Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Tổ chức trò chơi trong phân môn tập đọc và kể chuyện ở lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554 KB, 64 trang )

Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

SGK

: Sách giáo khoa

SGV

: Sách giáo viên

HSTH

: Học sinh tiểu học

HTL

: Học thuộc lòng

MỤC LỤC
SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH



1


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Lời cảm ơn
Lời cam đoan
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................
1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................
1
2. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................
2
3. Đối tượng nghiên cứu ..............................................................................
2
4. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................
2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................
2
6. Giả thuyết khoa học
..................................................................................3
7. Các phương pháp nghiên cứu
...................................................................3
8. Cấu trúc của khóa luận
.............................................................................3
NỘI DUNG .......................................................................................................
4

Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN .....................................................................
4
1.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học ....................................
4
1.2 Đặc điểm môn Tiếng Việt ở Tiểu học
............................................5
1.3 Mục tiêu môn Tiếng Việt ở Tiểu học ............................................
6
1.4 Tổ chức trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt............................
6
Chương 2 TỔ CHỨC TRÒ CHƠI TRONG PHÂN MÔN TẬP ĐỌC

KỂ CHUYỆN Ở LỚP 3 ..........................................................
17
2.1 Phân môn Tập đọc, Kể chuyện theo định hướng của Bộ giáo
dục.....17
2.1.1 Nội dung phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở lớp
3.........................16

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

2


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.1.2 Mục tiêu nội dung phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở lớp
3..........17

2.1.3 Vấn đề tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện
ở lớp
3...........................................................................................19
2.2 Thực tiễn việc tổ chức trò chơi trong dạy học Tập đoc, Kể chuyện ở
lớp 3 tại các trường phổ thông
...........................................................20
2.3 Đề xuất
...............................................................................................20
2.3.1 Tổ chức trò chơi trong giờ lên lớp
...............................................20
2.3.1.1 Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc
..........................20
2.3.1.2 Tổ chức trò chơi trong phân môn Kể chyện
.......................33
2.3.2 Tổ chức trò chơi ngoài giờ lên lớp
..............................................41
2.3.3 Tổ chức trò chơi trong giờ ôn tập
................................................46
Chương 3 GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
...................................................49
KẾT LUẬN
......................................................................................................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
..............................................................................59

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

3



Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa
Giáo dục Tiểu học, các thầy cô giáo trong khoa Văn trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2 đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình tìm tòi và nghiên
cứu đề tài. Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Đỗ Huy
Quang – người đã trực tiếp hướng dẫn chỉ bảo tận tình để tôi từng bước tiến
hành và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Vấn đề “Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở lớp
3” là một đề tài hay và hấp dẫn. Tuy nhiên, do khả năng có hạn nên khóa luận
của tôi không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2010
Sinh viên
Lý Thị Mậu

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

4


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của khóa luận là của riêng cá
nhân tôi. Đề tài của tôi không sao chép bất cứ đề tài nào có sẵn, kết quả thu
được không trùng với kết quả của bất kì tác giả nào khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 07 tháng 5 năm 2010
Tác giả
Lý Thị Mậu

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

5


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Học sinh tiểu học có độ tuổi từ 6 – 11 tuổi, đây là giai đoạn HS có
nhiều biến đổi trong nhận thức, trí tuệ và trong tâm sinh lý của trẻ. Hơn nữa,
trong giai đoạn này, nhận thức của trẻ chủ yếu là nhận thức cảm tính, là nhận
thức lý tính chưa phát triển, tư duy trực quan còn chiếm ưu thế, tư duy tưởng
tượng còn hạn chế. Ở trẻ chưa có khả năng tập trung chú ý lâu dài vào đối
tượng do cơ thể trẻ chưa hoàn thiện về các chức năng sinh lý. Vì vậy, các em
dễ mệt mỏi, chán nản, dễ hưng phấn, say mê nhưng cũng dễ bị kích động, bi
quan. Trẻ ở độ tuổi này là những con người ham học nhưng vẫn còn ham
chơi, rất hiếu động, tò mò, thích khám phá nhưng lại thiếu khả năng tự kiềm
chế bản thân mình. Nhà tâm lý học người Pháp J.Rut xô (1712- 1778) đã nhận
xét: trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại và người lớn không phải lúc

nào cũng có thể biểu hiện được trí tuệ, nguyện vọng và tính chất độc đáo của
trẻ, vì “trẻ em có những cách suy nghĩ và cảm nhận riêng của nó”.
Chúng ta biết rằng nội dung phân môn Tập đọc và Kể chuyện trong môn
Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng chiếm một khối
lượng kiến thức khá lớn, trừu tượng. Nó đòi hỏi người HS phải có sự tư duy,
tưởng tượng và vốn hiểu biết khá cao. Những bài tập đọc, kể chuyện thường
diễn ra một cách khô khan. Vậy làm thế nào để các em có được những giờ
học sôi nổi mà vẫn lĩnh hội được tri thức ? Trải qua nhiều năm nghiên cứu,
các nhà giáo dục đã tìm ra một phương pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ mà vẫn đảm bảo cho trẻ đáp ứng được mục tiêu môn học. Đó chính
là phương pháp trò chơi trong học tập. Thông qua trò chơi để giúp HS lĩnh
hội, khám phá tri thức, từ đó hình thành nên những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết.
Trò chơi là một hình thức học tập tích cực và sáng tạo. Qua trò chơi, các em

