Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

lý luận và thực tiễn về thi hành án trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.11 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(Niên Khóa 2006 - 2010)
TÊN ĐỀ TÀI

LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THI HÀNH ÁN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Giáo viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

NGUYỄN CHÍ HIẾU
BỘ MÔN TƯ PHÁP

LÝ THỊ NHIÊN
MSSV: 5062271
Lớp: Tư pháp 1- K32

Cần Thơ, tháng 10- 2009


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I:VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỘI BỨC TỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
1.1 Một số khái niệm về tội giết người trong luật hình sự Việt Nam hiện hành. .... 4
1.1.1 Khái niệm theo từ điển Tiếng việt ............................................................. 4


1.1.2 Những khái niệm liên quan đến tội giết người .......................................... 4
1.2 Khái quát về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ..... .4
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh. ................................................................. 4
1.2.1.1 Khái niệm .............................................................................. 4
1.2.1.2 Đặc điểm.. ............................................................................. 5
1.2.2. Nguyên nhân và điều kiện tạo nên tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh ........................................................... 8
1.2.3. Lịch sử hình thành tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh. ............................................................................... 12
1.2.3.1 Giai đoạn 1985 đến 1999 ....................................................... 12
1.2.3.2 Giai đoạn 1999 đến nay.......................................................... 13
1.2.4. Một số điểm mới về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999............ 15
1.2.5. Tính chất nghiêm trọng và ý nghĩa của việc nghiên cứu của tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. ............... 16
1.2.5.1 Tính chất nghiêm trọng ........................................................... 17
1.2.5.2 Ý nghĩa .................................................................................... 20
CHƯƠNG II:TỘI GIẾT NGƯỜI TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ
KÍCH ĐỘNG MẠNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1 Cấu thành tội phạm và dấu hiệu pháp lí của tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh ..................................................................................... 22
2.1.1 Cấu thành tội phạm............................................................................... 22
2.1.2 Dấu hiệu pháp lí................................................................................... 22
2.1.2.1 Khách thể. .................................................................................... 22
2.1.2.2 Khách quan .................................................................................. 23


2.1.2.3 Chủ quan ...................................................................................... 27
2.1.2.4 Chủ thể ......................................................................................... 27

2.2 Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với
một số tội khác...................................................................................................... . .27
2.2.1 Với tội giết người .............................................................................. .27
2.2.2 Với trường hợp phạm tội bị kích đông về tinh thần do hành vi trái
pháp luật của nạn nhân hoặc của người khác .......................................................... 30
2.2.3 Với trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng..... ................................................................................................... 30
2.2.4 Với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác dẫn đến chết người ......................................................................... 33
2.2.5 Với trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ................................. 34
2.3 Trách nhiệm hình sự đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh .............................................................................................................. 36
2.3.1 Tình tiết định tội.................................................................................. 36
2.3.2 Hình phạt ............................................................................................ 43
2.3.2.1 Nguyên tắc xử lí ........................................................................ 43
2.3.2.2 Khung cơ bản ............................................................................ 44
2.3.2.3 Tình tiết giảm nhẹ định tội........................................................ 46
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
TRONG TRẠNG THÁI TINH THẦN BỊ KÍCH ĐỘNG MẠNH
3.1. Thực tiễn về hành vi giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
3.1.1 Thực tiễn trên cả nước....................................................................... 53
3.1.2. Thực tiễn ở Cần Thơ........................................................................... 59
3.2. Những bất cập và các giải pháp phòng chống tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh............................................................................ 60
3.2.1 Những bất cập ..................................................................................... 60
3.2.1.1 Trong việc xác định tội danh ...................................................... 61
3.2.1.1.1 Về vấn đề xác định trạng thái tinh thần của người phạm
tội............................................................................................... 61
3.2.1.1.2 Về vấn đề lỗi của người bị hại liên quan đến việc xác

định tội danh. ..................................................................................... 62


3.2.1.2 Trong lĩnh vực pháp luật ........................................................... 68
3.2.1.2.1 Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện.......................... 68
3.2.1.2.2 Vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự. ........ 69
3.2.1.2.3 Trình độ pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của công tác bảo vệ pháp luật chưa ngang tầm nhiệm vụ ................. 73
3.2.2 Giải pháp. ....................................................................................... 73
3.2.2.1 Trong việc xác định tội danh. ..................................................... 73
3.2.2.1.1 Giải pháp để xác định trạng thái tinh thần của người
phạm tội .... ........................................................................................ 73
3.2.2.1.2 Giải pháp về xác định lỗi của người bị hại liên quan
đến việc xác định tội danh. ................................................................ 74
3.2.2.2 Giải pháp trong lĩnh vực pháp luật. ............................................ 75
3.2.2.2.1 Hoàn thiện pháp luật hình sự..................................... 75
3.2.2.2.2 Trong việc áp dụng pháp luật hình sự. ...................... 77
3.2.2.2.3 Nâng cao trình độ và năng lực của cán bộ làm công
tác bảo vệ pháp luật. .......................................................................... 78
Kết luận. ...................................................................................................... 81
Danh mục tài liệu tham khảo


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm cho thấy hình phạt tử hình là hình phạt
nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt nói riêng và trong hệ thống các biện

pháp chế tài pháp luật nói chung. Có thể nói đây là một hình phạt đặc biệt
không chỉ ở tính chất mà còn ở cả trình tự, thủ tục thi hành. Cũng chính vì vậy,
từ lâu hình phạt tử hình, việc thi hành hình phạt tử hình là một vấn đề được đưa
ra tranh luận không chỉ giới hạn trong các nhà hoạt động chính trị, các nhà luật
học mà còn là đề tài hấp dẫn lôi cuốn nhiều đối tượng khác tham gia. Tuy nhiên
do điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, …ở mỗi nước, đều có ảnh hưởng nhất
định đối với việc quy định hình phạt tử hình và những vấn đề khác như cách
thức áp dụng, trình tự thủ tục thi hành hình phạt tử hình…,thậm chí còn ảnh
hưởng tới cả quan điểm, dư luận xã hội về việc bỏ hay giữ lại hình phạt này. Ở
nước ta thực tiễn tổng kết về hoạt động thi hành hình phạt tử hình trong thời
gian qua cho thấy, mặc dù pháp luật có những thay đổi theo hướng hạn chế các
hình phạt tử hình trong Bộ luật hình sự nhưng mỗi năm vẫn có nhiều người bị
Tòa án tuyên phạt tử hình và bị đưa ra thi hành. Mặc dù, các cơ quan bảo vệ
pháp luật đã rất nổ lực và thực hiện nhiều biện pháp nhằm hạn chế cơ sở, điều
kiện phạm tội nhưng tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp. Việc áp dụng và
thi hành hình phạt tử hình trong những năm qua nhìn chung có tác dụng trừng
trị, răn đe, phòng ngừa, góp phần bảo vệ an ninh Quốc gia, trật tự an toàn xã
hội.
Tuy nhiên, so với pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, hình phạt
tử hình ở Việt Nam vẫn còn mở rộng nhiều đối với nhiều tội phạm. Cơ chế tổ
chức, trình tự, thủ tục, thi hành hình phạt tử hình đã từng bước được hoàn thiện
nhưng vẫn còn những vướng mắc, bất cập, cần khẩn trương khắc phục như:
Vấn đề tạm hoãn thi hành hình phạt tử hình, tình trạng các bản án tử hình chậm
được thi hành có trường hợp kéo dài tới hàng tháng thậm chí đến nhiều năm
liền nhưng vẫn chưa thi hành, hình thức thi hành hình phạt tử hình đang có
nhiều tranh luận, gây khó khăn rất nhiều. Hình thức thi hành hình phạt tử hình
bằng xử bắn đã có nhiều tiến bộ nhưng cũng gây không ít sự đau đớn đối với
người bị kết án và cũng tạo ra một số ảnh hưởng tiêu cực về mặt tâm lý cho
các cán bộ trực tiếp thi hành hình phạt tử hình…Cũng chính vì những vấn đề
bất cập nói trên tạo cho tác giả muốn nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn vấn đề lý

