Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Cơ sở lý luận mối quan hệ giữa Tòa án, cơ quan thi hành án và Trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.3 KB, 30 trang )

Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

I. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Khái nhiệm tranh chấp
Tranh chấp, là những xung đột, bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ
thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Khi các bên đưa ra Trọng tài, Tòa án
tức là những xung đột, bất đồng đã lên đến đỉnh điểm. Cho nên, cần sức mạnh
cưỡng chế buộc các bên phải ngồi lại để giải quyết tranh chấp, bất đồng với nhau.
1.2. Cơ sở lý luận mối quan hệ giữa Tòa án, cơ quan thi hành án và Trọng
tài
Trọng tài là một cơ quan tài phán được thành lập để giải quyết các tranh chấp,
bất đồng khi các bên không thương lượng được với nhau. Trọng tài là cơ quan tài
phán nhưng là tài phán tư, là tổ chức phi Chính phủ. Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Trọng tài không phải do Nhà nước trao cho mà thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài bắt nguồn từ quyền lực theo hợp đồng hay quyền lực đại diện do các bên
tranh chấp giao phó và ủy nhiệm cho Hội đồng trọng tài thông qua một thỏa thuận
trọng tài.
Để có một trọng tài có hiệu lực, trước hết phải có một thỏa thuận trọng tài có
hiệu lực. Trọng tài chỉ có quyền hành động trong giới hạn phạm vi mà các bên đã
ủy quyền. Nói cách khác, trọng tài nhân danh chính các bên đã ủy quyền để giải
quyết tranh chấp giữa họ chứ không phải nhân danh và đại diện cho quyền lực
giống như Tòa án. Vì vậy, trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp nếu một trong
các bên không có thái độ hợp tác, cố tình trì hoãn để quá trình Trọng tài không xảy
ra hoặc không tuân thủ phán quyết Trọng tài thì Hội đồng Trọng tài không có sức
mạnh cưỡng chế để buộc họ phải tuân theo. Hơn nữa, một vụ tranh chấp phức tạp
thông thường liên quan đến rất nhiều bên nhưng thẩm quyền của Trọng Tài
thường bị hạn chế đối với các bên tham gia chính quá trình tố tụng Trọng tài. Nếu
không có sự hỗ trợ của Nhà nước vào hoạt động Trọng tài thì chắc chắn Trọng tài
sẽ hoạt động không có hiệu quả và trọng một số trường hợp có thể dẫn đến bế tắc.


1


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Tòa án là một cơ quan tài phán công, đại diện và hoạt động nhân danh quyền
lực Nhà nước nên Tòa án đương nhiên có sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước khi
xét xử. Tòa án có thẩm quyền giải quyết đương nhiên theo luật định đối với các vụ
tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực nếu các bên không có thỏa thuận khác. Các
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân
có liên quan và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Tương tự như Tòa án, Cơ quan thi hành án cũng là một cơ quan đại diện và
hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nên Cơ quan thi hành án đương nhiên
có sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước khi tiến hành thực thi các bản án, quyết
định của Tòa án, quyết định của Trọng tài. Theo quy định tại Điều 2 Luật Trọng
tài thương mại 2010, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà không
có thẩm quyền buộc các bên phải thi hành. Vì vậy, để phán quyết của Hội đồng
trọng tài được thi hành trên thực tế cần có sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án dân
sự.
II. NỘI DUNG
2.1. Sự hỗ trợ của Tòa án trong hoạt động tố tụng trọng tài theo Pháp lệnh
Trọng tài thương mại 2003 và Luật trọng tài thương mại 2010
Bên cạnh sự thành công của Trọng tài không thể không nói đến vai trò của Tòa
án. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động Trọng tài cũng cần đến Tòa án.
Trọng tài chỉ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ nếu có sự gắn kết chặt chẽ với Tòa
án. Trọng tài thực sự là Tòa án tư nhưng không thể hành chính hóa như Tòa án
công mà phải chịu sự gắn kết, ủng hộ của Tòa án công. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của
Tòa án chỉ là giải pháp cần thiết trong những trường hợp nhất định mà thôi vì phải

đảm bảo nguyên tắc “Trọng tài sẽ nhận được sự hỗ trợ kịp thời của Tòa án nhưng
vẫn phải đảm bảo nguyên tắc Trọng tài độc lập với Tòa án trong việc giải quyết
tranh chấp”. Hoạt động Trọng tài có hiệu quả nếu Tòa án quan tâm đến kết quả
Trọng tài và sự hỗ trợ khi cần thiết nhằm giúp các bên tham gia Trọng tài đạt được

2


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

mục đích trên cơ sở công lý, công bằng và khách quan. Ngược lại, nếu Tòa án
tham gia không sâu, không kịp thời hoặc không đúng lúc thì Trọng tài sẽ mất đi
tính linh hoạt vốn có của mình và khi ấy, trọng tài đơn thuần chỉ là cái bóng của
Tòa án. Nhờ có sự hỗ trợ của Tòa án vào Trọng tài là tổ chức phi chính phủ nhưng
vẫn hoạt động hiệu quả.
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với quá trình tố tụng của Trọng tài thương mại được
thể hiện thông qua các quy định như: Tòa án đảm bảo thi hành điều khoản thỏa
thuận trọng tài; chỉ định trọng tài viên, chủ tịch Hội đồng trọng tài; thay đổi trọng
tài viên; thu thập chứng cứ; áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; triệu tập
người làm chứng; hủy bỏ phán quyết trọng tài. Tuy nhiên, những vấn đề này được
quy định khác nhau trong hai văn bản là Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003
(PLTTTM 2003) và Luật trọng tài thương mại 2010 (Luật TTTM 2010). Cụ thể đó
là:
2.1.1. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề đảm bảo thi hành điều khoản
thỏa thuận trọng tài
Việc Pháp luật Trọng tài quy định về vai trò hỗ trợ của Tòa án trong việc thực
thi thỏa thuận trọng tài xuất phát từ những lý do sau:
Thực tiễn cho thấy, không phải trong mọi trường hợp, các bên trong thỏa thuận

trọng tài đều thực hiện đúng như thỏa thuận mà mình đã cam kết. Trong trường
hợp có mâu thuẫn với nhau về thẩm quyền hoặc một trong các bên cố tình không
thực thi thỏa thuận đã cam kết mà không có cơ quan nào đứng ra giải quyết thì tố
tụng trọng tài có nguy cơ bế tắc. Bởi vì, bản chất Trọng tài là tài phán tư chỉ phát
sinh trên cơ sở thỏa thuận của các bên tranh chấp. Trọng tài không thể buộc các
bên phải thựa hiện đúng thỏa thuận mà mình đã cam kết. Do đó, cần thiết phải có
sự hỗ trợ của Tòa án trong trường hợp này để hoạt động trọng tài diễn ra bình
thường.
Có thể nói rằng, thỏa thuận trọng tài là điều kiện cần thiết của Trọng tài,
chính vì thế hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có tầm quan trọng đặc biệt. Cho nên
3