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

6


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

vừa có thể được vui chơi, giải trí nhưng lại lĩnh hội được kiến thức trong giờ
học. Sự đan xen giữa “chơi mà học, học mà chơi” nó giúp cho HS giảm tải đi
những giờ học tẻ nhạt, căng thẳng, mệt mỏi và từ đó hình thành nên ở HS
lòng say mê, tinh thần tự khám phá tri thức. Đây là điều cần thiết phải hình
thành ở HS trong quá trình dạy học. Đúng như nhà tâm lý học người Nga
B.C.Grê - nhi - xkai đã cho rằng: “chúng ta không những phải tạo cho trẻ thì
giờ để chơi mà phải làm cho cuộc sống của trẻ được nuôi dưỡng bằng trò

chơi”.
Chính vì những vấn đề đã nêu trên, tôi đã chọn cho mình đề tài “Tổ
chức trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở lớp 3” để tìm hiểu và
nghiên cứu sâu hơn trong khóa luận tốt nghiệp của mình.
2 Mục đích nghiên cứu
Từ việc làm rõ cơ sở lý luận của trò chơi, tôi tiến hành tìm hiểu cách
sử dụng trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở Tiểu học để đạt
hiệu quả cao.
3 Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề tổ chức trò chơi trong dạy học phân môn Tập đọc, Kể chuyện
ở lớp 3.
4 Phạm vi nghiên cứu
Do thời gian có hạn nên phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở
việc tìm hiểu cách thức tổ chức trò chơi trong dạy học phân môn Tập đọc, Kể
chuyện ở lớp 3 tại trường tiểu học Ngô Quyền (thành phố Vĩnh Yên – Vĩnh
Phúc) thời gian từ tháng 11 - 2009 đến tháng 4 – 2010.
5 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận về trò chơi trong dạy học nói chung và trong phân
môn Tập đọc, Kê chuyện nói riêng.
- Tìm hiểu định hướng của Bộ giáo dục về trò chơi, thực tiễn vận dụng trò

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

7


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2


chơi và chọn một số trò chơi có thể tổ chức trong phân môn Tập đọc,
Kể chuyện.
- Đưa ra một số giáo án áp dụng trò chơi.
6 Giả thuyết khoa học
Nếu hiểu biết đầy đủ về trò chơi trong tư cách một phương pháp dạy
học và thể nghiệm có hiệu quả thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Tập đọc, Kể chuyện ở lớp 3.
7 Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu lý luận.
Phương pháp trò chuyện.
Phương pháp quan sát
...
8 Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo nội dung chính
của khóa luận gồm:
Chương 1 Cơ sở lý luận
Chương 2 Vấn đề tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện
ở lớp 3.
Chương 3 Giáo án thực nghiệm.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

8


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

NỘI DUNG

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
Qúa trình nhận thức của HSTH phân chia thành hai giai đoạn: giai đoạn
đầu ứng với lớp 1, 2, 3 (từ 6 – 9 tuổi), ở giai đoạn này nhận thức cảm tính là
chủ yếu, tư duy hết sức cụ thể; giai đoạn sau ứng với lớp 4, 5( từ 9 – 11 tuổi)
ở giai đoạn này hệ thống tín hiệu thứ hai phát triển nhưng còn ở mức độ thấp.
Khả năng phân tích của HS còn kém các em thường tri giác trên tổng thể, tri
giác không gian chịu nhiều tác động của trường tri giác gây ra các biến dạng,
ảo giác. So với HS đầu bậc Tiểu học, các em HS cuối bậc Tiểu học đã có các
hoạt động tri giác phát triển và được hướng dẫn bởi các hoạt động khác nên
chính xác dần.
Sự chú ý không chủ định của HSTH còn chiếm ưu thế. Sự chú ý này
không bền vững, nhất là với các đối tượng ít thay đổi. Do thiếu khả năng tổng
hợp nên sự chú ý của HS còn bị phân tán, dễ bị lôi cuốn ra bên ngoài vào hoạt
động chứ chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy. Trí nhớ trực
quan, hình tượng và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ lôgic; hình tượng,
hình ảnh cụ thể dễ ghi nhớ hơn các câu chữ khô khan. Ở giai đoạn cuối bậc
Tiểu học trí nhớ tưởng tượng có phát triển nhưng còn tản mạn, ít có tổ chức
và chịu nhiều hứng thú của kinh nghiệm sống và các mẫu hình đã biết.
Với các đặc điểm nhận thức của HSTH đã nêu ta phải lựa chọn để sử

