Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG VÀNG TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.73 KB, 18 trang )

BÀI THUYẾT TRÌNH MÔN HỌC
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA – CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Tên đề tài:

CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM

1


Tổng quan về vàng và chính sách quản lý thị trường vàng
1.1.

Khái niệm và vai trò, chức năng của vàng
1.1.1.Khái niệm về vàng
Vàng là một kim loại quý xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loại

người, trước đây vàng được rất nhiều quốc gia sử dụng để làm tiền được
biết đến với chế độ bản vị vàng, mặc dù ngày này, chế độ bản vàng không
còn nhưng vàng vẫn đóng vai trò rất lờn trong nền kinh tế hiện đại.
1.1.2.Chức năng của vàng
1.1.2.1.
Trao đổi tiền tệ

Vàng đã được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới như một phương
tiện chuyển đổi tiền tệ, hoặc bằng cách phát hành và công nhận các đồng
xu vàng hay các số lượng kim loại khác, hay thông qua các công cụ tiền
giấy có thể quy đổi thành vàng bằng cách lập ra bản vị vàng theo đó tổng
giá trị tiền được phát hành được đại diện bởi một lượng vàng dự trữ.
1.1.2.2.



Phương tiện tiết kiệm và đầu tư

Nhiều người sở hữu vàng và giữ chúng dưới hình thức các thỏi nén
hay thanh như một công cụ chống lại lạm phát hay những đợt khủng
hoảng kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế không tin việc giữ vàng là một
công cụ chống lạm phát hay mất giá tiền tệ.
Trong các kim loại quý, vàng là một kênh đầu tư phổ biến
nhất.Các nhà đầu tư mua vàng để dự trữ và là địa chỉ an toàn trước những
biến động về kinh tế, chính trị, xã hội hoặc khủng hoảng tiền định danh (fiat
money) (bao gồm cả sự suy giảm của thị trường đầu tư, nợ quốc gia đang
gia tăng, suy thoái tiền tệ, lạm phát, chiến tranh và bất ổn xã hội).
1.1.2.3.

Tài sản dự trữ quốc gia

Dự trữ vàng với lượng đáng kể tại nhiều nước là một công cụ bảo vệ
đồng tiền của họ và tránh ràng buộc vào đồng đôla Mỹ, thực tế này hình
thành lượng dự trữ khổng lồ tiền thanh khoản cao. Đồng đôla yếu có xu
2


hướng được bù lại bởi giá vàng mạnh lên. Vàng vẫn là tài sản tài chính cơ
bản của gần như tất cả các ngân hàng trung ương bên cạnh ngoại tệ và
trái phiếu chính phủ. Nó cũng được tích trữ tại các ngân hàng trung ương
như là một biện pháp đề phòng.... Ước tính, 25% toàn bộ lượng vàng có
trên mặt đất được cất giữ tại quỹ của các ngân hàng trung ương.
1.1.2.4.

Nguyên liệu sản xuất trong công nghiệp


Do những đặc tính vốn về tính dẫn nhiệt, dẫn điện, phản xạ tốt
với bức xạ điện từ, dễ dát mỏng,… mà vàng trở thành nguyên liệu không
thể thiếu trong các ngành công nghệ cao như: bộ tản nhiệt ô tô, làm dây
dẫn điện trong một số thiết bị tiêu thụ nhiều điện năng, làm lớp phủ bảo vệ
cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và mũ
của các nhà du hành vũ trụ và trên các máy bay chiến tranh điện
tử như EA-6B Prowler,…
Ngoài ra, vàng có thể được sử dụng trong thực phẩm, thêu thùa,
công nghệ ảnh màu, sản xuất thủy tinh rubi vàng,…
1.1.2.5.