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

1

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

luận và thực tiễn thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật tố tụng Việt Nam
nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, nhằm chỉ ra những kinh nghiệm
thành công cũng như chưa thành công trong thực tiễn công tác thi hành hình
phạt tử hình.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Luận văn chủ yếu xoáy quanh việc tìm hiểu về thực tiễn và lý luận trong thi
hành hình phạt tử hình sự ở Việt Nam. Từ đó đề xuất ý kiến và phương hướng
giải quyết của cơ quan quản lý nhà nước và ý kiến riêng của cá nhân để nhằm
nâng cao hơn vai trò của thi hành hình phạt tử hình. Kịp thời điều chỉnh những
hành vi sai trái, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho họ, phòng ngừa ngăn
chặn những hành vi vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ an ninh Quốc gia, trật
tự an toàn xã hội.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
 Phương pháp phân tích luật viết
 Phương pháp thu thập số liệu
 Phương pháp so sánh
 Phươnng pháp thống kê
 Phương pháp bình luận, tổng hợp, cọ sát thực tế
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Dựa trên cơ sở của pháp luật thực định và thực tiễn. Đề tài chủ yếu tập trung
làm rõ vấn đề trong lý luận và thực tiễn thi hành án hình phạt tử hình trong tố

tụng hình sự Việt Nam. Bên cạnh đó đề tài còn hướng đến những quy định của
pháp luật hiện hành về lý luận và thực tiễn thi hành án hình phạt tử hình trong
pháp luật Việt Nam cùng với việc mong muốn sớm ban hành Bộ luật thi hành
án hình sự để thuận lợi hơn trong việc thi hành án hình phạt tử hình ở nước ta
hiện nay.
5.Cơ cấu đề tài
Ngoài những phần mở đầu và kết bài, luận văn còn có những phần quan trọng
và chủ yếu sau đây:
Chương I: Lý luận về việc thi hành hình phạt tử hình trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
Chương II: Thi hành hình phạt tử hình theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành.
Chương III: Thực tiễn và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả về việc thi
hành hình phạt tử hình trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

2

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Đây là lần đầu tiên em thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học độc lập,
mặt khác do trình độ kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu
sót nhất định rất mong quý thầy cô, các bạn sinh viên đóng góp cho ý kiến để
kiến thức của em được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn!

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


3

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN VỀ VIỆC THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Hình phạt tử hình
1.1.1. Khái niệm hình phạt tử hình
Tử hình được coi là hình phạt đặc biệt và nghiêm trọng nhất trong hệ thống
hình phạt và có lịch sử phát triển lâu đời trong quá trình phát triển của xã hội
loài người, kể từ khi xã hội loài người phân chia giai cấp, có Nhà nước và pháp
luật
Khi mới ra đời hình phạt này đã được các giai cấp thống trị coi là một trong
những chế tài hữu hiệu, cần thiết được áp dụng để trừng trị những kẽ chống
đối, nhằm bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ lợi ích giai cấp và đấu tranh với các
loại tội phạm để thiết lập trật tự xã hội. Xuất phát từ hoàn cảnh điều kiện cụ thể
và yêu cầu đấu tranh bảo vệ chế độ chính trị và trừng trị những kẻ phạm trọng
tội hình phạt tử hình được các quốc gia trên thế giới nhìn nhận, đánh giá dưới
góc độ khác nhau. Do vậy, có những quan điểm không giống nhau về việc áp
dụng hay không áp dụng hình phạt tử hình.
Ở nước ta hình phạt tử hình ra đời từ rất sớm, bắt đầu từ thời Lý –Trần, cho
đến Bộ luật cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam là Bộ luật Gia Long
đều có quy định hình phạt tử hình. Đến nay, tử hình vẫn được quy định là một
trong những hình phạt trong Bộ luật hình sự. Một vấn đề đặt ra là pháp luật
hình sự nước ta từ trước đến nay không định nghĩa khái niệm hình phạt tử hình

mà chỉ đưa ra một số dấu hiệu của nó trong một số quy phạm nhất định .
Tại Điều 35 Bộ luật hình sự 1999 quy định “Tử hình là hình phạt đặt biệt
chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặt biệt nghiêm trọng”
Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội,
đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm
tội hoặc khi bị xét xử
Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con
dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển sang tù
chung thân.
Trong trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử
hình chuyển sang tù chung thân”
1.1.2. Đặc điểm hình phạt tử hình
Để hiểu sâu sắc về hình phạt tử hình, ta cần nghiên cứu các đặc điểm của
hình phạt tử hình sau:
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

4

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

 Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất
Trong hệ thống hình phạt, tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, bởi vì
hình phạt đó tước đoạt quyền sống của người phạm tội. Hình phạt tử hình chỉ
có tác dụng trừng trị và phòng ngừa, mà không có tác dụng giáo dục, cải tạo
đối với người bị thi hành hình phạt tử hình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là loại hình phạt này mâu thuẩn với nguyên tắc nhân đạo của pháp luật xã hội
chủ nghĩa. Ở đây cần thấy rằng, tính nhân đạo được thể hiện tập trung ở khía

cạnh xã hội, tức là ở việc phòng ngừa, răn đe người khác phạm tội.
Là loại hình phạt đặc biệt được áp dụng trong những trường hợp phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng, Bộ luật hình sự hiện hành của nước ta chẳng những quy
định cụ thể các tội phạm mà Tòa án có thể áp dụng hình phạt tử, mà còn hạn
chế đến mức tối đa khả năng áp dụng hình phạt này trong phạm vi những tội
đặc biệt nghiêm trọng. Ngay cả khi có đủ điều kiện nói trên tử hình cũng không
phải là hình phạt duy nhất, mà là khả năng cuối cùng, khi Tòa án xét thấy
không thể áp dụng loại hình phạt khác được quy định trong chế tài vì tính chất
đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm.
Tính chất hạn chế của hình phạt tử hình còn thể hiện ở chổ, pháp luật
nghiêm cấm áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội chưa thành niên,
phụ nữ có thai, người đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi
bị xét xử. Hình phạt tử hình cũng không được thi hành đối với phụ nữ có thai
hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt
tử hình chuyển sang hình phạt tù chung thân.
 Tử hình là hình phạt được quy định trong bộ luật hình sự.
Cũng như hình phạt khác nói chung, hình phạt tử hình nói riêng chỉ được
quy định trong Bộ luật hình sự. Điều này nói lên tính hợp pháp và tính pháp
chế của loại hình phạt này. Điều 26 Bộ luật hình sự hiện hành quy định rõ:
“Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự”. Hình phạt tử hình được quy
định ở Điều 35 của Bộ luật hình sự 1999 với tư cách là hình phạt chính, ở phần
các tội phạm, hình phạt tử hình được quy định cụ thể đối với từng loại tội phạm
cụ thể.
Trong bộ luật hình sự 1999. Hình phạt tử hình được quy định với các tội
danh sau: Tội phản bội Tổ quốc (khoản 1 Điều 78), Tội hoạt động nhằm lật đổ
chính quyền nhân dân (khoản 1 Điều 79), Tội gián điệp (khoản 1 Điều 80), Tội
bạo loạn (khoản 1 Điều 82), Tội hoạt động phỉ (khoản 1 Điều 83), Tội khủng
bố (khoản 1 Điều 84), Tội phá hoại cơ sở vật chất –kỷ thuật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1Điều 85), Tội giết người (khoản 1 Điều
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