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

9


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2


dụng phương pháp dạy học vào trong quá trình dạy các bài tập đọc, kể chuyện
để đạt được hiệu quả cao.
1. 2 Đặc điểm môn Tiếng Việt ở Tiểu học
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt bậc Tiểu học được xây dựng
theo quan điểm tích hợp gồm tích hợp dọc (đồng tâm) và tích hợp ngang
(đồng quy). Theo yêu cầu tích hợp dọc, chương trình toàn cấp học được bố trí
thành hai vòng: vòng một (gồm các lớp 1, 2, 3) tập trung hình thành ở HS các
kỹ năng đọc, viết và phát triển các kỹ năng nghe, nói với những yêu cầu cơ
bản: đọc thông và hiểu đúng nội dung một văn bản ngắn, viết rõ ràng và đúng
chính tả; thông qua các bài tập thực hành bước đầu có một số kiến thức sơ
giản về từ, câu, đoạn văn và văn bản. Vòng hai (gồm các lớp 4, 5) cung cấp
cho HS một số kiến thức sơ giản về Tiếng Việt để phát triển các kỹ năng đọc,
viết, nghe, nói ở mức cao hơn với những yêu cầu cơ bản như hiểu đúng nội
dung và bước đầu biết đọc diển cảm bài văn, bài thơ ngắn; biết cách viết một
số kiểu văn bản, biết nghe – nói một số đề tài quen thuộc. Theo yêu cầu tích
hợp ngang, chương trình mỗi lớp đều thể hiện sự phối hợp giữa các mảng
kiến thức Tiếng Việt, văn học, văn hóa và đời sống; giữa kiến thức với kỹ
năng, giữa các kỹ năng đọc, nghe, nói, viết. Kiến thức, kỹ năng và thái độ
được hình thành và phát triển thông qua các bài học và liên kết với nhau theo
hướng chủ điểm học tập.
Môn Tiếng Việt hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho HS với
trọng tâm là các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói, trong đó tập trung nhiều hơn
vào kỹ năng đọc, viết. Bên cạnh đó, các kiến thức về ngữ âm, chữ viết, chính
tả, từ vựng, ngữ pháp, văn bản của tiếng Việt được đưa vào chương trình một
cách tinh giản nhằm tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển các kỹ năng.
Các bài học trong SGK của môn Tiếng Việt được sắp xếp theo chủ
điểm. Thông qua các chủ điểm học tập, SGK có điều kiện giúp HS mở rộng,

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH


10


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

hệ thống hóa, tích cực hóa vốn từ một cách tự nhiên và có hiệu quả. Qua mỗi
chủ điểm, đặc biệt là qua các bài đọc, sách đem đến cho HS những kiến thức
bổ ích và lý thú về một lĩnh vực của đời sống. Các em được giao tiếp với
thiên nhiên, cảm nhận vẻ đẹp bốn mùa, làm quen với rừng núi, đất đai, những
con vật có đời sống riêng cũng rất đáng được quan tâm.
1.3 Mục tiêu môn Tiếng Việt ở Tiểu học
Mục tiêu giáo dục Tiểu học là nhằm giúp HS hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học Trung học cơ sở.
Mỗi môn học ở Tiểu học đều nhằm thực hiện mục tiêu chung trên. Tuy
nhiên, mỗi môn học lại có những mục tiêu riêng trong cái chung ấy. Môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có những mục tiêu cụ thể sau:
a. Hình thành và phát triển ở HS các kỹ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi.
Thông qua việc rèn luyện tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy.
b. Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những
hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội và con người, về văn hóa, văn học của
Việt Nam và của nước ngoài.
c. Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và góp phần hình thành thói quen giữ
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1.4 Tổ chức trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt
1.4.1 Khái niệm
Trò chơi là hoạt động vui chơi mang một chủ đề, một nội dung nhất
định và có những quy định mà người tham gia phải tuân thủ.
Nếu vui chơi là một thuật ngữ chỉ một dạng hoạt động giải trí tự

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

11


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nguyện của mọi người tạo ra sự sảng khoái, thư giãn về thần kinh, tâm lý thì
trò chơi là sự vui chơi có nội dung, có tổ chức của nhiều người, có quy định
luật lệ mà người tham gia phải tuân theo.
Nếu vui chơi của cá nhân được tổ chức dưới dạng trò chơi thì nó sẽ
mang lại ý nghĩa giáo dục, rèn luyện đối với người chơi, đặc biệt, đối với
thiếu niên, nhi đồng và sẽ có tác dụng góp phần hình thành nên những phẩm
chất, nhân cách cho trẻ.
Tóm lại, trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước
tiên và chủ yếu là vui chơi giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng
thẳng. Qua trò chơi người chơi còn có thể được rèn luyện thể lực, rèn luyện
các giác quan tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè, với
tổ…
Trò chơi có những đặc trưng cơ bản sau:
- Trò chơi là một loại hình sống của con người cũng như hoạt động học
tập, lao động...

- Trò chơi có chủ đề và nội dung nhất định, có những nguyên tắc nhất
định mà người tham gia phải tuân thủ.
- Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí vừa có ý nghĩa giáo
dưỡng và giáo dục lớn đối với con người.
1.4.2 Phân loại trò chơi
Các trò chơi của trẻ em rất đa dạng do chúng gắn với các hình thức hoạt
động khác nhau. Hiện nay có nhiều cách phân loại trò chơi song nhìn chung
có các loại hình sau:
1.4.2.1 Trò chơi với đồ vật
Trẻ thường chơi với những đồ vật đơn giản (cát, các hình khối, nhựa…)
hay với những đồ chơi kể cả đồ chơi chuyển động.
Trong quá trình trẻ em chơi với độ vật, GV cần hướng dẫn cách chơi để

