Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Những giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.79 KB, 56 trang )

Chuyên Đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu hướng quốc tế hoá mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt
Nam đang dần từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới. Để quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thành công, Đảng và nhà nước ta đã rất chú trọng
phát triển hoạt động kinh tế quốc tế, đặc biệt là ngoại thương. Chỉ có thông qua các
hoạt động kinh tế quốc tế, chúng ta mới có thể phát huy được tiềm năng thế mạnh của
đất nước, đồng thời tận dụng được vốn và công nghệ hiện đại của các nước phát triển
để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách
tụt hậu và đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Đứng trước yêu cầu đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã tham gia
hoạt động thanh toán quốc tế từ năm 1993. Trải qua hơn 15 năm hoạt động, tuy còn
non trẻ, nhưng hoạt động TTQT tại BIDV đã đạt được rất nhiều thành quả, góp phần
đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, mở rộng các sản
phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng trong nước. Tuy nhiên, do còn mới mẻ, nên hoạt
động TTQT tại BIDV vẫn còn gặp không ít khó khăn, đặc biệt là vấn đề rủi ro trong
TTQT, một vấn đề gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng không chỉ về tài sản vật
chất mà cả uy tín trên trường quốc tế. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của Ngân hàng là
“Phát triển bền vững”, một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải tìm ra các
giải pháp để phòng ngừa, hạn chế tối đa các rủi ro trong hoạt động TTQT. Xuất phát từ
thực tế đó, em đã chọn đề tài “Những giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT tại Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để làm chuyên đề thực tập của mình.Ngoài
phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu gồm 3 chương
Chương I: Những vấn đề cơ bản về các rủi ro TTQT của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng rủi ro TTQT tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Chương III: Giải pháp phòng ngừa rủi ro TTQT tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
1
Chuyên Đề thực tập


CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái niệm rủi ro và rủi ro thanh toán quốc tế.
1.Khái niệm rủi ro:
Rủi ro là một hiện tượng khách quan có liên quan và có ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến mục tiêu hoạt động của con người mà con người có thể nhận biết
được nhưng con người không thể lượng hoá được những rủi ro đó xảy ra ở đâu, lúc nào
và mức độ tác động xấu đến mục đích của con người như thế nào.
2.Rủi ro thanh toán quốc tế
2.1. Khái niệm TTQT và rủi ro TTQT
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu
dịch giữa các tổ chức kinh tế quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước
khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại các ngân hàng.
Khác với thanh toán nội địa, Thanh toán quốc tế thường gắn liền với việc trao
đổi đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác. Do vậy khi ký kết các hợp
đồng thương mại, tín dụng, hay dịch vụ các bên thường đàm phán, thống nhất về loại
ngoại tệ được dùng trong giao dịch là đồng tiền của nước người bán hay của nước người
mua, hoặc cũng có thể là đồng tiền của nước thứ ba.
Ngoài ngoại tệ là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong thanh toán quốc tế, một
yếu tố không kém phần quan trọng trong hoạt động này là các chứng từ. Chứng từ là
cơ sở để người thụ hưởng có quyền được đòi tiền và là căn cứ để chấp nhận nợ hoặc từ
chối nghĩa vụ chi trả của mình. Các chứng từ được tạo lập theo các luật lệ, tập quán
của mỗi quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
2
Chuyên Đề thực tập
Phần lớn các giao dịch chi trả trong thanh toán quốc tế đều thông qua hệ thống
tài khoản tại các ngân hàng.

Với tư cách là một bên liên quan trong các hoạt động TTQT, ngân hàng cũng
giống như nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu sẽ có thể gặp phải những rủi ro gây ảnh
hưởng đến uy tín và tài sản của ngân hàng.
Vậy rủi ro TTQT là những rủi ro về kinh tế phát sinh trong quá trình
thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, nó do các nguyên nhân phát sinh từ
quan hệ giữa các bên tham gia thanh toán quốc tế (nhà xuất khẩu, nhà nhập
khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các tác nhân trung gian) hoặc những
nguyên nhân khách quan khác gây nên.
2.2. Phân loại rủi ro TTQT:
Rủi ro TTQT của các ngân hàng thương mại có thể được phân loại như sau:
- Rủi ro kỹ thuật (Rủi ro tác nghiệp)
- Rủi ro tín dụng
- Rủi ro ngoại hối
- Rủi ro ngân hàng đại lý
- Rủi ro pháp lý
- Rủi ro chính trị
- Rủi ro đạo đức
2.2.1. Rủi ro kỹ thuật (rủi ro tác nghiệp)
Đây là những rủi ro xảy ra trong quá trình thao tác nghiệp vụ TTQT. Do vậy
đây là những rủi ro mang tính chủ quan, do trình độ, kỹ năng xử lý nghiệp vụ của cán
bộ TTQT tại các ngân hàng. Các ngân hàng giữ vai trò khác nhau trong từng phương
thức TTQT, do vậy mức độ rủi ro kỹ thuật cũng khác nhau.
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
3
Chuyên Đề thực tập
a.Trong phương thức chuyển tiền
Khách hàng (là người trả tiền) yêu cầu ngân hàng chuyển một số tiền nhất định
cho một người hưởng (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện
chuyển tiền. Ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian phục vụ theo chỉ dẫn của khách
hàng.

Trách nhiệm của ngân hàng chuyển tiền là chuyển tiền theo đúng chỉ dẫn của
khách hàng. Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền là chi trả tiền cho đúng người thụ
hưởng theo chỉ dẫn trên lệnh chuyển tiền.Nếu cán bộ của ngân hàng chuyển tiền do sơ
suất cung cấp chỉ dẫn sai dẫn đến việc ngân hàng nhận lệnh không thực hiện chi trả cho
đúng người thụ hưởng một cách kịp thời thì ngân hàng phải chịu rủi ro bồi thường
những thiệt hại về kinh tế và uy tín do người chuyển tiền khiếu nại. Việc chi trả chỉ
được thực hiện khi ngân hàng trả tiền nhận được điện chuyển tiền hoặc thư chuyển tiền
đảm bảo tính xác thực, với chỉ dẫn chi trả rõ ràng và được báo có cho khoản tiền cần
chi trả trên tài khoản của mình. Nếu ngân hàng trả tiền không kiểm tra đầy đủ hai điều
kiện trên mà đã tiến hành chi trả thì có thể gặp phải rủi ro mất tiền, do không được báo
có nhưng đã tiến hành chi trả cho người thụ hưởng, hoặc chi trả sai người thụ hưởng và
không đòi lại được từ người nhận tiền.
Để tránh được rủi ro có thể xảy ra, các ngân hàng phải nghiên cứu và sử dụng
các phương tiện thanh toán chuyển tiền bằng điện hoặc bằng thư (T/T hoặc M/T) một
cách chuẩn xác. Hiện nay, các ngân hàng thường xử dụng điện chuyển tiền để thanh
toán vì nó đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, chính xác và bảo mật. Điện chuyển tiền có
thể bằng Swift hoặc Telex, trong đó điện Swift được sử dụng phổ biến hơn, chiếm
khoảng 90% giao dịch chuyển tiền quốc tế.
b.Trong phương thức nhờ thu
Người xuất khẩu yêu cầu ngân hàng gửi hối phiếu và chứng từ nhờ thu hộ tiền
từ người nhập khẩu. Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thu
hộ tiền, không có nghĩa vụ cam kết trả tiền. Việc nhờ thu có thể được thực hiện trên cơ
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
4
Chuyên Đề thực tập
sở hối phiếu (Nhờ thu trơn-Clean Collection) hoặc bộ chứng từ (Nhờ thu kèm chứng
từ-Documentary Collection).
Giống như phương thức chuyển tiền, do chỉ đóng vai trò trung gian nên ngân
hàng có thể gặp phải rủi ro khi không thực hiện đúng chỉ dẫn của các bên liên quan.
Ngân hàng gửi nhờ thu (Remitting Bank) khi nhận chứng từ nhờ thu của nhà xuất khẩu

