Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Ứng dụng mô hình Michael Porter trong phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.41 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, sự toàn cầu hóa đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền kinh tế thế
giới. Nó khiến sự cạnh tranh ngày càng trở nên mãnh liệt hơn, tác động đến mọi quốc gia,
mọi doanh nghiệp một khi đã hội nhập vào một sân chơi lớn của toàn cầu. Một quốc gia
muốn đứng vững và phát triển thì trước hết phải “biết mình, biết ta”, biết mình đang ở đâu
trên sân chơi đó, biết mình có được những lợi thế như thế nào và làm sao để phát huy liên tục
những lợi thế ấy để có được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, những quốc gia phát triển luôn có những yếu tố tạo nên sức mạnh
cạnh tranh của quốc gia họ. Và họ luôn quan tâm duy trì, nâng cao, thậm chí tạo ra những
yếu tố cạnh tranh mà mô hình viên kim cương của Michael Porter đã trình bày trong cuốn: “
Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia”. Trong đó, Michael Porter đã trình bày quan điểm của
mình và cho rằng: “sự thịnh vượng của một quốc gia được tạo ra chứ không phải là kế thừa”.
Và đây cũng là đề tài của nhóm quyết định thực hiện nhằm mục đích phân tích các tác động
của các chính sách của chính phủ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngành thủy hải sản Việt Nam
dựa trên mô hình viên kim cương của Michael Porter. Qua đó giúp hiểu rõ hơn về
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia khi bước chân vào sân chơi quốc tế với sự toàn cầu hóa
càng ngày càng sâu sắc.
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Ứng dụng mô hình Michael Porter trong phân
tích lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản Việt Nam”, nhóm đã cố gắng đưa ra những
dữ liệu, những phân tích, những tài liệu tham khảo trong sách, internet, bài giảng của thầy và
nhiều nguồn khác ... Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và về kiến thức nên chắc chắn sẽ có
nhiều sai sót. Rất mong thầy, cô góp ý thêm cho nhóm để hoàn thiện đề tài tốt hơn. Xin chân
thành cảm ơn!


PHẦN 1 : MÔ HÌNH VIÊN KIM CƯƠNG CỦA MICHAEL PORTER
Trong tác phẩm lợi thế cạnh tranh của các quốc gia, Michael Porter đã khẳng định:
“sự thịnh vượng của một quốc gia được tạo ra chứ không phải kế thừa. Nó không phát
triển từ sự sẵn có tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động, lãi suất hay giá trị tiền tệ. Theo
lý thuyết này, khả năng cạnh tranh quốc gia phụ thuộc vào năng lực của các ngành trong
việc đối mới và nâng cấp của quốc gia đó. Khả năng này được thể hiện ở sự liên kết của


bốn nhóm yếu tố chính. Mối liên kết của bốn nhóm này tạo thành mô hình có tên gọi là
mô hình kim cương Porter. Các nhóm yếu tố điều kiện bao gồm:
(1) Điều kiện về các yếu tố sản xuất: Các yếu tố sản xuất được phân loại thành hai nhóm là
nhóm các yếu tố cơ bản và nhóm các yếu tố tiên tiến. Trong hai nhóm yếu tố đó, mô hình
chú trọng và đề cao nhóm yếu tố thứ hai và coi đây là nhóm yếu tố cốt lõi quyết định đến
khả năng cạnh tranh quốc gia.
(2) Điều kiện về cầu: Điều kiện về cầu được thể hiện trực tiếp ở tiềm năng của thị trường.
Thị trường là nơi quyết định cao nhất khả năng cạnh tranh của một quốc gia
(3) Các ngành công nghiệp có liên quan và các ngành công nghiệp hỗ trợ:
Khả năng cạnh tranh của một ngành nói riêng và khả năng cạnh tranh của một
quốc gia nói chung phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và các
ngành công nghiệp liên quan bởi vì các công ty nằm trong ngành không thể
tồn tại một cách tách biệt. Các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành
cung cấp các đầu vào cho ngành có khả năng cạnh tranh.
(4) Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành: Chiến luợc của
công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh của nó trong tương lai
bởi vì các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức các công ty trong các
ngành công nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia.
Mô hình viên kim cương được thể hiện như sau:


l. Các điều kiện yếu tố sản xuất:
Theo lý thuyết kinh tế tiêu chuẩn, các nhân tố sản xuất - lao động , đất đai, tài
nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở hạ tầng - sẽ quyết định đến dòng thương mại. Một
quốc gia sẽ xuất khẩu những hàng hóa mà sử dụng nhiều nhất các nhân tố mà
quốc gia đó tương đối dư thừa. Học thuyết này có nguồn gốc từ thời Adam Smith
và David Ricardo và được gắn chặt với kinh tế học cổ điển, trong điều kiện tốt
nhất là không đầy đủ và trong hoàn cảnh xấu nhất là không chính xác.
Trong các ngành kinh tế mà tạo ra xương sống cho bất kỳ nền kinh tế tiên tiến
nào, một quốc gia không kế thừa mà thay vào đó tạo ra các nhân tố sản xuất quan

trọng nhất- ví dụ như nguồn nhân lực có kỹ năng hay một cơ sở khoa học. Hơn
nữa nguồn dự trữ nhân tố mà một quốc gia có được tại một thời điểm cụ thể là ít
quan trọng hơn so với tốc độ và tính hiệu quả mà quốc gia đó tạo ra, nâng cấp và
sử dụng các nhấn tố này trong những ngành cụ thể.
Các nhân tố sản xuất quan trọng nhất là những nhân tố mà liên quan đến
khoản đầu tư lâu dài và khổng lố được chuyên môn hóa. Các nhân tố cơ bản, ví dụ
như lực lượng lao động hay một nguồn nhiên liệu tại địa phương, không tạo ra
một lợi thế trong các ngành thâm dụng tri thức. Các công ty có thể tiếp cận các