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

12


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

các em đi từ chỗ biết làm theo mẫu đến chỗ biết chơi một cách sáng tạo.
1.4.2.2 Trò chơi học tập (trò chơi giáo dục)
Trò chơi học tập là một trong những phương tiện giáo dục trí tuệ cho
trẻ em. Nó giúp cho trẻ:
Phát triển những khả năng về thị giác, thính giác, xúc giác.
Chính xác hóa những hiểu biết về các sự vật và hiện tượng xung
quanh…
Phát triển trí thông minh, sự nhanh trí, khả năng về ngôn ngữ…

Như vậy, trò chơi học tập ngoài mục đích giải trí còn nhằm mục đích
góp phần củng cố tri thức, kỹ năng học tập cho HS.
1.4.2.3 Trò chơi theo chủ đề
Trò chơi theo chủ đề bao gồm trò chơi sắm vai, đóng kịch…
1.4.2.4 Trò chơi vận động (trò chơi linh hoạt)
Đây là loại trò chơi trong đó luôn có sự vận động cơ bắp. Do gắn với
nhiều thao tác khác nhau dưới hình thức tự nhiên. Trò chơi vận động có ảnh
hưởng tốt với sự phát triển cả thể chất lẫn trí tuệ.
1.4.2.5 Trò chơi trí tuệ
Nội dung của trò chơi trí tuệ là sự thi đấu về một hoạt động trí tuệ nào
đó: chú ý, sự nhanh trí nhớ, sức tưởng tượng sáng tạo, các hoạt động phát
minh.
Trên đây là 5 loại trò chơi cơ bản. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có
tính chất tương đối. Trên thực tế có các loại trò chơi hỗn hợp, tổng hợp cả hai
hoặc nhiều loại trò chơi nói trên…
1.4.3 Vai trò của trò chơi trong dạy học Tập đọc, Kể chuyện
+ Trò chơi giúp cho trẻ thu lượm được những hiểu biết về thế giới xung
quanh nói chung, về các hoạt động của người lớn nói riêng. Dần dần ở các em
hình thành nên nhu cầu muốn tác động đến thế giới đó như người lớn.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

13


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

+ Trò chơi giúp trẻ em hình thành ý chí và tính cách; bồi dưỡng cho trẻ

năng lực hoạt động tập thể tạo điều kiện cho chúng thống nhất những nỗ lực
chung để giải quyết một nhiệm vụ nào đó.
+ Trò chơi giúp cho trẻ phát triển cả về thể chất và trí tuệ, hoàn thiện
các quá trình tri giác, ghi nhớ, chú ý, tư duy, tưởng tượng và sáng tạo.
+ Trò chơi còn kích thích các em biểu hiện tính sáng tạo, tính độc lập.
Ngoài ra, trò chơi còn giúp trẻ em hình thành và phát triển nhiều phẩm
chất như lòng dũng cảm, tính kiên trì, ý thức tập thể, tình bạn, tình đồng đội.
Qua trò chơi, HS có cơ hội để thể nghiệm những chuẩn mực hành vi.
Chính nhờ sự thể nghiệm này các em sẽ dần được hình thành những hành vi
ứng xử trong cuộc sống. Đồng thời, qua trò chơi HS cũng hình thành được
năng lực quan sát và kỹ năng phê phán, đánh giá hành vi của người khác.
Bằng trò chơi, việc rèn luyện các kỹ năng được tiến hành một cách nhẹ
nhàng, sinh động không khô khan, nhàm chán. HS bị lôi cuốn vào quá trình
học tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm. Vì vậy, hiệu
quả học tập của HS cũng tăng lên.
Như vậy, có thể nói rằng: qua trò chơi, trẻ em dần dần phát triển cả về
thể chất lẫn trí tuệ, đúng như A.XMarakenkô nói: “trẻ em trong trò chơi như
thế nào thì phần lớn nó sẽ như thế trong công việc khi nó lớn lên. Trò chơi trở
thành một hoạt động sống không thể thiếu đối với trẻ”.
Trong trò chơi phải nói đến một hình thức tổ chức đó là dùng trắc
nghiệm khách quan. Hình thức này được sử dụng phổ biến trong các trường
phổ thông. Ưu điểm của trắc nghiệm khách quan là:
- Đảm bảo tính khách quan, công bằng trong đánh giá, kiểm tra.
- Kiểm tra được nhiều nội dung của môn học, bài học.
- Là một hình thức gây hứng thú và tính tích cực của HS.
Tuy nhiên, trắc nghiệm khách quan cũng còn một số hạn chế như: không

