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại không có quy
định tập trung trong BLTTHS năm 2003, quy định một cách riêng rẽ, độc lập
nhưng lại có điểm chung cùng điều chỉnh quan hệ xã hội về quyền yêu cầu khởi
tố của người bị hại.
Điều 105 BLTTHS quy định về vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại. Khoản 1 quy định về những trường hợp người bị hại có quyền
yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khoản 2 quy định hậu quả pháp lý trong trường
hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu; căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp tục tiến hành tố tụng và vấn đề yêu cầu lại.
Điều 51 BLTTHS, khoản 1 quy định khái niệm người bị hại, khoản 2 quy
định quyền của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ, khoản 4 lại
quy định nghĩa vụ và chế tài có thể áp dụng đối với người bị hại khi họ vi phạm
nghĩa vụ, Điều luật được đặt ở Chương IV: Người tham gia tố tụng.
Mặt khác, khi quy định về người bị hại là người phải chịu án phí trong
trường hợp bị cáo không có tội hoặc vụ án hình sự bị đình chỉ theo quy định tại
khoản 2 Điều 105 Bộ luật này thì pháp luật lại quy định ở chương VI Điều 99.
Tương tự, điểm a khoản 2 Điều 164, khoản 1 Điều 169, khoản 1 Điều 180
BLTTHS năm quy định khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều

105 thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ vụ án hình sự, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án hình sự
cũng được đặt tại các chương khác nhau của BLTTHS.
Như vậy, có thể thấy các quy phạm pháp luật của chế định khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại không quy định tập trung, không quy định
thành một chương riêng mà nằm tách biệt ở các điều luật và chương khác nhau.
Nhưng có một điểm đặc biệt cần chú ý, ĐIều 105 được coi là quy phạm trung
tâm của chế định này, quy định chi tiết về những trường hợp chỉ được khởi tố


12

theo yêu cầu (khoản 1), hậu quả pháp lý của việc rút yêu cầu khởi tố, thời điểm
rút yêu cầu khởi tố (khoản 2). Các quy phạm khác được quy định xoay quanh
quy phạm này và hầu hết đều được dẫn chiếu đến điều luật này, chúng được gọi
là quy phạm bổ sung hay quy phạm dẫn chiếu.
Tổng hợp các khái niệm, các phân tích trên, chúng tôi xin đưa ra khái
niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại như sau: “chế
định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, do tính chất của vụ án hình sự và vì lợi ích của người bị hại
mà vụ án hình sự chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc của
người đại diện hợp pháp của người bị hại nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người bị hại, đồng thời đảm bảo lợi ích Nhà nước, lợi ích xã hội”
1.2.

Cơ sở của chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của

người bị hại
1.2.1. Cơ sở lý luận

Con người là mục tiêu giải phóng của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề
quyền con người luôn là trung tâm của mọi cuộc cách mạng và tiến bộ xã hội.
Với quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác- Lênin nói riêng, chủ nghĩa
Mác- Lênin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con người,
khẳng định mối quan hệ gắn bó biện chứng giữa các quyền tự do cơ bản với các
điều kiện và biện pháp đảm bảo thực hiện quyền con người trong thực tế.
Theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật không chỉ là để trừng
trị con người mà còn là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư
tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua
đội ngũ cán bộ, công chức của Người thể hiện tấm lòng thương yêu nhân dân,
chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Mọi quan hệ xã hội đều được bảo
vệ. Người bị hại là những người trực tiếp bị xâm hại về thể chất, về tinh thần và
về tài sản do hành vi phạm tội gây ra. Mọi hành vi phạm tội đều phải bị trừng
trị, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại cần phải được bảo vệ. Dựa trên
tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đồng thời thực