Trang sức

Vì tính mềm của vàng nguyên chất (24k), nó thường được pha trộn
với các kim loại căn bản khác để sử dụng trong công nghiệp nữ trang, làm
biến đổi độ cứng và tính mềm, điểm nóng chảy, màu sắc và các đặc tính
khác. Các hợp kim với độ cara thấp, thường là 22k, 18k, 14k hay 10k, có
chứa nhiều đồng, hay các kim loại cơ bản khác, hay bạc hoặc paladi hơn
trong hỗn hợp. Đồng là kim loại cơ sở thường được dùng nhất, khiến vàng
có màu đỏ hơn. Vàng 18k chứa 25% đồng đã xuất hiện ở đồ trang sức thời
cổ đại và đồ trang sức Nga và có kiểu đúc đồng riêng biệt, dù không phải là
đa số, tạo ra vàng hồng. Hợp kim vàng-đồng 14k có màu sắc gần giống một
số hợp kim đồng, và cả hai đều có thể được dùng để chế tạo các biểu trưng
cho cảnh sát và các ngành khác,…
3


4



1.1.3.Vai trò của vàng trong nền kinh tế hiện đại

-

Vàng giúp đa dạng hoá danh mục đầu tư (danh mục đầu tư có chứa vàng sẽ

-

ổn định hơn so với các danh mục khác).
Là công cụ đầu tư thay thế đồng USD, vàng còn được dụng trong việc dự

-

trữ ngoại hối.
Vàng là 1 kênh trú ẩn an toàn cho thị trường chứng khoán. Có thể coi là
kênh trú ẩn ngắn hạn lẫn phòng ngừa rủi ro cho thị trường chứng khoán

-

Âu Mỹ.
Vàng có thể tạo lực ổn định cho hệ thống tài chính bằng cách làm giảm các
khoản thua lỗ khi thị trường chứng khoán đối diện với những cú sốc =>
Vàng có vai trò là 1 kênh trú ẩn chống lạm phát, biến động tỷ giá và bất ổn

-

kinh tế chính trị.
1.2. Khái niệm, tác động của thị trường vàng
1.2.1.Khái niệm thị trường vàng

Thị trường vàng là nơi diễn ra các giao dịch trao đổi, mua bán vàng (vật
chất hoặc tài khoản) một cách trực tiếp hoặc gián tiếp giữa những người

-

mua và những người bán.
1.2.2.Tác động của thị trường vàng
1.2.2.1.
Đối với thị trường tài chính
Thị trường vàng được xem là một trong những kênh đầu tư trên thị trường
tài chính. Từ lúc thị trường vàng có nhiều biến động đến nay, hiệu ứng của
vàng đã thu hút không ít nhà đầu tư chuyển từ đầu tư chứng khoán, bất
động sản và USD sang đầu tư vàng.
Ví dụ điểm hình cho điều này là những ngày đầu năm 2008, khi mà
chứng khoán liên tiếp giảm điểm thì thị trường vàng lại được hâm nóng
bởi rất nhiều thông tin hổ trợ. Thời điểm đó giới đầu tư nghĩ rằng đầu tư
vào vàng có lời hơn và là một nguồn ngoại tệ dự trữ an toàn, có tính lâu
dài, họ ồ ạt bán chứng khoán để lấy tiền mặt đầu tư vào thị trường vàng.
Động thái đó làm chứng khoán nói chung giảm đi.

5


-

Khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng
người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng.
Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở thị trường vàng và ngoại tệ dẫn đến
khả năng huy động vốn của các NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói

chung.
Cũng trong thời kỳ 2007 – 2008, lạm phát ở Việt Nam rất cao, tiền tệ
có hiện tượng bị mất giá liên tục, người dân e ngại việc giữ tiền mặt hoặc
đầu tư để mang về lợi nhuận. Do đó phần lớn lượng tiền ồ ạt chảy vào các
kênh khác nhau, mà phần lớn là đổ vào thị trường vàng, nơi mà niềm tin
mãnh liệt vàng sẽ là phương tiện cất trữ tốt nhất và sẽ không bị mất giá,
thậm chí còn tăng giá. Điều này dẫn đến khả năng huy động vốn của các
NHTM bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong một thời gian dài, tiền
tệ không được lưu thông theo đúng nghĩa là đưa vào hoạt động sản xuất,
làm cho nền kinh tế cứ ì ạch, không ai đầu tư hay gửi vào ngân hàng để
bơm vốn cho nền kinh tế. Theo thống kê thì cho đến hiện nay, lượng vàng
trong dân còn tồn đọng lên đến cả hàng nghìn tấn, để cho nền kinh tế được
phát triển thì cần có giải pháp kích thích lượng vàng này quy đổi thành các
nguồn lực để đưa vào sản xuất kinh doanh, tạo ra sự tăng trưởng cần thiết.

-

Hơn thế nữa, thị trường vàng biến động mạnh còn ảnh hưởng đến những
người vay vàng đến kỳ trả nợ, do giá vàng lúc vay thấp hơn sơ với giá vàng
lúc trả rất lớn, chưa kể tới lãi suất của ngân hàng, chỉ tính biến động giá
vàng ngân hàng đã được lợi rất lớn còn những người vay vàng lâm vào
tình trạng rất khó khăn. Ngược lại, đối với hoạt động huy động vốn thì
ngân hàng lại bị thiệt hại rất nhiều và khách hàng của họ lại được lợi lớn.
Sự biến động mạnh của vàng trong một số thời điểm đã tạo ra rất nhiều rủi
6


ro cho hoạt động huy động và cho vay vàng của ngân hàng, tác động tiêu
cực đến thị trường vốn, làm méo mó chức năng trung gian tín dụng của


-

ngân hàng trong nền kinh tế.
1.2.2.2.
Đối với nền kinh tế
Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu
+ Vàng cũng là một loại hàng hóa, nhưng nó đặc biệt hơn mọi loại
hàng hóa ở giá trị cũng như sự phổ biến của nó trên toàn thế giới. Việt nam
là một nước mà có đến 95% vàng được nhập khẩu từ nước ngoài, vì vậy
hàng năm phải chi hàng trăm triệu đô la để nhập khẩu vàng, mà lại không
có nguồn thu từ nhập khẩu để cân bằng cán cân thương mại. Nhập vàng
đồng nghĩa phải tiêu đi một số lượng lớn ngoại tệ nên cán cân ngoại tệ
trong nước cũng bị ảnh hưởng (gây thâm hụt). Bên cạnh đó khi giá vàng
tăng cao sẽ có trường hợp người ta gom đô la để nhập vàng dù là đường
chính ngạch hay đường lậu cũng sẽ đẩy tỷ giá USD/VND tăng cao, điều đó
gây không ít khó khăn cho việc nhập khẩu các mặt hàng khác.
Ví dụ:trong năm 2007 tổng giá trị nhập khẩu vàng của nước ta theo
đường chính ngạch là 1,6 tỷ USD (70 tấn vàng). Năm 2008 nước ta đã nhập
1,7 tỷ USD (45 tấn vàng) trong quý 1, tình hình nhập khẩu lượng vàng quá
lớn dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại, Ngân hàng nhà nước đã phải
cho ngừng nhập khẩu vàng trong suốt một năm rưỡi do tiêu tốn quá nhiều
ngoại tệ.
+ Giá vàng tăng cao còn ảnh hưởng đến giá vàng nguyêu liệu trong
việc chế tác sản phẩm mỹ nghệ xuất khẩu hay các đồ điện tử, các sản phẩm
Việt Nam sẽ xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới, giá các sản phẩm
đương nhiên sẽ tăng theo giá vàng. Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, hàng
hóa tăng giá cũng là một bất lợi đối với sản phẩm được sản xuất tại Việt
Nam.