nhân tố này một cách dễ dàng thông qua toàn cầu hóa hay bỏ qua nhân tố này
thông qua công nghệ. Trái với sự hiểu biết thông thường, việc đơn giản có được
một lực lượng lao động nói chung là những người có trình độ trung học hay thậm
chí đại học không tượng trưng cho một lợi thế cạnh tranh của một quốc gia trong
sự cạnh tranh quốc tế hiện đại. Để hỗ trợ cho lợi thế cạnh tranh, một nhân tố phải
được chuyên môn hóa cao độ cho các nhu cầu cụ thể của một ngành- một định chế
khoa học chuyên môn hóa về quang học, một nguồn vốn mạo hiếm nhằm tài trợ
cho các cộng ty phần mềm. Những nhân tố này là khan hiếm hơn, khó khăn hơn
cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài có thể mô phỏng - và chúng đòi hỏi một
khoản đầu tư bền vững để tạo ra.
Các quốc gia thành công trong những ngành mà họ đặc biệt giỏi trong việc tạo
ra nhân tố. Lợi thế cạnh tranh tạo ra từ sự hiện diện của các định chế có đẳng cấp
thế giới mà trước tiên tạo ra các nhân tố chuyên môn hóa và sau đó không ngừng
hoạt động nhằm cải tiến các nhân tố này.
Những bất lợi cũng có thể trở thành lợi thế trong các điều kiện sau. Thứ nhất,
chúng phải gởi đến công ty các tín hiệu chính xác về những tình huống mà sẽ lan
sang các quốc gia khác, qua đó trang bị cho các công ty này khả năng đổi mới
trước các đối thủ nước ngoài. Thứ hai là các hoàn cảnh thuận lợi ở nơi khác trong
hình viên kim cương, một điều phải tính đến và áp dụng cho toàn bộ các nhân tố.
Một điều kiện tiên quyết khác là những mục tiêu của công ty mà dẫn đến sự cam

kết lâu dài đối với ngành. Không có một sự cam kết như vậy và sự hiện diện của
sự cạnh tranh tích cực thì một công ty có thể đi theo một con đường tương đối dễ
dàng xung quanh một bất lợi thay vì sử dụng bất lợi đó như là sự kích thích cho
việc đổi mới.
2. Các điều kiện nhu cầu :
Có lẽ là sự toàn cầu hóa cạnh tranh sẽ làm giảm tầm quan trọng của thị trường
nội địa. Tuy nhiên, trên thực tế đây đon giản không phải là điều đã xảy ra. Thực
vậy, cơ cấu và đặc trưng của thị trường trong nước có một ảnh hưởng bất cân
xứng đến cách thức mà các công ty nhận thức, diễn giải và phản ứng với các nhu


cầu của người mua. Các quốc gia tạo được lợi thế cạnh tranh trong những ngành
mà ở đó nhu cầu trong nước tạo cho các công ty một bức tranh rõ ràng hơn hay
sớm hơn về các nhu cầu đang nối lên của người mua, và nơi mà những người mua
có yêu cầu cao gây áp lực cho các công ty phải đổi mới nhanh hơn và đạt những
lợi thế cạnh tranh tinh tế hơn so với các đối thủ nước ngoài của mình. Quy mô của
thị trường trong nước tỏ ra kém quan trọng hơn nhiều so với đặc trưng của thị
trường trong nước.
Các điều kiện nhu cầu trong nước giúp cho việc xây dựng lợi thế cạnh tranh
khi một phân khúc ngành cụ thể là lớn hơn hay dễ nhận biết hơn tại thị trường nội
địa so với các thị trường nước ngoài. Các phân khúc thị trường lớn hơn tại một
quốc gia nhận được sự chú ý nhiều nhất từ các công ty tại quốc gia đó; các công ty
chấp nhận các phân khúc nhỏ hơn và kém hấp dẫn hơn như là một ưu tiên thấp
hơn.
Quan trọng hơn là sự phối hợp của bản thân các phân khúc, là bản chất của
người mua nội địa. Các công ty của một quốc gia giành được lợi thế cạnh tranh
nếu những người mua trong nước là những người mua có yêu cầu cao nhất và tinh
tế, phức tạp nhất thế giới cho sản phẩm hay dịch vụ đó. Những người mua tinh tế
và đòi hỏi cao cung cấp một sự hiểu biết về nhu cầu của khách hàng cao cấp; họ
gây áp lực buộc các công ty phải đáp ứng các tiêu chuẩn cao; họ thúc đẩy các

công ty phải cải thiện, đổi mới và nâng cấp thành các phân khúc cao cấp
hơn.Cũng như các điều kiện nhân tố, các điều kiện nhu cầu tạo ra các lợi thế qua
việc buộc các công ty phải phản ứng với những thách thức khắc nghiệt.
Tổng quát hơn, các công ty của một quốc gia có thể tiên liệu trước các xu
hướng toàn cầu nếu các giá trị của quốc gia đó đang lan tỏa - nghĩa là, nếu quốc
gia này cũng đang xuất khấu các giá trị và sở thích của mình giống như sản phấm.
Ví dụ, sự thành công quốc tế của các công ty Hoa Kỳ trong thực phẩm ăn nhanh
và thẻ tín dụng phản ánh không chỉ mong muốn của người Mỹ đối với sự tiện lợi
mà còn là sự lan tỏa những sở thích đó đến phần còn lại của thế giới. Các quốc gia
xuất khấu giá trị và sở thích của mình thông qua phương tiện truyền thông, thông