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm thi hành thỏa thuận Trọng tài là cần thiết.
Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết vấn đề này có ý nghĩa quan trọng bởi nó
sẽ quyết định Trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp hay không và
đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề đảm bảo thi hành điều khoản thỏa
thuận trọng tài theo PLTTTM 2003
Điều 5 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 có quy định:
“Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài, nếu một bên
khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận
trọng tài vô hiệu”. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại
Điều 10 Pháp lệnh.
Như vậy, Tòa án phải chủ động kiểm tra sự tồn tại, hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài và có nghĩa vụ đương nhiên từ chối thẩm quyền khi vụ tranh chấp có

thỏa thuận trọng tài hợp pháp. Trường hợp nếu các bên tranh chấp đã có thỏa
thuận điều khoản trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài mà một trong các bên không
thực hiện thì Tòa án hỗ trợ để đảm bảo thi hành.
Tuy nhiên, khi quy định về vấn đề này thì PLTTTM 2003 lại bỏ sót trường
hợp, đó là “thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Pháp lệnh chỉ quan
tâm đến thỏa thuận trọng tài của các bên có vô hiệu hay không mà bỏ qua trường
hợp liệu rằng thỏa thuận trọng tài của các bên có khả thi, có thể thực hiện được
trên thực tế hay không?.
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề đảm bảo thi hành điều khoản thỏa
thuận trọng tài theo Luật TTTM 2010
Theo Điều 6 Luật TTTM 2010 quy định “Trong trường hợp các bên tranh
chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải
từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng
tài không thể thực hiện được”.
4


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

So với Pháp lệnh TTTM 2003 thì danh sách các trường hợp thỏa thuận trọng
tài vô hiệu được đã được rút ngắn lại theo quy định tại Điều 18 Luật TTTM 2010.
Đồng thời, Luật TTTM 2010 đã bổ sung thêm trường hợp thỏa thuận trọng tài
“không thể thực hiện được”. Bổ sung này là cần thiết vì một mặt phù hợp với
thông lệ quốc tế, mặt khác đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của thực tiễn giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài khắc phục được những vấn đề chưa hợp lý, phù
hợp với thực tiễn, đảm bảo hiệu lực thi hành của các thỏa thuận trọng tài.
Hơn nữa, so với pháp lệnh TTTM năm 2003, kể cả về mặt hình thức, Điều 6
Luật TTTM 2010 là một điều riêng biệt với tên gọi “Tòa án từ chối thụ lý trong

trường hợp có thỏa thuận trọng tài”. Cách gọi tên của điều luật này có tính xác
định rõ hơn so với tên gọi của Điều 5 tương ứng trong Pháp lệnh “Thẩm quyền
giải quyết tranh chấp trong trường hợp có thỏa thuận trọng tài”.
Tuy nhiên, quy định trên theo Luật TTTM 2010 vẫn chưa bao quát hết các
trường hợp có thể phát sinh trong thực tiễn.
Ví dụ: Một bên khởi kiện ra Tòa án và Tòa án không từ chối thụ lý và cũng có
phản đối của bên kia về thẩm quyền của Tòa án trong quá trình sơ thẩm. Liệu bản
án sơ thẩm có thể bị hủy trên cơ sở Điều 6 của Luật hay không nếu một trong các
bên không đồng ý với phán quyết cho rằng Tòa án đã vi phạm Điều 6 và yêu cầu
Tòa án cấp trên hủy án sơ thẩm. Tương tự, sau khi bản án sơ thẩm được đưa ra,
Viện kiểm sát có thể kháng nghị yêu cầu hủy bản án sơ thẩm vì cho rằng Tòa án
đã không áp dụng Điều 6 của Luật TTTM 2010 không? Theo quy định tài Điều 6
Luật TTTM 2010, Tòa án phải chủ động kiểm tra sự tồn tại, hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài và có nghĩa vụ đương nhiên từ chối thẩm quyền khi vụ tranh chấp
có thỏa thuận trọng tài hợp pháp mà không cần phải có bất kỳ đơn yêu cầu nào của
một bên Đương sự. Tuy nhiên, nếu hai bên đã ký thỏa thuận trọng tài nhưng sau
đó, một bên khởi kiện ra Tòa án, bên còn lại không phản đối thì có được xem là họ
từ bỏ thỏa thuận trọng tài hay không?

5


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Có quan điểm cho rằng: “ Nếu hai bên đã ký thỏa thuận trọng tài nhưng sau đó,
một bên cứ kiện ra Tòa án và bên kia chấp nhận bằng văn bản việc kiện ra Tòa án,
thì có nghĩa là hai bên đã tự nguyện thỏa thuận xóa bỏ điều khoản trọng tài và giao
thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho Tòa án. Chỉ lúc này Tòa án mới được thụ lý