5

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

93), Tội hiếp dâm (khoản 3 Điều 111), Tội hiếp dâm trẻ em (khoản 3 Điều
112), Tội cướp tài sản (khoản 4 Điều 133), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(khoản 4 Điều 139), Tội buôn lậu ( khoản 4 Điều 153); Tội sản xuất, buôn bán
hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (khoản
4, Điều 157); Tội làm tàng trử, vận chuyện, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả,
công trái giả (Khoản 3, Điều 180); Tội sản xuất trái phép chất ma túy (khoản 4,
Điều 193); Tội tàng trử, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt ma túy
(khoản 4, Điều 194); Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (khoản 3, Điều 221); Tội
phá hủy công trình, phương tiện quan trọng của an ninh quốc gia (khoản 2,
Điều 231); Tội tham ô tài sản (khoản 4, Điều 278); Tội nhận hối lộ (khoản 4,
Điều 289); Tội chống mệnh lệnh (khoản 4, Điều 316); Tội đầu hàng địch
(khoản 3, Điều 322); Tội hủy hoại vũ khí quân dụng , phương tiện kỹ thuật
quân sự (khoản 4, Điều 334); Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược
(Điều 341); Tội chống loài người (Điều 342); Tội phạm chiến tranh (Điều 343).
Thế nhưng hiện nay thì hình phạt tử hình ở nước ta được xóa bỏ ở một số
tội danh theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 1999 như
sau: Tội hiếp dâm (Điều 111); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139); Tội
buôn lậu (Điều 153); Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả (Điều 180); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 197); Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221); Tội hủy hoại vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 334).
 Tử hình là hình phạt chỉ do Tòa án nhân danh Nhà nước áp dụng

Đặc điểm này được lấy ra từ dấu hiệu chung của hình phạt được quy định ở
Điều 26 Bộ luật hình sự 1999 “ Hình phạt do Tòa án quyết định”. Có nghĩa là,
quyết định hình phạt tử hình thuộc thẩm quyền đặc biệt của Tòa án chứ không
phải của một cơ quan, tổ chức hay một người nào đó. Thẩm quyền đặc biệt này
còn thể hiện ở chổ, ngoài việc Chủ tịch nước xét ân giảm theo quy định của
pháp luật, thì không cơ quan, tổ chức cá nhân nào có thể miễn hình phạt tử hình
do Tòa án tuyên.Việc miễn đó hoàn toàn thuộc vào thẩm quyền đặc biệt của
Tòa án và khi tiến hành phải căn cứ vào quy định của pháp luật.
 Hình phạt tử hình chỉ có thể được áp dụng đối với người có lỗi trong
việc thực hiện tội phạm.
Điều 2 của Bộ luật hình sự 1999 quy định “ Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo nghĩa
này, hình phạt tử hình được hiểu là hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi
phạm tội. Tức là trong trường hợp khi người nào đó thực hiện một tội phạm cụ
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

6

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

thể do Bộ luật hình sự quy định, thì Tòa án mới có thể quyết định hình phạt tử
hình, hình phạt này chỉ được áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện
tội phạm. Do vậy hình phạt tử hình không thể áp dụng đối với thành viên trong
gia đình cũng như với những người thân khác của người phạm tội, ngay cả
trong trường hợp người phạm tội lẫn tránh hình phạt. Dấu hiệu này nói lên tính
chất cá nhân và tính nhân đạo của hình phạt tử hình.
Hình phạt tử hình với tính chất là biện pháp hình sự được Nhà nước sử dụng

như một công cụ cần thiết, có hiệu quả để trừng trị và phòng ngừa việc phạm
tội. Do đó hình phạt tử hình có nội dung trừng trị và phòng ngừa, đoạt quyền
sống của người phạm tội. Việc người phạm tội và những người khác có nhận
thức được hay không nội dung đó của hình phạt tử hình cũng không làm thay
đổi nội dung của hình phạt tử hình, bởi đó là thuộc tính tất yếu, nội tại, khách
quan của hình phạt tử hình. Tuy nhiên hình phạt tử hình có nội dung trừng trị
không có nghĩa là nó đồng nghĩa với mục đích trừng trị. Ở đây, thuộc tính
trừng trị của hình phạt tử hình hoàn toàn khác với mục đích trừng trị của hình
phạt tử hình.
Nội dung phòng ngừa của hình phạt tử hình thể hiện rõ ở chổ: Do hình phạt
này tước đoạt tính mạng của người phạm tội, cho nên, người phạm tội không
còn tồn tại và điều đó có nghĩa là phòng ngừa được việc phạm tội của người đó.
Hơn nữa, hình phạt tử hình được áp dụng đối với những đối tượng thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng, trong các vụ án dư luận đặc
biệt quan tâm, do đó, tính xã hội và tính thông tin của hình phạt tử hình rất cao.
Đặc điểm này của hình phạt tử hình không chỉ có ý nghĩa về việc giáo dục và
răn đe đối với những đối tượng hình sự, những đối tượng xem thường pháp
luật, mà còn có ý nghĩa tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật và tính phòng
ngừa vi phạm pháp luật rất sâu sắc và hiệu quả rộng cộng đồng.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tử hình như sau:
“ Hình phạt tử hình là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ
thống hình phạt được Bộ luật hình sự quy định do Tòa án nhân danh Nhà nước
áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng và được thể hiện ở việc tước đoạt quyền sống của người phạm tội”.
1.1.3. Bản chất của hình phạt tử hình
Mỗi hình thái kinh tế -xã hội đều có một hệ thống hình phạt tương ứng. Bản
chất, nội dung và vai trò của hình phạt, của hệ thống hình phạt nói chung, của
hình phạt tử hình nói riêng đều do các điều kiện kinh tế chính trị, văn hóa, xã
hội hệ tư tưởng, đạo đức lối sống của hình thái kinh tế -xã hội đó quyết định.
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


