Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

một số vấn đề về người bị hại trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.06 KB, 77 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 33 (2007-2011)
Đề tài:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hƣớng dẫn:
Ths. Mạc Giáng Châu
Bộ môn: Luật Tƣ pháp

Sinh viên thực hiện:
Thạch Thị Tuyền
MSSV: 5075157
Lớp: Tƣ pháp 2 - 33

Cần Thơ, 4/2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 33 (2007-2011)
Đề tài:


MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI BỊ HẠI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hƣớng dẫn:
Ths. Mạc Giáng Châu
Bộ môn: Luật Tƣ pháp

Sinh viên thực hiện:
Thạch Thị Tuyền
MSSV: 5075157
Lớp: Tƣ pháp 2 - 33

Cần Thơ, 4/2011


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………



MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU ……...……………………………………………………………….1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ HẠI ……...…………3
1.1 Khái niệm chung về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự ..……………………3
1.1.1 Khái niệm …………………………………………………………………..3
1.1.2 Đặc điểm người bị hại trong vụ án hình sự …...……………………………7
1.1.3 Các đặc trưng pháp lý của chế định người bị hại ...……………………….11
1.2 Cơ sở lý luận của chế định ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự……………..13
1.2.1 Vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa của chế định người bị hại trong tố
tụng hình sự.……..……………………………………….…………………………..13
1.2.2 Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự ……………………16
1.2.3 Nguyên tắc về bảo vệ người bị hại trong vụ án hình sự ………………….17
CHƢƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
NGƢỜI BỊ HẠI …………………………………………….……...22
2.1 Các quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại ……………………….22
2.1.1 Quyền của người bị hại …………………………………………………...22
2.1.1.1 Quyền đưa ra các chứng cứ và yêu cầu để chứng minh cho sự thiệt
hại ….......……………………………………………………………………23
2.1.1.2 Quyền được thông báo về kết quả điều tra ………………………….24
2.1.1.3 Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch .……………………………………………………………26
2.1.1.4 Quyền đề nghị mức bồi thường và biện pháp bảo đảm bồi thường…29
2.1.1.5 Quyền được tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa……...…31
2.1.1.6 Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án và khiếu nại các
quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng .……33
2.1.2 Nghĩa vụ của người bị hại ………………………………………………...41
2.1.2.1 Nghĩa vụ có mặt khi được triệu tập …………………………………41
2.1.2.2 Không được từ chối khai báo ……………………………………….43

2.1.2.3 Tuân thủ nội quy phiên tòa .…………………………………………44
2.2 Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại …………………45
2.2.1 Đại diện hợp pháp trong trường hợp người bị hại chết …………………...45
2.2.2 Đại diện hợp pháp trong trường hợp người bị hại là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về thể chất và tinh thần...…………………………..46


CHƢƠNG 3. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ HƢỚNG ĐỀ XUẤT VỀ NGƢỜI BỊ
HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...…………………………..48
3.1 Xác định chủ thể ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự...……………………...48
3.1.1 Chủ thể là người bị hại...………………………………………………….48
3.1.1.1 Tồn tại ……………………………………………………………….48
3.1.1.2 Hướng đề xuất ...….…………………………………………………50
3.1.2 Vấn đề đại diện hợp pháp của người bị hại ……………………………….50
3.1.2.1 Tồn tại ………………………………………………………………50
3.1.2.2 Hướng đề xuất……………………………………………………... 53
3.2 Quyền và nghĩa vụ của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự…………………54
3.2.1 Quyền kháng cáo ………………………………………………………….54
3.2.1.1 Tồn tại ……………………………………………………………….54
3.2.1.2 Hướng đề xuất ………………………………………………………55
3.2.2 Quyền được pháp luật bảo vệ ……………………………………………..56
3.2.2.1 Tồn tại ……………………………………………………………….56
3.2.2.2 Hướng đề xuất ………………………………………………………58
3.2.3 Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập………………………………………58
3.2.3.1 Tồn tại ……………….………………………………………………58
3.2.3.2 Hướng đề xuất ………………………………………………………59
3.2.4 Nghĩa vụ khai báo …………...……………………………………………60
3.2.4.1 Tồn tại ……………………………………………………………….60
3.2.4.2 Hướng đề xuất ………………………………………………………61
3.2.5 Những hiểu biết hạn chế của người bị hại khi tham gia tố tụng ………….63

3.2.5.1 Tồn tại ……………………………………………………………….63
3.2.5.2 Hướng đề xuất ………………………………………………………64
KẾT LUẬN ………………………………………………………………………..66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CSĐT

Cảnh sát điều tra

HĐXX
SN

Hội đồng xét xử
Sinh năm

TAND

Tòa án nhân dân

TP


Thành phố

TTXH
VKSND

Trật tự xã hội
Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Trong thời kỳ hợp tác kinh tế quốc tế, gia nhập WTO là một bộ phận quan trọng
trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm mở rộng hợp tác quốc tế,
nắm bắt, tận dụng thời cơ, thúc đẩy phát triển về mọi mặt. Bên cạnh việc gia nhập
WTO cũng đặt ra thử thách đối với nền kinh tế của đất nước đó là tình hình tội phạm
nước ta trong những năm gần đây ngày càng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi vượt
qua ngoài phạm vi của một quốc gia. Do vậy nước ta phải đối mặt với những khó khăn
đòi hỏi pháp luật nước ta phải hoàn thiện hơn để phù hợp hơn với tình hình thực tế đặc
biệt là tìm ra những chứng cứ để xác định thiệt hại trực tiếp do tội phạm gây ra cho
người bị hại nhằm buộc tội phạm phải bồi thường thiệt hại và phải chịu trách nhiệm
hình sự về hành vi của mình. Ngoài ra người bị hại là người thiệt thòi nhiều nhất trong

vụ án hình sự, vì vậy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là một
trong những nội dung quan trọng trong cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp
luật nước ta và cũng được ghi nhận trong Hiến pháp về bảo vệ công dân nói chung và
người bị hại nói riêng. Bên cạnh đó trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
nước ta tuy có quy định quyền và nghĩa vụ người bị hại nhưng khi áp dụng vào trong
thực tiễn lại gặp không ít khó khăn, mà có thể nói nguyên nhân cơ bản trước tiên cần
phải được đề cập là quyền và nghĩa vụ của người bị hại chưa được quy định cụ thể. Vì
vậy pháp luật nước ta phải hoàn thiện trong việc bảo vệ người bị hại song song với
mục tiêu xử lý tội phạm đúng người, đúng tội qua đó thể hiện được sự uy nghiêm của
pháp luật và tạo lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Xuất phát từ những lý do trên tác
giả chọn đề tài “Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam”
làm luận văn tốt nghiệp. Đây là một vấn đề cấp thiết đang được xã hội quan tâm và có
ý nghĩa trong việc xây dựng pháp luật phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta do đó cần được quan tâm và nghiên cứu kịp thời.
2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan
đến người bị hại như: khái niệm, đặc điểm, các đặc trưng pháp lý, quyền và nghĩa vụ,
vấn đề đại diện hợp pháp của người bị hại được quy định trong pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành. Qua quá trình nghiên cứu tác giả cũng đưa ra một số tồn tại và hướng đề
xuất để góp phần hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hại. Đối với vấn đề về người bị hại thì pháp luật tố tụng hình sự cũng có một
chế định quan trọng là khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại nhưng do thời gian
nghiên cứu đề tài còn hạn chế nên tác giả không mở rộng nghiên cứu sâu về vấn đề