có trách nhiệm kiểm tra kỹ chỉ dẫn nhờ thu: D/P – trả ngay hay D/A - trả chậm, người
trả tiền, ngân hàng nhờ thu… Nếu thực hiện sai chỉ dẫn của khách hàng, gửi bộ chứng
từ không đúng địa chỉ, không đòi được tiền, hoặc làm thất lạc chứng từ của khách hàng
trong quá trình xử lý nghiệp vụ, ngân hàng nhờ thu phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho người xuất khẩu.
Trong phương thức nhờ thu, khách hàng muốn thông qua ngân hàng để ràng
buộc việc nhận hàng với nghĩa vụ thanh toán của người nhập khẩu. Ngân hàng nhờ thu
được chỉ dẫn trả chứng từ nếu người nhập khẩu thanh toán bộ chứng từ D/P hoặc chấp
nhận thanh toán bộ chứng từ D/A. Ngân hàng nhờ thu có thể gặp rủi ro nếu không đọc
kỹ chỉ dẫn của bộ chứng từ nhờ thu, trả chứng từ khi chưa yêu cầu nhà nhập khẩu nộp
tiền để thanh toán bộ chứng từ D/P, hoặc thực hiện thanh toán không đúng chỉ dẫn
thanh toán (Payment Instruction) của ngân hàng nhờ thu, dẫn đến thất lạc hoặc chậm
trễ trong việc chuyển trả tiền.
c.Phương thức bảo lãnh
Thường được thực hiện dưới hai hình thức: thư bảo lãnh của ngân hàng (Letter
of Guarantee) và thư tín dụng dự phòng (Standby L/C).Trong phương thức này, ngân
hàng là người bảo lãnh, cam kết thanh toán cho người thụ hưởng một số tiền nhất định
nếu người được bảo lãnh vi phạm những nghĩa vụ đã quy định trong thư bảo lãnh hoặc
tín dụng dự phòng. Ngân hàng chỉ thực hiện cam kết của mình khi người được bảo
lãnh vi phạm nghĩa vụ của mình. Do đó không phải trong mọi trường hợp bảo lãnh,
ngân hàng đều phải thanh toán cho người thụ hưởng.
Có rất nhiều hình thức bảo lãnh quốc tế như Bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh
thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán… Yêu cầu phát hành bảo
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
5
Chuyên Đề thực tập
lãnh có thể xuất phát từ chính khách hàng, người được bảo lãnh hoặc từ một ngân
hàng. Trong trường hợp nhận được đề nghị bảo lãnh từ khách hàng, ngân hàng phải
xem xét, đánh giá năng lực tài chính, uy tín kinh doanh của khách hàng, tính khả thi
của dự án mà khách hàng để nghị bảo lãnh. Đồng thời phải có các biện pháp đảm bảo

khả năng thanh toán như ký quỹ, thế chấp bằng tài sản đảm bảo…
d.Phương thức tín dụng chứng từ
Là sự cam kết bằng văn bản của ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với người
thụ hưởng thư tín dụng (nhà xuất khẩu) sẽ trả tiền (L/C trả ngay) hoặc trả vào một thời
điểm xác định trong tương lai (L/C trả chậm) tối đa tới một số tiền nếu người thụ
hưởng xuất trình bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với quy định của L/C. Trong phương
thức này, ngân hàng phát hành đóng vai trò là người cam kết trả tiền cho người hưởng
lợi của L/C.
Ngoài nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, trong phương thức tín dụng chứng từ
còn có vai trò của các ngân hàng gồm ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân
hàng chiết khấu và ngân hàng xác nhận... Mỗi ngân hàng liên quan có những trách
nhiệm nhất định (được quy định trong Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ UCP 600 do ICC ban hành)
Đối với ngân hàng phát hành L/C. Ngân hàng phát hành L/C đóng vai trò quan
trọng nhất, là chủ thể đưa ra cam kết đồng thời chịu trách nhiệm (hoặc uỷ quyền cho
ngân hàng khác) thực hiện cam kết đó, thể hiện trong nội dung của L/C.
Về bản chất, hợp đồng ngoại thương là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm
của nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu; đơn đề nghị mở L/C là văn bản pháp lý ràng buộc
trách nhiệm giữa người đề nghị mở L/C (nhà nhập khẩu) và ngân hàng phát hành, còn
L/C là văn bản pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa ngân hàng phát hành với người thụ
hưởng (nhà xuất khẩu). Mặc dù L/C do ngân hàng phát hành nhưng nội dung của nó về
cơ bản là do nhà nhập khẩu đưa ra trong đơn đề nghị phát hành L/C. Do vậy, trách
nhiệm của ngân hàng phát hành là phải chuyển tải chính xác các yêu cầu của đơn đề
nghị mở L/C vào nội dung L/C, để đảm bảo bộ chứng từ xuất trình phù hợp với L/C thì
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
6
Chuyên Đề thực tập
cũng đồng thời phù hợp với yêu cầu của nhà nhập khẩu. Có như vậy ngân hàng mới có
thể đòi bồi hoàn từ nhà nhập khẩu. Cũng vì vấn đề này, UCP đã khuyến cáo các nhà
nhập khẩu và các ngân hàng không nên đưa quá nhiều chi tiết mô tả hàng hoá vào L/C.

Việc đưa quá nhiều chi tiết kỹ thuật vào L/C một mặt không thể giúp cho ngân hàng và
nhà nhập khẩu kiểm soát được chất lượng hàng hoá thực tế, mặt khác lại dễ gây nhầm
lẫn, sai sót trong khi phát hành L/C, kiểm tra chứng từ, dẫn đến tranh chấp giữa các
bên.
Khi người thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ tới ngân hàng phát hành, ngân hàng
phát hành có trách nhiệm kiểm tra bộ chứng từ để quyết định trả tiền nếu bộ chứng từ
hoàn hảo hay từ chối nếu bộ chứng từ có bất đồng. Khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng
phát hành có thể rơi vào những tình huống sau:

- Tình huống thứ nhất: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ hoàn hảo
- Tình huống thứ hai: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ bất đồng
- Tình huống thứ ba: Ngân hàng phát hành trả tiền bộ chứng từ bất đồng
- Tình huống thứ tư: Ngân hàng phát hành từ chối trả tiền bộ chứng từ hoàn hảo.
Tình huống thứ nhất và thứ hai là hai tình huống phù hợp với quyền và trách
nhiệm của ngân hàng phát hành, do vậy không có vấn đề tranh cãi xảy ra. Tình huống
thứ ba và thứ tư là những sai sót của ngân hàng phát hành trong quá trình tác nghiệp,
dẫn đến rủi ro. Ở tình huống thứ ba, nhà nhập khẩu từ chối trả tiền cho ngân hàng phát
hành, trong khi ngân hàng phát hành đã thanh toán cho người thụ hưởng. Trong tình
huống thứ tư, người thụ hưởng sẽ kiện ngân hàng phát hành vì không thực hiện cam kết,
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính và uy tín của ngân hàng phát hành. Việc xác
định tình trạng bộ chứng từ là vấn đề khó khăn và phức tạp, đòi hỏi cán bộ tác nghiệp
phải có trình độ chuyên môn cao, am hiểu nghiệp vụ và thông lệ quốc tế
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
7
Chuyên Đề thực tập
Đối với ngân hàng thông báo L/C: Ngân hàng thông báo L/C có trách nhiệm
kiểm tra tính chân thật bề ngoài của L/C trước khi thông báo cho người thụ hưởng
không chậm trễ theo chỉ dẫn của ngân hàng phát hành. Trong trường hợp quyết định
không thông báo L/C thì phải có ý kiến phản hồi cho ngân hàng phát hành không chậm
trễ.