giải quyết. Còn nếu bên kia không đồng ý bằng văn bản thì Tòa án không có thẩm
quyền”. Về nguyên tắc, khi đã quy định thỏa thuận trọng tài phải được lập thành
văn bản thì việc thay đổi hay bãi bỏ thỏa thuận đó cũng chỉ có hiệu lực khi được
thể hiện bằng văn bản. Điều này là hợp lý và phù hợp với chế định trọng tài. Ý
kiến khác cho rằng: “ không nên hủy án sơ thẩm vì Tòa án không từ chối thụ lý và
cũng không có sự phản đối của bên kia về thẩm quyền của Tòa án trong quá trình
sơ thẩm, chúng ta coi như các bên đã ngầm từ bỏ thoả thuận trọng tài đã thiết lập
và chấp nhận thẩm quyền của Tòa án”. Trong trường hợp này, ta thấy, ý kiến thứ
hai có vẻ hợp lý hơn và phù hợp với chế định trọng tài. Bởi lẽ, do có tình tiết là
bên kia không phản đối thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án trong quá
trình sơ thẩm và có những hành vi tham gia tích cực vào quá trình tố tụng tại tòa
nên có thể hiểu là giữa các bên đã ngầm từ bỏ thỏa thuận trọng tài. Do thỏa thuận
trọng tài giữa các bên không còn tồn tại nên Tòa án không vi phạm Điều 6 Luật
TTTM 2010. Hướng giải quyết này sẽ có lợi là hạn chế được trường hợp một bên
lợi dụng chứng cứ để Tòa án giải quyết, chừng nào thấy bản án của Tòa án bất lợi
cho mình mới phản đối thẩm quyền của Tòa án để hủy bản án đó.
2.1.2. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề chỉ định trọng tài viên, thay đổi
trọng tài viên đối với Hội đồng trọng tài vụ việc
Hội đồng trọng tài vụ việc được hình thành dựa trên sự thỏa thuận của các bên,
nếu vì một lý do nào đó không thể chọn được trọng tài viên thì tòa án sẽ đứng ra
chỉ định. Việc chỉ định trong trường hợp này là cần thiết, đảm bảo cho sự vô tư
khách quan và bảo vệ quyền lợi của các bên một cách tốt nhất.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề chỉ định trọng tài viên, thay đổi
trọng tài viên đối với Hội đồng trọng tài vụ việc theo PLTTTM 2003

6


Giải quyết tranh chấp thương mại


Nhóm 1 HC34A

Sự hỗ trợ này được quy định tại Điều 26 PLTTTM 2003 trong trường hợp các
bên tự thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad - hoc), cụ thể là:
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì khi nguyên đơn gửi
đơn kiện cho bị đơn, bị đơn phải chọn trọng tài viên và thông báo cho nguyên
đơn biết trọng tài viên mà mình chọn. Nếu quá thời hạn luật định (ba mươi ngày)
mà bị đơn không chọn được trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Tòa
án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên cho bị đơn.
Hai trọng tài viên được chọn hoặc được Tòa án chỉ định phải thống nhất và chọn
ra trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài trong thời hạn mười năm
ngày. Nếu như hai trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định không chọn được
trọng tài viên thứ ba, các bên có quyền yêu cầu Tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ
sở hoặc cư trú chỉ định trọng tài viên thứ ba.
Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng Trọng tài được các bên thành lập giải
quyết, việc thay đổi Trọng tài viên do các Trọng tài viên khác trong Hội đồng
Trọng tài quyết định. Trong trường hợp không quyết định được hoặc nếu hai
Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết vụ tranh chấp thì
theo yêu cầu của nguyên đơn Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc
cư trú giao cho một Thẩm phán xem xét quyết định. Quyết định của Toà án là
chung thẩm (điểm b khoản 4 Điều 27 PLTTTM 2003).
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề chỉ định trọng tài viên, thay đổi
trọng tài viên đối với Hội đồng trọng tài vụ việc theo Luật TTTM 2010
Sự hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài trong việc chỉ định trọng tài viên chỉ
được áp dụng trong Trọng tài vụ việc và được quy định tương tự như PLTTTM
2003, cụ thể tại Điều 41 Luật TTTM 2010. Tuy nhiên, đối với quy định về việc
thay đổi trọng tài viên thì so với PLTTTM 2003, Luật TTTM 2010 đã mở rộng
quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên đối với vụ tranh chấp do Hội đồng Trọng tài
được các bên thành lập giải quyết, cụ thể là:


7


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Theo Pháp lệnh, chỉ nguyên đơn mới có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi trọng
tài viên, còn theo Luật TTTM 2010 chủ thể không chỉ là nguyên đơn mà là một
hoặc các bên tranh chấp. Có nghĩa là bị đơn cũng có quyền yêu cầu Tòa án thay
đổi Trọng tài viên. Đồng thời, Luật còn cho phép một hoặc các trọng tài viên được
chỉ định để giải quyết vụ tranh chấp cũng có quyền yêu cầu.
Như vậy, việc mở rộng quyền yêu cầu Tòa án thay đổi Trọng tài viên theo Luật
TTTM 2010 là hợp lý. Bởi vì kết quả của việc giải quyết tranh chấp không chỉ ảnh
hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn mà còn cả bị đơn, ngoài ra thì đây là trọng
tài vụ việc do các bên thỏa thuận thành lập để giải quyết tranh chấp nên để đảm
bảo cho sự bình đẳng về quyền thì bị đơn cũng có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi
trọng tài viên. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết
tranh chấp thì các trọng tài viên được chỉ định giải quyết tranh chấp cũng có quyền
yêu cầu Tòa án thay đổi một trong các trọng tài viên còn lại. Điều này đảm bảo sự
khách quan, công bằng trong việc giải quyết tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài vụ
việc.
2.1.3. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề lưu giữ hồ sơ đối với giải quyết
tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (ad hoc)
Hội đồng trọng tài vụ việc được thành lập theo ý chí của các bên để giải quyết
tranh chấp, sau khi giải quyết xong thì chấm dứt. Do vậy, nếu không quy định
lưu trữ hồ sơ đối với hình thức trọng tài này thì sẽ gặp phải những khó khăn với
yêu cầu xin hủy phán quyết trọng tài sau này.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề lưu giữ hồ sơ đối với giải quyết tranh
chấp bằng Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (ad hoc) theo PLTTTM

2003
Theo PLTTTM 2003, cụ thể tại khoản 2 Điều 48 Pháp lệnh trọng tài thương
mại 2003 quy định: “Đối với việc giải quyết vụ tranh chấp tại Hội đồng Trọng
tài do các bên thành lập, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày công bố

8


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

quyết định trọng tài hoặc biên bản hoà giải, Hội đồng Trọng tài phải gửi quyết
định trọng tài, biên bản hoà giải kèm theo hồ sơ giải quyết vụ tranh chấp cho
Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài hoặc lập biên
bản hoà giải để lưu trữ”.
Như vậy, hồ sơ sẽ được lưu trữ tại Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra
quyết định trọng tài. Chính sự hỗ trợ của Tòa án trong việc lưu trữ hồ sơ trọng tài
đã tạo ra sự an tâm cho các bên tranh chấp, mặt khác còn tạo ra sự thuận lợi để
Tòa án xem xét khi có yêu cầu hủy quyết định trọng tài đối với trọng tài theo vụ
việc.
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề lưu giữ hồ sơ đối với giải quyết
tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài do các bên thành lập (ad hoc) theo Luật
TTTM 2010
Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 Luật TTTM 2010: “Trung tâm trọng
tài có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ vụ tranh chấp đã thụ lý. Hồ sơ vụ tranh chấp do
Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ”.
Như vậy, Luật TTTM 2010 đã bỏ đi quy định về việc lưu trữ hồ sơ giải quyết
tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài vụ việc của Tòa án mà hồ sơ vụ tranh chấp
Trọng tài vụ việc sẽ do các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ.