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

1

SVTH: Thạch Thị Tuyền



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

này. Nội dung nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản
của người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại khi tham gia tố tụng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Người bị hại là một trong những vấn đề quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình
sự Việt Nam. Với mục tiêu khái quát nghiên cứu của đề tài tác giả tập trung đề cập đến
quyền và nghĩa vụ cơ bản của người bị hại được quy định trong luật. Để từ đó giúp
người bị hại biết rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, giảm bớt
các trường hợp người bị hại không biết quyền và nghĩa vụ của mình mà hậu quả là làm
cho quyền và nghĩa vụ không được đảm bảo. Ngoài ra tác giả cũng chỉ ra một số tồn
tại trong pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị hại cũng như thực tiễn
áp dụng hiện nay đó là pháp luật chưa quy định cụ thể chi tiết về quyền và nghĩa vụ
của người bị hại, cũng như chưa quy định về pháp luật bảo vệ họ khi bị tội phạm xâm
hại, những hiểu biết hạn chế người bị hại khi tham gia tố tụng nên khi áp dụng vào
trong thực tiễn gặp nhiều khó khăn. Từ mặt tồn tại đó tác giả cũng đưa ra một số đề
xuất để góp phần pháp luật được hoàn thiện hơn trong việc bảo vệ công dân nói chung
và người bị hại nói riêng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thuận tiện tiếp cận, làm sáng tỏ những nội dung nghiên cứu trong đề tài tác
giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp nghiên cứu sưu tầm
tài liệu, sách vở, phương pháp phân tích luật viết, phương pháp tổng hợp, so sánh, các
tạp chí chuyên ngành và các văn bản pháp luật liên quan. Ngoài ra tác giả nghiên cứu
dựa trên các quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng pháp luật.
5. Bố cục đề tài
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài thì ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục,
danh mục tài liệu tham khảo thì để thuận tiện cho việc nghiên cứu, phân tích tác giả

trình bày nội dung chính đề tài gồm có ba chương cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về người bị hại
Chương 2: Những quy định của pháp luật hiện hành về người bị hại
Chương 3: Một số tồn tại và hướng đề xuất về người bị hại trong tố tụng hình sự
Đề tài nghiên cứu “Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam” đây là một vấn đề quan trọng trong tố tụng hình sự, để nội dung nghiên cứu
được hoàn thiện đòi hỏi cần một thời gian dài nghiên cứu tìm hiểu về pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật. Do thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên đề tài
không trách khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy
Cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn. Qua đề tài này tác giả xin gửi lời cám
ơn đến Ths. Mạc Giáng Châu đã giúp tác giả hoàn thành tốt luận văn của mình.
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

2

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BỊ HẠI
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung
và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng mà Đảng và Nhà
nước ta quan tâm. Đó cũng là nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp
và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay. Vì vậy mà việc
xác định người bị hại, ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng cũng như những cơ sở lý luận
và cơ sở pháp lý của người bị hại là hết sức quan trọng vì quyền và những lợi ích hợp

pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số
những người tham gia tố tụng và một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo
vệ người bị hại đó là pháp luật tố tụng hình sự.
1.1 Khái niệm chung về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm
Việc xác định chính xác người bị hại, phạm vi người bị hại và họ xuất hiện từ
thời điểm nào là rất quan trọng mục đích nhằm xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với
giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nhờ vào đó mà sự kiện thực tế được xác định,
khẳng định đồng thời cũng loại trừ, phủ định những gì không có thật, không xảy ra
trong hiện thực. Qua đó pháp luật cũng có những biện pháp để góp phần hơn nữa trong
việc bảo vệ người bị hại nâng cao trách nhiệm phòng và chống tội phạm. Do đó việc
xác định ai là người bị hại là một biện pháp cần thiết và cấp bách cần xác định rõ trong
giai đoạn hiện nay.
Người bị hại: dưới góc độ ngôn ngữ ta có thể thấy người bị hại là một con
người cụ thể trong xã hội, chịu sự tác động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự
tác động nào khác dẫn đến những thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ và
những tác động đó là trái với ý muốn của người bị hại và họ tiếp nhận với một thái độ
thụ động, thiệt hại gây ra cho họ có thể là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất.
Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý thì người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người
phạm tội làm thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản.
Dưới góc độ pháp luật thực định: để bảo đảm những nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng hình sự là nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội cũng như
bảo vệ quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng nói chung và người bị hại
nói riêng về những thiệt hại như thể chất, tinh thần, tài sản vì vậy mà theo quy định tại
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

3


SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 quy định “Người bị hại là người bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Qua đó ta có thể thấy
người bị hại là một con người cụ thể bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất,
tinh thần, tài sản và đó cũng chính là đối tượng của tội phạm, những thiệt hại mà người
bị hại gánh chịu là những thiệt hại thực tế nếu thể chất, tinh thần, tài sản của một
người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì người đó không được coi là
người bị hại và đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội
phạm bị hành vi phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Ngoài
ra có thể thấy thiệt hại về thể chất đó là những thiệt hại như tội phạm xâm hại đến làm
người bị hại chết, bị thương tích… hoặc những thiệt hại về tinh thần như bị vu khống,
xúc phạm nhân phẩm, danh dự uy tín của một con người và những thiệt hại về tài sản
đó là những thiệt hại như tài sản bị mất, bị hư hỏng đặc biệt hơn cả những thiệt hại
trên là những thiệt hại do tội phạm gây ra. Người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là
người tham gia tố tụng và họ tham gia không mang quyền lực Nhà nước, việc thừa
nhận người nào đó là người bị hại phải theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát hoặc Toà án đã được quy định tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự
Việt Nam 2003.
Ví dụ cho những trường hợp nêu trên về những người tham gia tố tụng cụ thể là
người bị hại: vừa qua Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương vừa truy tố về tội “cố
ý gây thương tích” đối với bị cáo Dương Văn Hữu (SN 1976, trú tại xã Hợp Thành,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Theo cáo trạng của VKSND huyện Sơn Dương
sự việc tối 6/1/2008, khi tổ chức bắt gỗ của dân, Đội trồng rừng Lâm trường Sơn
Dương đã bị người dân ngăn cản. Trong lúc lộn xộn, anh Đinh Văn Dương (SN 1976,

trú tại thôn Đồng Diễn, xã Hợp Thành) đã bị Hữu dùng gậy sắt đánh vào đầu, gây tổn
hại 52% sức khỏe. Vì vậy, Hữu bị truy tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 104
Bộ luật hình sự. Trong vụ án này những người tham gia tố tụng theo quy định của
pháp luật là Dương Văn Hữu tham gia với tư cách là bị cáo, Đinh Văn Dương tham
gia vụ án với tư cách là người bị hại1.
Để hiểu rõ hơn, đi sâu hơn về khái niệm người bị hại cần phải nghiên cứu đi
qua một số khái niệm liên quan nhằm làm rõ, xác định đúng tư cách người bị hại trong
tố tụng hình sự như là cá nhân, tổ chức, người tham gia tố tụng cũng như nạn nhân của
tội phạm. Vì theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003 người bị hại là
“người bị thiệt hại” phải là con người cụ thể. Do vậy khi cơ quan, tổ chức và các chủ