7

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Do đó, bản chất, nội dung, và vai trò của hình phạt nói chung, của hình phạt tử
hình nói riêng luôn thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi của các hình thái kinh tế
xã hội, vào sự thay đổi trong quan điểm, cách nhìn nhận và đánh giá của các
giai cấp thống trị trong từng giai đoạn, điều kiện lịch sử cụ thể.
Về bản chất, dù hình phạt tử hình tồn tại trong xã hội nào đi chăng nữa thì
vẫn luôn phản ánh quan điểm của giai cấp thống trị về các biện pháp đấu tranh
với tội phạm, nó bao giờ cũng xuất phát từ quan điểm thống trị cơ bản trong xã
hội. Mặt khác, hình phạt tử hình do các điều kiện xã hội, các quyền và lợi ích
kinh tế chính trị và các lợi ích khác của giai cấp thống trị quyết định và phải
luôn phù hợp với các lợi ích của giai cấp đó.
Về tính giai cấp, hình phạt tử hình là một trong những biện pháp cần thiết
cuối cùng được giai cấp thống trị áp dụng để đấu tranh với những giai cấp
chống đối, với những con người cụ thể bị hệ thống pháp luật đó coi là phạm tội.
Tính giai cấp, ý nghĩa chính trị xã hội, vai trò của hình phạt tử hình, do chính
Nhà nước thay mặt giai cấp đó quyết định. CMác đã chỉ ra tính giai cấp của
hình phạt và coi hình phạt, trong đó có hình phạt tử hình, là một trong những
công cụ của giai cấp thống trị được áp dụng để đấu tranh tội phạm. Tính giai
cấp của hình phạt tử hình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của giai cấp thống trị.
Giai cấp nào, Nhà nước nào quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng vì
quyền và lợi ích của giai cấp đó của Nhà nước đó. Trong xã hội ta, hình phạt tử
hình được quy định và áp dụng nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân ta, của dân
tộc ta, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong các xã hội bóc lột trước đây, hình phạt tử hình được các giai cấp
thống trị sử dụng như một trong những công cụ chính, cơ bản để đấu tranh với
tội phạm nhằm trong xã hội chiếm hữu nô lệ, trong xã hội phong kiến và được
thi hành dưới những hình thức rất tàn khốc. Ở xã hội phong kiến Việt Nam,
Nhà nước phong kiến đã quy định và áp dụng hệ thống ngũ hình: Đánh bằng
roi, băng gậy, tù khổ sai, đày và giết chết. Trong đó hình phạt tử hình được thi
hành bằng những hình thức rất dã man như: Thắt cổ, chém đầu, chém Bêu đầu,
thiêu trên lửa, bỏ vạc đầu, chặt chân tay, xẻo thịt làm cho chết dần …
Trong xã hội Tư bản, ở thời kỳ đầu Nhà nước Tư sản sử dụng hình phạt tử
hình được sử dụng hình phạt tử hình khá phổ biến để đấu tranh với tội phạm
nhằm bảo vệ chế độ Tư bản chủ nghĩa, bảo vệ các nguyên tắc xử sự trong xã
hội có lợi cho giai cấp tư sản. Khuynh hướng của việc sử dụng hình phạt tử
hình trong thời kỳ đầu của Nhà nước Tư sản là trong những giai đoạn căng
thẳng của cuộc đấu tranh giai cấp, do đó, hình phạt tử hình được mở rộng lĩnh
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

8

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

vực và phạm vi áp dụng trong sự kết hợp với các biện pháp đàn áp hành chính,
quân sự đối với những lực lượng đối lập.
Khác với các nhà nước bóc lột, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của
dân, do dân, vì dân nên về bản chất và hình thức đấu tranh với tội phạm được
tiến hành bằng nhiều cách và nhiều biện pháp khác nhau như: Kinh tế văn hóa,
xã hội, tổ chức, giáo dục, pháp luật, đồng thời lôi cuốn rộng rãi mọi người vào
việc bảo vệ trật tự pháp luật. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội quan

tâm đặc biệt đến việc phòng ngừa tội phạm. Các biện pháp kinh tế, văn hóa, xã
hội, tổ chức, giáo dục tư tưởng …, có ý nghĩa quyết định trong cuộc đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm. Cũng như các chế độ chính trị -xã hội khác,
hiện nay ở Việt Nam, hình phạt tử hình cũng mang đậm tính giai cấp, nhưng
hoàn toàn khác với tính giai cấp của hình phạt tử hình trong các xã hội bóc lột.
Hình phạt tử hình được quy định và áp dụng để bảo vệ thành quả cách mạng
của nhân dân ta, chế độ xã hội chủ nghĩa, vì chủ quyền quốc gia, độc lập dân
tộc, toàn vẹn lãnh thổ… và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.
1.2. Thi hành hình phạt tử hình
1.2.1. Khái niệm và bản chất về thi hành hình phạt tử hình
Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 Điều 136 quy định “ các bản án
và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật đã được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân
và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành”. Đòi hỏi mang tính chất hiến định đó đã khẳng định hiệu lực thi
hành của tất cả các phán quyết của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật, đồng
thời khẳng định tầm quan trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành án
hình sự nói riêng, trong đó có thi hành hình phạt tử hình .
Việc thi hành hình phạt tử hình, cụ thể hơn là việc thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án không phải chỉ là vấn đề riêng liên quan đến một hoặc
một số cá nhân hay một tổ chức nào đó mà trở thành vấn đề trực tiếp liên quan
đến quyền lực Nhà nước, đến kĩ cương, phép nước đến trật tự pháp luật, tính
nghiêm minh của hệ thống pháp luật, đến uy tín của pháp luật, đến công lý và
công bằng xã hội. Do đó, thi hành án có ý nghĩa quan trọng trên nhiều phương
diện ở tầm Hiến pháp.
Thi hành hình phạt tử hình là một trong những nội dung của thi hành án
hình sự. Do vậy, để có cơ sở cho việc nhận thức đầy đủ về thi hành hình phạt tử
hình cần làm rõ khái niệm thi hành án nói chung.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu


9

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Hiện nay, trong khoa học pháp lý nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm, bản chất của thi hành án hình sự. Có quan điểm cho rằng thi hành án
hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Có thể cho rằng thi hành
án hình sự là một hoạt động hành chính-tư pháp, có những nét đặc thù riêng
khác với hoạt động tố tụng hình, nhưng có mối liên hệ chặt chẽ với tố tụng hình
sự. Việc xác định thi hành án hình sự là giai đoạn của tố tụng hình sự hay là
hoạt động hành chính-tư pháp có nghĩa là làm sáng tỏ bản chất của thi hành án
hình sự.
Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính hành chính-tư pháp, có tính độc
lập tương đối. Tính hành chính của hoạt động thi hành án hình sự thể hiện ở
các đặc thù khác biệt với hoạt động tố tụng hình sự như sau: Nếu như trong tố
tụng hình sự, tất cả hoạt động tố tụng được tiến hành đều nhằm bảo đảm cho
Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, thì thi hành án hình sự được tiến hành là
nhằm thực thi các nội dung đã được Tòa án phán quyết; các quan hệ phát sinh
giữa các chủ thể trong thi hành án hình sự, về cơ bản mang tính chất hành
chính. Tính tư pháp của hoạt động thi hành án hình sự được thể hiện ở chổ hoạt
động thi hành án hình sự được tiến hành để thực hiện các phán quyết của Tòa
án; là hoạt động có liên quan chặt chẽ với giai đoạn tố tụng diễn ra trước đó;
một số quan hệ nảy sinh trong thi hành án hình sự mang tính chất tư pháp, do
pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. Từ việc phân tích trên cho thấy thi hành
án hình sự là hoạt động có tính hành chính –tư pháp. Điều này phản ảnh rõ rệt
mối quan hệ giữa quyền hành pháp với quyền tư pháp trong hoạt động thi hành

án.
Từ những điều trình bày trên có thể hiểu thi hành hình phạt tử hình là một
dạng hoạt động mang tính hành chính –tư pháp được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành theo một trật tự do pháp luật quy định chặt chẽ cụ thể
nhằm thực hiện nội dung bản án tử hình.
Theo Dự thảo Bộ luật thi hành án hình sự cũng có định nghĩa về thi hành án
hình phạt tử hình như sau:
“Thi hành án tử hình là việc tước bỏ quyền sống của người bị kết án tử hình
về tội đặc biệt trọng nhằm trừng trị người đó và giáo dục, phòng ngừa chung.
(Điều 74 –Dự thảo luật thi hành án hình sự).