2.1.4. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các
biện pháp khẩn cấp tạm thời
Tố tụng Trọng tài thường nhanh hơn tố tụng Tòa án. Tuy nhiên, cũng phải mất
một khoảng thời gian để Hội đồng trọng tài đưa ra một phán quyết cuối cùng.
Khoảng thời gian này chính là điều kiện để bên chống đối có những hành vi như:
che dấu hoặc là hủy hoại chứng cứ, bán tài sản, chuyển hàng hóa hoặc tài sản đến
nới khác. Vì vậy, trong những trường hợp như thế, các lệnh nhằm mục đích bảo vệ
tài sản, chứng cứ, hoặc theo cách nào đó duy trì hiện trạng trong khi chờ đợi kết
quả của chính quá trình tố tụng của Tòa án hay Hội đồng trọng tài là cần thiết.

9


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Điều này giúp hạn chế tình trạng một bên tranh chấp hủy hoại chứng cứ, chuyển
tài sản ra nước ngoài gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ tranh chấp. Cho
nên sự hỗ trợ của Tòa án trong việc thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời là
rất cần thiết.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo PLTTTM 2003
Tại Điều 33 Pháp lệnh trọng tài trọng tài thương mại 2003 quy định rõ:
“Trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì
các bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ
tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau
đây:
1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hoặc có

nguy cơ bị tiêu huỷ;
2. Kê biên tài sản tranh chấp;
3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
6. Phong toả tài khoản tại ngân hàng.”
Tùy theo yêu cầu áp dụng loại biện pháp khẩn cấp tạm thời mà bên yêu cầu
phải cung cấp mà bên yêu cầu phải cung cấp cho Toà án bằng chứng cụ thể về
các chứng cứ cần được bảo toàn, các chứng cứ về việc bị đơn tẩu tán, cất giấu tài
sản có thể làm cho việc thi hành quyết định trọng tài không thể thực hiện được.
Đồng thời, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải nộp một khoản
tiền bảo đảm do Toà án ấn định, nhưng không quá nghĩa vụ tài sản mà người có
nghĩa vụ phải thực hiện để bảo vệ lợi ích của bị đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng

10


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có yêu cầu (khoản 2, 3 Điều 34
PLTTTM 2003).
Như vậy, Tòa án chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu của
các bên và phải trong quá trình tố tụng trọng tài. Khi nhận được đơn yêu cầu,
Tòa án phải xem xét tài liệu do bên yêu cầu cung cấp theo quy định tại Điều 33
của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Nếu đủ căn cứ theo Điều 33, 34 của
Pháp lệnh này thì Tòa án mới ra quyết định.
Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được thay đổi hoặc hủy
bỏ khi không còn phù hợp hoặc không còn cần thiết theo yêu cầu của bên đề nghị

áp dụng (Điều 35 PLTTTM 2003).
Có thể nói, việc Tòa án xem xét áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong quá trình tố tụng trọng tài là biện pháp hỗ trợ quan trọng nhất của Tòa án
đối với việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Vai trò hỗ trợ của Tòa án đối
với Trọng tài trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một điều
được quy định trong pháp luật trọng tài của nhiều nước nhưng lại là lần đầu tiên
được quy định rõ ràng trong pháp luật nước ta bằng PLTTTM 2003.
Tuy nhiên, các quy định của PLTTTM 2003 về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời còn một số hạn chế, cụ thể là:
Theo quy định tại Điều 33 PLTTTM 2003 thì nếu muốn áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời các bên phải chờ đến khi Hội đồng trọng tài được thành lập.
Quy định này một phần nào đó không còn mang bản chất của biện pháp khẩn cấp
tạm thời vì bản chất của biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhanh chóng, khẩn
trương, kịp thời. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, thời điểm các bên cần
thiết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đồng nhất với thời
điểm Hội đồng trọng tài đã được thành lập.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 33 Pháp lệnh
thì chỉ được thực hiện “trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh

11


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

chấp”. Điều này chỉ được tiến hành “trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết
vụ tranh chấp”. Và trước câu hỏi “Trước khi Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh
chấp, một bên có quyền yêu cầu biện pháp trên không?” thì Pháp lệnh không có
câu trả lời. Bên cạnh đó, quy định này vô hình chung đã tạo cơ hội cho các bên có

đủ thời gian để tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình giải quyết tranh chấp và
trong một số trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa
án không còn ý nghĩa nữa vì các bên đã kịp chuyển tài sản ra nước ngoài hoặc đã
hủy hoại toàn bộ chứng cứ.
Tại Điều 33 Pháp lệnh này, chỉ trao thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời cho Tòa án nơi Hội đồng trọng tài thụ lý tranh chấp. Chính điều này đã
gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này.
Bởi lẽ thực tiễn cho thấy có nhiều vụ tranh chấp có tài sản là đối tượng của vụ
tranh chấp có ở nhiều nơi khác nhau thì quy định này trở nên không hợp lý và sẽ
gây nhiều khó khăn cho Tòa án khi xem xét ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp này. Trường hợp vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì quy
định này khó có thể thực hiện trên thực tế vì Tòa án Việt Nam không thể ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản nằm ngoài lãnh thổ Việt
Nam. Điều này chỉ hợp lý khi các bên tranh chấp, Hội đồng trọng tài, tài sản liên
quan ở cùng một nơi, còn nếu tài sản liên quan ở địa bàn khác hoặc nằm ở nước
ngoài thì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là bất khả thi và không hợp
lý.
Ngoài ra, Điều 33 Pháp lệnh cho phép các bên, trong khi Hội đồng trọng tài
đang giải quyết vụ tranh chấp, nếu cần thiết thì có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là Pháp lệnh không cho
phép Hội đồng trọng tài có quyền xem xét hoặc kiến nghị gì đối với Quyết định
này mặc dù việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một trong những điều
khoản của tố tụng trọng tài. Điều này cho thấy Hội đồng trọng tài là cơ quan trực