1

Báo Gia đình & Xã hội, Vụ án “cố ý gây thương tích”: Bị hại “kêu oan” cho bị cáo, Bình Minh,
/>
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

4

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

thể khác tham gia vào trong quá trình tố tụng sẽ tham gia với tư cách như thế nào để
hiểu hơn điều đó ta đi qua một số vấn đề sau:
Cá nhân: cá nhân là một con người cụ thể là một thực thể sinh học, đang còn
sống và cá nhân tồn tại độc lập có thể phân biệt với tập thể hoặc một xã hội. Ví dụ như

nhân thân của một cá nhân dùng để phân biệt với các cá nhân khác: giấy khai sinh,
chứng minh nhân dân…
Pháp nhân: một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện
như được thành lập hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá
nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, nhân danh mình khi tham
gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập2.
Tổ chức: là một tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động
vì lợi ích chung. Ví dụ: tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế… theo quy định nếu
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại trong vụ án hình sự khi tham gia tố tụng thì họ phải tham
gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự khi có đơn yêu cầu theo quy định tại Điều
52 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003.
Theo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới như tại Điều 53
Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định: “Người bị hại là người bị tội phạm
gây thiệt hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành điều tra, dự thẩm
viên, Thẩm phán, Tòa án ra quyết định công nhận là người bị hại.” Và tại khoản 1
Điều 43 Bộ luật Tố tụng hình sự của Tiệp Khắc trước đây cũng quy định “Người bị
hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản, tinh thần hoặc những
thiệt hại khác.” Điều đó cho thấy pháp luật của đa số các nước có sự thống nhất trong
định nghĩa người bị hại. Tuy nhiên thực tế một số quốc gia cũng lại quy định về khái
niệm người bị hại là pháp nhân như tại khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng hình sự của
Ba Lan quy định: “Người bị hại là người hoặc pháp nhân mà lợi ích hợp pháp của họ
bị hậu quả của tội phạm trực tiếp xâm hại hoặc đe dọa.” Và Điều 53 Bộ luật Tố tụng
hình sự Hungary cũng có quan niệm tương tự3. Qua đó cũng cho ta thấy được các
nước có nhiều cách định nghĩa khác nhau về người bị hại không có sự thống nhất trong
cách định nghĩa cũng như áp dụng. Một số nước áp dụng người bị hại chỉ có thể là cá
nhân trong khi đó một số nước lại áp dụng người bị hại là pháp nhân mỗi nước có
những quan điểm khác nhau về vấn đề này. Còn theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì
luật đã xác định người bị hại chỉ có thể là cá nhân không thể là cơ quan, tổ chức do đó
tùy vào quy định pháp luật của mỗi quốc gia mà chế định này có nhiều cách áp dụng
2


Xem Điều 82 Bộ luật dân sự 2005.
Lê Tiến Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, số 1 (38), 2007.
3

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

5

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

và định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung lại là họ đã bị tội phạm xâm hại và cần
được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Người tham gia tố tụng: cá nhân hoặc pháp nhân bảo vệ các quyền và lợi ích
của mình hoặc các quyền và lợi ích của người mà họ đại diện trong khi tiến hành vụ án
hình sự và có những quyền và nghĩa vụ tương ứng4. Người tham gia tố tụng khi tham
gia vào quan hệ tố tụng sẽ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách cá nhân
hoặc tổ chức không mang quyền lực Nhà nước. Những người này tham gia tố tụng
không chỉ vì quyền và lợi ích của cá nhân mình mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng tìm ra sự thật của vụ án. Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, những người
tham gia tố tụng là: bị can, bị cáo; người đại diện hợp pháp, người bào chữa của bị
can, bị cáo; người bị tạm giữ; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch trong tố

tụng. Pháp luật quy định những quyền và nghĩa vụ bình đẳng tương ứng đối với họ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích và bảo đảm thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Vì vậy có thể thấy mối quan hệ
giữa khái niệm người tham gia tố tụng và người bị hại thì khái niệm người tham gia tố
tụng sẽ rộng hơn so với khái niệm người bị hại, người bị hại là một phần nhỏ trong
khái niệm người tham gia tố tụng.
Nạn nhân của tội phạm: khái niệm nạn nhân có nhiều cách hiểu khác nhau theo
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng nạn nhân được hiểu là người bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do tội phạm hoặc do các rủi ro, tai biến khác gây ra chẳng hạn
như vụ động đất, vụ cháy, vụ tai nạn giao thông. Ở nghĩa hẹp danh từ nạn nhân chỉ
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra như trường hợp
người bị giết, bị hiếp dâm, trộm cắp tài sản các tội phạm xảy ra trong thực tế bao gồm
tội phạm không có nạn nhân và tội phạm có nạn nhân5. Tội phạm có nạn nhân bao
gồm các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 như tội xâm hại sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người… mỗi tội phạm quy định trên đây được thực
hiện trong xã hội thường có một hay nhiều nạn nhân và ngược lại không có nạn nhân
của tội phạm thì sẽ không có tội phạm xảy ra, giữa người phạm tội và nạn nhân có mối
quan hệ biện chứng với nhau trong mối quan hệ này nạn nhân được coi là nhân tố là
nguyên cớ phát sinh hoặc điều kiện thúc đẩy thực hiện tội phạm. Tuy nhiên không phải
nạn nhân nào cũng là người bị hại, nạn nhân là người bị hại chỉ khi tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự thì mới xem họ là người bị hại. Như đã biết hành vi phạm tội
4
5

Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, />Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tội phạm học, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2006, trang 176.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