Thư tín dụng là cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành. Dựa trên cam kết đó,
nhà xuất khẩu tin tưởng giao hàng cho nhà nhập khẩu và lập bộ chứng từ đòi tiền ngân
hàng phát hành. Nếu thư tín dụng là giả mạo, thì ngân hàng phát hành hoàn toàn không
bị ràng buộc vào cam kết này và nhà xuất khẩu không thể đòi tiền từ ngân hàng phát
hành.
Có 3 hình thức giả mạo thư tín dụng: (i) ngân hàng phát hành không có thực,
(ii) Ngân hàng phát hành có thực nhưng thư tín dụng giả mạo, (iii) Thư tín dụng là có
thực nhưng sửa đổi giả mạo. Chính vì vậy, bằng các nghiệp vụ của mình, ngân hàng
thông báo phải có trách nhiệm kiểm tra tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng để
tránh sự giả mạo. Ngân hàng có thể kiểm tra tính chân thật thông qua chữ ký trên thư
tín dụng (kiểm tra chữ ký uỷ quyền nếu phát hành bằng thư), bằng mã khoá (test key
nếu phát hành bằng telex…) hoặc bằng các mẫu điện đảm bảo tính xác thực (nếu phát
hành bằng Swift với các mẫu điện 700, 710, 720…).
Nếu ngân hàng đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không thể xác định
được tính chân thật bề ngoài của L/C thì phải có ý kiến phản hồi cho ngân hàng phát
hành và từ chối thông báo cho người thụ hưởng. Nếu ngân hàng không kiểm tra tính
xác thực của L/C đã thông báo cho nhà xuất khẩu để nhà xuất khẩu giao hàng nhưng
không đòi được tiền do L/C bị giả mạo, nhà xuất khẩu có quyền yêu cầu ngân hàng
thông báo phải bồi thường.
Đối với ngân hàng chiết khấu/thương lượng:
Ngân hàng chiết khấu/thương lượng là ngân hàng phục vụ người thụ hưởng, có
trách nhiệm chiết khấu hoặc thương lượng bộ chứng từ do nhà xuất khẩu xuất trình.
Ngân hàng chiết khấu/thương lượng có thể được ngân hàng phát hành chỉ định trong
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
8
Chuyên Đề thực tập
L/C hoặc do chính người thụ hưởng lựa chọn. Thông qua nghiệp vụ chiết khấu chứng
từ, ngân hàng đã trả một khoản tiền cho người thụ hưởng với một tỷ lệ nhất định trên
cơ sở trị giá của bộ chứng từ. Đổi lại, ngân hàng được hưởng quyền đòi tiền bộ chứng
từ từ ngân hàng phát hành.

Có hai hình thức chiết khấu là chiết khấu miễn truy đòi và có truy đòi.
Đối với hình thức chiết khấu có truy đòi, ngân hàng chiết khấu nếu không đòi được
tiền từ ngân hàng phát hành thì có quyền đòi hoàn lại số tiền đã chiết khấu từ người thụ
hưởng. Ngược lại, với hình thức chiết khấu miễn truy đòi, trong mọi tình huống, ngân
hàng chiết khấu không được phép đòi lại từ người thụ hưởng. Hình thức chiết khấu
miễn truy đòi tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn cho ngân hàng chiết khấu do vậy tỷ lệ chiết
khấu thường nhỏ hơn hình thức chiết khấu có truy đòi. Để đảm bảo cao nhất khả năng
đòi tiền từ ngân hàng phát hành, điều kiện tiên quyết là bộ chứng từ phải hoàn toàn phù
hợp với quy định của L/C.
Đối với ngân hàng xác nhận:
Ngân hàng xác nhận có trách nhiệm cùng với ngân hàng phát hành cam kết
thanh toán cho nhà xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Ngân hàng xác
nhận xuất hiện khi người thụ hưởng của L/C không tin tưởng vào cam kết của ngân
hàng phát hành thư tín dụng, nên đã yêu cầu một ngân hàng có uy tín và đáng tin cậy
đối với mình xác nhận L/C nói trên.
Ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người thụ hưởng thư tín dụng về việc sẽ
thanh toán cho họ khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C nếu ngân hàng phát
hành không có khả năng thanh toán. Do vậy, ngân hàng xác nhận có trách nhiệm kiểm
tra và định đoạt tình trạng bộ chứng từ do khách hàng xuất trình, nếu chứng từ phù hợp
thì tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng và đòi bồi hoàn từ ngân hàng phát hành.
Ngân hàng xác nhận sẽ gặp rủi ro nếu không phát hiện ra bộ chứng từ có bất
đồng vì đã thanh toán cho người thụ hưởng nhưng không đòi bồi hoàn được từ ngân
hàng phát hành. Việc ngân hàng xác nhận trả tiền cho người thụ hưởng là miễn truy
đòi, do vậy việc xác nhận L/C cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh rủi ro do năng lực
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
9
Chuyên Đề thực tập
tài chính và uy tín của ngân hàng phát hành không tốt, ngân hàng xác nhận còn gặp
những rủi ro về nghiệp vụ. L/C do ngân hàng phát hành phát hành và có quyền định
đoạt cuối cùng đối với bộ chứng từ. Để đảm bảo an toàn cho mình, khi tiến hành xác

nhận L/C, ngân hàng xác nhận phải kiểm tra cẩn thận nội dung của L/C để chỉnh sửa
các điều khoản không rõ ràng, mâu thuẫn, bất lợi cho người thụ hưởng trong việc lập
và xuất trình một bộ chứng từ hoàn hảo. Biện pháp an toàn nhất để đảm bảo khả năng
thanh toán của ngân hàng phát hành là yêu cầu ngân hàng phát hành ký quỹ 100% trị
giá L/C. Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại quốc tế phát triển như hiện nay, việc
ký quỹ sẽ chiếm dụng vốn của ngân hàng phát hành, do vậy các ngân hàng ít áp dụng.
Qua phân tích cho thấy, những rủi ro kỹ thuật xảy ra tại các ngân hàng phần lớn
là do trình độ của cán bộ tác nghiệp. Hậu quả của rủi ro tác nghiệp rất nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến uy tín và tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên các rủi ro này hoàn toàn có
khả năng phòng tránh.
2.2.2. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là những rủi ro phát sinh do việc cấp tín dụng cho các bên
liên quan nhưng không có khả năng đòi hoàn trả. Rủi ro tín dụng liên quan trực
tiếp đến tình hình tài chính, khả năng thanh toán của các bên. Cụ thể là:
a.Trong phương thức tín dụng chứng từ:
Đối với ngân hàng phát hành: Khi phát hành L/C, ngân hàng phát hành đã
thực hiện việc cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì thông thường L/C được phát hành
với mức ký quỹ dưới 100%. Nhà nhập khẩu chưa phải trả tiền nhưng đã được nhà xuất
khẩu giao hàng vì tin tưởng vào cam kết của ngân hàng phát hành. Rủi ro tín dụng đối
với ngân hàng phát hành xảy ra khi nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị
phá sản: Ngân hàng phát hành phải thực hiện thanh toán cho ngưòi thụ hưởng theo quy
định của L/C nhưng không có khả năng đòi hoàn trả từ nhà nhập khẩu.
Đối với ngân hàng chiết khấu: khi thực hiện chiết khấu miễn truy đòi bộ
chứng từ xuất khẩu, ngân hàng chiết khấu đã thực hiện việc mua lại quyền đòi tiền của
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
10
Chuyên Đề thực tập
nhà xuất khẩu từ ngân hàng phát hành L/C. Nếu ngân hàng phát hành mất khả năng
thanh toán hoặc bị phá sản thì rủi ro tín dụng thuộc về ngân hàng chiết khấu.
Đối với ngân hàng xác nhận: Khi thực hiện việc xác nhận L/C nhưng không