12


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A


tiếp xét xử vụ việc nhưng lại không có quyền gì đối với việc áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngay cả khi nhận thấy việc áp dụng này là không đúng.
Theo quy định của Điều 35 Pháp lệnh thì chỉ duy nhất bên yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời mới có quyền yêu cầu hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời nên không thể hủy bỏ quyết định này khi bên yêu cầu không có yêu cầu
hủy bỏ. Như vậy, khi vụ việc đã được Hội đồng trọng tài xét xử xong với kết quả
có thể là bác yêu cầu của bên đã đưa ra yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời nhưng lại không có quyền hủy hoặc kiến nghị Tòa án hủy Quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bởi vậy, có thể dẫn đến tình trạng là yêu cầu của bên
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vụ kiện không được Hội đồng
trọng tài chấp nhận nhưng Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn
“treo” tài sản của bên kia, đặc biệt là của bên thứ ba nên có thể gây ra thiệt hại
nghiêm trọng tới người bị áp dụng biện pháp.
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo Luật TTTM 2010
Điểm mới của Luật TTTM 2010 là cho phép Hội đồng trọng tài được quyền
xem xét áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như được quyền thay đổi, hủy
bỏ quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Việc pháp luật trao
thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Hội đồng trọng tài có ý
nghĩa quan trọng, giúp cho quá trình trọng tài diễn ra nhanh hơn, góp phần tăng
sức hấp dẫn của Trọng tài. Tuy nhiên, phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài còn hạn chế, vì thế, đối với những biện
pháp khẩn cấp tạm thời mà Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền áp dụng thì
sự hỗ trợ của Tòa án trong trường hợp này là rất cần thiết giúp cho quá trình tố
tụng Trọng tài diễn ra bình thường, đảm bảo tính khả thi của phán quyết Trọng tài
đồng thời nâng cao uy tín Trọng tài.
Đồng thời, để tránh sự nhầm lẫn hoặc lạm quyền của Tòa án, khoản 2 Điều 48
Luật TTTM 2010 còn quy định: “Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
13



Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”.
Để khắc phục những thiếu sót của Pháp lệnh trong việc quy định về thời điểm
yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như đã đề cập ở trên thì Luật
TTTM 2010 đã quy định, khi nhận thấy lợi ích có nguy cơ bị xâm phạm, một bên
đã có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp mà không bị giới hạn như
Pháp lệnh là chờ đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập mới có quyền yêu
cầu. Cụ thể là theo quy định tại Điều 53 Luật TTTM 2010: “Sau khi nộp đơn khởi
kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực
tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu
áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tòa án có thẩm quyền là
Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng”.
Bên cạnh đó, Theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 7 Luật TTTM 2010 quy
định: “Đối với yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án có
thẩm quyền là Tòa án nơi biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng”. Như
vậy, Luật TTTM 2010 đã khắc phục được quy định không hợp lý của Pháp lệnh ở
việc quy định về vấn đề trao thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho
Tòa án nơi Hội đồng trọng tài được thành lập. Thay vào đó, Luật 2010 quy định
Tòa án có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi biện
pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Quy định này là hợp lý vì nó tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho Tòa án khi xem xét ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp này.
Mặc dù khắc phục được những quy định chưa hợp lý của Pháp lệnh TTTM
2003 về vấn đề áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy

nhiên Luật TTTM 2010 còn mắc phải một số hạn chế, cụ thể là:
Như đã phân tích, theo khoản 1 Điều 53 Luật TTTM 2010, sau khi nộp đơn
khởi kiện, một bên có quyền làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền yếu cầu áp
dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quy định này vô hình chung
tạo cơ hội để cho các bên tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình giải quyết
14


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

tranh chấp. Trong một số trường hợp, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án không còn ý nghĩa nữa vì các bên đã kịp chuyển tài sản ra nước
ngoài hoặc đã hủy hoại toàn bộ chứng cứ. Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 53
là chưa thật hợp lý. Thiết nghĩ, việc cho phép các bên tranh chấp được quyền yêu
cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng với thời điểm
nộp đơn khởi kiện ra trọng tài sẽ hợp lý hơn.
Hơn nữa, Luật TTTM 2010 quy định “một bên” có quyền yêu cầu Tòa án hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng. Tuy nhiên, Luật lại không quy định rõ
một bên là gồm những bên nào. Một bên ở đây được hiểu là các bên trong tố tụng
trọng tài (nguyên đơn và bị đơn) hay bao gồm cả bên thứ ba là người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan đến vụ tranh chấp. Nếu một bên ở đây chỉ bao gồm các bên
trong tố tụng trọng tài thì quy định này chưa hợp lý. Bởi lẽ, thực tiễn cho thấy biện
pháp khẩn cấp tạm thời không chỉ được áp dụng đối với tài sản hoặc chứng cứ
đang thuộc quyền quản lý, sở hữu của các bên trong tố tụng trọng tài mà còn có
thể được áp dụng đối với tài sản hoặc chứng cứ thuộc về bên thứ ba, không phải là
một bên trong tố tụng trọng tài.
Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án, các bên cũng như Hội đồng
trọng tài thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng quy định này, bảo vệ quyền lợi

chính đáng của bên thứ ba liên quan đến vụ tranh chấp, văn bản hướng dẫn thi
hành Luật TTTM 2010 cần phải giải thích rõ quy định này theo hướng: một bên ở
đây không chỉ là các bên trong tố tụng trọng tài mà còn cả bên thứ ba là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng được quyền yêu cầu Tòa án đã ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, hủy bỏ
hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Bởi lẽ, nếu không trao cho bên thứ ba quyền
này và biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn cần thiết nữa nhưng các bên tranh
chấp không có yêu cầu hủy bỏ thì biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn bị “treo”.
Trong trường hợp này Tòa án và Hội đồng trọng tài không thể làm gì được vì theo
Luật TTTM 2010, Tòa án không thể tự mình hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
đã áp dụng mà phải có yêu cầu của một bên.
15