13

hiện quá trình định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự ở nước ta hiện nay, pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại ngày càng được chú trọng và quan tâm, là cơ sở pháp lý quan
trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Điều 2 Hiến pháp nước CHXHCNVN năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm
2001 quy định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Trong xã hội đó, con người vừa là
mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Chính vì vậy mà họ luôn được pháp
luật tôn trọng và bảo vệ. Họ không chỉ được bảo đảm các quyền tự do dân chủ
mà còn “có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm” (Điều 71) Còn riêng với người bị hại,

như đã đề cập ở trên, họ là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản
do hành vi phạm tội gây ra, quyền lợi của họ bị xâm hại, vì vậy Nhà nước đã
quy định cho họ một quyền đặc biệt, đó là quyền được yêu cầu khởi tố vụ án
hình sự. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện cho người bị hại được cân
nhắc, tính toán việc khởi tố vụ án hình sự có gây bất lợi cho họ hay không? Tuy
nhiên, những trường hợp người bị hại được yêu cầu khởi tố cũng chỉ nằm trong
một chừng mực nhất định, là giới hạn mà Nhà nước và xã hội chấp nhận được
nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được xử lý kịp thời, việc điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một chế định
không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước như Nga, Pháp,
Trung Quốc, Nhật Bản... Ở Việt Nam chế định này chính thức được quy định
lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988, mặc dù ban đầu bộc lộ không ít những
hạn chế, tuy nhiên cho đến nay qua quá trình nghiên cứu, tham khảo pháp luật
một số nước trên thế giới, chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại ngày một hoàn thiện hơn. Đây là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn
trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Quá
trình áp dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị


14

hại đã phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo
vệ tốt hơn.
Việc BLTTHS năm 2003 tiếp tục ghi nhận chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại cho thấy sự cần thiết của chế định này trong hệ
thống pháp luật tố tụng hình sự nước ta, một mặt góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích của người bị hại, mặt khác, vẫn bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, xã hội.
Chế định này thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước những thiệt
hại mất mát của người bị hại.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng đầu tiên và độc lập, có nhiệm
vụ quan trọng, có tính chất quyết định đến các hoạt động, các giai đoạn còn lại
của quá trình tố tụng hình sự. Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại, xuất phát từ mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội mà không phải trong mọi trường hợp xác định được dấu hiệu tội phạm đều
khởi tố vụ án hình sự đều là hợp lý nhất.
Thiệt hại về tài sản trong nhiều trường hợp còn có thể bù đắp được, nhưng
thiệt hại về thể chất và tinh thần là thiệt hại thuộc phạm trù “phi vật chất”, về
danh dự, nhân phẩm, uy tín khó có thể bù đắp hoàn toàn được bởi đó là những
tổn thương vô hình, những sợ hãi, mặc cảm hoặc ám ảnh mà người bị hại không
muốn nhắc lại và càng không muốn công khai. Những trường hợp này nếu khởi
tố vụ án hình sự, lợi ích về mặt xã hội thu được có thể không lớn mà còn có khả
năng làm tổn thương thêm về mặt tinh thần cho người bị hại. Thực tế cho thấy
mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không
muốn đưa ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của
họ. Cũng có trường hợp giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối
quan hệ đặc biệt. Đối với trường hợp này, cách tốt nhất là để cho người bị hại và
người gây thiệt hại chủ động giải quyết với nhau nhằm tạo dựng, duy trì đồng
thuận xã hội và tiết kiệm thời gian, các chi phí khác cho việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành bản án, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội


15

thuận lợi để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, hạn chế
việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh thần, danh dự không cần thiết
có thể có đối với người bị hại. Còn nếu như người bị hại muốn kẻ có hành vi
xâm hại phải bị pháp luật trừng trị thì theo ý chí của họ, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền sẽ khởi tố và giải quyết vụ án hình sự.

