Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

hực trạng việc sử dụng phương pháp dạy hoc trực quan tại các trường mầm non huyện sóc sơn hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.39 KB, 51 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỉ XXI, thế kỉ của sự
tiến bộ vượt bậc về khoa học và công nghệ, thế kỉ của những con người thông
minh, có trình độ chuyên môn cao, tự chủ, năng động và sáng tạo. Vì thế đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là việc mà quốc gia nào cũng cần phải chú
trọng. Hòa chung vào dòng chảy của nhân loại, Việt Nam đã và đang từng
bước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đưa nước ta
từ một nước có nền công nghiệp lạc hậu tiến kịp so với các quốc gia khác, hội
nhập với xu thế quốc tế. Trong sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, giáo
dục đóng vai trò hết sức quan trọng, nó là động lực cho sự phát triển bền vững
và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, đầu tư cho sự phát triển.
Hiện nay, giáo dục đang là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội, đặc
biệt là giáo dục mầm non vì đây là bậc học nền tảng, hình thành cho trẻ những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mĩ và lao động, đặt nền móng vững chắc cho các bậc học tiếp theo.
Muốn làm được điều này, chúng ta phải tiến hành đồng bộ những vấn
đề của bậc học mầm non, phải có nội dung và phương pháp thích hợp. Trong
đó việc đổi mới phương pháp dạy học là một xu thế tất yếu để nâng cao chất
lượng dạy học hiện nay. Đổi mới hoạt động theo hướng tích cực hóa hoạt
động học tập, phát huy sự tự chủ, sáng tạo của học sinh.
Thực trạng dạy học hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của giáo dục
nước nhà mà một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do việc
sử dụng các phương pháp dạy học chưa tốt, chưa thực sự hiệu quả.

1


Hiện nay các phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học
trực quan nói riêng chưa được vận dụng tốt vào trong quá trình dạy học. Vì


vậy kết quả đem lại chưa được như mong muốn.
Để có cái nhìn khái quát hơn và góp phần nâng cao hiệu quả việc sử
dụng phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non, tôi quyết định chọn
đề tài nghiên cứu: “Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan
tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phát hiện thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực
quan tại các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội. Tìm hiểu nguyên nhân
và đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng việc sử dụng phương pháp dạy
học trực quan tại các trường mầm non nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Phương pháp dạy học ở trường mầm non.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học
trực quan tại trường mầm non.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp dạy học trực quan tại các trường mầm non huyên Sóc Sơn
- Hà Nội (trường mầm non Tiên Dược, trường mầm non Mai Đình A).
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu cơ sở lí luân
5.2. Tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các
trường mầm non huyên Sóc Sơn - Hà Nội
5.3. Nguyên nhân và giải pháp
6. Giả thuyết khoa học
Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở các trường mầm non
vẫn chưa đạt kết quả cao, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó. Nếu

2


phương pháp dạy học trực quan được tổ chức và áp dụng tốt sẽ phát huy được

các ưu điểm và hạn chế tối đa các nhược điểm của phương pháp này, đồng
thời nâng cao chất lượng dạy học.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Phương pháp đọc sách, đọc tài liệu
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thống kê phân tích số liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn, hỏi đáp
8. Cấu trúc khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, khoá luận bao gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại các
trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phương pháp dạy học trực quan được sử dụng từ kiểu dạy học sơ khai
nhất của Xôcrat và Khổng Tử để con người nhận thức được thế giới. Bởi lẽ
theo họ thế giới hòa tan trong ta và con người có thể nhận thức được chính
bản thân họ. Mối quan tâm của Khổng Tử đó là tri thức kinh nghiệm không có
sẵn trong mỗi con người, nó được hình thành trong mỗi con người thông qua
học tập. Ông khẳng định: “Tính người ta vốn gần nhau”, Khổng Tử rất coi
trọng nhận thức cảm tính, con người nhận thức được thế giới phải dựa vào kết