6


SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ do đó ta có thể thấy người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái
niệm nạn nhân của tội phạm.
Như vậy, người bị hại trong vụ án hình sự theo pháp luật Việt Nam là cá nhân,
là một con người cụ thể không phải là tổ chức hay pháp nhân. Người bị hại sẽ tham gia
tố tụng với tư cách người tham gia tố tụng thông qua theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Do đó không phải trong mọi trường hợp khái
niệm nạn nhân của tội phạm đều đồng nghĩa với khái niệm người bị hại do khái niệm
nạn nhân của tội phạm rộng hơn so với với khái niệm người bị hại. Đồng thời khi tham
gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thì người bị hại còn được bảo vệ theo quy
định của pháp luật hiện hành.
1.1.2 Đặc điểm ngƣời bị hại trong vụ án hình sự
Để bảo đảm quá trình giải quyết vụ án hình sự, khách quan, toàn diện chính
xác, triệt để các vụ án hình sự thì việc xác định người nào là người bị hại, thiệt hại họ
đã bị tội phạm xâm hại đến là có cần hậu quả xảy ra không, cũng như những thiệt hại
đó là trực tiếp hay gián tiếp bị xâm hại thì mới được xem là người bị hại và có cần
phải do tội phạm gây ra hay không. Đó là những đặc điểm quan trọng trong việc xác
định người bị hại trong vụ án hình sự. Vì vậy để hiểu rõ hơn về những vấn đề đó cũng
như những khó khăn, vướng mắc khi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng áp dụng, thực hiện khi xác định người bị hại.
Từ những lý do trên và từ khái niệm chung về người bị hại đã được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam, có thể khái quát chung về đặc điểm người bị
hại như sau:

Thứ nhất: Người bị hại là người tham gia tố tụng. Theo quy định Bộ luật Tố
tụng hình sự Việt Nam chỉ coi người bị hại là công dân, pháp nhân hay tổ chức xã hội
không được coi là người bị hại. Người bị hại là một con người cụ thể bị hành vi phạm
tội trực tiếp xâm hại. Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài
sản, do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong tố tụng hình sự khi họ được cơ
quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua hành vi triệu tập họ đến khai
báo với tư cách người bị hại. Trong trường hợp hành vi phạm tội không bị phát hiện và
xử lý hoặc không xác định được người bị thiệt hại mặc dù trên thực tế có người bị thiệt
hại về vật chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra thì người đó cũng không
trở thành người bị hại trong vụ án hình sự. Người bị hại trong vụ án hình sự phải là
người bị thiệt hại mà thiệt hại đó phải là hậu quả của hành vi trái pháp luật thì mới
công nhận là người bị hại và họ tham gia với tư cách là người tham gia tố tụng được

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

7

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Do đó họ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
như các chủ thể khác tham gia tố tụng nói chung và theo quy định pháp luật về người
bị hại nói riêng. Theo quy định thì người bị hại sẽ tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, người bị hại sẽ có các quyền và nghĩa vụ tố tụng theo
quy định của Luật tố tụng hình sự khi tham gia vào quan hệ đó nhằm xác định sự thật
của vụ án, đồng thời nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình liên quan đến

hành vi phạm tội đã xâm hại đến mình.
Thứ hai: Người bị hại tham gia quan hệ pháp luật không mang quyền lực Nhà
nước. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật hình sự thì trong đó luôn luôn sẽ xuất hiện
một bên là mang quyền lực Nhà nước thể hiện sự quyền uy của một Nhà nước đã được
luật quy định thay mặt Nhà nước quản lý xã hội và một bên là không mang quyền lực
Nhà nước thể hiện sự tuân thủ các quy định mà cơ quan quyền lực Nhà nước đã đặt ra
để bảo đảm trật tự xã hội, nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy quyền lực Nhà nước ở
đây có thể hiểu là các cơ quan quản lý Nhà nước, có quyền lực để cưỡng chế một ai đó
phải thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy người bị hại là một con người
cụ thể họ không phải là cơ quan quản lý Nhà nước, họ không có quyền lực để cưỡng
chế một ai đó phải thi hành theo mà chỉ có quyền yêu cầu các cơ quan, chức năng thực
hiện một số quyền và lợi ích hợp pháp mà người bị hại đáng ra được hưởng. Theo quy
định Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam thì sẽ có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong đó cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm
ba cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ba cơ quan này là biểu hiện
của phương pháp quyền uy trong điều chỉnh các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự,
Nhà nước quy định cho các cơ quan này có thẩm quyền thực hiện các biện pháp đảm
bảo khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và buộc người thực hiện tội phạm phải chấp hành
theo một cách nghiêm chỉnh. Trong các cơ quan mang quyền lực Nhà nước này sẽ có
những chủ thể đó là người tiến hành tố tụng họ sẽ nhân danh cơ quan quyền lực Nhà
nước được quyền áp dụng các biện pháp hợp pháp do pháp luật quy định nhằm bảo vệ
pháp luật, công dân và xã hội. Tính chất hoạt động của các cơ quan và cá nhân có
thẩm quyền này là hoạt động nhân danh Nhà nước, và mang quyền lực Nhà nước. Vì
tính chất hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là nhân
danh Nhà nước và mang quyền lực Nhà nước, nên trong quan hệ của người bị hại thì
đây là quan hệ bất bình đẳng. Mục đích hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng trong lĩnh vực hình sự là nhằm ngăn ngừa, phát hiện, và xử lý
hành vi phạm tội, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện kịp thời, không để lọt tội
phạm và không xử lý oan người vô tội. Vì vậy, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

8

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

người bị hại giảm thiểu các nguy cơ xâm phạm bất hợp pháp là mối quan tâm hàng
đầu của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
Từ những điều trên ta có thể kết luận người bị hại nói riêng và người tham gia
tố tụng nói chung là những chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng sẽ
không mang quyền lực Nhà nước, họ sẽ tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình và giúp các cơ quan khác tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Khi
tham gia tố tụng thì người bị hại phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về tố tụng hình
sự, họ tham gia nhân danh của chính mình, chỉ khi nào bị thiệt hại thì người bị hại
mới được tham gia tố tụng không phải bất kỳ ai cũng được tham gia vào đó. Khi người
bị hại tham gia tố tụng sẽ không mang tính cưỡng chế bắt buộc ai cũng phải tuân theo
mệnh lệnh của họ mà bên cạnh các quyền thì người bị hại còn phải thực hiện nghĩa vụ
của mình như trường hợp khi có giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án thì họ phải có mặt theo giấy triệu tập đó, nếu không có thể bị xử lý vi phạm do
không thực hiện đúng theo quy định.
Thứ ba: Người bị hại phải bị tội phạm xâm hại. Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội có lỗi được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt. Tội
phạm ở đây trước hết là hành vi của một con người. Đây là nguyên tắc cơ bản của Luật
hình sự theo đó luật Việt Nam sẽ không truy cứu trách nhiệm hình sự con người về tư
tưởng mà chỉ có thể truy cứu trách nhiệm về hành vi của con người khi hành vi đó thỏa

mãn dấu hiệu được quy định trong luật. Khi một người trong tư tưởng họ chỉ suy nghĩ
là sẽ gây thương tích hoặc muốn xâm hại một ai đó nhưng đó chỉ là suy nghĩ, họ
không thực hiện theo những suy nghĩ này cũng như không hành động trong thực tế thì
không thể xem đó là tội phạm được. Vì vậy, tội phạm có thể hiểu là các hành vi nguy
hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện xâm phạm đến quyền lợi ích hợp
pháp của người khác như đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, một người bị thiệt hại trong các tội
phạm đã hoàn thành cũng như các tội phạm chưa đạt đều được coi là người bị hại do có
hoàn thành hay chưa đạt đi chăng thì tội phạm cũng đã xâm hại trực tiếp và gây ra thiệt
hại trên thực tế. Vì vậy mà một người chưa bị tội phạm xâm hại đến thì không thể xem
họ là người bị hại, mà quyền và lợi ích của họ phải bị tội phạm xâm hại đến một cách
trực tiếp họ chính là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm mới được xem là người
bị hại. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì một người bị xâm hại cách gián tiếp đối
tượng tác động tội phạm gây ra có thể không phải đối tượng mà tội phạm hướng tới
dẫn đến có người bị thiệt hại thì cũng nên xem họ là người bị hại vì trên thực tế trong