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

14



Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nắm bắt được suy nghĩ của HS, hạn chế năng lực diễn đạt bằng lời, viết bằng
lập luận, tư duy sáng tạo của HS… Do đó, ít góp phần phát triển ngôn ngữ nói
và viết. Có 4 loại trắc nghiệm khách quan là: trắc nghiệm đúng - sai; trắc
nghiệm điền khuyết; trắc nghiệm ghép đôi; trắc nghiệm nhiều lựa chọn.
1.4.4 Yêu cầu chung khi tổ chức trò chơi
1.4.4.1 Đối với giáo viên
- GV là người chỉ đạo, tổ chức trò chơi, người GV phải tìm hiểu và chắt
lọc trò chơi nào cho phù hợp với môn học, tiết học.
- Về thời gian: đây không phải là phương pháp chủ đạo của tiết học nên
trò chơi chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhỏ (từ 5 đến 10 phút). Nhưng
nếu là tiết ôn tập thì thời gian có thể dài hơn nhưng không nên quá lạm dụng
trò chơi.
- Về nội dung: Trò chơi phải cô đọng để đi đến kiến thức trọng tâm,
tránh những thao tác thừa, nội dung luộm thuộm để làm phân tán yêu cầu,
mục đích của trò chơi.
- Về hình thức tổ chức: Nếu là trò chơi mang tính tập thể thì cần tổ
chức cụ thể (nhóm trưởng- chỉ đạo viên). Trò chơi phải có luật chơi, trật tự
và có tổ chức. Khi kết thúc phải có nhận xét, đánh giá và thưởng phạt
người chơi. Nếu cần chuẩn bị GV phải nhắc nhở HS trong tiết học trước để
tránh bị động khi chơi.
1.4.4.1 Đối với học sinh
- Chính bản thân các em là người tham gia trực tiếp vào cuộc chơi, do đó
bản thân các em phải là người tích cực nhất, đồng thời là những cổ động viên
cho bạn mình chơi.

- HS nghe rõ mục đích, yêu cầu của trò chơi để không phạm luật chơi và
chuẩn bị những gì cần thiết đã được phổ biến để trò chơi được tiến hành một
cách hiệu quả.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

15


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- HS sẽ cảm thấy hứng thú khi được áp dụng những kiến thức mình vừa
học hoặc tự mình tìm tòi để phát hiện điều cần học. Tinh thần tập thể sẽ được
nâng cao và phát huy một cách tích cực vì trò chơi đòi hỏi tính đồng đội.
1.4.5 Các nguyên tắc lựa chọn và tổ chức trò chơi cho học sinh tiểu học
Trò chơi có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập.
Song, muốn phát huy được vai trò đó việc lựa chọn và tổ chức trò chơi cho trẻ
em cần tuân theo những nguyên tắc nhất định.
1.4.5.1 Nguyên tắc lựa chọn trò chơi
Khi lựa chọn trò chơi cần:
- Đảm bảo tính giáo dục.
- Đảm bảo phù hợp với trình độ và năng lực của HSTH, không quá khó
hoặc đơn giản.
- Đảm bảo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của lớp học,
trường học (về quỹ thời gian, không gian,…).
1.4.5.2 Nguyên tắc tổ chức trò chơi
- Nguyên tắc 1: Đảm bảo cho HS hiểu rõ những yêu cầu, nội dung và
cách tổ chức trò chơi

- Nguyên tắc 2: Đảm bảo phát huy được tính tích cực, độc lập, sáng tạo
của HS trong quá trình tổ chức trò chơi
- Nguyên tắc 3: Đảm bảo tổ chức trò chơi diễn ra một cách tự nhiên,
không gò ép
- Nguyên tắc 4: Đảm bảo luân phiên các trò chơi một cách hợp lý
- Nguyên tắc 5: Đảm bảo trò chơi với tinh thần “thi đua” đồng đội
1.4.6 Những tiền đề quan trọng để thực hiện tốt hoạt động vui chơi nói
chung và hoạt động trò chơi ở tiểu học nói riêng
1.4.6.1 Nắm vững mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu dạy học nói riêng
Mục tiêu giáo dục Tiểu học được đề ra trong luật giáo dục (1998) có

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

16


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

nhiệm vụ: “giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp
tục học Trung học cơ sở”.
Trên cơ sở nắm vững mục tiêu giáo dục Tiểu học người GV sẽ lựa
chọn, sử dụng những trò chơi thích hợp trong từng hoạt động để thực hiện tốt
những mục tiêu giáo dục đề ra nhằm phát triển được toàn diện nhân cách, đạo
đức, trí tuệ cho HS.
Ngoài ra, trò chơi còn có ý nghĩa phát triển kỹ năng ban đầu. Đó là
những kỹ năng như:
- Những kỹ năng thuộc hành vi giao tiếp đối với mọi người xung

quanh, trong gia đình, ở nhà trường và nơi cộng đồng.
- Những kỹ năng học tập đơn giản.
- Một số kỹ năng hoạt động hợp tác nhóm.
1.4.6.2 Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học
Muốn sử dụng phương pháp trò chơi có hiệu quả, đạt được mục đích đề
ra ngoài việc nắm vững mục tiêu giáo dục cần hiểu một số đặc điểm tâm sinh
lý của HSTH. Vì đây chính là cơ sở khoa học của việc xác định mục tiêu, nội
dung, đồng thời là điều kiện để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức
trò chơi cho HS.
- Trẻ em ở Tiểu học có trình độ nhận thức, năng lực trí tuệ và tư duy phát
triển chưa cao nhưng các em đã có vốn sống và những hiểu biết nhất định về
thế giới xung quanh.
- Trẻ hay tò mò, thích khám phá, giàu tưởng tượng, có ước mơ hoài bão
lớn. Vì vậy cần khai thác mặt tích cực để phát triển hoài bão, ước mơ của trẻ.
- Tính thiếu kiên trì, thiếu bền bỉ: do cơ thể các em chưa hoàn thiện về các
chức năng sinh lý (hệ thần kinh, hệ cơ xương…). Vì vậy, các em dễ mệt mỏi.
- Tính hưng phấn nhưng cũng dể chán nản. Khi được khích lệ các em dễ bị