-

Ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư
7


+ Vàng có thể coi là loại tiền tệ duy nhất không liên quan trực tiếp
đến bất kỳ nền kinh tế quốc gia nào, với việc suy thoái kinh tế thì vàng là
kênh đầu tư an toàn nhất. Điều này vô hình làm ảnh hưởng đến các kênh
đầu tư khác.
+ Ngoài ra, ở Việt Nam người ta sử dụng vàng làm đơn vị thanh toán
và phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán nhà đất, tập trung tại
các thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh phía Nam. Chúng ta thường hay
được nghe những tin rao bán : đất ở khu này, giá 2 cây/1m 2 , hay biệt thự
giá 1000 cây vàng… Việc công bố giao dịch như vậy xuất hiện công khai
trong các giao dịch địa ốc của các ngân hàng. Giá bất động sản được nhà
đầu tư tính bằng vàng, vì vậy khi thị trường vàng biến động sẽ kéo theo
tâm lý hoan mang cho cả người mua và người bán bất động sản.
+ Hơn thế nữa, khi giá vàng biến động theo xu hướng tăng lên, nhà
đầu tư bất động sản chuyển qua đầu tư vàng. Với lợi thế như tính thanh
khoản của vàng cao hơn, an toàn hơn và không bị ràng buộc vào các giấy
tờ như bất động sản, việc dòng vốn chuyển từ bất động sản sang vàng đã
khiến thị trường này đóng băng và gây ra nhiều tác động xấu cho nền kinh
tế.
-

Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ
+ Lấy vi dụ: Cuối năm 2009 theo số liệu thống kê của Hội đồng Vàng
Thế giới (WGC), lượng vàng dự trữ của Việt Nam đạt tổng trị giá lên tới 45
tỷ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời điểm. Ðiều này có thể ảnh

hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô
trong trung hạn. Ảnh hưởng trực tiếp nhất có thể kể đến là khả năng huy
động nguồn vốn của khu vực tài chính ngày càng xấu đi, do tỷ lệ tiết kiệm
bằng vàng tăng lên thay vì tiết kiệm qua hệ thống ngân hàng.

8


+ Với tỷ trọng vàng trên GDP rất lớn cũng cho thấy với tổng phương
tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì số nhân tiền tệ theo tính toán của
các chuyên gia khoảng 4,8, trong khi nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này
chỉ còn 2,0. Ðiều này nhắc nhở chúng ta rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ
thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và thị trường vàng đang
bành trướng đáng lo ngại hiện nay.
+ Nguy cơ gây ra lạm phát: khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước
và nước ngoài lớn, dẫn đến việc phải nhậu khẩu vàng, điều đó sẽ gây ra áp
lực tăng tỷ giá, đối với những nước nhập siêu, việc tăng tỷ giá sẽ khiến giá
cả hàng hóa tăng lên, gây ra lạm phát. Ngoài ra, khi lạm phát trong nước
có dấu hiệu tăng, người dân sẽ chuyển sang dự trữ vàng thay vì tiền, điều
này sẽ làm cho một lượng tiền lớn quay lại lưu thông khiến tình trạng lạm
phát trở nên trầm trọng hơn.
-

Ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của nhân dân
Biến động lớn của thị trường vàng ảnh hưởng lớn đến tâm lý cũng
như cuộc sống của người dân. Thực tế đã cho thấy rằng, rủi ro càng cao thì
lợi nhuận càng lớn. Đã có rất nhiều thời điểm giá vàng tăng cao, người dân
đổ xô đi mua vàng làm giá vàng trong nước chênh lệch lớn so với giá vàng
thế giới. Thị trường vàng trở nên điên loạn với giá vàng bị thổi lên quá
đáng, người dân đổ xô đi rút tiền ở các ngân hàng để mua vàng tích trữ,

giá vàng thời điểm đó tăng lên từng phút, gây bất ổn cho thị trường vàng
dẫn đến sự bất ổn của thị trường tài chính và nền kinh tế.
1.3.