yêu cầu ngân hàng phát hành ký quỹ 100% trị giá L/C, ngân hàng xác nhận có thể phải
đối mặt với rủi ro tín dụng khi ngân hàng phát hành mất khả năng thanh toán hoặc bị
phá sản.
Tóm lại, các rủi ro tín dụng là những rủi ro khách quan, do một chủ thể khác
gây ra nên rất khó phòng tránh. Những rủi ro tín dụng liên quan trực tiếp đến tình hình
tài chính, năng lực kinh doanh của các ngân hàng, các doanh nghiệp. Để phòng tránh
được các rủi ro tín dụng, cần phải xem xét, nắm vững tình hình tài chính cũng như uy
tín, khả năng thanh toán của bên đối tác để có thể ra quyết định đúng đắn. Chính vì
vậy, việc lựa chọn các khách hàng và ngân hàng nước ngoài có quan hệ tín dụng tốt là
điều vô cùng quan trọng trong quan hệ thanh toán quốc tế.
2.2.3. Rủi ro ngoại hối
Trong hoạt động TTQT, người xuất khẩu và người nhập khẩu ở hai nước khác
nhau nên loại tiền tệ sử dụng trong hoạt động TTQT là ngoại tệ đối với ít nhất một bên.
Khi đó sẽ xuất hiện tỷ giá hối đoái quy đổi giữa đồng ngoại tệ và đồng nội tệ.Việc lựa
chọn đồng tiền thanh toán trong hợp đồng ngoại thương phụ thuộc vào các yếu tố như
tương quan lực lượng của hai bên mua bán, vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc
tế, tập quán sử dụng đồng tiền thanh toán trên thế giới…
Rủi ro ngoại hối liên quan đến trạng thái hối đoái mở (open position) và tỷ
giá hối đoái của một đồng tiền nhất định. Nếu như trạng thái hối đoái mở là dương
(Long position) đối với một loại ngoại tệ, mà loại ngoại tệ đó bị giảm giá thì ngân hàng
sẽ gặp rủi ro. Ngược lại, nếu trạng thái hối đoái mở là âm (short position) và loại ngoại tệ
đó lên giá thì ngân hàng cũng gặp rủi ro về tỷ giá. Tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào nhiều
nhân tố khác nhau mà các nhân tố này thường xuyên thay đổi kéo theo sự biến động
không ngừng của tỷ giá hối đoái. Cho dù chỉ với một sự thay đổi nhỏ trong tỷ giá hối
đoái nhưng khối lượng ngoại hối lớn thì cũng sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn, thậm chí có thể
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
11
Chuyên Đề thực tập
dẫn đến tình trạng phá sản. Vì vậy các ngân hàng phải luôn tìm cách cân bằng trạng thái
hối đoái thực để hạn chế bớt những thiệt hại của rủi ro này.

2.2.4. Rủi ro ngân hàng đại lý:
Khi triển khai hoạt động TTQT, các ngân hàng đều coi nhiệm vụ phát triển quan
hệ đại lý ra nước ngoài là một nhiệm vụ trọng tâm, mang tính quyết định cho việc mở
cửa hoạt động của ngân hàng. Việc thiết lập và phát triển rộng rãi hệ thống ngân hàng
đại lý tạo lòng tin lẫn nhau, giúp cho các ngân hàng thực hiện nghiệp vụ TTQT được
thuận tiện, nhanh chóng, giảm chi phí trung gian.
Quan hệ đại lý thường được thiết lập trong các lĩnh vực sau:
Quan hệ tài khoản: Đây là yêu cầu tất yếu nếu một ngân hàng muốn tham gia
vào hoạt động TTQT. Để có thể thanh toán, giữa các ngân hàng phải có quan hệ tài
khoản. Tuy nhiên một ngân hàng không thể mở tài khoản tại tất cả các ngân hàng mà
mình có quan hệ thanh toán. Đứng trên góc độ một ngân hàng A, những tài khoản mà
ngân hàng đó mở tại một ngân hàng khác được gọi là tài khoản Nostro, ngược lại,
những tài khoản mà ngân hàng khác mở tại ngân hàng A được gọi là tài khoản Vostro.
Về nguyên tắc, các loại tiền tệ lưu thông trên thế giới đều được tiến hành thanh toán bù
trừ tại trung tâm thanh toán của từng loại tiền tệ đặt tại từng quốc gia. Do vậy, mỗi
ngân hàng khi tham gia hoạt động TTQT đều chọn cho mình một số ngân hàng trung
gian có uy tín của một số loại tiền tệ giao dịch chính để mở tài khoản
Quan hệ ngân hàng đại lý: Bên cạnh việc thiết lập quan hệ tài khoản, một yêu
cầu quan trọng khác đối với các ngân hàng là thiết lập một mạng lưới quan hệ đại lý
rộng khắp trên toàn thế giới. Ngân hàng đại lý thường là những ngân hàng phục vụ
người thụ hưởng của L/C, người trả tiền bộ chứng từ nhờ thu… Quan hệ đại lý cũng
được thể hiện thông qua việc các ngân hàng thiết lập quan hệ Swift key, Testkey, trao
đổi chữ ký uỷ quyền…. Trong mối quan hệ chặt chẽ đó, nếu một ngân hàng không
thực hiện nghĩa vụ của mình theo đúng thông lệ quốc tế, hoặc bị phá sản thì có thể làm
ảnh hưởng đến các ngân hàng đại lý của mình.
2.2.5.. Rủi ro pháp lý:
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
12
Chuyên Đề thực tập
Rủi ro pháp lý là những rủi ro liên quan đến luật điều chỉnh các hoạt động