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

17


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

kích động, dễ hưng phấn; xuất hiện những biểu hiện nhiệt tình, say sưa, dễ
cười, dễ khóc. Khi gặp rủi ro, thất bại các em cũng dễ chán nản, bi quan, mất
lòng tin, dễ có hành động xốc nổi: buồn, dỗi, khóc. Đây là một trong những

đặc điểm cần lưu ý khi tiến hành các hoạt động vui chơi cho trẻ.
- Trẻ giàu cảm xúc, cả tin, dễ chia sẻ với bạn bè và người mình tin yêu. Vì
dễ có cảm xúc lại thiếu kinh nghiệm sống nên các em hay tin người, tin vào
những điều tốt đẹp và luôn mong muốn chia sẻ, giúp đỡ người khác và cũng
mong muốn an ủi, động viên từ người khác.
- Đặc điểm về năng lực hoạt động trí tuệ: trẻ em thường hiếu động, thích
các loại hình hoạt động mang tính chất vui chơi, giải trí. Tuy nhiên, khả năng
kiềm chế và thao tác chân tay của các em còn vụng về, chưa linh hoạt.
- Đặc điểm nhận thức, tư duy của trẻ em: ở trẻ em, nhận thức cảm tính là
chủ yếu, nhận thức lý tính chưa phát triển. Tư duy trực quan chiếm ưu thế, tư
duy trừu tượng còn hạn chế. Trẻ chưa có khả năng chú ý lâu dài, có trí nhớ tốt
nhưng gắn với ghi nhớ máy móc, ghi nhớ cụ thể.
1.4.7 Quy trình lựa chọn và tổ chức trò chơi cho học sinh tiểu học
Trong cuốn “Tổ chức hoạt động vui chơi ở Tiểu học” tác giả Hà Nhật
Thăng đã đưa ra quy trình tổ chức trò chơi gồm bốn giai đoạn và được chia
làm nhiều bước, cụ thể:
* Giai đoạn thứ nhất: Lựa chọn trò chơi
- bước 1: Đưa ra mục tiêu của bài học, phần học, phân tích xem cần
phải rèn luyện kỹ năng nào.
- Bước 2: Lựa chọn trò chơi, phân tích xem trò chơi đó sẽ rèn luyện
được những kỹ năng gì.
- Bước 3: Đối chiếu trò chơi lựa chọn với mục tiêu cần đạt tới xem có
phù hợp không, có đem lại hiệu quả cao không.
Nếu không phù hợp thì quay lại bước 2, chọn thử trò chơi khác và tiến

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

18



Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

hành công việc theo các bước đã định. Nếu thấy phù hợp thì quyết định chọn
trò chơi đã phân tích.
* Giai đoạn thứ hai: Chuẩn bị tổ chức trò chơi
- Bước 4: Thiết kế “giáo án” trò chơi
+ Tên trò chơi…
+ Mục đích đặt ra khi cho HS chơi
+ Các phương tiện phục vụ cho việc tổ chức trò chơi
+ Nội dung trò chơi, các hoạt động cụ thể, cách tiến hành.
+ Dự kiến thưởng, phạt.
+ Đưa ra chuẩn và thang đánh giá.
- Bước 5: Chuẩn bị thực hiện “giáo án” trò chơi
Chuẩn bị đầy đủ và có chất lượng các phương tiện (một phần do GV,
một phần do HS chuẩn bị).
* Giai đoạn thứ ba: Tổ chức trò chơi
- Bước 6: Đặt vấn đề
+ Giới thiệu trò chơi
+ Nêu yêu cầu của trò chơi
- Bước 7: Giới thiệu rõ ràng, mạch lạc, cụ thể nội dung trò chơi với các
hoạt động cụ thể (có thể làm mẫu).
- Bước 8: Cho HS thực hiện trò chơi theo các hoạt động đã nêu, theo
dõi, uốn nắn kịp thời hành động chưa chuẩn xác, đánh giá những kết
quả bộ phận.
* Giai đoạn kết thúc trò chơi
- Bước 9: Tập hợp HS làm một số động tác thư giãn, đánh giá chung
(có thể cho HS tham gia đánh giá).
- Bước 10: Phần thưởng (nếu có) và kết thúc.