Sự cần thiết và mục tiêu quản lý thị trường vàng
1.3.1.Sự cần thiết quản lý của Nhà nước đối với thị trường vàng
Qua những phân tích ở trên ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng

và sự tác động mạnh mẽ của thị trường vàng đến thị trường tài chính và cả
nền kinh tế. Những biến động trong tình hình kinh tế Việt Nam trong
9


những năm 2008 đến 2012 đã cho thấy sự bất ổn của thị trường vàng góp
phần ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế quốc gia. Như vậy, vàng
không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà thực sự trở thành một
lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân
thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Vì vậy
việc quản lý thị trường vàng là thật sự cần thiết, Nhà nước cần đặc biệt
quan tâm đến hoạt động của thị trường vàng để đảm bảo tính hiệu quả của
nó và thị trường tài chính.
1.3.2.Mục tiêu quản lý thị trường vàng

Chính sách quản lý vàng sẽ tập trung vào 2 mục tiêu chính:
-

Thứ nhất, quản lý hoạt động kinh doanh vàng nhằm phát triển ổn định và
bền vững thị trường vàng, không để biến động của giá vàng làm ảnh
hưởng đến tỷ giá, bảo đảm hoạt động sản xuất, không làm ảnh hưởng đến


-

xuất khẩu, lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ hai, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng “vàng hóa” nền kinh tế. Huy động
ngược trở lại nguồn lực cho nền kinh tế.
1.4. Chính sách quản lý thị trường vàng
1.4.1.Khái niệm chính sách quản lý thị trường vàng
Chính sách quản lý thị trường vàng là hệ thống các quan điểm, chủ
trương và biện pháp của Nhà nước để tổ chức điều hành và kiểm soát một
cách có hiệu quả hoạt động thị trường vàng; nhằm thực hiện mục tiêu ổn
định thị trường vàng và hạn chế tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế.
1.4.2.Nội dung chính sách quản lý thị trường vàng

-

Chính sách quản lý hoạt động sản xuất vàng
Chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng
Chính sách quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng
Chính sách quản lý huy động và cho vay vốn bằng vàng (nếu có)
2. Chính sách quản lý thị trường vàng Việt Nam
2.1. Thực trạng quản lý thị trường vàng Việt Nam
2.1.1.Chính sách quản lý vàng qua các thời kỳ
10




Trước năm 2006: Nhà nước quản lý vàng như một loại tiền tệ, giá vàng




trong nước chưa có sự chênh lệch với giá vàng thế giới.
Từ 2006-2010: nhà nước cho phép thực hiện kinh doanh vàng tài khoản
nước ngoài qua quyết định QĐ 03/2006/QĐ-NHNN, đến năm 2010 chúng
ta đã xiết lại việc huy động và cho vay vàng thông qua thông tư TT

-

22/2010/TT-NHNN.
Sự ra đời của quy định QĐ 03/2006/QĐ-NHNN chỉ nhằm hợp pháp hóa cho
các sàn vàng đang tồn tại ở thời điểm đó, nhưng vì chưa có một nghiên cứu
khoa học cụ thể, cũng như chưa có hành lang pháp lý nên sàn vàng này đã
gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế cũng như đời sống người
dân. Điển hình là vụ kiện của một khách hàng đòi ngân hàng ACB 5800
lượng vàng (về sau con số này nâng lên 8450 lượng) vì nhân viên ACB nhập
sai lệnh, nhưng do chưa có cơ sở pháp lý nên vụ kiện rơi vào bế tắc. Mặt
khác với việc sử dụng đòn bẩy tài chính quá lớn, nên rất rủi ro, nhiều khách
hàng đã trắng tay khi tham gia thị trường này, tiêu biểu là vụ vỡ nợ của