qua việc đào tạo người nước ngoài, thông qua sự ảnh hưởng chính trị, và thông
qua các hoạt động tại nước ngoài, thông qua sự ảnh hưởng chính trị, và thông qua
các hoạt động tại nước ngoài của những công dân và công ty của họ.
3. Các ngành hỗ trợ và có liên quan:
Định tố lớn thứ ba của lợi thế quốc gia là sự hiện diện tại quốc gia đó các
ngành hỗ trợ và có liên quan mà có khả năng cạnh tranh quốc tế. Các nhà cung
ứng có khả năng cạnh tranh quốc tế tại nước chủ nhà tạo ra những lợi thế cạnh
tranh trong những ngành hạ nguồn theo nhiều cách thức khác nhau. Thứ nhất, họ
cung cấp các yếu tố đầu vào giá rẻ nhất theo một cách thức hữu hiệu, nhanh chóng
và đôi khi ưu tiên.
Tuy nhiên, có tầm quan trọng hơn nhiều so với khả năng tiếp cận đơn thuần
đến các hợp phần và máy móc là lợi thế mà các ngành hỗ trợ và có liên quan tại
nước chủ nhà tạo ra trong việc đổi mới việc đổi mới và nâng cấp- một lợi thế dựa
vào các mối quan hệ công việc chặt chẽ và gần gũi. Những nhà cung ứng và người
sử dụng cuối cùng nằm gần nhau có thể tận dụng các tuyến liên lạc ngắn, dòng
thông tin nhanh chóng và thường xuyên, và sự trao đổi các ý tưởng và sự đổi mới
đang diễn ra. Các công ty có cơ hội gây ảnh hưởng đến các nồ lực kỹ thuật của
các nhà cung ứng của mình và có thể phục vụ như là các điếm thử nghiệm cho các

công việc nghiên cứu và phát triển, qua đó đẩy nhanh nhịp độ đổi mới.
Các công ty của một quốc gia hưởng lợi nhiều nhất khi bản thân các nhà cung
ứng là các công ty cạnh tranh toàn cầu. Việc một công ty hay quốc gia tạo ra các
nhà cung ứng ‘bị nắm giữ’ mà hoàn toàn phụ thuộc vào một ngành trong nước và
bị ngăn không cho phục vụ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài rốt cuộc là tự làm
hại mình. Vì lẽ đó, một quốc gia không cần phải có khả năng cạnh tranh trong tất
cả các ngành cung ứng đối với các công ty của mình nhằm tạo được lợi thế cạnh
tranh. Các công ty có thể sẵn sàng sử dụng nguyên liệu, hợp phần công nghệ từ
nuớc ngoài mà không có ảnh hưởng đáng kế đến sự đổi mới hay hiệu quả hoạt
động của các sản phẩm trong ngành đó. Điều tương tự là đúng với các công nghệ


được phổ biến khác- ví dụ như hàng điện tử hay phần mềm- nơi mà ngành này đại
diện cho một khu vực ứng dụng hẹp.
Khả năng cạnh tranh tại nước chủ nhà trong các ngành có liên quan tạo ra
những lợi ích tương tự: dòng thông tin và sự trao đổi kỹ thuật đẩy nhanh tốc độ
đổi mới và nâng cấp. Một ngành có liên quan tại nước chủ nhà cũng làm gia tăng
khả năng mà các công ty sẽ nắm bắt các kỹ năng mới, và nó cũng cung cấp một
nguồn những người mới tham gia mà sẽ mang lại một cách tiếp cận mới trong
cạnh tranh.
4. Chiến lược, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty
Các tình huống và bối cảnh quốc gia tạo ra những xu thế mạnh mẽ trong cách
thức mà các công ty được tạo ra, tổ chức và quản lý, cũng như bản chất của sự
cạnh tranh trong nước sẽ như thế nào. Ví dụ, tại Ý, các công ty cạnh tranh quốc tế
thành công thường là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa mà thuộc sở hữu tư
nhân hay hoạt động giống như các gia đình mở rộng; trái lại, ở Đức, các công ty
có xu hướng tuân theo thứ bậc chặt chẽ trong các thông lệ tổ chức và quản lý, và
những nhà quản lý cao cấp nhất thường có nền tảng kiến thức về kỹ thuật.
Không có hệ thống quản lý nào là phù họp trên toàn cầu - bất kể sự quyến rũ
hiện tại với cách quản lý của người Nhật. Khả năng cạnh tranh trong một ngành

cụ thể tạo ra từ sự hội tụ các thông lệ quản lý và phương thức tổ chức được ưa
thích tại quốc gia đó và các nguồn của lợi thế cạnh tranh trong ngành đó.
Các quốc gia cũng khác biệt đáng kế trong những mục tiêu mà các công ty và
cá nhân tìm kiếm nhằm đạt được. Mục tiêu của công ty phản ánh các đặc trưng
của thị trường vốn của nước đó và các thông lệ trả lương thưởng cho các nhà quản
lý. Các công ty hoạt động tốt trong các ngành đã trưởng thành, nơi mà khoản đầu
tư liên tục vào hoạt động nghiên cứu và phát triển và các cơ sở vật chất mới là vô
cùng quan trọng nhưng lợi tức mang lại có thể rất khiêm tốn.
Động cơ cá nhân đối với việc thực hiện và mở rộng các kỹ năng cũng quan
trọng đối với lợi thế cạnh tranh. Tài năng xuất chúng là một nguồn lực khan hiếm
tại bất cứ quốc gia nào. Thành công của một quốc gia phần lớn phụ thuộc vào các


loại hình giáo dục mà những con người tài năng của quốc gia đó lựa chọn, nơi mà
họ làm việc, cam kết và nỗ lực của họ. Mục tiêu mà các định chế và giá trị của
một quốc gia đặt ra cho các cá nhân và công ty của mình, và uy tín mà quốc gia
đó gắn với một số ngành nhất định, hướng dẫn dòng vốn và nguồn nhân lực- mà,
đến lượt mình, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động có khả năng cạnh
tranh của một số ngành nhất định. Các quốc gia có xu hướng cạnh tranh trong
những hoạt động mà dân chúng say mê và tùy thuộc vào các hoạt động mà từ đó
những người hùng của quốc gia đó nổi lên.
Sự hiện diện của các đối thủ cạnh tranh trong nước hùng mạnh là tác nhân
kích thích cuối cùng và mạnh mẽ cho sự tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh. Điều
này là đúng với các quốc gia nhỏ, ví dụ như Thụy Sỹ, nơi mà sự cạnh tranh giữ
các công ty dược phẩm của quốc gia này, Hoffman- La Roche, Ciba - Geigy và
Sandoz đã góp phần tạo ra vị thế đứng đầu trên toàn thế giới. Trong tất cả các
điểm trên hình thoi, thì sự cạnh tranh trong nước chắc hắn là yếu tố quan trọng
nhất do tác động kích thích mạnh mẽ của nó đối với tất cả các yếu tố khác.
Sự hiểu biết thông thường lập luận rằng sự cạnh tranh trong nước là lãng phí:
nó dẫn đến sự lặp lại các nồ lực và ngăn ngừa các công ty đạt được tính hiệu quả