quả quan sát các sự vật trực quan. Từ những điều nghe thấy hai ông rút ra
được nội dung dạy học. Từ đó “phương pháp trực quan gắn liền với dạy học”.
Đầu thế kỉ XVII, nhà giáo dục nổi tiếng người Tiệp Khắc J.A.Kômenski
(1592 - 1670) đã gây dựng nhà trường, coi trọng trường học. Ông đã đưa ra
nguyên tắc dạy học, lí luận dạy học và phương pháp dạy học của quá trình
nhận thức. Ông cho rằng kiến thức càng dựa vào cảm giác thì nó càng xác
thực. Nghiên cứu sự vật không chỉ dựa vào cái mà người ta quan sát, chứng
minh mà phải căn cứ vào những cái chính mắt mình nhìn, chính tai mình
nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm, chính tay mình sờ… Ý
nghĩa cơ bản và hợp lí của nguyên tắc này được coi là ở chỗ độc lập với việc
nó truyền thụ bằng lời (mà người ta vẫn gọi là dạy chay) một cách giáo điều.
Nguyên tắc này giúp học sinh bằng kinh nghiệm của bản thân nhìn thấy được
tri thức cụ thể, làm nền tảng cho tư duy. Vì vậy nguyên tắc này được coi là
nguyên tắc vàng trong lí luận dạy học. Nguyên tắc này cho rằng ở giai đoạn
thấp, trẻ mầm non tư duy cụ thể. Tính cụ thể ấy buộc giáo viên phải minh họa
những khả năng gọi là trìu tượng bằng những sự vật có thật trong cuộc sống,

4


bằng những tranh ảnh, mô hình… bằng cách mô tả rõ ràng chi tiết để gợi lại
cho học sinh nhớ lại những cái đã học hoặc tưởng tượng những cái chưa hề
thấy.
Nhà sư phạm J.J.Rutxo (1712 - 1778) cũng kịch liệt phê phán nhà
trường đương thời lam dụng lời nói. Ông đã lớn tiếng: “Đồ vật, đồ vật - hãy
đưa ra đồ vật. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng, chúng ta lạm dụng quá
mức lời nói - Bằng cách giảng giải ba hoa, chúng ta chỉ tạo nên con người ba
hoa”.
Trên cơ sở kế thừa công trình nghiên cứu của các bậc cha ông đi trước,
ngày nay phương pháp dạy học trực quan cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu

giáo dục quan tâm và đi sâu nghiên cứu các khía cạnh khác nhau. Đặc biệt đã
có nhiều tại liệu có giá trị được công bố.
Về mặt lí luân có tác giả có tác giả Phan Trọng Ngọ, Dương Diệu Hoa,
Lê Tràng Định trong cuốn: “Vấn đề trực quan trong dạy học”.
Ngoài ra còn rất nhiều tác giả khác quan tâm đến vấn đề này:
Đào Thanh Âm, Giáo dục học mầm non, NXB Đại học Sư Phạm.
Nguyễn Thị Ngọc Hân, Phương pháp trực quan trong dạy môn tiếng
Việt ở bậc học tiểu học.
Nguyễn Thị Hoa, Phương pháp trực quan trong việc phát triển vốn từ
cho trẻ mẫu giáo bé, Khóa luận tốt nghiệp.
Đàm Thị Hoa, Vấn đề trực quan trong dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu
học, Khóa luận tốt nghiệp.
1.2. Một số vấn đề về phương pháp dạy học trực quan
1.2.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng vào
một quá trình cụ thể - quá trình dạy học. Đây là quá trình đặc trưng có tính
chất hai mặt, nghĩa là bao gồm hai hoạt động: Hoạt động dạy của thầy và

5


hoạt động học của trò. Hai hoạt động này tồn tại và được tiến hành trong mối
quan hệ biện chứng. Hoạt động dạy của thầy đóng vai trò chủ đạo (tổ chức,
điều khiển) và hoạt động học của trò đóng vai trò tích cực chủ động (tự tổ
chức, tự điều khiển). Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy
học nhưng ta có thể hiểu: Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt
động của cả thầy và trò trong quá trình dạy học mà thầy và trò sử dụng để
đạt được mục đích dạy học.
1.2.2. Nhóm các phương pháp dạy học trực quan
Phương pháp dạy học mà sử dụng những đối tượng và hiện tượng hiện

thực (hay những vật mô tả chúng) gọi là các phương pháp dạy học trực quan.
Hoạt động nhận thức của trẻ trong quá trình nắm những tri thức và kĩ năng
mới trong các buổi học có thể được tổ chức trên cơ sở trình bày trực quan
những đối tượng và hiện tượng thích hợp. Việc để cho trẻ trực tiếp quan sát
các đối tượng có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành những biểu tượng
hoàn chỉnh và phát triển các quá trình nhận thức - tri giác, trí nhớ, tư duy.
Nhóm này bao gồm phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực
quan.
1.2.2.1. Quan sát
Quan sát là tri giác các sự vật và hiện tượng của thế giới xung quanh
một cách có mục đích, có kế hoạch và tương đối lâu dài. Quan sát không chỉ
giúp trẻ nhận biết các thuộc tính bên ngoài của các sự vật và hiện tượng mà
còn giúp trẻ nhận xét những sự biến đổi của hoàn cảnh xung quanh trong một
quá trình. Ví như có thể tổ chức cho trẻ quan sát lao động của người lớn, hoạt
động giao thông, hành vi và tập tính của động vật, sự tăng trưởng và phát triển
của động vật và thực vật v.v… Để cho trẻ có thể nhận xét những sự biến đổi
ấy cần phải tổ chức những quan sát có hệ thống trong thời gian dài (thông qua
các cuộc đi dạo trong các mùa ở công viên, rừng cây).