-

tiệm vàng Tuấn Tài vào năm 2009.
Cũng trong năm 2009, vàng vật chất cũng đã có những biến động rất lớn.
Tháng 11/2009, giá vàng lần đầu tiên tăng vọt lên mức 29 triệu đồng một
lượng, nếu so với cuối năm 2008 giá vàng chỉ nằm ở mức 19 triệu đồng thì
mức tăng này rất khủng khiếp. Nguyên nhân là do năm 2009 lạm phát cao,
người dân tích trữ vàng, giới đầu cơ đánh vào vàng, cộng với việc một thời
gian dài từ (quý II/2008) chúng ta không nhập khẩu vàng làm thiếu hụt
nguồn cung. Khi đó, NHNN tuyên bố sẽ nhập khẩu vàng để cung ra thị
trường đã khiến giá vàng giảm mạnh, khi rất nhà đầu tư lướt sóng theo


-

vàng thiệt hại nặng, nhưng qua đó giá vàng cũng được ổn định.
Theo TT 22/2010 TT-NHNN, thì sau một thời gian buông lỏng thị trường
vàng thì chúng ta đã thắt chặt lại trong việc kiểm soát thị trường này.
Điểm khác biệt giữa thông tư này so với thời điểm trước là các ngân hàng
11


chỉ được huy động vàng thông qua việc phát hành giấy tờ có giá (trước đây
là gửi tiết kiệm), thứ hai là các ngân hàng chỉ được phép cho vay nhằm
mục đích sản xuất vàng trang sức, nghiêm cấm việc cho vay để kinh doanh
vàng miếng, thứ ba, không cho phép chuyển vàng thành tiền đồng để cho
vay vào mục đích sản xuất kinh doanh (trước đây được phép chuyển 30%


lượng vàng huy động được thành tiền đồng để cho vay).
Từ 2010 đến đầu 2012: Bãi bỏ quyết định cho phép kinh doanh vàng trên
tài khoản nước ngoài (TT 01/2010/TT-NHNN), ban hành một số quy định
quản lý hoạt động thị trường vàng trong nước (bao gồm chấm dứt huy
động và cho vay vốn bằng vàng – TT 11/2011/TT-NHNN, sửa đổi bằng TT
12/2012/TT-NHNN); giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới rất



nhiều, thị trường vàng rối loạn.
Từ 2012 đến nay: Ban hành quy định quản lý hoạt động sản xuất và kinh
doanh vàng (Nghị định 24/2012/NĐ-CP) và tiếp tục thực hiện một số quy
định khá về quản lý hoạt động thị trường vàng, giá vàng trong nước dần ổn

định.

2.1.2.Một

số nội dung chủ yếu trong chính sách quản lý thị



trường vàng ở Việt Nam hiện nay
Chính sách quản lý hoạt động sản xuất và kinh doanh vàng theo nghị định

-

24/2012/NĐ-CP:
Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, xuất-nhập khẩu vàng nguyên
liệu để sản xuất vàng miếng. Do NHNN tổ chức, quản lý sản xuất vàng
miếng thông qua việc quyết định hạn mức, thời điểm, phương thức sản
xuất phù hợp từng thời kỳ (Hiện do công ty SJC gia công và mang thương

-

hiệu vàng miếng SJC).
Quy định các điều kiện, trách nhiệm, nghĩa vụ trong hoạt động sản xuất và
kinh doanh vàng theo từng nhóm cụ thể: KD mua bán vàng miếng, sản xuất
vàng TSMN, xuất khẩu nhập khẩu vàng TSMN, nguyên liệu,…

12


-


Hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng phải được NHNN cấp giấy
phép kinh doanh mua bán vàng miếng; sản xuất vàng TSMN phải được
NHNN cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng TSMN (và phải

-

thực hiện báo cáo theo định kỳ);
Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức và cá nhân được công nhận và

-

bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Quy định về hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh vàng (trong đó có



việc sử dụng vàng làm phương tiện thanh toánhạn chế “vàng hóa”).
Ngoài ra, NHNN cũng có những biện pháp nhằm quản lý chặt chẽ thị