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

2.1.5. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề thu thập chứng cứ và triệu tập
nhân chứng
Việc thu thập chứng cứ cũng như vấn đề triệu tập nhân chứng sẽ giúp cho việc
giải quyết tranh chấp được khách quan và nhanh chóng. Tuy nhiên Trọng tài với
bản chất là cơ quan tài phán tư – không mang quyền lực nhà nước nên sự hỗ trợ
của Tòa án để việc giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Trọng tài là cần thiết.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề thu thập chứng cứ và triệu tập nhân
chứng theo PLTTTM 2003
Khoản 1 Điều 32 Pháp lệnh có quy định: “Các bên có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ để chứng minh sự việc mà mình nêu ra. Hội đồng Trọng tài có quyền
yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp”. Trong khi đó
Pháp lệnh lại chưa có một quy định nào về việc hỗ trợ của Tòa án trong việc thu

thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Trọng tài chỉ có thể ra quyết định bắt buộc
các bên đương sự có liên quan đến thỏa thuận trọng tài nhưng không thể bắt buộc
bên thứ ba cung cấp chứng cứ, tài liệu mà họ đang quản lý. Trong Pháp lệnh đã có
quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời nhưng lại không có quy định về việc hỗ trợ của Tòa án trong việc yêu cầu bên
thứ ba giao nộp chứng cứ hay việc triệu tập người làm chứng.
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề thu thập chứng cứ và triệu tập nhân
chứng theo Luật TTTM 2010
 Đối với vấn đề thu thập chứng cứ
Khoản 5 Điều 46 Luật TTTM 2010 quy định “Trong trường hợp Hội đồng
trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập chứng
cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể gửi văn bản đề nghị Toà án
có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được,
nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ tranh chấp”.

16


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Đây là quy định mới của Luật TTTM 2010 so với PLTTTM 2003. Mặc dù việc
thu thập chứng cứ được xác định là quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên,
trong trường hợp Hội đồng trọng tài, một hoặc các bên đã áp dụng các biện pháp
cần thiết để thu thập chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể
gửi văn bản đề nghị Toà án có thẩm quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung
cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến vụ
tranh chấp. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo hiệu quả tốt nhất cho việc
giải quyết các tranh chấp được thực hiện một cách khách quan, hiệu quả.

 Đối với vấn đề triệu tập nhân chứng
Điểm mới của Luật TTTM 2010 so với PLTTTM 2003 là Luật đã bổ sung quy
định về thẩm quyền của Tòa án trong việc triệu tập người làm chứng. Quy định
này là hợp lý vì trong quá trình tố tụng trọng tài, theo sự thỏa thuận của các bên
tranh chấp, trọng tài có quyền ra các quyết định có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên tranh chấp nhưng lại không có quyền đối với bất kì bên thứ ba nào khác có
liên quan đến tổ chức.
Cụ thể là theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật: “Trường hợp người làm
chứng đã được Hội đồng trọng tài triệu tập hợp lệ mà không đến phiên họp nhưng
không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc giải quyết
tranh chấp, thì Hội đồng trọng tài gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra
quyết định triệu tập người làm chứng đến phiên họp của Hội đồng trọng tài”. Quy
định này bảo đảm cho quá trình trọng tài diễn ra suôn sẻ, có hiệu quả, đặc biệt là
trong các trường hợp cần phải triệu tập nhân chứng.
Như vậy, với quy định trên thì Luật TTTM 2010 đã khắc phục những thiếu sót
của PLTTTM 2003 về vấn đề hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ, triệu
tập nhân chứng. Điều này càng làm cho mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài
càng chặt chẽ hơn, đảm bảo tranh chấp được giải quyết nhanh chóng và hiệu quả
hơn.

17


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

2.1.6. Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề kiểm tra hiệu lực của quyết đinh
Trọng tài
Một trong những yếu tố đảm bảo cho tính có thể thi hành của phán quyết trọng

tài là các quy định về hủy phán quyết trọng tài phải rất hợp lý và chặt chẽ, tránh
trường hợp phán quyết trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy
tiện.
a) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề kiểm tra hiệu lực của quyết định
Trọng tài theo PLTTTM 2003
Theo quy định tại Điều 50 PLTTTM 2003: “Trong thời hạn ba mươi ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu có bên không đồng ý với quyết định
trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra
quyết định trọng tài, để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”. Pháp lệnh cũng quy
định trình tự thủ tục mà Tòa án xem xét yêu cầu hủy quyết định trọng tài.
Theo khoản 2 Điều 53 PLTTTM 2003 thì sau khi thụ lý yêu cầu hủy quyết
định trọng tài, Tòa án phải thông báo cho Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng
trọng tài do các bên thành lập, các bên tranh chấp và Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp. Trong trường hợp vụ án tranh chấp do Trung tâm trọng tài giải quyết
thì khi nhận được thông báo của Tòa án, Trung tâm trọng tài phải chuyển hồ sơ
cho Tòa án. Chánh án Toà án chỉ định một Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán,
trong đó có một Thẩm phán làm chủ toạ và phải mở phiên toà để xét đơn yêu cầu
huỷ quyết định trọng tài. Trong trường hợp nếu xét thấy có một trong những căn
cứ quy định tài Điều 54 của Pháp lệnh thì Hội đồng xét xử xem xét hủy quyết
định trọng tài, nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh
chấp đó ra giải quyết tại Tòa án. Trong trường hợp Hội đồng xét xử không hủy
quyết định trọng tài thì quyết định trọng tài được thi hành theo quy định của
Pháp lệnh.

18


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A


Như vậy, chỉ cần có một trong các bên không đồng ý với quyết định trọng tài
thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định
trọng tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài.
Tuy nhiên, PLTTTM 2003 quy định cơ chế hủy quyết định trọng tài khá là đơn
giản. Theo Điều 50 của pháp lệnh thì chỉ cần điều kiện “không đồng ý với phán
quyết trọng tài” thì các bên có quyền làm đơn yêu cầu hủy. Điều này vô hình
chung đã khuyến khích các bên làm đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với
nhiều mục đích khác nhau đặc biệt là để kéo dài thời hạn thi hành phán quyết
trọng tài, kịp tẩu tán tài sản…
Hơn nữa, một trong những nguyên tắc trong tố tụng trọng tài là nguyên tắc
không công khai. Các thông tin liên quan đến tranh chấp phải được giữ bí mật,
không được công khai nếu không có sự đồng ý của các bên. Tuy nhiên, khi có yêu
cầu Tòa án hủy quyết định trọng tài lúc này vụ việc sẽ được giải quyết theo thủ tục
tố tụng Tòa án. Mà theo Điều 15 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì Tòa án xét xử
công khai, mà một khi quyết định trọng tài đã được Tòa án thụ lý xem xét hủy thì
các thông tin liên quan đến vụ tranh chấp sẽ không còn được giữ bí mật nữa. Điều
đó ít nhiều ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của các bên.
b) Sự hỗ trợ của Tòa án trong vấn đề kiểm tra hiệu lực của quyết định
Trọng tài theo Luật TTTM 2010
Theo quy định tại Điều 69 Luật TTTM 2010: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh
được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật này, thì có quyền làm đơn gửi Toà án
có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp”. Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu
cầu hủy phán quyết trọng tài là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương được các bên lựa chọn, trường hợp các bên không có thỏa thuận lựa chọn
19



Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Tòa án thì thẩm quyền của Tòa án được lựa chọn theo khoản 2 Điều 7 Luật TTTM
2010.
Mặc dù khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh nhưng quy định của Luật
TTTM 2010 về vấn đề hủy quyết định trọng tài vẫn còn bất cập về thủ tục thụ lý
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài, cụ thể là:
Điều 69 Luật TTTM 2010 quy định về quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
khá chặt chẽ, theo đó, các bên phải có đủ căn cứ theo quy định mới có quyền làm
đơn yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết
trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiện, không có điều khoản nào của Luật
quy định thủ tục cũng như điều kiện thụ lý đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài không đầy
đủ các nội dung quy định tại Điều 70 hoặc không cung cấp đủ tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình thì Tòa án có thụ lý đơn không?. Nếu từ chối
thụ lý thì Tòa án căn cứ vào cơ sở pháp lý nào?. Hay khi có đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài của một trong các bên tranh chấp gửi đến Tòa án đúng thời hạn
theo quy định thì Tòa án sẽ đương nhiên thụ lý và để đấy, đơn yêu cầu có đủ căn
cứ hay không thì sau khi thụ lý, Tòa án sẽ xem xét sau?. Bởi lẽ, Luật không quy
định rõ trường hợp nào Tòa án thụ lý đơn và trường hợp nào Tòa án không thụ lý
đơn. Điều này có thể gây khó khăn cho Tòa án trong quá trình thụ lý hồ sơ yêu cầu
hủy phán quyết trọng tài, dễ dẫn đến tiêu cực và cũng là lỗ hổng để các bên lợi
dụng trì hoãn thi hành phán quyết Trọng tài. Đồng thời, làm nản lòng những người
thật sự mong muốn giải quyết dứt điểm tranh chấp theo thủ tục Trọng tài. Vì dù
kết quả có như thế nào đi chăng nữa thì họ cũng đạt được mục đích của mình là

kéo dài việc thi hành nghĩa vụ được một thời gian.
2.1.7. Một số kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về sự
hỗ trợ của Tòa án trong tố tụng trọng tài
Thứ nhất, về mức độ hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động Trọng tài

20


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Bên cạnh sự thành công của Trọng Tài không thể không nói đến vai trò của
Tòa án. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động trọng tài cũng cần đên sự hỗ trợ
của Toà án. Nếu Tòa án can thiệp quá sâu thì Trọng tài sẽ mất đi tính linh hoạt vốn
có của mình và ảnh hưởng không tốt đến Trọng tài. Chính vì vậy, một mặt để phát
huy vai trò hỗ trợ của Tòa án, mặt khác tránh tình trạng lạm quyền của Tòa án, nên
đưa các quy định, chẳng hạn như: “Tòa án chỉ có thẩm quyền can thiệp khi được
pháp luật cho phép” vào trong Luật TTTM 2010. Xuất phát từ các lý do sau:
Một là, vai trò của Tòa án là cần thiết giúp cho Trọng tài hoạt động có hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng cần đến Tòa án. Nếu Tòa án can thiệp
sâu vào hoạt động Trọng tài thì có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến Trọng tài. Vì
vậy, để tránh tình trạng Tòa án can thiệp sâu vào hoạt động Trọng tài trong những
trường hợp không cần thiết, Luật trọng tài nên ghi nhận trực tiếp nguyên tắc này.
Hai là, việc ghi nhận quy định này một mặt có tác dụng là tạo sự an tâm cho
các Trọng tài viên, mặt khác để khẳng định thái độ tin tưởng của Pháp luật đối với
hệ thống trọng tài để có đủ khả năng bảo vệ lợi ích của các bên tranh chấp. Đây
cũng là động lực để Trọng tài phấn đấu trở thành phương thức hấp dẫn và có hiệu
quả để các bên tin tưởng và sẽ ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp, bất đồng
trong kinh doanh.

Thứ hai, về vấn đề thự thi thỏa thuận trọng tài.
Nên ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể Điều 6 Luật TTTM 2010 theo hướng
quy định rằng: sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đó các bên
đã thỏa thuận trọng tài, thì Tòa án căn cứ vào quy định tương ứng của pháp luật tố
tụng ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, trả lại đơn kiện và các tài liệu
gửi kèm theo đơn kiện cho đương sự. Đồng thời, nên quy định rõ trường hợp các
bên đã có thỏa thuận trọng tài nhưng khi phát sinh tranh chấp, một bên cứ kiện ra
Tòa án thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nếu được bên kia
chấp nhận bằng văn bản hoặc hành vi tương đương. Hành vi tương đương ở đây
có thể là không phản đối thẩm quyền của Tòa án và có những hành vi tham gia tố
tụng tại Tòa án như: nộp bản tự bảo vệ, viết đơn kiện lại.v.v.
21


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

Hơn nữa, văn bản hướng dẫn thi hành cần đưa ra các tiêu chí để xác định
trường hợp nào thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được vì đây là một thuật
ngữ không rõ ràng. Có thể là:
-

Điều khoản Trọng tài có câu chữ quá mơ hồ. Ví dụ như: “tất cả các tranh

chấp liên quan đến thỏa thuận hiện tại phải được đưa ra Trọng tài giải quyết lúc
đầu. Trọng tài viên phải là một Phòng thương mại có uy tín được chỉ định theo
thỏa thuận chúng giữa các bên” hoặc “trong trường hợp tranh chấp không được
giải quyết, vấn đề sẽ được đưa ra Phòng thương mại quốc tế”.
-


Có sự mâu thuẫn với ý chí đưa ra trọng tài giải quyết của các bên. Chẳng

hạn như: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải quyết trước tiên
tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế sau đó sẽ được giải quyết chung thẩm tại Tòa án”,
hoặc “tranh chấp nếu có sẽ được giải quyết tại Trung tâm Trọng Tài Quốc tế Việt
Nam và Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC”.
-

Điều khoản trọng tài không phù hợp với nguyên tắc giải quyết tranh chấp

bằng trọng tài. Ví dụ: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này sẽ được giải
quyết chung thẩm tại Trung Tâm Trọng Tài Quốc Tế Việt Nam theo quy tắc tố
tụng của Tòa án Trọng tài quốc tế ICC”.
Thứ ba, về vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như đã phân tích, theo khoản 1 Điều 53 Luật TTTM 2010, sau khi nộp đơn
khởi kiện, một bên có quyền làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền yếu cầu áp
dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Quy định này vô hình chung
tạo cơ hội để cho các bên tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình giải quyết
tranh chấp. Trong một số trường hợp, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Tòa án không còn ý nghĩa nữa vì các bên đã kịp chuyển tài sản ra nước
ngoài hoặc đã hủy hoại toàn bộ chứng cứ. Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 53
là chưa thật hợp lý. Thiết nghĩ, việc cho phép các bên tranh chấp được quyền yêu
cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng với thời điểm
nộp đơn khởi kiện ra Trọng tài sẽ hợp lý hơn.