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

10

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.2. Thi hành hình phạt tử hình qua các giai đoạn lịch sử pháp luật
Việt Nam
1.2.2.1. Thi hành hình phạt tử hình qua các giai đoạn lịch sử pháp luật
Việt Nam giai đoạn trước năm 1945
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam thời phong kiến về thi
hành hình phạt tử hình, có thể nhận xét như sau:


Ưu điểm:


 Tư tưởng nhân đạo được thể hiện rõ nét trong các quy định của pháp
luật thời kỳ phong kiến. Thời Nhà Lý vào thế kỷ XI Vua thường thực hiện đại
xá vào những dịp Hoàng Hậu sinh con trai1.Đối với phụ nữ phạm tội, Luật
cũng quy định hình phạt nhẹ hơn so với nam giới. Phụ nữ có thai hoặc đang
nuôi con nhỏ (dưới 100 ngày) thì được hoãn hành hình
 Pháp luật thời phong kiến quy định không được thi hành án tử hình vào
dịp lễ tết ..
 Nhằm hạn chế những sai sót có thể xảy ra trong việc thi hành án tử hình,
nâng cao vai trò trách nhiệm của những người thi hành án tử hình. Điều 662
của Quốc triều hình luật quy định: Tội nhân chưa hết hy vọng để gỡ tội mà giết
tội nhân thì những người liên quan vào việc giết đều phải khép vào tội giết
người.
 Hạn chế:
Mặc dù các Triều đại Lê, Nguyễn đã có quan theo dõi việc thi hành một số loại
án nhất định như đồ, lưu, tử nhưng thủ tục thi hành án cũng chưa được quy
định rõ ràng nên việc thi hành án trên thực tế phụ thuộc rất nhiều vào các quan
lại xét xử. Đây là một trong những nguyên nhân chính làm cho việc thi hành án
trên thực tế nhiều khi tùy tiện thiếu khách quan.
 Các hình phạt của Nhà nước phong kiến do các quan lại xét xử phần lớn
được thi hành ngay. Nhiều trường hợp sau khi tuyên án chỉ bằng miệng là bản
án được thi hành ngay tức thì. Việc thi hành cùng một loại hình phạt có nhiều
hình thức khác nhau, không thống nhất. Chẳng hạn việc thi hành hình phạt tử
hình có nhiều hình thức khác nhau như hỏa thiêu, bỏ vạc đầu, lăng chì, voi
dày... Hình thức thi hành án không chỉ khác nhau ở mỗi giai đọan lịch sử mà
ngay trong cùng một triều đại cũng có sự khác nhau2. Pháp luật quy định nhiều
hình phạt dã man, tàn khốc nên khi thi hành gây ra cho phạm nhân sự đau đớn
về thể chất và tinh thần.
1
2


Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nhà xuất bản.Khoa học và xã hội, Hà Nội, năm 1993
Bùi Xuân Đính, Tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt dưới triều đại Nhà Nguyễn 1802-1858

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

11

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.2.2. Thi hành hình phạt tử hình qua các giai đoạn lịch sử pháp luật
Việt Nam giai đoạn từ năm 1945 đến Bộ luật tố tụng hình sự 1988
Có thể nói rằng do nhiều nguyên nhân mà cho đến nay, rất ít văn bản quy
định về tổ chức thi hành hình phạt tử hình trong thời kỳ sau Nhà nước ta mới
thành lập còn được lưu lại, vì vậy việc nghiên cứu về vấn đề này gặp nhiều khó
khăn.
Một vấn đề đáng chú ý là, tương tự như pháp luật hình sự về hình phạt tử
hình, thời kỳ sau cách mạng tháng tám năm 1945 Nhà nước ta áp dụng nhiều
quy định pháp luật được kế thừa từ thời điểm thực dân Pháp, do công tác xây
dựng pháp luật của nước ta thời kì đầu còn nhiều hạn chế. Có thể cùng một vấn
đề nhưng lại được điều chỉnh bởi đồng thời hai loại quy phạm mới và cũ. Về
hình phạt tử hình, bên cạnh một số quy định của Nhà nước mới, các cơ quan tư
pháp lúc đó vẫn còn áp dụng nhiều quy định pháp luật trước đó.
Riêng đối với việc thi hành hình phạt tử hình, Nhà nước đã bỏ hình thức
dùng máy chém và chuyển sang áp dụng hình thức xử bắn. Tuy nhiên trong
nhiều trường hợp, chủ yếu là khu vực có chiến tranh hoặc khi cần thi hành bản
án tử hình ngay trong lòng địch nhằm thực hiện nhiệm vụ diệt ác trừ gian, bản
án tử hình có thể được thi hành bằng nhiều hình thức khác nhau, mà phổ biến

nhất là dùng dao găm; có trường hợp dùng thuốc độc hoặc dùng mìn, lựu đạn,
cung tên...Cán bộ thi hành án tử hình cũng rất khác nhau; không giao cho một
lực lượng nào chuyên trách, mà tùy tình huống cụ thể để quyết định người thi
hành và biện pháp thích hợp.
Việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong các văn bản pháp luật
sau đây:
 Sắc lệnh số 150/SL ngày 12/4/1953 của Chủ tịch nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt ở những nơi phát động quần
chúng thi hành chính sách ruộng đất:
 Điều 4. Thành phần;Tòa án nhân dân đặc biệt huyện hoặc liên huyện
gồm một Chánh án và 6 đến 10 thẩm phán. Một nữa số thẩm phán do Nông hội
hoặc Hội nghị đại biểu nông dân ở huyện hoặc liên huyện cử ra. Khi xét xử thì
lấy thêm đại biểu nông dân ở xã đó, nhưng số đại biểu lấy vào không được quá
1/3 tổng số thẩm phán.
 Điều 5. Cách làm việc: Khi làm việc, Tòa án nhân dân đặc biệt dựa vào
quần chúng nhân dân địa phương mà điều tra, thu thập chứng cứ xác thực và
phải xét xử nhanh chóng.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

12

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

 Điều 11. Quyền hạn.Tòa án nhân dân đặc biệt có quyền tuyên án: Xử tử
hình
 Nghị Định số 264-TT ngày 11/5/1953 của Thủ tướng Chính phủ quy