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

9

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

nhiều sự việc họ còn bị thiệt hại nhiều hơn một người là đối tượng tác động tội phạm
hướng tới gây hại.

Ví dụ như trường hợp cố ý gây thương tích: tội phạm muốn xâm phạm một
người nào đó nhưng khi đang thực hiện hành vi của mình thì xuất hiện thêm một cá
nhân nữa can ngăn hành vi đó dẫn đến tội phạm gây thương tích cho cả hai rất nghiêm
trọng và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Trong trường hợp
này rõ ràng đối tượng tác động của tội phạm không phải là người đứng ra can ngăn đó
nhưng trên thực tế người này là đã bị thiệt hại nghiêm trọng và đã bị tội phạm xâm hại
trực tiếp vì vậy có thể xem người can ngăn này là người bị hại thì mới có thể bảo đảm
quyền và lợi ích của họ. Vì vậy người phạm tội đã thực hiện đối với người can ngăn
không phải là đối tượng tác động của tội phạm nhưng đã bị xâm hại trực tiếp là tội vô
ý gây thương tích, người can ngăn sẽ là người bị hại trong tội vô ý gây thương tích vì
rõ ràng người phạm tội không cố ý gây thương tích đối với người can ngăn này.
Thứ tư: Người bị hại tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng nhằm mục đích là
bảo vệ quyền lợi bản thân trong vụ án hình sự. Đây là một đặc điểm quan trọng vì
người bị hại là những người bị thiệt hại, xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội
phạm gây ra do đó họ có quyền bảo vệ quyền lợi bản thân của mình một cách hợp
pháp đây cũng là quyền được ghi nhận tại Điều 3 Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung
2001 “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của
nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân” và
tiếp đó thì tại Điều 12 của Hiến Pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001 cũng có quy định
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Qua đó ta thấy do người bị
hại bị thiệt hại do đó họ có quyền bảo đảm lợi ích của bản thân mình họ có thể đưa ra
những tài liệu, chứng cứ để chứng minh sự thiệt hại và yêu cầu bồi thường thiệt hại
những tổn thất mà tội phạm đã gây ra cho họ. Đó có thể là thiệt hại về tài sản, thể chất
thì họ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản mà tội phạm đã gây ra, thiệt hại
tinh thần ví dụ như vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thì người bị hại có quyền
yêu cầu tội phạm phải xin lỗi để bảo đảm danh dự của bản thân đồng thời nếu sự việc

nghiêm trọng như trả thù nguy hại đến tính mạng thì người bị hại có thể yêu cầu các
cơ quan chức năng bảo vệ họ khỏi sự xâm hại của tội phạm và yêu cầu xử lý nghiêm
minh đúng pháp luật các tội phạm đã xâm hại mình. Ngoài ra sự tham gia của người bị
hại trong vụ án hình sự còn là một trong những căn cứ để tìm ra sự thật vụ án một cách
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

10

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

khách quan để các cơ quan chức năng có thẩm quyền dựa vào đó để xác định mức bồi
thường cũng như những biện pháp xử lý hợp lý nhất để bảo đảm quyền lợi của người
bị hại là đúng pháp luật không gây bất lợi cho họ đồng thời không gây oan sai cho các
chủ thể khác.
Như vậy, người bị hại trong vụ án hình sự là người tham gia tố tụng và bị tội
phạm xâm hại. Người bị hại tham gia vào đó với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bản thân mình trong vụ án hình sự về những thiệt hại mà tội phạm đã
gây ra. Vì là người tham gia tố tụng nên người bị hại có đầy đủ quyền và nghĩa vụ đã
được pháp luật quy định. Ngoài ra do người bị hại tham gia vào trong quan hệ pháp
luật tố tụng với tư cách là người tham gia tố tụng nên người bị hại sẽ không mang
quyền lực Nhà nước mà phải tuân thủ và thực hiện đúng các quy định của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền.
1.1.3 Các đặc trƣng pháp lý của chế định ngƣời bị hại
Người bị hại là một khái niệm pháp lý đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố
tụng hình sự Việt Nam. Vì vậy mà từ khái niệm đó, cũng như những đặc điểm trên có

thể thấy được những đặc trưng pháp lý riêng biệt của chế định người bị hại trong vụ án
hình sự dùng để phân biệt với các đặc trưng pháp lý của chế định pháp lý khác. Có thể
khái quát các đặc trưng đó là:
Thứ nhất: Người bị hại phải bị thiệt hại. Thiệt hại đó phải là thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản và những thiệt hại đó là đối tượng của tội phạm. Thiệt hại về thể
chất là những thiệt hại như bị thương tích, chết... và thiệt hại về tinh thần có thể là thiệt
hại như xúc phạm danh dự, nhân phẩm, vu khống và thiệt hại về tài sản đó là thiệt hại
như tài sản bị mất, bị hư hỏng. Những thiệt hại này đều do tội phạm gây ra và người bị
hại phải bị thiệt hại thực tế có xảy ra và đó phải là những thiệt hại trực tiếp, nếu là thiệt
hại gián tiếp như một người bị kẻ phạm tội xâm hại đến sức khỏe nên một người trong
gia đình phải nghỉ việc để chăm sóc vì vậy giảm thu thập thì nếu có yêu cầu bồi
thường thiệt hại thì họ tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự vì không bị tội phạm
trực tiếp xâm hại. Trên thực tế nếu một người chưa bị thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra thì người đó không được coi là người bị hại.
Thứ hai: Thiệt hại đó phải do tội phạm gây ra. Thiệt hại đó phải chính tội phạm
gây ra dẫn đến thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản thiệt hại đó do chính tội phạm
xâm hại chứ không thể là ai khác được và tội phạm có thể hiểu là tội phạm được Luật
hình sự bảo vệ có liên quan đến thiệt hại mà một người phải gánh chịu. Vì thiệt hại mà
không phải do tội phạm gây ra quy định trong Luật hình sự thì sẽ không được pháp
luật bảo vệ do trong xã hội có nhiều mối quan hệ, nhiều hành vi vi phạm pháp luật mà