22


Giải quyết tranh chấp thương mại


Nhóm 1 HC34A

Hơn nữa, như đã phân tích, Luật TTTM 2010 quy định “một bên” có quyền
yêu cầu Tòa án hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng. Tuy nhiên, Luật
lại không quy định rõ một bên là gồm những bên nào. Một bên ở đây được hiểu là
các bên trong tố tụng trọng tài (nguyên đơn và bị đơn) hay bao gồm cả bên thứ ba
là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ tranh chấp. Nếu một bên ở đây
chỉ bao gồm các bên trong tố tụng trọng tài thì quy định này chưa hợp lý. Bởi lẽ,
thực tiễn cho thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời không chỉ được áp dụng đối với tài
sản hoặc chứng cứ đang thuộc quyền quản lý, sở hữu của các bên trong tố tụng
trọng tài mà còn có thể được áp dụng đối với tài sản hoặc chứng cứ thuộc về bên
thứ ba, không phải là một bên trong tố tụng Trọng tài.
Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án, các bên cũng như Hội đồng
trọng tài thuận lợi hơn trong quá trình áp dụng quy định này, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của bên thứ ba liên quan đến vụ tranh chấp, văn bản hướng dẫn thi
hành Luật TTTM 2010 cần phải giải thích rõ quy định này theo hướng: một bên ở
đây không chỉ là các bên trong tố tụng trọng tài mà còn cả bên thứ ba là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng được quyền yêu cầu Tòa án đã ra quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời xem xét, giải quyết việc thay đổi, hủy bỏ
hoặc giữ nguyên các biện pháp đó. Bởi lẽ, nếu không trao cho bên thứ ba quyền
này và biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn cần thiết nữa nhưng các bên tranh
chấp không có yêu cầu hủy bỏ thì biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn bị “treo”.
Trong trường hợp này Tòa án và Hội đồng trọng tài không thể làm gì được vì theo
Luật TTTM 2010, Tòa án không thể tự mình hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
đã áp dụng mà phải có yêu cầu của một bên.
Thứ tư, giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài.
Luật TTTM 2010 không có điều khoản nào quy định về thủ tục cũng như điều
kiện thụ ký đơn yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài. Điều này vô hình chung Luật
đã mở đường và tạo điều kiện làm giảm hiệu lực của phán quyết Trọng tài. Thiết

nghĩa, nhất thiết phải có điều khoản quy định rõ điều kiện cũng như thủ tục thụ lý
đơn của Tòa án ngay trong Luật TTTM 2010. Khi nào Tòa án thụ lý đơn và khi
23


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

nào Tòa án không thụ lý cần phải quy định rõ trong Luật. Có như vậy mới có thể
tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong quá trình hỗ trợ hoạt động trọng tài. Ta có
thể quy định theo hướng: đối với đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thuộc một
trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 68 Luật TTTM
2010, Tòa án chỉ thụ lý khi các bên yêu cầu cung cấp được các tài liệu chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp. Đối
với đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thuộc trường hợp quy định tại điểm đ
khoản 2 Điều 68 Luật TTTM 2010 thì Tòa án phải có nghĩa vụ xác minh trong
một thời hạn nhất định. Tòa án chỉ thụ lý khi yêu cầu có căn cứ.
2.2. Sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án trong hoạt động tố tụng trọng tài
theo Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và Luật trọng tài thương mại 2010
Bản chất của Trọng tài là tổ chức phi Chính phủ hoạt động nhằm bảo vệ lợi ích
tư của các cá nhân, tổ chức. Hơn nữa, Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp mà không có thẩm quyền buộc các bên phải thi hành. Vì vậy, sự hỗ trợ của
Cơ quan thi hành án dân sự đối với hoạt động tố tụng Trọng tài là cần thiết.
Sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với quá trình tố tụng của Trọng tài
thương mại được thể hiện thông qua các quy định như: thi hành quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và thi hành phán quyết của Hội đồng trọng tài.
2.2.1. Sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án trong vấn đề thi hành quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
a) Sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án trong vấn đề thi hành quyết định áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo PLTTTM 2003
Theo quy định tại Điều 33 PLTTTM 2003:
“Trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các
bên có quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh
chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây:
24


Giải quyết tranh chấp thương mại

Nhóm 1 HC34A

1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu huỷ hoặc có
nguy cơ bị tiêu huỷ;
2. Kê biên tài sản tranh chấp;
3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp;
4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp;
5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ;
6. Phong toả tài khoản tại ngân hàng”.
Như vậy, quy định trên thì khi một bên yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời và được chấp nhận thì Tòa án sẽ ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Quyết định này phải được gửi ngay cho Hội đồng Trọng tài,
các bên tranh chấp và Viện Kiểm sát cùng cấp và sẽ được thi hành ngay.
Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện
theo quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự 2004. Cụ thể là quy định tại Điều
16 của Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 thì khi có quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời của Tòa án thì thủ trưởng cơ quan thi hành án phải ra quyết định
thi hành án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó ngay lập tức.
Như vậy, thông qua hoạt động thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời của Tòa án, chúng ta có cái nhìn mới về vai trò hỗ trợ của Cơ quan thi
hành trong tố tụng trọng tài, đó là hỗ trợ một cách gián tiếp thông qua cơ quan Tòa
án. Và có thể nói cơ quan thi hành án đã góp phần quan trọng trong việc thi hành
các quyết định của Tòa án, đảm bảo quá trình tố tụng trọng tài diễn ra một cách
nhanh chóng và thuận lợi.
Tuy nhiên, theo PLTTTM 2003 thì việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời do Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chỉ là những quyết

25


×