định chi tiết thi hành các sắc lệnh số 149/SL, 150/SL ngày 12/4/1959 của Chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về chính sách ruộng đất.
 Thông tư số 561/TA ngày 5/12/1970 của Tòa án quân sự Trung ương
hướng dẫn về việc thi hành án tử hình.
 Chỉ thị số 138-KC1 ngày 13/2/1974 của Bộ Công an về việc thi hành án
tử hình.
 Chỉ thị số 07/TATC ngày 12/3/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn việc thực hiện nhiệm vụ Tòa án nhân dân trong việc thi hành án tử hình
 Chỉ thị số 31/CT ngày 17/5/1974 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án tử hình.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, trong khi chưa có điều kiện để
xây dựng Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự, Nhà nước đã ban hành
một số văn bản quy định pháp luật đơn lẻ về việc thi hành hình phạt tử hình
nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình lúc bấy giờ đó là:
 Pháp lệnh số 115/LCT ngày 2/12/1978 Của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình gồm hai điều quy định
về thời hạn xin ân giảm án tử hình và thẩm quyền duyệt án tử hình.
 Thông tư Liên Bộ số 03//TTLB ngày 6/12/1982 của Tòa án nhân dân tối
cao- Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Nội vụ- Bộp tư pháp về việc thực hiện
các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 3/7/1981 đối với bản ản
án tử hình.
Ngoài hai văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nêu trên, Nhà nước còn ban
hành nhiều văn bản có nội dung liên quan đến việc tổ chức hoạt động thi hành
án tử hình như:
 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 03/7/1981, trong đó quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thi hành án tử hình
 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 04/7/1981, trong đó quy định
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc thi hành án tử hình
Qua nghiên cứu pháp luật thời kỳ này cho thấy các quy định về thi hành
hình phạt tử hình nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, từ Luật, Pháp lệnh,

Nghị định, Thông Tư.... Nói chung các quy định này đề cập chưa đầy đủ, toàn
diện, đặc biệt là thiếu thủ tục cụ thể về thi hành hình phạt tử hình.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

13

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

1.2.2.3. Thi hành hình phạt tử hình theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành ở Việt Nam
Thi hành án tử hình hiện nay được Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003 quy định rất chặt chẽ. Đặc biệt là được thể hiện rõ ràng nhất qua Điều 258
và Điều 259 của Bộ luật này. Bên cạnh đó vấn đề thi hành án tử hình còn
được quy định trong Dự thảo Bộ luật thi hành án hình sự và một số văn bản
khác có liên quan như: Nghị quyết số 02/2007 /NQ-HĐTP ngày 02/10/2007
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ năm “thi hành bản án và quyết định của Tòa án” của
Bộ luật tố tụng hình sự,
Càng về sau thì pháp luật nước ta lại càng hoàn thiện hơn nữa về vấn đề thi
hành án tử hình. Điều đặc biệt hiện nay là Dự thảo Bộ luật thi hành án hình sự
cũng quy định rất chi tiết về vấn đề này và việc thi hành hình phạt tử hình cũng
đang rất cần có một khung pháp lý riêng để được áp dụng một cách độc lập.
1.2.3. Đặc điểm của hoạt động thi hành án hình sự -hình phạt tử hình
Thi hành án là một loại hoạt động có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là, thi hành án hình sự là một dạng hoạt động của Nhà nước, thực hiện
quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, bảo

đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của Tòa án bằng các biện pháp
pháp luật quy định.
Hai là, thi hành án hình sự là một hoạt động phức tạp, đa dạng, từ việc thi
hành các hình phạt chính như: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, và hình phạt cao nhất đó là tử hình đến các
hình phạt bổ sung như cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, hạn chế một số quyền công dân, tịch thu
tài sản đến việc thực hiện các biện pháp tư pháp như tịch thu tang vật, tài vật
liên quan đến tội phạm, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh, giáo dục
người chưa thành niên tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng
...Theo đó mỗi loại hình phạt hay biện pháp tư pháp đều xuất phát từ mục đích
của nó mà quyết định nội dung, phương pháp hình thức cũng như thời hạn thi
hành. Có thể nói, thi hành án hình sự là một biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất, có thể đình chỉ hoặc hạn chế nhất định những quyền và lợi ích vật chất
tinh thần của người bị kết án, kể cả mạng sống của họ đó là thi hành hình phạt
tử hình.
Ba là, thi hành hình sự là buộc người bị kết án phải chấp hành các biện
pháp tư pháp nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ trở thành người lương thiện,
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

14

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

nên các phương thức, hình thức, biện pháp tập trung tác động vào tư tưởng, cải
tạo tư tưởng của người bị kết án với phương châm trừng trị, cải tạo kết hợp với
giáo dục để họ hối cải, có ý thức tuân theo pháp luật, tuân theo các quy tắc đạo

đức xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Bên cạnh đó còn nhằm răn đe, giáo
dục những người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Bốn là, thi hành hình sự được tiến hành theo trình tự do pháp luật quy định
chặt chẽ cụ thể. Toàn bộ quá trình thi hành các loại bản án hình sự, các quyết
định và các quan hệ liên quan đến việc thi hành án được quy định rõ ràng.
Năm là, Căn cứ và nội dung của thi hành án hình sự chính là các nội dung
cụ thể trong các phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Đây là đặc
điểm thể hiện rõ nét nhất tính tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước của thi
hành án hình sự.
Sáu là, thi hành hình sự mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các
chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ
quan, tổ chức người có thẩm quyền, công dân trong phạm vi trách nhiệm của
mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án hình sự đạt
hiệu quả cao hơn.
Bảy là, theo quy định của pháp luật, dựa trên nguyên tắc cá thể hóa trách
nhiệm hình sự, thì chủ thể phải chấp hành án hình sự là cá nhân người bị kết
án. Những người này cho dù đã chấp hành xong hình phạt phải chịu hậu quả
pháp lý trong thời gian nhất định do luật định.
Tám là, đối với thi hành hình phạt tử hình. Đây là hình phạt nghiêm khắc
nhất vì nó tước đi quyền sống của người phạm tội. Bởi vậy pháp luật đã quy
định riêng cho thi hành hình phạt tử hình các nguyên tắc, trình tự, thủ tục, chặt
chẽ. Việc thi hành hình phạt tử hình chỉ là quá trình mà Hội đồng thi hành hình
phạt tử hình thực thi nhiệm vụ theo thủ tục trình tự nhất định.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