tăng theo quy mô. “Giải pháp đúng đắn” là phải o bế một hay hai công ty “vô
địch” của quốc gia, các công ty có quy mô và sức mạnh để đối phó với các đối thủ
cạnh tranh ở nước ngoài, và đảm bảo cho các công ty này những nguồn lực cần
thiết, với sự ban ơn của chính phủ. Tuy nhiên phần lớn các nhà vô địch của quốc
gia là không có khả năng cạnh tranh, cho dù được trợ cấp và hỗ trợ rất mạnh từ
phía chính phủ của họ. Trong nhiều ngành nổi bật mà trong đó chỉ có một công ty
cạnh tranh của một nước, ví dụ như hàng không và viễn thông, chính phủ đã đóng
vai trò to lớn trong việc bóp méo sự cạnh tranh.
Tính hiệu quả tĩnh là kém quan trọng hơn nhiều so với sự cải thiện mang tính
động, mà chỉ có sự cạnh tranh trong nước thúc đẩy. Sự cạnh tranh trong nước
giống như bất kỳ sự ganh đua nào, tạo ra áp lực lên các công ty buộc họ phải đổi
mới và cải thiện. Các đối thủ cạnh tranh địa phương thúc đẩy lẫn nhau nhằm giảm


chi phí, cải thiện chất lượng và dịch vụ, và tạo ra các sản phẩm và quy trình mới.
Nhưng không giống như sự ganh đua với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, mà
có xu hướng thuộc về phân tích và cách xa, sự tranh đua trong nước thường đi xa
hơn sự cạnh tranh kinh tế và kinh doanh thuần túy để trở nên mang tính cá nhân
một cách mãnh liệt. Sự tập trung về địa lý đẩy mạnh quyền năng của sự cạnh tranh
trong nước. Kiểu hình này là phổ biến đáng ngạc nhiên trên toàn thế giới.: các công
ty làm đồ trang sức của Ý được đặt xung quanh hai thị trấn, Arezzo và Valenza Po;
các công ty làm dao kéo tại Solingen, Tây Đức và Seki, Nhật Bản... Sự ganh đua có
mức độ địa phương hóa cao thì càng mãnh liệt hơn. Và sự ganh đua này càng mãnh
liệt hơn thì càng tốt hơn. Ngoài ra, còn có hai nhân tố có thể ảnh hưởng đến hệ thống
quốc gia và lợi thế cạnh tranh đó là cơ hội và nhà nước. Cơ hội là những sự kiện
nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp và cũng thường là nằm bên ngoài sự
quản lý của của nhà nước, của quốc gia đang xét, ví dụ như những phát minh thuần
túy, những đột phá về kỹ thuật căn bản, chiến tranh, những biến chuyển chính trị bên
ngoài và thay đổi về nhu cầu thị trường nước ngoài. Yếu tố cơ hội có thể tạo ra sự
gián đoạn, làm thức tỉnh hoặc tái cấu trúc ngành nghề và cung cấp cơ hội cho các

doanh nghiệp của một quốc gia nào đó loại bỏ các doanh nghiệp của một quốc gia
khác. Cơ hội đã từng đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi lợi thế cạnh tranh ở
nhiều ngành nghề. Nhân tố cuối cùng là nhà nước. Chính quyền các cấp có thể cải
tiến hay giảm thiểu lợi thế quốc gia. Có thể thấy vai trò này rõ nhất bằng cách kiểm
tra xem các chính sách ảnh hưởng như thế nào đến mồi nhân tố quyết định. Chính
sách chống độc quyền (antitrust) sẽ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh trong nước. Các
quy định có thể thay đổi điều kiện nhu cầu thị trường trong nước. Đầu tư vào giáo
dục có thể thay đổi điều kiện về nhân tố sản xuất. Chi ngân sách có thể kích thích
những ngành nghề bố trợ và có liên quan. Neu thực hiện chính sách mà không cân
nhắc liệu chúng có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống các nhân tố quyết định ra sao thì
dẫn đến khả năng làm giảm lợi thế quốc gia thay vì gia tăng lợi thế cạnh tranh. Tóm
lại, các nhân tố trên đây sẽ tác động qua lại với nhau như một hệ thống tương quan,
có thể tạo ra lợi thế hay bất lợi về sức mạnh cạnh tranh của một quốc gia. Và để thấy


rõ hơn điều này, chúng ta sẽ đi qua phần tiếp theo, đó là tìm hiểu các tác động của
các chính sách của chính phủ đối với các nhân tố này như thế nào.


PHẦN 2 : CÁC CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ THÚC ĐẨY LỢI THẾ
CẠNH TRANH CỦA QUỐC GIA
1. Đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới - Báo cáo Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2009.
Thứ hạng Việt Nam xếp theo chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp là 75 trên 133
quốc gia, giảm 5 bậc so với 2008. Thứ hạng năm 2008, 2007 lần lượt là 70/134 và
68/131. Bảng thứ hạng năng lực cạnh tranh tổng họp của Việt Nam một số năm
gần đây:
2005
GIC