TTQT, quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, luật giải quyết tranh chấp khi có vấn
đề khiếu kiện phát sinh. Vấn đề pháp lý trong hoạt động TTQT cũng là một nội dung
quan trọng và rất phức tạp, do các bên liên quan trong hoạt động TTQT ở các quốc gia
khác nhau, trong điều kiện môi trường pháp lý và hệ thống luật pháp. Trong hệ thống
luật pháp điều chỉnh các hoạt động ngoại thương nói chung, hoạt động TTQT nói riêng
gồm có luật quốc tế và luật quốc gia.
Để điều chỉnh các phương tiện thanh toán đang được sử dụng rộng rãi trong
hoạt động TTQT hiện nay, luật thống nhất về Hối phiếu, Kỳ phiếu và Séc đã được ban
hành và áp dụng rộng rãi ở nhiều nước.
Luật quốc tế điều chỉnh hối phiếu và kỳ phiếu
Hối phiếu và kỳ phiếu là những công cụ TTQT được sử dụng rộng rãi, đặc biệt
là hối phiếu. Hối phiếu là tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho
người khác, yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất
định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định
cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc
người cầm phiếu. Ngược lại với hối phiếu, kỳ phiếu do con nợ viết ra để cam kết trả
tiền cho người hưởng lợi. Kỳ phiếu là một tờ giấy hứa cam kết trả tiền vô điều kiện do
người lập phiếu phát ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc theo
lệnh của người này trả cho người khác quy định trong kỳ phiếu.
Để thống nhất giải thích về hối phiếu và kỳ phiếu, Ủy ban Luật thương mại quốc
tế của Liên hiệp quốc kỳ họp thứ 15, New York đã ban hành Luật kỳ phiếu và hối phiếu
quốc tế (International Bills of Exchange and Promissory Note) số A/CN, 9/11 ngày
18/02/1982. Bên cạnh đó, trong một công ước quốc tế được ký tại Genever năm 1930
trong đó ban hành một luật điều chỉnh về hối phiếu là “Luật điều chỉnh về hối phiếu”
(Uniform Law for Bills of Exchange – ULB). Công ước này quy định rõ về hình thức và
nội dung lập hối phiếu, quyền lợi và nghĩa vụ của những người có liên quan đến hối
phiếu (người ký phát, người trả tiền, người hưởng lợi, người chuyển nhượng, người cầm
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
13
Chuyên Đề thực tập

hối phiếu) và các vấn đề về chấp nhận, ký hậu, bảo lãnh hối phiếu và mang tính chất khu
vực Châu Âu.
Bên cạnh việc ban hành luật Hối phiếu và kỳ phiếu quốc tế, Ủy ban luật thương
mại quốc tế của Liên Hiệp quốc cũng đồng thời ban hành Luật về Séc quốc tế, tài liệu
số A/CN. 9/212 ngày 18/02/1982. Luật về Séc quốc tế nhằm điều chỉnh các hoạt động
liên quan đến Séc quốc tế, quyền hạn và trách nhiệm của các bên liên quan đến Séc,
việc ký phát, ký hậu, chấp nhận, bảo lãnh, thanh toán séc quốc tế.
Đối với các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay chưa có luật quốc tế mà
mới chỉ có các tập quán quốc tế, cụ thể là:
Quy tắc thống nhất về thanh toán chứng từ nhờ thu (URC 522 Revision
1995): được Phòng thương mại Quốc tế ban hành đầu tiên năm 1956 và sửa đổi năm
1995.URC 522 bao gồm 26 điều khoản quy định rõ về các thức và cấu trúc nhờ thu,
các nghĩa vụ và trách nhiệm trong nhờ thu, thanh toán nhờ thu, lãi suất, chi phí cho
thanh toán nhờ thu.
Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform Custom
and Practice for documentary credit) do phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1933,
đã qua 6 lần sửa đổi và bản sửa đổi mới nhất năm 2007 (UCP 600-Revision 2007).Đây
là cẩm nang lớn nhất cho giới kinh doanh ngoại thương trên toàn thế giới. Mục tiêu cốt
yếu của UCP là hỗ trợ thương mại quốc tế phát triển hơn, tăng cường tính hiệu quả của
phương thức tín dụng chứng từ, tránh hiểu nhầm về định nghĩa và các cách thức tiến
hành gây ra những tranh cãi và rủi ro đáng tiếc. Nội dung của UCP 600 gồm 39 điều
quy định quyền lợi và nghĩa vụ, điều chỉnh quan hệ của các bên tham gia vào hoạt
động tín dụng chứng từ, quy tắc kiểm tra chứng từ và các quy định khác.
Trong quá trình thực hiện TTQT, rất nhiều ngân hàng và khách hàng có những
cách giải thích trái ngược nhau về quy định của UCP nên năm 2002, Phòng thương mại
quốc tế lại tiếp tục cho ra đời ấn phẩm International Standard Banking Practice –
ISBP (Tiêu chuẩn quốc tế về kiểm tra chứng từ). ISBP là một bộ phận đính kèm của
UCP nhằm đưa ra những cách giải thích thống nhất trong việc kiểm tra chứng từ cho
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
14

Chuyên Đề thực tập
các ngân hàng và khách hàng khi tham gia hoạt động TTQT. ISBP đã góp phần giảm
các tranh cãi về bất đồng chứng từ do cách hiểu, các giải thích khác nhau của các bên
liên quan gây ra.
Quy tắc thống nhất về hoàn trả giữa các ngân hàng (Uniform Rules for
Bank to Bank – URR 525) do Phòng thương mại quốc tế ban hành năm 1995. Quy tắc
này quy định về cách thức áp dụng hoàn trả theo tín dụng chứng từ, nghĩa vụ và trách
nhiệm của các ngân hàng tham gia, hình thức và ghi chú về uỷ quyền hoàn trả, sửa đổi
uỷ quyền hoàn trả, yêu cầu hoàn trả và các cam kết hoàn trả….
Những tập quán quốc tế chỉ là những quy phạm pháp lý tuỳ ý, không bắt buộc.
Do vậy mỗi nước vận dụng các tập quán quốc tế không giống nhau. Ví dụ, UCP 600 do
phòng thương mại quốc tế phát hành điều chỉnh phương thức tín dụng chứng từ. Tuy
nhiên, nếu một L/C muốn áp dụng UCP 600 thì phải dẫn chiếu đến UCP trong nội
dung của L/C. Mặt khác, các ngân hàng có thể lựa chọn áp dụng một số điều của UCP
cũng như từ chối áp dụng một số điều khác bằng việc miễn trừ trong nội dung của L/C
phát hành. Như vậy, mức độ vận dụng UCP vào thực tiễn của từng nước, từng ngân
hàng rất khác nhau, tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật nước đó. Luật quốc gia thông
thường tôn trọng và ít khi có đối đấu với luật hoặc tập quán quốc tế, nhưng không phải
là không có mâu thuẫn. Nếu có sự khác biệt giữa luật quốc gia và luật quốc tế thì luật
quốc gia sẽ được ưu tiên áp dụng. Quan điểm của phòng thương mại quốc tế là các tập
quán thương mại quốc tế không thể thay thế luật quốc gia, những tranh chấp nếu có tốt
nhất là để cho toà án xem xét giải quyết. Tuy nhiên trên thực tế chưa có một toà án
quốc tế đủ mạnh để áp đặt các chế tài đối với các bên liên quan.
Rủi ro pháp lý còn liên quan đến vấn đề vi phạm pháp luật của các khách hàng,
hoặc các ngân hàng, gây ảnh hưởng đến các đối tác. Việc ngân hàng nhận phát hành
các L/C nhập khẩu những mặt hàng bị cấm nhập khẩu hoặc chuyển các khoản tiền
không đúng mục đích, không theo quy định của chế độ quản lý ngoại hối của mỗi nước
là vi phạm pháp luật. Các khách hàng có những sai phạm trong hoạt động kinh doanh
dẫn đến việc bị truy tố trước pháp luật cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến các ngân hàng
trong các giao dịch TTQT.

Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
15
Chuyên Đề thực tập
Như vậy, những rủi ro pháp lý thường rất khó dự báo và gây hậu quả nghiêm
trọng, ảnh hưởng đến tài sản và uy tín của ngân hàng.
2.2.6.. Rủi ro chính trị:
Tham gia vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối tượng kinh
tế của nhiều quốc gia, thanh toán quốc tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường
kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia. Một sự biến động về cơ chế quản lý kinh tế-
chính trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết như đã thoả
thuận của các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất lợi đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, và từ đó ảnh hưởng đến quá trình
thanh toán.
Rủi ro chính trị xảy ra khi môi trường pháp lý, môi trường kinh tế-chính trị của
một nước chưa ổn định, thường xuyên thay đổi. Khi một quốc gia thay đổi các chính
sách về dự trữ ngoại hối, thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá, lãi suất… sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động thanh toán quốc tế của các bên liên quan. Trong thực tế, những thay đổi
này thường khiến các ngân hàng, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu không thể thực hiện cam
kết của mình, làm cho quá trình thanh toán bị ngưng trệ, thậm chí huỷ bỏ gây thiệt hại
cho các bên liên quan.
Rủi ro chính trị còn liên quan đến những lệnh cấm vận của các nước đặc biệt là
lệnh cấm vận của Mỹ đối với một số nước và tổ chức. Nếu thực hiện TTQT cho những
nước nằm trong danh sách cấm vận của Mỹ bằng đồng USD qua các ngân hàng tại Mỹ,
khoản tiền thanh toán đó lập tức bị phong toả. Ngân hàng thực hiện thanh toán bị mất
tiền trong khi người thụ hưởng vẫn chưa nhận được khoản tiền mà họ được hưởng. Đã
có rất nhiều khoản tiền của nhiều ngân hàng trên thế giới bị phong toả tại Mỹ do vi
phạm các quy định cấm vận của nước này.
2.2.7. Rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình không thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên liên quan. Đây là

vấn đề quan trọng trong thương mại quốc tế, bởi vì các bên đối tác thường ở cách xa
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
16
Chuyên Đề thực tập
nhau, thậm chí không hề gặp nhau trong quá trình mua bán. Do vậy có thể không nắm
rõ những thông tin về uy tín, đạo đức kinh doanh, năng lực tài chính của đối tác. Hơn
nữa, do các bên đối tác ở cách xa nhau nên điều kiện tiếp cận thường xuyên để theo
dõi, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ gặp nhiều khó khăn. Trong điều kiện như vậy,
các rủi ro đạo đức rất dễ xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng đối với cả khách hàng lẫn
các ngân hàng.
Trong các phương thức thanh toán chuyển tiền và nhờ thu, ngân hàng chỉ đóng
vai trò trung gian nên không bị ảnh hưởng nhiều bởi rủi ro đạo đức của các bên liên
quan. Tuy nhiên, trong phương thức tín dụng chứng từ, các hành vi đạo đức của bất kỳ
một đối tác nào đều ảnh hưởng nhiều đến các ngân hàng tham gia. Sau đây là một số
rủi ro đạo đức thường gặp trong hoạt động TTQT:
Rủi ro đạo đức của nhà xuất khẩu: Đặc điểm của phương thức tín dụng chứng
từ là việc thanh toán hoàn toàn dựa trên bề mặt chứng từ, không liên quan tới hàng hoá.
Khi nhận được một bộ chứng từ xuất trình, ngân hàng phát hành chỉ có khả năng và
trách nhiệm kiểm tra tính phù hợp của chứng từ xét trên bề mặt, mà không thể thẩm
định tính xác thực của chứng từ, càng không thể kiểm tra được tình trạng của lô hàng
nhập khẩu. Nếu nhà xuất khẩu cố tình giao hàng hoá không phù hợp với hợp đồng hoặc
không giao hàng nhưng vẫn lập một bộ chứng từ giả mạo phù hợp với quy định của
L/C để đòi tiền, ngân hàng phát hành theo cam kết phải trả tiền cho nhà xuất khẩu
trong khi nhà nhập khẩu không được nhận hàng theo đúng hợp đồng. Nhà nhập khẩu là
người gánh chịu rủi ro cuối cùng song nếu ngân hàng phát hành là người cấp tín dụng
cho nhà nhập khẩu thì rủi ro của nhà nhập khẩu cũng là rủi ro của ngân hàng. Nếu bộ
chứng từ đó đã được chiết khấu thì ngân hàng chiết khấu cũng gặp rủi ro.
Rủi ro đao đức của nhà nhập khẩu: Nhà nhập khẩu là người có nghĩa vụ thanh
toán đối với ngân hàng phát hành. Còn ngân hàng phát hành có nghĩa vụ thanh toán
cho nhà xuất khẩu. Nếu L/C đã ký quỹ 100% thì khi chứng từ phù hợp, ngân hàng tự

động trích tiền từ tài khoản ký quỹ để thanh toán. Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp
L/C đều được phát hành với mức ký quỹ nhỏ hơn 100%, do vậy, ngân hàng phát hành
phải thông báo cho nhà nhập khẩu nộp tiền vào để thanh toán. Nếu nhà nhập khẩu vì
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
17
Chuyên Đề thực tập
những lý do cá nhân cố tình không thanh toán thì ngân hàng phát hành bị rủi ro phải
thanh toán thay.
Rủi ro đạo đức của ngân hàng phát hành: ngân hàng phát hành cũng có thể
thông đồng với nhà nhập khẩu cố tình tìm kiếm những bất đồng của bộ chứng từ để từ
chối thanh toán cho nhà xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, những lỗi bất đồng đó
không phù hợp với UCP và thông lệ quốc tế, hoặc là những lỗi bất đồng đang có nhiều
ý kiến tranh cãi. Ngân hàng chiết khấu và nhà xuất khẩu có thể kiện ra Phòng thương
mại quốc tế nhưng cũng rất mất thời gian và tốn kém.
Rủi ro đạo đức của ngân hàng chiết khấu: L/C cho phép đòi tiền bằng điện có
thể bị ngân hàng chiết khấu lợi dụng đòi tiền dù bộ chứng từ có bất đồng. Khi ngân
hàng phát hành nhận được chứng từ và kiểm tra thấy bất đồng thì tiền đã thanh toán
cho ngân hàng chiết khấu rồi. Về lý thuyết, ngân hàng phát hành có quyền đòi tiền lại
từ ngân hàng chiết khấu nhưng nếu ngân hàng chiết khấu không chịu trả lại thì ngân
hàng phát hành sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn để đi khiếu kiện.
3. Nguyên nhân và hậu quả dẫn đến rủi ro Thanh toán quốc tế
3.1. Nguyên nhân khách quan:
Khách hàng trong nước gặp khó khăn kinh doanh và tài chính nên không có khả
năng thực hiện những cam kết thanh toán với ngân hàng, hoặc lợi dụng sự sơ hở,
buông lỏng trong hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng để ràng buộc ngân hàng
vào những hoạt động sai mục đích, phi pháp.
Đối tác nước ngoài không có khả năng thực hiện hợp đồng, không có thiện chí
hoặc cố tình lợi dụng lừa đảo khách hàng dẫn đến rủi ro cho cả khách hàng và ngân
hàng.
Trình độ nghiệp vụ ngoại thương của khách hàng khi tham gia thương mại quốc