15

SVTH: Lý Thị Nhiên



Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

CHƯƠNG II
THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH CỦA VIỆT NAM
2.1. Cơ quan, tổ chức tham gia công tác thi hành hình phạt tử hình
Tử hình là hình phạt đặc biệt được áp dụng với những người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng nên công tác thi hành hình phạt tử hình được tiến hành theo
trình tự, thủ tục hết sức chặt chẽ với sự tham gia của nhiều ngành nhiều lực
lượng khác nhau. Theo quy định tại Điều 258 và Điều 259 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 thì việc thi hành hình phạt tử hình có sự tham gia của các cơ quan,
lực lượng sau đây:
2.1.1. Tòa án nhân dân
Là cơ quan có thẩm quyền xét xử và tuyên án tử hình đối với người phạm
tội (Tòa án cấp tỉnh trở lên). Nếu bị cáo không kháng cáo, Viện kiểm sát không
kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo có đơn kháng cáo hoặc
Viện kiểm sát kháng nghị thì vụ án phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm và
khi Tòa án phúc thẩm quyết định, bản án có hiệu lực thi hành. Theo quy định
của pháp luật, sau khi bản án quyết định về hình sự của Tòa án có hiệu lực
pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền phải ra quyết định thi hành theo trình tự
thủ tục chung. Tuy nhiên việc thi hành hình phạt tử hình phải tuân theo trình tự
riêng. Theo quy định tại Điều 258 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 sau khi bản án
tử hình có hiệu lực pháp luật hồ sơ vụ án phải được gởi lên Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao xem xét, xác định việc xét xử có chính xác hay không?, có căn
cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không.
Thời gian để Chánh án xem xét là hai tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ
án. Theo khoản 4 điều 25 luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, nếu người bị
kết án tử hình có đơn xin ân giảm hình phạt tử hình thì Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao phải trình với Chủ tịch nước ý kiến của mình về đơn xin ân giảm

của người đó.
Trong giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, Tòa án giữ vai trò quan trọng
theo Điều 259 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 “ Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm
ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình”.
Như vậy, theo quy định Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án có thẩm
quyền quyết định hình phạt tử hình đối với người phạm tội, đồng thời tham gia
Hội đồng thi hành hình phạt tử hình với vai trò là người tổ chức, chỉ đạo và
giám sát quá trình thi hành hình phạt tử hình.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

16

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát có chức năng thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc thi
hành pháp luật, do đó có vai trò không thể thiếu trong việc tổ chức và thi hành
hình phạt tử hình.
Trong quá trình xét xử vụ án Viện kiểm sát giữ vai trò công tố, có chức
năng buộc tội và đề nghị mức án tử hình đối với bị cáo. Sau khi bản án tử hình
có hiệu lực pháp luật, bản sao được gửi lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, cùng với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm xem xét kĩ lưỡng vụ án để quyết định
có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm hay không? Bản án tử
hình chỉ được thi hành khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng nghị và Chủ tịch nước bác đơn xin

ân giảm của người bị kết án.
Trong giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, Viện trưởng (hoặc phó Viện
trưởng, kiểm sát viên) Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm tham gia
với tư cách là thành viên của Hội đồng thi hành án tử hình.
Như vậy, với nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Viện kiểm sát tham gia
hoạt động thi hành hình phạt tử hình để giám sát, bảo đảm quá trình thi hành án
diễn ra đúng pháp luật.
2.1.3. Cơ quan Công an
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, trong mọi giai đoạn
thi hành hình phạt tử hình, trách nhiệm của lực lượng Công an rất nặng nề, đặc
biệt là nhiệm vụ trực tiếp thi hành hình phạt tử hình. Ở giai đoạn xét xử, lực
lượng Công an có trách nhiệm bảo vệ phiên Tòa, áp giải bị cáo đến phiên Tòa
và giám sát, bảo vệ bị cáo trong quá trình xét xử và ở trại giam, bảo đảm tính
mạng của người bị kết án tử hình cho đến khi thi hành án.
Trong giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, giám đốc hoặc phó giám đốc
Công an cấp tỉnh tham gia Hội đồng thi hành án với tư cách là thành viên,
ngoài ra, cơ quan Công an có trách nhiệm tổ chức đội vũ trang trực tiếp thi
hành hình phạt tử hình, cử lực lượng chuẩn bị pháp trường, tổ chức lực lượng
bảo vệ thi hành hình phạt tử hình một cách an toàn tuyệt đối ngoài ra trong quá
trình thi hành hình phạt tử hình còn có sự tham gia một số thành viên khác như
cán bộ Tòa án làm thư ký Hội đồng, một bác sĩ pháp y, đại diện Uỷ ban nhân
dân cấp xã, phường nơi bố trí pháp trường.

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

17

SVTH: Lý Thị Nhiên



Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

2.2. Về trình tự thủ tục thi hành hình phạt tử hình3
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, sau khi bản án tử hình
có hiệu lực pháp luật, trong tời hạn 7 ngày, người bị kết án có quyền làm đơn
xin Chủ tịch nước ân giảm
Trường hợp người bị kết án làm đơn xin ân giảm tử hình thì Chành án Tòa
án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải trình tờ
trình về ý kiến của mình lên Chủ tịch nước về hình phạt tử hình đối với người
bị kết án, sau đó chuyển hồ sơ vụ án cùng đơn xin ân giảm của người bị kết án
lên Văn phòng Chủ tịch nước để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định. Ngày
05/9/2003, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước có Quyết định số 60-QĐ/VPPL ban hành quy chế xử lý hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình ở cơ quan Văn
phòng Chủ tịch nước. Quy chế này quy định về trình tự thủ tục xử lý hồ sơ án
tử hình tại Văn phòng Chủ tịch nước. Theo đó các công đoạn giải quyết đều thể
hiện rõ ràng, bảo đảm hồ sơ được xử lý nhanh hơn, rành mạch hơn. Hồ sơ vụ
án sau khi được chuyển đến Văn phòng Chủ tịch nước, chậm nhất không quá
hai ngày phải hoàn tất thủ tục tiếp nhận và chuyển ngay đến Vụ pháp luật. Vụ
pháp luật có trách nhiệm rà soát ngay hồ sơ bảo đảm các yêu cầu tối thiểu như:
Đơn xin ân giảm tử hình phải là bản chính, đúng quy định pháp luật, có dấu xác
nhận của đơn vị đang giam giữ bị án. Trường hợp gửi bản sao phải có ý kiến và
đóng dấu của người có thẩm quyền; lý lịch của bị án có xác nhận của cơ quan
có thẩm quyền; các bản án đã tuyên đối với đối với bị án; tờ trình và quyết định
không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao…và được
khẩn trương xử lý, nghiên cứu và soạn thảo các văn bản để Chủ nhiệm Văn
phòng Chủ tịch nước ký trình Chủ tịch nước. Trong quá trình xử lý hồ sơ Văn
phòng Chủ tịch nước chủ động phối hợp với các cơ quan liên quan để thu thập
thêm thông tin về người bị kết án tử hình để trình Chủ tịch nước xem xét, quyết
định.
Hồ sơ trình Chủ tịch nước xem xét quyết định ngoài những giấy tờ nêu trên
còn có các tài liệu khác như: Tờ trình của Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước

trình Chủ tịch nước về đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của người bị kết án;
dự thảo quyết định của Chủ tịch nước về việc xét đơn xin ân giảm án tử hình;
các đơn thư hoặc các văn bản khác gửi đến Chủ tịch nước của cơ quan, tổ chức,
quần chúng nhân dân, của nhân thân người bị kết án tử hình, của người đại diện
hợp pháp của người bị hại…
3

Th.S.Đỗ Thị Phượng , Một số vấn đề về thủ tục thi hành án hình sự ,Tạp chí luật học số 7/2006