74/111

2006
77/122

2007
68/131

2008

2009

70/134

75/133

Bảng thống kê cho thấy thứ hạng của Việt Nam theo các chỉ số năng lực cạnh
tranh tổng họp năm 2009 tiếp tục đà suy giảm từ 2007 và đã tụt bậc so với năm
2008. Trên bản xếp hạng, Thụy Sĩ chiếm vị trí đầu trong số 133 nền kinh tế trong
báo cáo. Do khủng hoảng tài chính, Mỹ từ vị trí số 1 toàn cầu đã rớt xuống thứ 2,
các nước tiếp theo trong top 10 là Singapore, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan,
Đức, Nhật Bản, Canada và Hà Lan.
Trong nhóm các nước đang phát triển, Trung Quốc khắng định thế vị trí đầu
trong top 30, các nền kinh tế nổi khác như Braxin và Ấn Độ tăng 1 bậc lên thứ 49,
còn Braxin táng 8 bậc lên hạng 56, riêng Nga đã tụt 12 hạng xuống vị trí thứ 63.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, năm 2009, Việt Nam có cải
thiện ở nhiều tiêu chí, đặc biệt là quy mô thị trường (hạng 38), hiệu quả thị trường
lao động (hạng 38), trong đó nhiều tiêu chí cụ thể có thứ hạng rất cao. Tuy nhiên,
chỉ số năng lực cạnh tranh tổng họp 2009 của Việt Nam chưa được cải thiện và
giảm 5 bậc so với 2008, chủ yếu do chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô bị đánh tụt từ

hạng 70 xuống 112 làm tác động mạnh tới nền kinh tế và khả năng cạnh tranh.
Vấn đề thiếu ổn định kinh tế vĩ mô là thâm hụt thưong mại tăng, nền kinh tế
phát triển quá nóng là một biếu hiện rõ nét nhất; rồi đến việc đồng tiền mất giá


làm giảm niềm tin của giới đầu tư. Điều đáng suy nghĩ ở đây là trong khi nhiều
quốc gia đang phát triển, có mức tăng trưởng dương (Trung Quốc, Ấn Độ,
Braxin...) đều cải thiện năng lực cạnh tranh của mình thì Việt Nam lại tụt hạng 5
bậc.
Điều này có nghĩa là Việt Nam đang tự đánh mất cơ hội làn sóng tăng trưởng
hậu khủng hoảng. Bên cạnh đó còn những yếu kém chậm khắc phục như cơ sở hạ
tầng (hạng 94), trình độ thị trường tài chính (hạng 82), giáo dục bậc cao (hạng 92),
sẵn sàng công nghệ (hạng 73). So sánh thứ hạng một số chỉ tiêu năng lực cạnh
tranh của Việt Nam năm 2008 với 2009.
Chỉ tiêu

2008

2009

Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp

70/134

75/133

Thể chế

71


63

Cơ sở hạ tầng

93

94

Ồn định kinh tế vĩ mô

70

112

Y tế và giáo dục cơ bản

84

76

Giáo dục bậc cao

98

92

Hiệu quả thị trường hàng hóa

70


67

Hiệu quả thị trường lao động

47

38

Trình độ thị trường tài chính

80

82

sẵn sàng công nghệ

79

73

Quy mô thị trường

40

38

Trình độ kinh doanh

84


70

Đổi mới

57

44

về cơ sở hạ tầng, Việt Nam có tiến bộ lớn về viễn thông (hạng 37), nhưng
yếu kém về chất lượng hạ tầng điện, đường bộ, cảng biển (đề xếp hạng trên 100).


về giáo dục, Việt Nam còn yếu hầu hết chỉ số cơ bản như chất lượng giáo dục
(hạng 120), số lượng sinh viên (hạng 106) và chi phí giáo dục (hạng 100). Đáng
lưu ý, Diễn đàn Kinh tế đánh giá khá cao về chỉ số đổi mới của Việt Nam, trong
đó có nhiều chỉ tiêu được xếp hạng tương đối cao như năng lực đổi mới (hạng 41),
chỉ tiêu của Chính phủ cho khoa học công nghệ (hạng 21)... Mặc dù chỉ số cạnh
tranh tổng họp toàn cầu năm 2009 của Việt Nam chưa có cải thiện nhưng Diễn
đàn Kinh tế thế giới vẫn đánh giá Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc cải
thiện năng lực cạnh tranh kể từ 2001 (năm đầu tiên Việt Nam được Diễn đàn Kinh
tế xếp hạng), thậm chí về trung và dài hạn, Việt Nam có nhiều điếm mạnh và có
tiềm năng tăng trưởng cao “rất giống với Trung Quốc”. Qua báo cáo năng lực
cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, có thể rút ra một số nhận xét về
năng lực cạnh tranh của Việt Nam:
- Mặc dù các chỉ số đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới có thể chưa phản
ánh hết được năng lực cạnh tranh của Việt Nam, nhất là tiềm năng phát triển
trung
và dài hạn, song phần nào phản ánh được thực tế chất lượng tăng trưởng của
kinh
tế Việt Nam còn hạn chế. Việt Nam tuy có cải thiện một số yếu tố tác động

tới
tăng trưởng kinh tế (như đổi mới, lao động, quy mô thị trường...) nhưng
chưa



nhiều cải thiện các yếu tố tác động năng suất và khả năng cạnh tranh quốc
gia
như:cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực và thể chế.
- Tiến trình cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã đi đúng
hướng, tuy vậy vẫn còn khá chậm so với nhu cầu phát triển của bản thân nền
kinh
tế cũng như so với tốc độ cải cách của các quốc gia đang phát triển khác.