Xét về mức độ nguy hiểm của hành vi phạm, những tội quy định tại Điều
105 BLTTHS năm 2003 có mức nguy hại cho xã hội không lớn, theo đó, 11 tội
danh chỉ này chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại và đều thuộc
khoản 1 của các điều: 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 (đã bị
bãi bỏ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009) và 171,
xâm hại về sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, quyền tác giả, quyền sáng chế, phát
minh của người bị hại. Các quy định tại khoản 1 của những điều luật kể trên
không phải là những tình tiết tăng nặng, khung hình phạt cũng không cao, cao
nhất là phạt tù đến ba năm, nhẹ nhất là cải tạo không giam giữ (quy định tại
khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, (131), 171), trừ trường hợp tội phạm
hiếp dâm khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 111 là từ hai năm đến bảy
năm và tội cưỡng dâm khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 113 là sáu
tháng đến năm năm. Tuy rằng đối với hai tội kể trên, mức độ nguy hại cho xã
hội có thể lớn hơn, nhưng xét về mặt bảo vệ quyền và lợi ích tối đa cho người bị
hại nên các nhà làm luật vẫn đưa hai Điều luật trên vào danh sách những tội
danh chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, bởi lẽ một khi bí mật đời tư
của họ bị công khai, nó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống bình
thường của họ sau này, như tội phạm về hiếp dâm, sau khi bị xâm hại, không ít
những trường hợp người bị hại trở nên trầm cảm, điên loạn, mất trí nhớ thậm chí
là có hành vi tự tử vì những hệ luỵ do quá trình tố tụng gây ra. Hơn nữa, “khi có
sự đồng ý của người bị hại, thì việc xử lý bằng các biện pháp khác như hành
chính, dân sự... lại có thể đạt được những tác dụng thiết thực hơn là xử lý bằng
biện pháp hình sự, mà vẫn đạt được các tác dụng giáo dục”[20 , tr. 7]


16

1.3.

Ý nghĩa của chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của


người bị hại
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tố
tụng. Nếu như mục tiêu chung của tố tụng hình sự là nhằm “phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội” (Điều 1 BLTTHS năm 2003) thì khởi tố vụ
án hình sự lại có mục tiêu phát hiện chính xác, nhanh chóng những tội phạm đã
xảy ra để từ đó đề ra những biện pháp phù hợp cho việc điều tra làm rõ và xử lý
công minh với mọi tội phạm. “Bằng cách đó, khởi tố không chỉ góp phần thực
hiện mục tiêu chung của tố tụng hình sự mà còn là bảo đảm quan trọng để toàn
bộ quá trình tố tụng hình sự được khởi hành và khởi hành đúng hướng, theo
đúng mục tiêu”[51, tr. 238]
Khởi tố vụ án hình sự nói chung và khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động tố
tụng tiếp theo. Quá trình điều tra, xác minh tội phạm có đạt được kết quả khách
quan, đúng đắn, đảm bảo đúng người, đúng tội hay không, việc bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị hại, danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khoẻ
và tài sản của công dân có được thực hiện trên thực tế hay không, phụ thuộc rất
nhiều vào quá trình định hướng đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Việc đặt ra chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
còn thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến người bị hại, thể hiện sự cảm thông
với những đau đớn, mất mát của người bị hại, hạn chế đến mức thấp nhất tổn
thương về mặt tinh thần cho người bị hại; tạo điều kiện cho họ được thể hiện ý
chí cá nhân trong việc xử lý người gây thiệt hại trong phạm vi luật định; bên
cạnh đó vẫn đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Đồng thời góp phần gây
dựng niềm tin của công chúng vào pháp luật, thể hiện sự nghiêm minh, kiên
quyết đấu tranh phòng chống tội phạm, giáo dục ý thức người dân tôn trọng,
nghiêm chỉnh chấp hành quy của pháp luật, đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư
pháp.



17

Kết luận chương 1
Chương 1 của khoá luận tập trung phân tích khái niệm chế định khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của người bị hại dựa trên sự phân tích khái niệm khởi tố
vụ án hình sự, khái niệm người bị hại, khái niệm chế định pháp luật và từ đó rút
ra quan điểm cá nhân về khái niệm chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại. Chương 1 cũng đề cập cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và ý nghĩa
của chế định khởi tố vụ án hình sự, từ đó làm cơ sở phát triển ý tưởng để có thể
đi sâu vào phân tích nội dung của chế định tại Chương 2 của khoá luận.