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

18

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Những trường hợp nghi có oan sai, sau khi có ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch
nước, phải làm các thủ tục để lãnh đạo văn phòng thông báo ý kiến của Chủ
tịch nước yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, xem xét báo cáo lại; Trường hợp cần thiết đề nghị Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội giám sát, kết luận. Trường hợp hồ sơ vụ án đang được
xem xét, nghiên cứu, trình Chủ tịch nước mà có thông báo của cơ quan chức
năng về phạm nhân đó đã bị chết hoặc trốn trại giam chưa bắt được hoặc có
công văn xin tạm hoãn vì lý do khác thì phải báo cáo ngay với Chủ nhiệm Văn
phòng Chủ tịch nước.
Thời hạn giải quyết đối với mỗi hồ sơ vụ án tại cơ quan Văn phòng Chủ
tịch nước trung bình là 45 ngày kể từ ngày hồ sơ đến Văn phòng Chủ tịch
nước. Những trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định. Nếu Chủ tịch

nước có yêu cầu đi địa phương xác minh thêm thì trong thời hạn không quá 30
ngày, Văn phòng phải tổ chức thực hiện và báo cáo kết quả giải quyết trình
Chủ tịch nước xét, quyết định. Thời hạn xem xét và ký các văn bản trình Chủ
tịch nước bác đơn hoặc cho ân giảm xuống tù chung thân hoặc trả về cho
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giải quyết theo thẩm quyền tối đa là 5 ngày
đối với mồi hồ sơ vụ án. Thời hạn thư ký trợ lý của Chủ tịch nước nghiên cứu
thẩm định và có ý kiến trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định đối với người
bị kết án tử hình tối đa là 5 ngày với mỗi hồ sơ.
Cùng với quy chế nêu trên, ngày 30/10/2003 Văn phòng Chủ tịch nước và
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành quy chế 72-QC/LT về phối hợp công tác
giữa hai cơ quan này. Tại muc V của quy chế quy định về việc xét đơn ân
giảm hình phạt tử hình, về trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Văn
phòng Chủ tịch nước và Tòa án nhân dân tối cao trong việc tiếp nhận, xử lý,
giải quyết hồ sơ xin ân giảm hình phạt tử hình. Những trường hợp đơn xin ân
giảm hình phạt tử hình nhưng lại có nội dung kêu oan thì Văn phòng Chủ tịch
nước trả hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tối cao giải quyết. Đối với những hồ sơ
chưa đầy đủ hoặc khi Chủ tịch nước có yêu cầu báo cáo bổ sung thì Tòa án
nhân dân tối cao có trách nhiệm xác minh, bổ sung tài liệu trong thời hạn
không quá 30 ngày. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao báo cáo trực tiếp về từng hồ sơ của người có đơn xin
ân giảm hình phạt tử hình. Bản án chỉ được đưa ra thi hành sau khi Chủ tịch
nước quyết định bác đơn xin ân giảm của người bị kết án. Nếu trường hợp Chủ
tịch nước chấp nhận đơn xin ân giảm của người bị kết án thì hình phạt tử hình
được chuyển thành tù chung thân.
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

19

SVTH: Lý Thị Nhiên



Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Trong mọi trường hợp, dù người bị kết án có làm đơn xin ân giảm hay
không thì sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được
gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản sao bản phải được gửi
ngay lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời hạn 2 tháng,
kể từ ngày nhận được bản án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
và Viện trưởng kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc
không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Trường hợp người bị kết án
không làm đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước, thì bản án tử hình được đưa ra
thi hành sau khi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Thực tế thực hiện quy định này cho thấy chỉ khi phải có đủ hai quyết
định không kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì bản án tử hình mới được thi hành.
Trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án tử hình thì vụ
án được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Sau khi tiến hành
các thủ tục và công việc đó theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003.
Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình cũng được quy định rất chặt chẽ.
Sau khi Chủ tịch nước bác bỏ đơn xin ân giảm hoặc Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định không kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, thì Chánh án Tòa án nhân dân
đã xét xử sơ thẩm ra quyết định thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành án
tử hình gồm đại diện Tòa án, Viện kiểm sát và Công an. Riêng trường hợp
người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi hành hình phạt tử hình,
Chánh án Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra xem có điều
kiện để không áp dụng hình phạt tử hình theo quy định của pháp luật Bộ luật

hình sự hiện hành hay không. Theo quy định tại điều 35 Bộ luật hình sự năm
1999 điều kiện để không áp dụng hình phạt tử hình là người bị kết án là phụ nữ
có thai, hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này Chánh
án Tòa án đã xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án và báo cáo Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình xuống thành tù
chung thân cho người bị kết án.
Trước khi thi hành án, Hội đồng thi hành án phải kiểm tra căn cước của
người bị kết án, giao cho người bị kết án đọc quyết định thi hành án, quyết định
không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và của
GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

20

SVTH: Lý Thị Nhiên


Đề tài: Lý luận và thực tiễn về thi hành án tử hình trong Tố tụng hình sự Việt Nam

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nếu người bị kết án xin giảm án tử hình thì
phải giao cho họ đọc bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân
giảm. Nếu trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì Hội đồng thi hành án ngoài
việc kiểm tra căn cước, phải kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện để
không thi hành hình phạt tử hình. Trong trường hợp Hội đồng thi hành án phát
hiện người bị kết án có điều kiện để không thi hành hình phạt tử hình thì Hội
đồng thi hành án hoãn thi hành án và báo cáo Chánh án Tòa án đã ra quyết định
thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét chuyển hình
phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án. Tất cả các việc trên phải
lập biên bản ghi rõ việc kiểm tra đã giao các quyết định cho người bị kết án,
ghi rõ những lời nói của họ, ghi rõ những thư từ, đồ vật mà người bị kết án gửi
lại cho nhân thân của họ. Trong trường hợp có tình tiết đặc biệt sau đây, Hội

đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh án Tòa án đã ra quyết định
thi hành án để báo cáo lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
 Người bị kết án tử hình tự thú về việc đã thực hiện tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng khác và Hội đồng thi hành án xét thấy cần phải điều tra xét minh
thêm để có kết luận.
 Người bị kết án tử hình tố giác tội phạm của người khác và Hội đồng thi
hành án thấy những việc đó có tính chất nghiêm trọng và việc điều tra tội phạm
đó cần phải có mặt người bị kết án tử hình.
 Người bị kết án tử hình kêu oan và đã đưa ra những tình tiết mới mà Hội
đồng thi hành án xét thấy có căn cứ để hoãn thi hành.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải xem xét ngay báo cáo của Hội đồng
thi hành án tử hình. Nếu quyết định thi hành hình phạt tử hình có căn cứ thì
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trao đổi với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho tiến hành điều
tra về những tình tiết mà người bị kết án tử hình đưa ra. Trong trường hợp có
đủ căn cứ để kháng nghị bản án theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao ra quyết định kháng nghị và quyết định tạm đình chỉ thi hành án tử hình,
Nếu Chủ tịch nước đã bác đơn xin ân giảm tử hình người bị kết án thì Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao phải báo cáo với Chủ tịch nước về lý do hoãn thi hành
án tử hình. Trong trường hợp quyết định hoãn thi hành án tử hình của Hội đồng
thi hành án không có căn cứ thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sau khi
thống nhất với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định hũy

GVHD: Nguyễn Chí Hiếu

21

SVTH: Lý Thị Nhiên



×