Nhìn lại các quốc gia ASEAN đã được xếp hạng, chỉ số cạnh tranh tổng hợp
của Việt Nam chỉ xếp trên Philippin (hạng 87), Campuchia (hạng 110) và có
khoảng cách khá xa với nhiều nước như Singapore (3), Malayxia (24), Bruney
(32), Thái Lan (36), Inđônêxia (54).
2. Các chính sách của chính phủ để thúc đẩy năng lực cạnh tranh của
quốc gia:
Theo mô hình viên kim cương về lợi thế cạnh tranh của Micheal Porter thì
chính sách mà chính phủ có thể áp dụng để tạo lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó
là:
2.1 Về chính sách vĩ mô:
- Tăng cường hợp tác với các nước về lĩnh vực kinh tế, chú trọng vào việc thu
hút vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua nguồn vốn FDI, tận
dụng
nguồn tài nguyên dồi dào với trữ lượng lớn.
- Chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng trong nước nhằm tạo ra sự hấp dẫn cho

các nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
- Tận dụng lực lượng lao động dồi dào, tậo trung đào tạo tầng lớp lao động có
tay nghề nhằm tặng lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Tuy nhiên điều này chưa
chắc
đã là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam, vì còn phụ thuọc vào chất lượng lao
động.
- Tăng cường xuất khẩu những sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế thí dụ những
sản phẩm may mặc, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ, nông sản.
- Ổn định kinh tế trong nước, kìm chế lạm phát, giảm tỉ lệ thất nghiệp, chuyển
dịch những ngành nghề có lao động thủ công là chủ yếu sang những ngành

động kỹ thuật cao hơn.

lao


- Ôn định cơ chế tỉ giá hối đoái nhằm tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hiệu quả hơn.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo ra sự ràng buộc chắc chắn cũng như
vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
2.2 Chính sách vi mô:
Theo mô hình lợi thế cạnh tranh của Micheal Porter thì chính sách nhà
nước cần trực tiếp hỗ trợ cho các vấn đề sau:
* Điều kiện về các yếu tố sản xuất:
+ Nhà nước cần có chính sách đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, có tri
thức và trình độ kỹ thuật cao thì mới tạo ra được lợi thế cạnh tranh giữa nguồn lực
giữa các quốc gia với nhau. Vì chính những nguồn lực có chất lượng cao này mới
tạo ra những sản phấm mang lại nhiều giá trị thặng dự và tạo lợi thế cho quốc gia
lâu dài và bền vững.
+ Tập trung nguồn tài chính trong nước vận hành hiệu qủa, tránh sự lãng phí

mất kiểm soát, đặc biệt sử dụng nguồn tài chính đảm bảo đúng việc, đúng mục
đích.
+ Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tốt nhất để thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
cũng như làm nền cho một ngành công nghiệp hiện đại trong tương lai.
* Điều kiện về cầu:
+ Với dân số trên 85 triệu người, Thị trường Việt Nam có một lượng cầu rất
lớn về mọi chủng loại hàng hoá, Nhà nước cũng cần giúp các doanh nghiệp về
thông tin, cũng như định hưóng về sản xuất nhằm phục vụ vho những nhu cầu này
thật tốt nhằm tiết kiệm tài nguyên bị lãng phí.
+ Nhà nước cần khuyến khích các ngành cạnh tranh nhau để tạo động cơ phát
triển, tuy nhiên phải tránh việc cạnh tranh không lành mạnh và định hướng sai
lệch sẽ gây hậu quả khôn lường.
* Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan:
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các nguồn đầu vào.


+ Hỗ trợ các doanh nghiệp về kỹ thuật, các phương pháp khoa học trong sản
xuất kinh doanh đế tạo ra năng suất cao hơn, tạo nhiều giá trị tăng thêm.
+ Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ, và cá thông
tin phản hồi cần thiềt để việc kinh doanh các doanh nghiệp đạt hiệu quả hơn.
* Chiến lược và cơ cấu cạnh tranh trong nội bộ ngành:
+ Xây dựng chiến lược phát triển ngành, cơ cầu lại ngành cho hợp lý tạo sự
cạnh tranh lành mạnh trong ngành.
+ Tạo áp lực cạnh tranh trong nộ bộ ngành tạo động cơ cho các doanh nghiệp
vươn lên.
+ Ưu tiên chiến lược phát triển của ngành, nhằm tạo ra sự chuyên môn cũng
như đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ riêng cho ngành.


PHẦN 3 : ỨNG DỤNG MÔ HÌNH VIÊN KIM CƯƠNG ĐỂ GIẢI THÍCH

CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH SÁCH ĐẾN LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA NGÀNH
THỦY SẢN VIỆT NAM
1. Sơ lược ngành thủy sản Việt Nam
Thủy sản là một trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao
cho Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng bình quân 18%/năm. Năm 2008, xuất khẩu
thủy sản đạt 4,5 tỉ USD với sản lượng trên 4,5 triệu tấn. Hiện nay, trong cả nước
có khoảng 120.000 tàu thuyền nghề cá. Tổng diện tích sử dụng cho mục đích nuôi
trồng thủy sản toàn quốc khoảng 1,1 triệu ha, với sản lượng (năm 2008) đạt 2,3
triệu tấn, trong đó cá tra, ba sa chiếm 1,3 triệu tấn, 450.000 tấn là tôm nước ngọt
và lợ, còn lại là các mặt hàng thủy, hải sản khác. Trong các nước xuất khẩu thủy
sản trên thế giới, Việt Nam được coi là một trong những nước có tốc độ tăng
trưởng thủy sản nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai
đoạn 1998-2008 đạt 18%/năm. Kể từ năm 2001, Việt Nam đã có tên trong nhóm
10 nước có xuất khẩu thủy sản mạnh nhất trên thế giới.
Hiện nay, hàng thủy sản Việt Nam chiếm 3,7% thị phần trên thế giới và 0,3%
tổng kim ngạch của toàn thế giới. Theo qui ước, nhóm sản phấm nào có thị phần
cao hơn chỉ số này được coi là “vượt mức” tức là có đủ năng lực cạnh tranh. Ba
khối thị trường chính của xuất khẩu thủy sản của Việt Nam là Nhật Bản, Mỹ và
EU với khoảng 60% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Ngoài ra, hàng thủy sản Việt
Nam cũng đang bắt đầu thâm nhập vào thị trường mới phát trien như: Đông Ầu,
Trung Đông, châu Mỹ...
2. Các tác động của các chính sách đến lọi thế cạnh tranh của ngành thủy
sản Việt Nam
Ngành thủy sản Việt Nam là ngành kinh tế quan trọng và đã chứng tỏ được nó
là ngành có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong suốt thời gian qua.
Theo Michael Porter, lợi thế cạnh tranh của một ngành hay của một quốc gia là do
tạo ra dựa trên 4 yếu tố cơ bản của mô hình viên kim cương và 2 yếu tố phụ như
đã trình bày ở phần 1. Việt Nam cũng không ngoại lệ, để phát triển ngành thủy