Trên đây là quy trình lựa chọn và tổ chức trò chơi cho HSTH gồm bốn

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

19


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

giai đoạn và 10 bước cụ thể.Tuy nhiên, đây là một quy trình mềm dẻo, linh
hoạt, sự phân chia các giai đoạn chỉ có tính chất tương đối. Trong thưc tế, các
giai đoạn này có thể đan xen, hoà nhập với nhau trong một số trường hợp, tùy
theo mục đích, nội dung bài học có thể tiến hành bỏ qua một hoặc một vài
bước cụ thể.
Đây là qui trình dạy học một tiết trò chơi (có thể nội khoá, ngoại khoá).
Trong thực tế dạy học, ngoài tiết trò chơi tổ chức cả tiết học, ta còn sử dụng
trò chơi trong từng phần của tiến trình dạy học. Ta có thể tổ chức xen kẽ trò
chơi với các hình thức tổ chức dạy học khác trong quá trình dạy học một tiết
học trên lớp. Dạy học phải phối hợp nhiều phương pháp, nhiều hình thức tổ
chức dạy học.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

20


Khoá luận tốt nghiệp đại học


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 2
TỔ CHỨC TRÒ CHƠI TRONG PHÂN MÔN
TẬP ĐỌC, KỂ CHUYỆN Ở LỚP 3

2.1 Phân môn Tập đọc, Kể chuyện theo định hướng của Bộ giáo dục
2.1.1 Nội dung phân môn Tập đọc, Kể chuyện lớp 3
2.1.1.1 Nội dung phân môn Tập đọc
Sách gồm 93 bài tập đọc, trong đó có 30 bài thơ, 63 bài văn xuôi
(truyện, văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông thường),
18 bài là tác phẩm văn học nước ngoài hoặc có nội dung về nước ngoài và
người nước ngoài.
Bám sát các chủ điểm, nội dung Tập đọc phản ánh nhiều lĩnh vực khác
nhau, từ gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân tộc anh
em trên đất nước ta đến các hoạt động văn hoá, khoa học, thể thao và các vấn
đề lớn của xã hội như bảo vệ hoà bình, phát triển hữư nghị, sự hợp tác giữa
các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ…
2.1.1.2 Nội dung phân môn Kể chuyện
- Khác với chương trình cải cách giáo dục, 1981, chương trình Tiểu học
mới không có SGK riêng cho phân môn Kể chuyện. Ở lớp 2 và lớp 3, nội
dung kể chuyện chính là những câu chuyện các em vừa học trong bài tập đọc.
- Khác với lớp 2, chương trình môn Tiếng Việt lớp 3 không có tiết Kể
chuyện riêng mà bố trí ở trong bài tập đọc hai tiết ở đầu mỗi tuần và tìm hiểu
bài đọc trong khoảng 1,5 tiết rồi chuyển sang làm bài tập kể chuyện 0,5 tiết.
Nội dung củng cố dặn dò là ở cuối phần kể chuyện là chung cho cả Tập
đọc - Kể chuyện.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH


21


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.1.2 Mục tiêu nội dung phân môn Tập đọc, Kể chuyện lớp 3
2.1.2.1 Mục tiêu nội dung phân môn Tập đọc
a. Phát triển các kỹ năng đọc và nghe cho HS:
+ Đọc thành tiếng:
- Phát âm đúng, nghỉ ngơi hợp lý.
- Cường độ đọc vừa phải (không đọc quá to hay lí nhí).
- Tốc độ đọc vừa phải ( không ê a, ngắc ngứ hay liến thoắng), đạt
yêu cầu tối thiểu 70 tiếng/ phút.
+ Đọc thầm và hiểu nội dung:
- Biết đọc thầm, không mấp máy môi.
- Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm
được nội dung các câu, đoạn và ý nghĩa của bài.
- Có khả năng trả lời đúng các câu hỏi liên quan đến nội dung
từng đoạn hay toàn bài đọc, biết phát biểu ý kiến của bản thân về
một nhân vật hoặc một vấn đề trong bài đọc.
+ Nghe:
- Nghe và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài.
- Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy cô.
- Nghe - hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.
b. Trau dồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự
hiểu biết của HS về cuộc sống, cụ thể là:
- Làm giàu và tích cực hóa vốn từ, phát triển khả năng diễn đạt.
- Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng hiểu biết về cuộc sống,

cung cấp mẫu văn bản để hình thành một số kỹ năng phục vụ cho đời sống và
việc học tập của bản thân (như điền vào các tờ khai, làm đơn, viết thư..).
- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản (phân tích, phán đoán..).
c. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng; tình

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

22


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

yêu cái đẹp, cái thiện và thái độ ứng xử đúng mực trong cuộc sống; hứng thú
đọc sách và tình yêu tiếng Việt, cụ thể:
- Bồi dưỡng tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối
với ông bà, cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp; đoàn kết, giúp đỡ bạn bè; vị tha,
nhân hậu.
- Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hấp dẫn trong SGK, hình
thành ý thức ham muốn đọc sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ
vẻ đẹp của tiếng Việt, bồi dưỡng tình cảm yêu quý, trân trọng tiếng Việt.
2.1.2.2 Mục tiêu nội dung phân môn Kể chuyện
a. Phát triển các kỹ năng nói và nghe cho HS, cụ thể là:
+ Rèn kỹ năng độc thoại
Kỹ năng độc thoại được rèn qua các bài tập kể lại câu chuyện đã được
học trong giờ tập đọc. Bên cạnh các hình thức bài tập đã được làm quen ở lớp
2, chương trình Kể chuyện ở lớp 3 còn có thêm một kiểu bài tập với yêu cầu
sáng tạo cao hơn đó là kiểu bài kể lại chuyện theo lời một nhân vật, chiếm tỷ

lệ với 32 %...
+ Rèn kỹ năng đối thoại
Kỹ năng đối thoại được rèn thông qua hình thức hợp tác dựng lại câu
chuyện đã học theo cách phân vai. Tuy nhiên, số lượng bài tập này ở lớp 3
giảm nhiều so với lớp 2 vì chúng đã được chuyển thành một kỉểu bài tập có
yêu cầu cao hơn là kể lại chuyện theo lời nhân vật.
b. Củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình
tượng và tư duy lôgic cho HS, nâng cao sự hiểu biết của các em về đời sống.
c. Tiếp tục bồi dưỡng cho HS những tình cảm tốt đẹp, trau dồi cho các
em hứng thú đọc và kể chuyện.