-

trường vàng như:
Tổ chức đấu thầu vàng miếng cung cấp cho các TCTD nhằm tất toán số dư
huy động vốn của các TCTD trước đây, bình ổn thị trường. Đồng thời yêu
cầu báo cáo hàng ngày về tình hình sử dụng vàng miếng mua từ việc đấu

-

thầu (mục đích sử dụng, giá và khối lượng bán cho từng đối tượng cụ thể);

Quy định về trạng thái vàng hàng ngày của các TCTD (không quá 2% vốn
tự có, không để trạng thái âm) để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh

-

doanh mua bán vàng miếng.
Buộc các ngân hàng phải lập phương án tất toán số dư cho vay bằng vàng

-

trước đây và báo cáo hàng tuần về tình hình thực hiện,…
2.2. Đánh giá chính sách quản lý thị trường vàng Việt Nam
2.2.1.Thành công
Tạo được sự ổn định giá vàng trong một khoảng thời gian từ năm 2013 đến
nay. Các biện pháp can thiệp của NHNN giúp cân bằng cung cầu trên thị
trường vàng miếng giúp bình ổn được thị trường vàng đầy biến động và rối
loạn từ năm 2010 (giá vàng có lúc trên 49tr/lượng đến nay chỉ còn trên

-

35tr/lượng; đồng thời thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới);
Hạn chế hiện tượng “vàng hóa” trong nền kinh tế;
Hạn chế đầu cơ vàng, phần nào tạo được ổn định trong tâm lý người dân;
Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô như: ổn định giá kiềm chế lạm phát, hạn
chế sự bất ổn của thị trường tài chính (đặc biệt là căng thẳng của thị

13


trường ngoại hối trong năm 2011-2012); tăng cường hiệu lực kênh truyền


-

dẫn CSTT của thị trường tài chính.
2.2.2. Hạn chế
Chính sách quản lý chưa được nghiên cứu có hệ thống, chưa có cơ sở khoa
học vững chắc và không mang tính chiến lược bền vững (vd: sự hình thành
và hoạt động của các sàn giao dịch vàng trong khi chưa có hành lang pháp

-

lý cụ thể).
Chưa huy động một cách hiệu quả nguồn vốn xã hội: hiện nay lượng vàng
trong dân còn rất nhiều nhưng không thể huy động  lãng phí của cải xã

-

hội.
Việc điều hành chính sách đi ngược với cơ chế thị trường và làm cho thị
trường vàng Việt Nam không liên thông được với thế giới (trong khi theo
lộ trình gia nhập WTO, đến năm 2018, Việt Nam phải đảm bảo nền kinh tế

-

vận hành theo cơ chế thị trường một cách hoàn toàn).
Việc độc quyền sản xuất vàng miếng với thương hiệu SJC (dù đã từng rất
hiệu quả trong khoảng thời gian dài) đang hạn chế sự cạnh tranh bình
đẳng trên thị trường và dần bộc lộ yếu kém trong quản lý: Chênh lệch giá

-


vàng trong nước và thế giới hiện đang dao động quanh mức 4-5tr/lượng.
Có hiện tượng nhập lậu vàng do chênh lệch giá: hiện nay, khi thị trường
vàng đã dần đi vào ổn định, cân bằng cung cầu ngoại tệ được duy trì thì
việc độc quyền xuất nhập khẩu như hiện tại là không còn phù hợp vì điều
này ngăn cản quy luật thị trường, ảnh hưởng đến thị trường vàng và cả
nền kinh tế.

14


3.

Một số kiến nghị trong chính sách quản lý thị trường vàng Việt

-

Nam
3.1. Ổn định kinh tế vĩ mô
Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế ổn định và bền vững để thúc đẩy sự

-

phát triển của thị trường vàng.
Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ và tâm lý người dân, nhà đầu tư
 để mọi người không đổ xô vào thị trường vàng gây rối loạn kinh tế như

-

những thời gian trước đây.