sản và tạo lợi thế cạnh tranh của ngành thủy sản trên thị trường quốc tế, chính phủ
đã phân tích, xây dựng những chính sách, chiến lược để hỗ trợ và tác động vào 4
yếu tố cơ bản đó. Các tác động này có thể thấy qua từng yếu tố sau :
* về các nhân tố sản xuất:
về nhân tố cơ bản, Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, với 112 cửa sông, trên
3000 đảo lớn nhỏ, nhiều eo biển, hồ, đầm lầy, phá, trên 1 triệu km2 diện tích vùng
đặc quyền kinh tế. Hơn nữa, do Việt Nam nằm trong khu vực sinh thái nhiệt đới,
ít bị ô nhiễm, nên nguồn lợi thuỷ sản rất đa dạng, phong phú, và có khả năng tự
hồi sinh cao. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật thuỷ sản, Việt
Nam có trên 6000 loài động vật đáy, 2038 loài cá, mực... được phân bố ở hầu hết
các vùng, với trữ lượng cao. Khả năng khai thác cá ở vùng biển đặc quyền kinh tế
của Việt Nam có thể đạt trên 4 triệu tấn/năm; tôm có thể đạt trên 44 ngàn tấn/năm;
mực nang có thể đạt trên 64 ngàn tấn/năm; mực ống có thể đạt gần 60 ngàn
tấn/năm...
Đe phát huy các tiềm năng của yếu tố cơ bản trên, chính phủ đã thực hiện các
chính sách sau :
Đầu tư 1,340 tỷ đồng đưa cá tra thành mũi nhọn xuất khẩu thủy sản.
Chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển sản xuất cá tra vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020. Trong đó có nhiều nội dung như quy
hoạch lại vùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cách thức xây dựng và
hoàn thiện cơ sở hạ tầng sản xuất, xây dựng hệ thống thống kê phục vụ
công việc dự báo tình hình sản xuất, tiêu thụ. Với sự hỗ trợ của chính
phủ, mặt hàng cá tra sẽ gặp nhiều thuận lợi để trở thành mũi nhọn xuất
khẩu thủy sản của Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong
ngành tiếp tục tăng trưởng.
Tiếp nhận và khai thác có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ và đầu tư của ngân
sách Nhà nước, trái phiếu chính phủ, các chương trình dự án hỗ trợ từ
nước ngoài...



về nhăn tố tiên tiến, Việt Nam tuy có một đội ngũ lao động rẻ, dồi dào nhưng
trình độ lại thấp so với mặt bằng chung, thiếu nghiêm trọng các chuyên gia giỏi và
các lao động lành nghề. Các chuyên gia đầu ngành có chuyên môn yếu so với khu
vực, đồng thời không có sự phối hợp tốt giữa người làm chuyên môn và chính phủ.
Do đó, các chính sách của chính phủ tác động vào yếu tố này như sau :
Đầu tư vào giáo dục, thành lập các viện nghiên cứu, trường đại học thủy
sản ở các tỉnh thành nhằm đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, am
hiếu các quy trình và tiêu chuẩn của thế giới.
Xây dựng các mô hình nuôi, đối tượng nuôi mới hiệu quả kinh tế cao
hơn, tập huấn chuyển giao kỹ thuật, sản xuất cung ứng con giống chất
lượng cao, kỹ thuật chăm sóc, bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ chi phí xét
nghiệm, phòng trừ dịch tôm, vốn để doanh nghiệp thu mua nguyên liệu,
hỗ trợ dầu và bảo hiểm phương tiện, lao động cho ngư dân.
* về các điều kiện cầu :
Trong thời kỳ suy thoái, nhiều quốc gia đã sử dụng hàng rào kỹ thuật để bảo
hộ thị trường trong nước. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Cá tra Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng hơn
so với các mặt hàng khác như tôm, mực, nghêu,... Đáng chú ý nhất là Nga, thị
trường chiếm tỷ trọng không nhỏ trong cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam,
ngưng nhập khẩu trong 5 tháng đầu năm 2009. Sự gián đoạn này khiến nhiều
doanh nghiệp có thế mạnh ở thị trường Nga rơi vào tình trạng khó khăn. Tại Italia
và Tây Ban Nha, báo chí đưa tin không tốt về cá tra, basa Việt Nam đã làm cho thị
phần sản phẩm cá tra của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể.
Từ Q3/2009, nhu cầu tiêu dùng trên thế giới bắt đầu tăng trưởng cùng với đà
phục hồi kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, thị trường Nga cũng chính thức nhập khẩu
cá tra, basa Việt Nam trở lại từ tháng 6/2009. Chính sách hỗ trợ lãi suất trong gói
kích cầu của chính phủ cũng đã giúp các doanh nghiệp thủy sản giảm bớt khó
khăn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế.



Các doanh nghiệp thủy sản trong năm 2010 tiếp tục nhận được nhiều ưu đãi
về vốn vay, thuế thu nhập doanh nghiệp... Ngoài ra, VND đang trong xu hướng
giảm giá so với USD là lợi thế lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam.
Ngoài ra, chính phủ còn có những chính sách thúc đẩy thị trường nội địa phát
triển qua các Festival về Thủy sản Việt Nam. Đó là ngày hội của nông dân, ngư
dân, các nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp thủy sản và các lĩnh vực hoạt
động có liên quan, tạo nền tảng, tiến tới xây dựng thương hiệu thủy sản Việt
Nam. Bên cạnh đó, chính phủ còn xúc tiến những hiệp định như Hiệp định Đối tác
Kinh tế Việt - Nhật (VJEPA) vào đầu năm 2010 và sẽ được triển khai đồng bộ.
Do đó sẽ có trên 800 dòng sản phẩm nông sản và thủy sản Việt Nam vào Nhật
Bản với thuế suất 0%. Đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản,
đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu tôm, vì mặt hàng này chiếm tỷ trọng tương
đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khấu thủy sản sang thị trường Nhật Bản.
* Về các ngành hỗ trợ và có liên quan:
Nhân tố này đối với Việt Nam là không có nhiều lợi điểm, mà các yếu điểm
thì rất lớn như :
-

Hiện nay các nhập liệu đầu vào cho ngành nuôi trồng thuỷ sản hầu như
phải nhập khẩu.