18

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1. Nội dung chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003
2.1.1. Giai đoạn sau khi Cách mạng tháng Tám thành công đến trước
năm 1988
Cách mạng tháng 8 Tám thành công, khai sinh ra nhà Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta nói chung và đối với tư
pháp Việt Nam nói riêng. Trong bối cảnh Nhà nước còn non trẻ, hoạt động xét
xử các vụ án hình sự trong giai đoạn này chủ yếu do các Toà án quân sự, các
Toà án binh thực hiện với sự buộc tội của Uỷ viên Chính phủ trên cơ sở điều tra
của Quân pháp. Các Toà án quân sự, các Toà án binh không phải là các cơ quan

thường trực, mà là Toà án sự việc, được hình thành để xét xử từng vụ án hình sự
cụ thể và lại tan rãgiải thể sau khi kết thúc xét xử. Pháp luật tố tụng hình sự giai
đoạn này còn rất sơ sài, có rất ít văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm cụ thể của người tiến hành tố tụng, chứ không nói đến vấn đề
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Toà án nhân dân
năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và các văn bản pháp
luật khác, hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án đã được hình thành và hoạt động thường xuyên, có nề nếp theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, giai đoạn này nước ta chưa có BLTTHS; hoạt
động tố tụng được thực hiện trên cơ sở các luật tổ chức và văn bản hướng dẫn
đơn lẻ của cơ quan có thẩm quyền như Bộ Công an, VKSNDTC, Toà án nhân
dân tối cao…
Khái niệm người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Thông tư số
16/TATC ngày 27/09/1974 của Tòa án nhân dân tối cao. Theo đó, người bị hại


19

được định nghĩa "là công dân đã bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể
chất, tài sản, hoặc xâm phạm về tinh thần (như bị lăng nhục, đánh, giết, trộm
cắp, lừa đảo...)". Định nghĩa đã chỉ ra người bị hại là cá nhân, người bị hại
không thể là cơ quan, tổ chức, đồng thời đối tượng tác động của tội phạm là thể
chất, tinh thần hoặc tài sản của cá nhân đó. Quy định này bước đầu định hướng
cho quá trình xây dựng và phát triển chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại sau này. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mọi vụ án hình sự đơn
thuần chỉ là vụ án hình sự công, và đương nhiên quyền và nghĩa vụ khởi tố chỉ
được quy định cho Nhà nước, quan niệm phổ biến vẫn là không chấp nhận khái
niệm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Người bị hại không
được pháp luật quy định có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, mà thậm chí

trong nhiều trường hợp người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt
một cách có tình, có lý cho người phạm tội, cũng không được Tòa án chấp nhận.
2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 cho đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS năm 1988 là Bộ luật đầu tiên pháp điển hoá quy định của pháp
luật trước đó về khái niệm người bị hại và cũng là Bộ luật đầu tiên quy định về
chế định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, đánh dấu một
bước chuyển biến to lớn trong quá trình nhìn nhận về người bị hại như một chủ
thể độc lập của quá trình tố tụng hình sự cũng như vấn đề bảo vệ quyền và lợi
ích tối đa của người bị hại. Xuất phát từ quá trình tổng kết thực tiễn xét xử, qua
nghiên cứu, tham khảo sự tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước
trên thế giới thuộc các dòng họ pháp luật khác nhau, tiếp nhận những tư tưởng,
quan điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta
và đứng trước sự đòi hỏi cải cách tư pháp trong nước trên diện rộng, các nhà làm
luật đã chính thức ghi nhận những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 1988: “Những vụ án
hình sự về các tôi phạm được quy định tại khoản 1 Điều 109; đoạn 1 khoản 1