tế còn thấp, nhiều khách hàng chưa có kinh nghiệm, chấp nhận ký kết những hợp đồng
có những điều kiện thanh toán bất lợi kéo theo rủi ro cho ngân hàng
Các ngân hàng đại lý cố tình không thực hiện các cam kết, nghĩa vụ của mình
hoặc vì các lý do chính trị, kinh tế .. mà không thực hiện được, gây tổn thất cho khách
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
18
Chuyên Đề thực tập
hàng và BIDV. Rủi ro do đặc điểm của bản thân phương thức thanh toán được sử dụng
đem lại.
Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán
quốc tế nói riêng còn thiếu và có nhiều bất cập. Hiện nay chưa có một văn bản nào điều
chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thanh toán quốc tế.
Các văn bản quy định về công tác xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan còn chưa
ổn định, thay đổi gián tiếp làm ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Thị trường ngoại tệ chưa phát triển, tỷ giá các ngoại tệ mạnh không ổn định, các
cuộc khủng hoảng kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng
và khách hàng, đồng thời làm tăng rủi ro về ngoại hối của ngân hàng. Hơn nữa, các
nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường chưa phát triển, chủ yếu dừng lại ở giao
dịch mua bán giao ngay (spot), các giao dịch mua bán kỳ hạn còn rất hạn chế.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Trình độ cán bộ thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập, nhiều khi còn thiếu tinh
thần trách nhiệm, yếu kém về nghiệp vụ chuyên môn, không nắm chắc và tuân thủ quy
trình thanh toán quốc tế.
Chưa có các cơ chế thống nhất, đồng bộ để đảm bảo khả năng thanh toán như
cơ chế thành lập quỹ dự phòng rủi ro thanh toán quốc tế, cơ chế phối hợp giữa nghiệp
vụ thanh toán quốc tế và quản lý tín dụng xuất nhập khẩu.
Các hình thức dịch vụ còn đơn điệu, một chiều, chưa đa dạng hoá để giảm
thiểu, phân tán rủi ro và thu hút nguồn ngoại tệ mạnh
Công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, chưa đồng bộ và phát triển kịp thời so với xu
thế phát triển và nhu cầu thanh toán quốc tế, làm ảnh hưởng đến tốc độ thanh toán, gây

rủi ro cho ngân hàng.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn thiếu tính chủ động, mới chỉ dừng lại ở việc
mua bán phục vụ từng giao dịch cụ thể, chưa thực sự kinh doanh để thu lợi nhuận và
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
19
Chuyên Đề thực tập
tăng cường tính chủ động về nguồn ngoại tệ cung cấp cho các khách hàng khi phát sinh
nhu cầu về ngoại tệ.
3.3.Hậu quả khi phát sinh rủi ro TTQT
Rủi ro TTQT khi phát sinh sẽ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và tài
chính của các bên liên quan. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, uy tín
của ngân hàng là vấn đề vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động
kinh doanh ngân hàng nói chung, hoạt động TTQT nói riêng. Nếu uy tín của ngân hàng
giảm sút, các khách hàng trong và ngoài nước sẽ không thực hiện các giao dịch tại
ngân hàng; các ngân hàng nước ngoài không lựa chọn ngân hàng đó làm đối tác trong
các giao dịch TTQT như thông báo, xác nhận, chiết khấu L/C, ngân hàng nhờ thu hoặc
ngân hàng chi trả trong hình thức chuyển tiền… Mặt khác, ngân hàng cũng gặp khó
khăn trong việc đề nghị các ngân hàng nước ngoài cung cấp các dịch vụ TTQT cho
mình, như xác nhận thư tín dụng, chiết khấu bộ chứng từ xuất trình theo L/C do mình
phát hành…
Bên cạnh những rủi ro về uy tín, các ngân hàng có thể gặp rủi ro về tài chính.
Những rủi ro về tài chính là những thiệt hại do ngân hàng phải tự thanh toán bằng tiền
của mình cho các khoản phí, tiền phạt hoặc trị giá của lô hàng khi:
+Thực hiện thanh toán sai chỉ dẫn của khách hàng dẫn đến mất tiền, hoặc bị
phạt do chậm thanh toán (ngân hàng chuyển tiền, nhờ thu…)
+Phải thanh toán thay cho khách hàng nếu ngân hàng đã thay mặt khách hàng
cam kết trả tiền cho ngưòi thụ hưởng trên cơ sở một số điều kiện nhất định nhưng
không được khách hàng hoàn trả (ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận, ngân hàng
bảo lãnh…)
+Phải chịu phạt do vi phạm cam kết hoặc các nghĩa vụ (chậm thanh toán bộ

chứng từ theo L/C, từ chối bộ chứng từ do những lỗi bất đồng không hợp lệ, không
thực hiện hoàn trả đúng cam kết …)
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
20
Chuyên Đề thực tập
Những rủi ro dù là về uy tín hay tài chính đều gây thiệt hại trực tiếp đến kết quả
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Các ngân hàng cần phải đề xuất nhiều giải
pháp để phòng ngừa tốt nhất các rủi ro có thể xảy ra.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNG
ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
I.Tổng quan về hoạt động TTQT của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt
Nam
1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là doanh nghiệp nhà nước hạng đặc
biệt, giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp dịch vụ ngân hàng phục vụ lĩnh vực đầu tư và
phát triển ở Việt Nam và là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất
tại Việt Nam.
Ngày 26/04/1957, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 177/Ttg thành lập
“Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam” tại Bộ Tài chính, thay thế cho “Vụ cấp phát vốn kiến
thiết cơ bản”. Nhiệm vụ ban đầu của Ngân hàng là thanh toán và quản lý vốn do Nhà
nước cấp cho xây dựng cơ bản nhằm thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và hỗ trợ công cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Nhằm cải tiến cơ chế hoạt động của Ngân hàng, ngày 24/06/1981, Chính phủ đã
có Quyết định số 259/CP về việc chuyển Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ
tài chính thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà
nước.
Cùng với việc chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ
chế thị trường, sau khi 02 Pháp lệnh về Ngân hàng ra đời, ngày 14/10/1990 Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 401/CP thành lập Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam thay thế Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam. Ngày 26/11/1990,

Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
21
Chuyên Đề thực tập
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 104NH/QD phê duyệt Điều lệ tổ
chức và hoạt động của BIDV. Ngân hàng chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thị
trường, nguồn vốn ngân sách cấp phát cho đầu tư xây dựng cơ bản giảm nhiều, Nhà
nước cấp vốn đầu tư cho Ngân hàng với yêu cầu Ngân hàng thực hiện quy chế cho vay
trên cơ sở tính toán khả năng và thời hạn hoàn trả vốn và lãi, thu hẹp dần hoạt động
cấp phát.
Đến năm 1994, BIDV được thành lập lại theo Quyết định số 90/Ttg ngày
07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Ngày 23/01/1995, Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành Quyết định số 79 QĐ/NH5 quy định BIDV là ngân hàng thương mại nhà
nước, ngoài chức năng huy động trung, dài hạn trong và ngoài nước để đầu tư các dự án
phát triển kinh tế kỹ thuật, kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng, chủ yếu
trong lĩnh vực đầu tư, phát triển, còn thực hiện các hoạt động của ngân hàng thương mại
đối với doanh nghiệp trong và ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp
dân cư.
2. Đặc điểm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Cơ cấu tổ chức của BIDV gồm Hội đồng quản trị (Văn phòng và Ban kiểm
soát), Ban Tổng giám đốc ( Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Văn phòng, các
Ban, phòng chức năng) và các đơn vị thành viên.
- Các đơn vị thành viên của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
gồm:
+ Các chi nhánh hạch toán phụ thuộc: được chủ động trong kinh doanh, hoạt
động tài chính, tổ chức và nhân sự, được uỷ quyền một phần trong đầu tư phát triển và
huy động vốn đầu tư, thành lập các đơn vị trực thuộc. Hiện nay, BIDV có 70 chi nhánh
cấp 1 tại tất cả các tỉnh thành phố trên cả nước, 42 chi nhánh trực thuộc, 59 phòng giao
dịch và 215 quỹ tiết kiệm.
+ Các thành viên hạch toán độc lập: là các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ
kinh doanh. Các doanh nghiệp này vừa có sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối

với Tổng công ty, vừa có quyền tự chủ kinh doanh và hoạt động tài chính với tư cách
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
22
Chuyên Đề thực tập
pháp nhân kinh tế độc lập, bao gồm Công ty thuê mua tài chính, Công ty chứng khoán,
Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản.
+ Các đơn vị liên doanh: được thành lập với tỷ lệ góp vốn giữa BIDV và các
đối tác nước ngoài, hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng và bảo hiểm, gồm có Ngân
hàng Liên doanh VID-PUBLIC (liên doanh với Public Bank Berhad, Malaysia), Ngân
hàng Liên doanh Lào-Việt (liên doanh với Ngân hàng ngoại thương Lào – Banque pour
le Commerce Exterieure Lao) và Công ty Liên doanh Bảo hiểm Việt-Úc (liên doanh với
Tập đoàn bảo hiểm QBE, Úc)
+ Các đơn vị sự nghiệp: gồm Trung tâm đào tạo, Trung tâm công nghệ thông
tin, Trung tâm thanh toán điện tử hoạt động theo quy chế do Tổng giám đốc duyệt, thực
hiện hạch toán nội bộ, lấy thu bù chi, được sự hỗ trợ tài chính của Ngân hàng và được
tạo nguồn thu từ thực hiện dịch vụ, hợp đồng nghiên cứu.
II.Tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam
1.Mô hình tổ chức:
Từ năm 1990, nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường nên
các giao dịch ngoại thương đã có điều kiện phát triển làm cho kim ngạch xuất nhập
khẩu tăng lên. Đặc biệt là từ sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì
ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Để đảm bảo đáp ứng được nhu cầu thanh toán quốc tế của các khách hàng có quan hệ
tín dụng với BIDV, từ tháng 3 năm 1993, phòng Kinh tế đối ngoại tại Hội sở chính bắt
đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Ban đầu do lượng khách hàng chỉ bó hẹp ở
những khách hàng có quan hệ tín dụng có nhu cầu thanh toán quốc tế, nên ngoài việc
thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế, phòng Kinh tế đối ngoại còn đảm nhiệm các
nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, quan hệ quốc tế… Sau này, để đáp
ứng được nhu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ này ngày càng tăng, các nghiệp vụ dần
được tách riêng, và Phòng Kinh tế đối ngoại được đổi tên thành phòng Thanh toán

quốc tế, chỉ đảm nhiệm nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
23
Chuyên Đề thực tập
Mô hình hoạt động thanh toán quốc tế của BIDV được tổ chức theo ngành dọc.
Đầu mối thanh toán với nước ngoài của cả hệ thống là Hội sở chính. Chỉ có Hội sở
chính mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản Nostro tại các ngân hàng nước
ngoài. Trong hoạt động thanh toán quốc tế, các chi nhánh trong hệ thống BIDV được
chia thành 2 loại:
+ Loại 1: Các chi nhánh thực hiện thanh toán quốc tế trực tiếp: là các chi
nhánh có đủ điều kiện cần thiết để trực tiếp xử lý các nghiệp vụ thanh toán quốc tế.Chi
nhánh trực tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, xử lý và chịu trách nhiệm vê các giao dịch
phát sinh với các đối tác trong và ngoài nước. Các điện giao dịch của chi nhánh sẽ
được chuyển tới Hội sở chính bằng hệ thống thanh toán điện tử T5 và SIBS (đối với
các chi nhánh đã triển khai dự án Hiện đại hoá Ngân hàng) để chuyển tiếp ra nước
ngoài thông qua hệ thống SWIFT. Định kỳ, các chi nhánh thực hiện thanh toán
quốc tế trực tiếp phải báo cáo Hội sở chính về doanh số và tình hình hoạt động
nghiệp vụ thanh toán quốc tế phát sinh tại chi nhánh.
+ Loại 2: Các chi nhánh thực hiện thanh toán quốc tế gián tiếp: là các chi
nhánh có thị trường và khách hàng xuất nhập khẩu nhưng chưa đáp ứng đủ các điều
kiện để thực hiện trực tiếp nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Tại chi nhánh cũng tiếp nhận
và kiểm tra hồ sơ do khách hàng xuất trình. Những hồ sơ này sau đó sẽ được chuyển
lên Hội sở chính để xử lý nghiệp vụ và chuyển tiếp ra nước ngoài. Hội sở chính có
trách nhiệm kiểm tra nội dung của các loại giao dịch phù hợp với quy định của pháp
luật, các thông lệ quốc tế, thực hiện giao dịch theo đúng quy trình đảm bảo an toàn về
vốn và uy tín cho Ngân hàng và khách hàng.
2. Các hoạt động TTQT chủ yếu:
2.1. Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
a.L/C nhập khẩu:
Phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng nhiều nhất trong hoạt động thanh

toán quốc tế của BIDV. Do vậy, doanh số thanh toán nhập khẩu theo phương thức này
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong doanh số hoạt động thanh toán quốc tế của BIDV.
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
24
Chuyên Đề thực tập
Về bản chất của việc mở thư tín dụng là ngân hàng đứng ra cam kết thanh toán
cho người thụ hưởng khi họ xuất trình bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với điều khoản,
điều kiện của thư tín dụng. Để tránh rủi ro trong việc thực hiện cam kết thanh toán,
Ngân hàng phải xem xét rất kỹ nguồn vốn thanh toán thư tín dụng.
+ Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn vay của BIDV, khách hàng không
cần kí quỹ. Đây là các giao dịch an toàn về nguồn vốn thanh toán nhưng lại tiềm ẩn rủi
ro về tín dụng. Khối lượng những giao dịch này chiếm tỷ trọng khá lớn trong các giao
dịch tín dụng chứng từ tại BIDV (chiếm khoảng 50% tổng khối lượng giao dịch bằng
phương thức tín dụng chứng từ của BIDV)
+ Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn tài trợ uỷ thác của các tổ chức
quốc tế, khách hàng cũng không cần ký quỹ. Các giao dịch này không nhiều nhưng
thường có trị giá lớn, nằm trong các dự án ODA do các tổ chức nước ngoài hoặc các
quốc gia cấp cho Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực y tế, giao thông công cộng, cấp
thoát nước… Việc thanh toán được thực hiện theo phương thức tín dụng chứng từ bằng
Thư cam kết của tổ chức cấp ODA hoặc rút tiền từ tài khoản đặc biệt của khách hàng
mở tại BIDV.
Đây là các giao dịch an toàn về vốn nhưng rất phức tạp về nghiệp vụ và khả
năng thu phí dịch vụ còn hạn chế.
+ Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng nguồn vốn của bên thứ ba như vốn vay
của ngân hàng khác, vốn đồng tài trợ, nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ phát triển, ngoài việc
xem xét điều kiện tín dụng của bên thứ ba đó, BIDV còn yêu cầu khách hàng phải có
ký quỹ tối thiểu 5%. Mức độ rủi ro của các giao dịch này phụ thuộc vào uy tín và năng
lực tài chính của bên thứ ba cấp tín dụng hoặc bảo lãnh và các điều kiện khoản vay.
+ Nếu khách hàng mở thư tín dụng bằng vốn tự có, BIDV yêu cầu khách hàng
phải ký quỹ tối thiểu 5% và có các biện pháp đảm bảo cho nguồn vốn còn lại như ký

Hợp đồng tín dụng dự phòng, Bảo lãnh của bên thứ ba
Bảng số 1: Tình hình thanh toán L/C nhập khẩu Đơn vị : triệu
USD
Phạm Anh Dũng - TTQTA_K7
25

×