-

Các kỹ thuật công nghệ mới cho việc nuôi trồng cũng phải cần các chuyên
gia nước ngoài hỗ trợ và các tập đoàn lớn của ta phải thuê mướn.

-

Các nhu cầu về trang thiết bị ngày càng cần thiết nhằm đạt các tiêu chuẩn

cao cho sản phâm, nhưng năng lực của nước ta không thê cung câp. Do vậy
việc nhập khẩu là cần thiết và chi phí phải trả cao.

-

Việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong các ngành hỗ trợ, như điện, hoá, sinh
học, vận tải, quản trị chuỗi cung ứng còn rất hạn chế và yếu kém. Làm tăng
thêm sự khó khăn cho các doanh nghiệp.


Qua đó, các chính sách của chính phủ hiện nay để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh
của ngành thủy sản về yếu tố này như sau:
-

Hỗ trợ dầu và bảo hiểm phương tiện, lao động cho ngư dân.
Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng như: hoàn thiện cảng cá Bình Đại, nâng cấp
cảng cá Ba Tri, đầu tư mới cảng cá An Nhơn, dự án dẫn nước ngọt từ hồ
chứa Ba Lai phục vụ nuôi tôm, nước sinh hoạt cho ngư dân.

-

Kêu gọi các doanh nghiệp xây dựng nhà máy chế biến thức ăn thủy sản,
chế biến đông lạnh thủy sản ở các khu công nghiệp.

-

Xây dựng các trại sản xuất và cung ứng giống tôm sú, tôm thẻ chân trắng,
tôm càng xanh, cá tra, bống tượng, cá chẽm, cá mú, rô phi, sặt rằn.
* Chiến lược, CO’ cấu và sự cạnh tranh của công ty
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp nhà nước trong ngành thủy sản đang thực


hiện tiến trình cố phần hóa mạnh mẽ, nhằm nâng cao tính cạnh tranh trên thị
trường. Hơn thế nữa, trong năm 2010, có thể chúng ta sẽ bắt đầu chứng kiến xu
hướng mua bán - sáp nhập diễn ra nhiều hơn trong ngành thủy sản. Với số lượng
khá nhiều, phần lớn các doanh nghiệp trong ngành thủy sản có quy mô vừa và
nhỏ, hoạt động sản xuất dàn trải...
Trong khi áp lực cạnh tranh ngày càng cao, việc sáp nhập, liên kết sẽ giảm
thiếu những tác động của việc cạnh tranh không lành mạnh về thị trường, nguyên
liệu, giá cả... Việc sáp nhập cũng sẽ giúp nâng cao khả năng tiết kiệm theo quy
mô, cải thiện hiệu quả hoạt động.
Trong phần này, các chính sách của chính phủ là hoàn thiện hệ thống các văn
bản pháp luật theo hướng hội nhập với quốc tế như ban hành Luật đầu tư số
59/2005/QH11 và luật doanh nghiệp số 60/2005/ QH11. Bên cạnh đó, chính phủ
đã quyết tâm thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo ra sức
mạnh cạnh tranh trên thị trường và thúc đẩy các doanh nghiệp tự tìm kiếm những giải


pháp tồn tại và phát triển. Điều này sẽ giúp cho thị trường của ngành thủy sản càng
trở nên sôi động hơn và hiệu quả hơn.


PHẦN 4: KẾT LUẬN
Trong phạm vi rất hẹp của đề tài này, nhóm chúng tôi chỉ trình bày về lợi thế
cạnh tranh của một quốc gia dựa vào sự tác động của các chính sách của chính
phủ lên các yếu tố trong mô hình viên kim cương. Và việc áp dụng mô hình này
vào ngành thủy sản của Việt Nam vẫn chỉ cho thấy một góc độ nào đó của vấn đề
rộng lớn hơn.
Để tóm lại về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và quốc gia Việt Nam,
chúng tôi dựa vào một số vấn đề của nhà chiến lược xuất sắc nhất thế giới hiện
nay, Michael Porter, người đã đến Việt Nam vào ngày 1/12/ 2008 để nói về những

yếu tố cấu thành sức mạnh cạnh tranh của Việt Nam như sau:
“ Thứ nhất , là cần phải vượt lên trên sự dựa dẫm vào sự tăng trưởng xuất
khẩu. Những tín hiệu ban đầu cho thấy tham vọng có thể xây dựng Việt Nam trở
thành một địa điếm năng suất cao và nâng cấp các khu vực nội địa.
Thứ hai, là Việt Nam đang phát triển một khu vực cá nhân trong nước mạnh
mẽ và độc lập. Đó cũng đồng nghĩa với việc phát triển quá trình tư hữu hoá và sự
quản lý của Chính phủ, phát triển thị trường tài chính.
Thứ ba, một điều tối quan trọng là cần phải giải quyết những điểm yếu chủ
chốt của môi trường kinh doanh, như tính quan liêu và tệ tham nhũng, cùng với sự
yếu kém của cơ sở hạ tầng.
Thứ tư, là cần phải tập trung vào những ngành kinh tế chủ chốt và có ưu thế,
như du lịch, dệt may, giày dép, thuỷ hải sản và dầu khí.
Và một điều cuối cùng, là cần phải thúc đẩy sự phát triển theo những mức
khác nhau: các tỉnh trong nước Việt Nam, khu vực Đông Dương sau đó phải lấn
dần sang khu vực Đông Nam Á. Đó là con đường quan trọng cần theo.”
(nguồn:
Viet-Naml

/>


×