20

Điều 112; đoạn 1 khoản 1 Điều 113; khoản 1 Điều 116; khoản 1 Điều 117 và
Điều 126 BLHS chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại”.
Những điều luật được kể đến trong ĐIiều 88 BLTTHS năm 1988 được
quy định trong BLHS năm 1985, quy định về các tội: cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (khoản 1 Điều 109); tội hiếp dâm
(khoản 1 Điều 112); tội làm nhục người khác (khoản 1 ĐIều 116); tội vu khống
(khoản 1 Điều 117) là thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người; và tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế,
phát minh (Điều 126) thuộc nhóm các tội xâm phạm những quyền tự do dân chủ

của công dân. Nói cách khác, những trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại chỉ được áp dụng đối với trường hợp hành vi phạm tội có
mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, tội phạm ít nghiêm trọng, không có tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt và thuộc hai nhóm tội và các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm những
quyền tự do dân chủ của công dân.
BLTTHS năm 1988 được qQuốc hội thông qua ngày 28/6/1988, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Tính đến thời điểm trước năm 2003, BLTTHS
năm 1988 được sửa đổi, bổ sung ba lần vào các năm 1990, 1992 và 2000. Ngày
21/12/1999, BLHS nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2000 chính thức thay thế BLHS năm 1985.,
lLần sửa đổi, bổ sung cuối cùng của BLTTHS năm 1988 vào năm 2000 nhằm
mục đích thống nhất pháp luật với BLHS năm 1999. Tuy nhiên, luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTHS năm ngày 09/06/2009 chủ yếu là để thi hành
BLHS 1999, vì vậy, việc “chỉ sửa đổi, bổ sung những quy định của BLTTHS
năm 1988 (sửa đổi, bổ sung các năm 1990, 1992) không đồng bộ với quy định
của BLHS mới”[50, tr.194]. Ngoài ra, qQuá trình thực tiễn áp dụng chế định
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tuy rằng phát huy được hiệu
quả, một mặt thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến bản thân người bị hại, mặt
khác lại giảm tải áp lực tiến hành quá trình tố tụng của cơ quan có thẩm quyền,


21

tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí tố tụng..., tuy nhiên, chế định này cũng bộc
lộ không ít những bất cập, hạn chế có thể kể đến như “giữa các điều luật của
BLTTHS năm 1988 còn có những mâu thuẫn làm cho cơ quan có thẩm quyền
không thể và không có khả năng thực hiện nghiêm túc”[31, tr. 37], đối chiếu
những trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
theo quy định tại Điều 88 với các tội danh được quy định tại BLHS năm 1999

thì BLTTHS năm 1988 còn quy định thiếu, không còn phù hợp với tình thình
thực tại.
Điều đó cho thấy, BLTTHS năm 1988 qua ba lần sửa đổi, bổ sung không
còn đáp ứng được yêu cầu. Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, đĐể tiếp tục
thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 2 tháng 1 năm 2002,
Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong Nghị quyết này đã chỉ rõ nhiều vấn
đề cụ thể của tố tụng hình sự đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích một cách
toàn diện để thể chế hóa thành những quy định của BLTTHS năm, tạo cơ sở
pháp lý nâng cao chất lượng công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án hình sự. Mặt khác, thời gian qua cũng đã có nhiều văn bản pháp luật mới
được ban hành có các nội dung liên quan đến tố tụng hình sự như Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002;
đồng thời cũng cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định BLTTHS năm
1988 cho phù hợp với các quy định của BLHS năm 1999 nhằm bảo đảm tính
thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật.
2.2. Nội dung chế định khởi tố vụ án hình sự hình sưự theo yêu cầu
của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
Trên cơ sở kế thừa những quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước đó
và tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm mới về xây dựng nhà nước pháp quyền
và cải cách tư pháp ở nước ta, ngày 26 tháng 11 năm 2003, BLTTHS năm 2003
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ
4 thông qua, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004.


×