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

23


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

2.1.3 Vấn đề tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện
ở lớp 3
SGK Tiếng Việt 3 được biên soạn theo 3 quan điểm: quan điểm giao
tiếp, quan điểm tích hợp và quan điểm tích cực hoá hoạt động của HS.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và SGK
lần này là đổi mới phương pháp dạy và học. SGK có nhiệm vụ thể hiện và tạo
điều kiện để thầy, cô và HS thực hiện phương pháp tích cực hoá hoạt động
của HS, trong đó, thầy cô đóng vai trò là người tổ chức hoạt động của HS;
mỗi HS đều được hoạt động, mỗi HS đều được bộc lộ mình, được phát triển.
Trong SGK Tiếng Việt 3 và Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng Việt 3 của

Nhà xuất bản Giáo dục có cụ thể hoá hoạt động của GV và hoạt động của HS
để giúp GV dễ dàng hơn khi áp dụng phương pháp dạy học mới. Một trong
những nhiệm vụ của GV là tổ chức cho HS báo cáo kết quả làm việc. Trong
đó có đề cập đến việc thi đua giữa các nhóm cho HS báo cáo.
Trong cuốn Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng Việt 3 cũng đề cập đến việc tổ
chức trò chơi học tập cho HS để kích thích hứng thú học tập của HS. Trong
đó có nói: trò chơi học tập là một trong những hình thức tổ chức dạy học có
tác dụng kích thích hứng thú học tập của HS, làm cho giờ dạy trở nên nhẹ
nhàng mà vẫn đạt được mục đích, yêu cầu của bài học đề ra. Sách còn đề cập
đến những điều mà GV cần lưu ý khi tổ chức trò chơi học tập cho HS.
Qua những điều nói trên ta thấy, ngay từ khi biên soạn SGK Bộ Giáo
dục đã chú ý đến việc tổ chức các trò chơi cho HS nhằm giúp GV có những
định hướng giảng dạy để giờ học đạt hiệu quả.
2.2 Thực tiễn việc tổ chức trò chơi trong dạy học Tập đọc, Kể chuyện ở
lớp 3 tại các trường phổ thông
Qua thực tiễn thực tập và kiến tập tại các trường Tiểu học tôi thấy:
- GV tổ chức trò chơi để luyện tập, củng cố kiến thức mới hình thành

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

24


Khoá luận tốt nghiệp đại học

Trường ĐHSP Hà Nội 2

- Khi tổ chức trò chơi cho HS, GV đều phổ biến bằng cách dùng lời + làm
mẫu.. để khi chơi trẻ khỏi bỡ ngỡ, kết hợp với lời nói rõ ràng để trẻ hiểu kĩ
thuật chơi hơn, thông qua đó vốn ngôn ngữ của trẻ cũng mở rộng thêm.

- Khi tiến hành tổ chức trò chơi, GV có nhiều cách khác nhau như: chọn
đại diện cá nhân, nhóm, tổ chơi; chia lớp thành nhiều nhóm chơi ; cho cả lớp
cùng chơi… GV vận dụng tất cả các cách trên để tổ chức cho HS chơi vì việc
chọn cách tiến hành phụ thuộc vào từng bài học, từng loại trò chơi.
- Kết thúc mỗi trò chơi, GV cho trẻ cùng nhận xét, đánh giá, công bố kết
quả cùng với cô.
Bên cạnh những ưu điểm ấy vẫn còn một số hạn chế trong khâu tổ chức
trò chơi
- Ngôn ngữ GV sử dụng khi phổ biến luật chơi còn chưa khoa học, chưa
ngắn gọn, rõ ràng và chưa nhấn mạnh những vấn đề trọng tâm, then chốt của
trò chơi.
- Hơn nữa, nhiều GV chủ quan khi cho rằng trẻ đã nắm được luật chơi mà
không tiến hành cho trẻ chơi thử trước khi chơi thật.
- Một số GV không sử dụng hoặc ngại sử dụng trò chơi ở một số tiết học là
do họ ngại tốn thời gian, ảnh hưởng đến tiến trình dạy. Mặt khác,tổ chức trò
chơi đòi hỏi phải có sự chuẩn bị đồ dùng dạy học.
2.3 Đề xuất
Từ định hướng của Bộ và thực tiễn nói trên, chúng tôi xin chọn ra một số
trò chơi góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy học môn Tiếng Việt nói chung
và phân môn Tập đọc, Kể chuyện nói riêng.
2.3.1 Tổ chức trò chơi trong giờ lên lớp
2.3.1.1 Tổ chức trò chơi trong phân môn Tập đọc
 Thi đọc theo nhóm
* Mục đích

SV: Lý Thị Mậu- K32B - GDTH

25



×