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

11

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp


Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

luật không thể nào điều chỉnh hết được, do đó chỉ những thiệt hại nào là do tội phạm
gây ra được Luật hình sự bảo vệ thì mới xem là thiệt hại và được pháp luật bảo vệ.
Vì vậy, điều quan trọng trong vụ án hình sự là phải xác định được xem những
thiệt hại đó có phải do tội phạm gây ra hay không và có hành vi phạm tội bị truy cứu
trách nhiệm hình sự có phải là người gây ra thiệt hại đó hay không là điều đáng chú
trọng. Ví dụ như trong trường hợp một vụ án hình sự khi có sự thiệt hại do tội phạm
gây ra khi có quyết định kê biên, tịch thu tài sản thì người có thẩm quyền đã tiến hành
kê biên, tịch thu tài sản đó. Nhưng trong quá trình kê biên tài sản đã làm tài sản bị hư
hỏng. Có thể thấy rõ người gây ra thiệt hại đó là do người có thẩm quyền gây ra, thiệt
hại này là thiệt hại không phải do tội phạm gây ra, hành vi gây ra thiệt hại không phải
tội phạm và người bị thiệt hại không phải là người bị hại nên không thể truy cứu trách
nhiệm hình sự về thiệt hại mà không phải do tội phạm gây ra được. Hoặc một ví dụ
nữa để làm rõ hơn nữa là đó là trường hợp một người thanh niên đi đường thấy một
người khác có đem theo tiền, vàng chỉ có một mình nên người thanh niên này nảy sinh
ý định cướp tài sản. Nhưng người thanh niên này không biết người có tài sản đó đang
bị bệnh tim bẩm sinh nên khi người phạm tội thực hiện hành vi của mình là đe dọa
người có tài sản đưa tài sản cho mình người phạm tội đã lấy tài sản đi mất nhưng sau
đó do bệnh tim của người bị cướp tài sản tái phát dẫn đến nạn nhân chết. Tiếp đó các
cơ quan có thẩm quyền đã tiến hành khám nghiệm tử thi xác định chết nạn nhân là do
bệnh tim tái phát nên dẫn đến tử vong. Qua đó thấy rõ ràng hành vi đầu tiên cướp tài
sản đã cấu thành tội phạm cướp tài sản còn đối với hành vi tiếp đó là nạn nhân chết thì
ta thấy hành vi này không đủ yếu tố cấu thành tội phạm người thanh niên về tội giết
người do nạn nhân bị bệnh bẩm sinh chết. Vì vậy trong trường hợp này người phạm tội
chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản còn về hành vi làm nạn nhân chết
không đủ yếu tố cấu thành truy cứu trách nhiệm về tội giết người do đây không phải
do tội phạm gây ra. Từ những lý luận trên giúp thấy được người bị hại trong vụ án
hình sự phải là người bị thiệt hại mà thiệt hại đó phải là do tội phạm gây ra thì mới
công nhận là người bị hại. Ngoài ra đối với cấu thành về vật chất thiệt hại đó phải có

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và thiệt hại, thiệt hại đó chính là thiệt hại
trực tiếp do chính tội phạm gây ra.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

12

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

1.2 Cơ sở lý luận của chế định ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự
1.2.1 Vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa của chế định ngƣời bị hại trong Tố
tụng hình sự
Việc xác định người bị hại có thể xem là một hoạt động rất quan trọng trong tố
tụng hình sự. Bởi vì trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có rất nhiều người tham
gia tố tụng hình sự với nhiều tư cách khác nhau và trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thu rất nhiều chứng cứ, tài liệu khác nhau
thông qua những lời khai của người bị hại để tìm ra sự thật khách quan của vụ án góp
phần giải quyết vụ án được nhanh và chính xác hơn đồng thời kịp thời góp phần trong
đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ngoài ra việc xác định còn bảo hộ được tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, và tài sản của công dân. Đây là một trong những
vai trò quan trọng trong tố tụng hình sự, do người bị hại là người chịu thiệt hại trực
tiếp từ tội phạm do đó bảo vệ quyền và lợi ích cho họ là cần thiết. Có thể nói tài sản là
thứ gắn liền với mỗi cá nhân trong cuộc sống, đó là tất yếu là điều kiện sống mỗi cá
nhân rất cần đến, vì vậy xã hội muốn phát triển thì phải bảo vệ tài sản đó ra khỏi sự
xâm hại bất hợp pháp từ các chủ thể khác. Còn về thiệt hại tinh thần đây thể hiện sự uy

tín, mất mát cá nhân cũng nên bồi thường họ một phần nào tổn thất đó mặc dù bồi
thường đến đâu cũng không thể nào như trước đây được. Từ những lý do trên thì việc
xác định vai trò, tầm quan trọng người bị hại có thể xem là trọng tâm trong giai đoạn
hiện nay. Được thể hiện như sau:
Thứ nhất, sự tham gia của người bị hại nhằm cung cấp chứng cứ để làm rõ thực
tế khách quan vụ án hình sự: trong vụ án sẽ có rất nhiều lời khai, tài liệu chứng cứ mà
các cơ quan chức năng có thẩm quyền tìm ra từ hoạt động thực tế điều tra cũng như
lấy lời khai của các người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Vì vậy, nếu như
những tài liệu chứng cứ đó không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án thì có
thể dẫn đến sự khó khăn, vướng mắc, mâu thuẫn với nhau. Do người bị hại là người
chịu thiệt hại trực tiếp từ tội phạm, vì vậy họ rất biết rõ về những tình tiết của vụ án họ
có thể cung cấp những tài liệu mà các cơ quan chức năng cũng như các chủ thể khác
không thể có được. Từ những tài liệu chứng cứ đó mà các cơ quan có thể so sánh đối
chiếu thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ để tìm ra sự thật vụ án đồng thời giải
quyết vụ án được nhanh chính xác, đúng đắn và thuyết phục được. Ngoài ra những
chứng cứ đó giúp việc phát hiện được tội phạm nguy hiểm lợi dụng thiếu sót các cơ
quan mà thực hiện hành vi phạm tội từ đó có được những biện pháp hiệu quả hơn để
phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, sự tham gia của người bị hại nhằm xác định thiệt hại do tội phạm gây
ra là điều kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án hình sự: một vụ án thì việc xác định
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