Tăng cường khả năng tự điều chỉnh của cơ chế thị trường vàng nâng cao
năng lực quản lý của nhà nước trên tất cả các lĩnh vự kinh tế - xã hội làm

-

nền tảng định hướng cho sự phát triển.
Thực hiện tốt công tác thực thi pháp luật; phổ biến, tuyên truyền chủ

-

trương chính sách của nhà nước đến người dân.
3.2. Hoàn thiện chính sách quản lý thị trường vàng
Cần có những chính sách nhất quán và lâu dài (thay cho những quy định
mang tính ngắn hạn tình thế hiện nay), từ đó xây dựng hệ thống pháp luật

-

đồng bộ và thống nhất.
Thiết lập sàn giao dịch vật chất dưới sự kiểm soát của NHNN để thị trường

-

vàng vận hành thông suốt và hiệu quả.
Cho phép các NHTM huy động vốn bằng vàng  tận dụng nguồn vốn trong
nền kinh tế đưa vào sản xuất phát triển kinh tế (hiện nay một lượng lớn

-

vàng đang nằm trong dân gây lãng phí chi phí xã hội).
NHNN không độc quyền nhập khẩu, sản xuất và phân phối vàng như hiện

nay mà chỉ nên là cơ quan giám sát và quản lý thị trường vàng để tránh
tình trạng chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và thế giới  xuất –

-

nhập lậu vàng, gây tổn thất cho nền kinh tế.
Ngoài ra cần có bước đi thận trọng và phù hợp để phát triển thị trường
vàng theo cơ chế thị trường (thay vì thương hiệu vàng SJC độc quyền như
hiện nay)  ban hành chuẩn chung để các thương hiệu vàng có sự cạnh
tranh  chất lượng và giá cả được đảm bảo.
15


-

Nhà nước cần có các biện pháp chế tài cứng rắn để điều tiết các chủ thể
tham gia thị trường  hoạt động của thị trường có quy củ và ổn định bền
vững.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chính phủ (2012), Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về Quản lý hoạt động kinh
doanh vàng.
Chính phủ (2014), Nghị định 96/2014/NĐ-CP về Quy định về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2006), Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN về việc
kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư 01/2010/TT-NHNN bãi bỏ

quyết định 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 của NHNN VN về việc
kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và Quyết định 11/2007/QĐNHNN ngày 15/03/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định 03/2006/QĐNHNN.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư 17/2010/TT-NHNN sửa đổi
Khoản 2, khoản 3 Điều 2 Thông tư 01/2010/TT-NHNN ngày 06/01/2010 về
việc bãi bỏ quyết định 03/2006/QĐ-NHNN ngày 18/01/2006 của NHNN VN
về việc kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài và Quyết định
11/2007/QĐ-NHNN ngày 15/03/2007 về việc sửa đổi, bổ sung quyết định
03/2006/QĐ-NHNN.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư 22/2010/TT-NHNN quy định về
huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2011), Thông tư 11/2011/TT-NHNN quy định về
chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Thông tư 38/2012/TT-NHNN Quy định
về trạng thái vàng của các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Quyết định số 1623/QĐ-NHNN về việc tổ
chức và quản lý sản xuất vàng miếng của NHNN Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2012), Thông tư 12/2012/TT-NHNN sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư số 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của
NHNN VN quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của
TCTD.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Thông tư 06/2013/TT-NHNN về Hướng
dẫn hoạt động mua, bán vàng miếng trên thị trường trong nước của NHNN
Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2013), Quyết định 563/QĐ-NHNN về Quy trình
mua, bán vàng miếng của NHNN Việt Nam.
Tô Ánh Dương (2013), Bài học quản lý thị trường vàng Trung Quốc và Ấn Độ.
Truy cập tại: />

hang/bai-hoc-quan-ly-thi-truong-vang-trung-quoc-va-an-do-2866678.html.
<ngày truy cập 06/4/2015>


18



×