13

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam


được thiệt hại đó là thiệt hại nào mức độ thiệt hại đó ra sao là cần thiết. Nếu như một
cơ quan, chức năng có thẩm quyền xem xét một thiệt hại nào đó là chưa chính xác thì
có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng có thể làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của
các bên cũng như tư cách tố tụng mà các bên tham gia.
Ví dụ như trường hợp vụ án Nông trường Sông Hậu Hội đồng giám đốc thẩm
Tòa hình sự TAND tối cao nhất trí với kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao,
tuyên hủy bản án hình sự phúc thẩm ngày 19/11/2009 của TAND TP Cần Thơ và bản
án hình sự sơ thẩm ngày 11 đến 15/8/2009 của TAND huyện Cờ Đỏ (Cần Thơ) xét xử
bà Trần Ngọc Sương (nguyên giám đốc Nông trường sông Hậu) về tội “lập quỹ trái
phép”. Lý do hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm khi xét xử vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp phúc thẩm có những sai lầm, thiếu sót như một số khoản thu đưa vào
quỹ chưa đủ cơ sở để xác định là trái phép, một số khoản chi chưa đủ cơ sở để xác
định là thiệt hại và buộc các bị cáo phải bồi thường cụ thể tiền chi công tác phí trong
và ngoài nước hơn 2,27 tỉ đồng của bà Trần Ngọc Sương; khoản chi bồi dưỡng đoàn
kiểm toán Nhà nước năm 20046... Qua vụ án ta thấy do việc xác định chưa chính xác
thiệt hại mà bị cáo đã thực hiện bao gồm các khoản chi tiêu nên dẫn đến bản án bị hủy
do không đủ chứng cứ gây ra hậu quả phải hủy bản án để điều tra lại theo quy định của
pháp luật. Ngoài ra do việc xác định không chính xác thiệt hại cũng đã ảnh hưởng đến
quyền và nghĩa vụ của các bị cáo vì nếu như bản án này không bị hủy thì các bị cáo sẽ
phải bồi thường thiệt hại đúng như bản án đã tuyên. Vì vậy mà việc xác định mức thiệt
hại có thể xem là rất quan trọng và cần thiết trong vụ án hình sự. Vì lẽ đó trong trường
hợp xác định thiệt hại của người bị hại thì phải xác định thiệt hại đó là thiệt hại trực
tiếp và thiệt hại đó phải là thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra,
không thể là thiệt hại gián tiếp và không thuộc ba thiệt hại trên được. Bởi lẽ nếu là
thiệt hại gián tiếp và không thuộc ba thiệt hại trên thì người bị thiệt hại sẽ tham gia với
tư cách là nguyên đơn dân sự, quyền và lợi ích của họ có thể khác so với tư cách là
người bị hại trong vụ án hình sự. Vì vậy mà việc xác định đúng các thiệt hại là rất cần
thiết mà các cơ quan có thẩm quyền cần thực hiện thật tốt, đó có thể xem là công việc
khởi đầu cũng như đi xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án và bảo đảm việc xử

lý bồi thường thiệt hại được hợp lý hơn.
Ngoài ra pháp luật tố tụng hình sự không chỉ giải quyết vụ án chỉ khi nào người
bị hại còn sống mà cho dù họ đã chết đi nhưng rõ ràng quyền và lợi ích họ vẫn được
bảo vệ bằng cách triệu tập người đại diện hợp pháp họ tham gia tố tụng có đầy đủ
6

Báo Tuổi Trẻ, Vụ án Nông trường Sông Hậu: Tuyên hủy án, điều ra lại từ đầu, Minh Quang,
/>
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

14

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

quyền và nghĩa của họ thể hiện được tính công bằng của pháp luật đối với công dân và
không bỏ lọt tội phạm.
Thứ ba, sự tham gia của người bị hại còn nhằm xác định ra sự thật của vụ án:
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì việc xác định sự thật khách quan của vụ án
không chỉ là mục đích của hoạt động tố tụng mà còn thể hiện toàn bộ nội dung bản
chất của quá trình chứng minh tội phạm đồng thời bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đúng đối tượng, đúng người, đúng tội không làm oan người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm. Qua các tài liệu mà người bị hại cung cấp cho các cơ quan đòi hỏi cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định chứng cứ đó có đúng với
thực tế khách quan không, có đúng sự việc phạm tội không sau khi đã được điều tra,
đánh giá và được công nhận thì việc tiếp theo hết sức quan trọng của các cơ quan là

xác định tội phạm và xử lý như thế nào để bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật là
rất quan trọng qua đó đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội đối với họ vì những
hành vi mà họ đã gây nên cho xã hội. Ngoài ra việc xác định đúng người, đúng tội còn
thể hiện được sự uy nghiêm của pháp luật và đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của cá
nhân khác cần được pháp luật bảo vệ điển hình đó là người bị hại trong vụ án hình sự.
Từ những tầm quan trọng, vai trò trong việc xác định người bị hại nêu trên có
thể thấy được sự quan trọng của người bị hại trong vụ án hình sự từ đó có thể khái quát
ý nghĩa xác định người bị hại trong vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, việc xác định người bị hại đảm bảo được nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, bởi lẽ mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp
dụng không đầy đủ có thể dẫn tới oan sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, gây tổn hại đến sự nghiêm minh của pháp luật, đến uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự công minh của pháp
luật trong việc xử lý tội phạm.
Thứ hai, việc xác định người bị hại thể hiện rõ sức mạnh của Nhà nước trong
việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Thông qua Luật tố tụng hình sự, Nhà nước thực
hiện quyền lực của mình trong lĩnh vực đấu tranh phòng và đấu tranh chống tội phạm
góp phần giữ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, ngăn ngừa và khắc phục những
hậu quả do hành vi phạm tội gây ra. Vì người bị hại là người chịu thiệt hại về thể chất,
tinh thần tài sản một cách trực tiếp do tội phạm gây ra ảnh hưởng đến tính mạng, sức
khỏe danh dự nhân phẩm và tài sản của công dân do đó Nhà nước luôn bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị hại để hạn chế phần nào tổn thất mà tội phạm đã gây
ra cho họ và coi việc đấu tranh phòng và chống tội phạm xử lý nghiêm minh nhằm tiến
tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

15

SVTH: Thạch Thị Tuyền



Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

Thứ ba, việc xác định đúng người bị hại và thực hiện tốt của các cơ quan có
thẩm quyền góp phần khôi phục các thiệt hại do tội phạm gây ra cho các quan hệ xã
hội được Luật hình sự bảo vệ đồng thời bảo vệ một cách có hiệu quả nhất các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại, trả thù của người phạm tội và
những người khác.
Thứ tư, quy định pháp luật về người bị hại là căn cứ pháp lý cho các cho các cơ
quan tiến hành tố tụng được thực hiện nhanh và chính xác quyền hạn, chức năng của
mình đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân là xử lý kịp thời, chính xác
các hành vi phạm tội và người phạm tội qua đó phát huy tác dụng góp phần rất quan
trọng vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý thức pháp luật và phòng ngừa tội
phạm.
1.2.2 Địa vị pháp lý của ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt7 “Địa vị” có nghĩa là vị trí cá nhân trong quan hệ xã
hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có. Về mặt chính trị do vai trò, tác dụng mà có
được coi trọng nhiều hay ít. Từ định nghĩa “địa vị” trên ta có thể kết luận địa vị pháp
lý là vị trí, địa vị mà chủ thể có được có vai trò, tác dụng trong quan hệ pháp luật và vị
trí của họ dựa trên cơ sở quy định pháp luật nhiều hay ít các quyền và nghĩa vụ. Địa vị
pháp lý có thể hiểu là tổng thể quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ cũng
từ các quyền và nghĩa vụ này chúng ta cũng có thể xác định được giới hạn mà chủ thể
này tham gia vào quan hệ pháp luật hình sự để qua đó cũng có cái nhìn khái quát
chung nhất về họ. Đó chính là những giới hạn, những phạm vi mà pháp luật xác định
quyền họ tới đâu, nghĩa vụ họ như thế nào trong vụ án hình sự. Vì pháp luật là bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của công dân nhưng không phải quan hệ nào thì pháp luật
cũng điều chỉnh mà pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ pháp luật xã hội phổ biến,

nguy hiểm. Ngoài ra thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này
với chủ thể pháp luật khác. Vì thế địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự
có thể hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng hình sự đã quy định
cho họ khi họ tham gia vào trong quan hệ pháp luật tố tụng, thông qua việc tham gia
vào trong quan hệ pháp luật tố tụng thể hiện được vai trò, tầm quan trọng của người bị
hại trong pháp luật đó. Từ những vai trò, địa vị pháp lý đó người bị hại có thể phân
biệt với địa vị pháp lý với các chủ thể khác đó là quyền và nghĩa vụ họ mặc nhiên
được pháp luật bảo vệ do họ là người bị thiệt hại. Do đó pháp luật phải bảo vệ cho
người bị hại trong khuôn khổ pháp luật quy định và có thể xem người bị hại là bên có

7

Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998, trang 305.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

16

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

thế hơn so với tội phạm, quyền của người bị hại chính là nghĩa vụ của tội phạm đã
xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của họ.
Tuy là người có địa vị pháp lý có lợi hơn nhưng người bị hại phải đưa ra các
chứng cứ để minh chứng cho thiệt hại của mình. Trong khi chứng cứ sau khi tội phạm
đã thực hiện xong có thể tẩu tán khắp nơi nên khó phát hiện, có chăng đó là những

chứng cứ còn lại mà tội phạm chưa lấy đi hết hoặc đó là những thiệt hại gây ra lên
chính bản thân người bị hại thì mới có thể còn tồn tại nên rất khó khăn cho người bị
hại khi thu thập để đưa ra những chứng cứ có lợi cho mình. Không chỉ có thế, trong
quá trình thu thập chứng cứ sẽ có rất nhiều thân nhân, cũng như các chủ thể liên quan
đến vụ án phi tang những chứng cứ có giá trị hoặc gặp lại sự trả thù từ bên ngoài mà
họ không ngờ tới. Mặc dù pháp luật đã có những quy định là bảo vệ người bị hại
nhưng không phải lúc nào cũng bảo vệ từng ly, từng tí, do đó rất khó khăn cho người
bị hại nói riêng và người tham gia tố tụng nói chung khi tố giác một ai đó đã gây thiệt
hại cho mình. Mặc khác khi ra ngoài xã hội họ còn phải chịu sự phản ánh từ xã hội
mặc dù không biết họ đúng hay sai “nó làm như thế nào đó mới bị người ta xâm hại”
vì vậy dù có bồi thường đến đâu họ cũng chịu tác động rất lớn từ xã hội.
Tuy nhiên khi tham gia tố tụng họ còn phải chịu trách nhiệm khai đúng sự thật
từ các cơ quan tiến hành tố tụng về những lời khai của mình, cũng như thiệt hại mà tội
phạm xâm hại đến, đưa ra những căn cứ và chứng minh được sự thiệt hại của mình
mặc dù họ tham gia vào pháp luật với tư cách là người bị chịu thiệt thòi nhiều nhất
trong quan hệ pháp luật đó. Trong giai đoạn này thì người bị hại vẫn được bảo vệ
nhưng việc xác định mức bồi thường là chưa cụ thể. Khi có đủ căn cứ để đưa vụ án ra
xét xử và chứng minh được sự thiệt hại của người bị hại được pháp luật bảo vệ cũng
như xác định được mức bồi thường cụ thể thì tội phạm đã xâm hại trực tiếp đến người
bị hại phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
Tóm lại người bị hại khi tham gia tố tụng thì có thể xem người bị hại là người
có địa vị pháp lý luôn có lợi hơn so với tội phạm đã gây thiệt hại cho họ, người bị hại
luôn được pháp luật bảo vệ lợi ích chính đáng. Mặc dù vậy họ vẫn có một số bất lợi
trong thực tiễn. Tuy là vậy nhưng cũng có thể xem người bị hại là người có lợi hơn so
với các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng.
1.2.3 Nguyên tắc về bảo vệ ngƣời bị hại trong vụ án hình sự
Pháp luật tố tụng hình sự có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người
thông qua việc “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội” hướng tới mục đích “góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

17

SVTH: Thạch Thị Tuyền


Luận văn tốt nghiệp

Một số vấn đề về ngƣời bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam

nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân
theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Những định hướng trên
được quán triệt và thể hiện ở tất cả các quy định của Luật tố tụng hình sự trong quá
trình giải quyết vụ án: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng tạo thành hệ thống các quy phạm làm cơ
sở cho việc bảo vệ quyền con người.
Vì vậy nạn nhân của tội phạm tham gia tố tụng với tư cách người bị hại không
chỉ là quyền mà là nghĩa vụ. Ở phương diện quyền con người nói chung người bị hại
đã bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự
nhân phẩm và tài sản cũng như các quyền lợi ích hợp pháp khác. Trong tố tụng, quyền
của người bị hại biểu hiện ở quyền được yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ
quyền con người nói chung và bảo vệ quyền công dân nói riêng của mình. Những
quyền này được ghi nhận trước hết là quyền tố tụng của họ. Đó là: quyền được đưa ra
các yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng, được đưa ra các tài liệu đồ vật bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của mình, được tham gia, giám sát các hoạt động tố tụng hình
sự của các cơ quan tiến hành, được khiếu nại, kháng cáo các quyết định bản án của Cơ
quan điều tra, công tố và Tòa án, đặc biệt người bị hại có quyền được bảo vệ an toàn

trong quá trình tiến hành tố tụng, được bảo vệ danh dự nhân phẩm, thông tin cá nhân,
bí mật đời tư8.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự những thông tin người bị hại cung cấp
có ý nghĩa hết sức quan trọng góp phần giúp các cơ quan chức năng phát hiện tội
phạm và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Với nghĩa vụ là công dân, người bị hại đã
tích cực phối hợp với các cơ quan tố tụng làm rõ tội phạm và người phạm tội để các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các hình thức xử lý đúng theo quy định pháp luật, vì
thế mà pháp luật phải đưa ra những chế định pháp luật dành riêng để bảo vệ họ.

8

Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
“2. Người bị hại và đại điện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa tài liệu,đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ

luật này;
d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo
bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.”

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

18

SVTH: Thạch Thị Tuyền



×