6


Để trẻ quan sát có hiệu quả, giáo viên phải tổ chức hoạt động quan sát.
Giúp trẻ nắm hoạt động quan sát, đặt ra nhiệm vụ nhận thức, tập làm theo kế
hoạch, hình thành kĩ năng chọn các dấu hiệu đặc trưng, cơ bản theo nhiệm vụ
đặt ra.
Khi tổ chức quan sát cần chú ý chọn cho trẻ vị trí và thời điểm thích
hợp để trẻ nhình thấy những đặc điểm nổi bật của đối tượng. Giáo viên chỉ
dẫn, đặt ra những câu hỏi để hướng trẻ vào những dấu hiệu khác nhau của đối
tượng, tránh cho trẻ phân tán chú ý vào những sự kiện khác.

Nội dung quan sát qua các tiết học phải theo hướng phức tạp dần: Chọn
đối tượng quan sát khó hơn, xem xét các khía cạnh mới của đối tượng, chuyển
sang nhận thức những mối liên hệ giữa các thuộc tính, các sự vật và hiện
tượng.
Quan sát đươc sử dụng trong giờ học và cả trong cuộc sống hàng ngày.
Nó có thể tiến hành trong thời gian ngắn (quan sát hành vi của các con vật,
hiện tượng cầu vồng) và trong thời gian dài (quan sát sự phát triển của cây,
quan sát các hiện tượng theo mùa).
1.2.2.2. Trình bày trực quan
Là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học. Nó
được biểu hiện ở các phương pháp trình bày các đồ vật, trình bày tranh ảnh,
trình bày vật mẫu sử dụng phim ảnh và các phương tiện kĩ thuật.
Cần chú ý rằng, chỉ việc trưng bày một đối tượng hay một hiện tượng
(hay những vật mô tả chúng) vẫn chưa bảo đảm để tách ra được những khía
cạnh và thuộc tính cần thiết của các đối tượng. Tri giác một cách tự phát của
trẻ em không dẫn đến hình thành những biểu tượng đúng đắn về các đối
tượng. Cần phải có vai trò của giáo viên trong việc tổ chức quá trình tự giác
của trẻ. Giáo viên hướng trẻ vào những khía cạnh và những thuộc tính nổi bật

7


của đối tượng theo một trình tự chặt chẽ, liên kết các tri thức riêng biệt đã
hình thành ở trẻ em thành một biểu tượng hoàn chỉnh về nó.
Để tính trực quan đạt hiệu quả cao, cần phải chú ý khi lựa chọn các hình
thức trực quan. Các thuộc tính được học phải biểu hiện rõ ràng, tạo điều kiện
cho trẻ quan sát được thuận lợi nhất các thuộc tính ấy (cho trẻ quan sát động
vật khi chúng ăn, khi giao tiếp với các con thú khác, tranh vẽ miêu tả thú vật
trong những điều kiện sống tự nhiên…).
Cần làm phức tạp từng bước các tài liệu trực quan bằng cách chuyển từ

loại hiện vật trực quan sang tài liệu hóa bằng các bảng hiệu, các hình mẫu, các
sơ đồ, chuyển dần từ sự vật có chủ đề sang không có chủ đề, từ mối tương
quan giữa các tri thức cụ thể sang các tri thức trừu tượng.
1.2.3. Các loại đồ dùng trực quan
- Tranh: Là những tác phẩm hội họa phản ánh hình thức, đường nét, hình
mảng, màu sắc.
- Ảnh: Là những tác phẩm nghệ thuật ghi lại hình ảnh các đối tượng vào
phim bằng máy ảnh sau đó in, phóng trên giấy ảnh.
- Mô hình: Là những vật cùng hình dạng, có thể thu nhỏ, phóng to nhằm
mô phỏng hình dạng, cấu tạo, hoạt động của vật gốc, để nhằm nghiên cứu học
tập. Ví dụ mô hình đắp bằng cát, bằng đất. Các loại mô hình này nói về khung
cảnh rừng núi, biển cả, hang đá, vườn hoa…
- Vật mẫu: Là những vật sẵn có trong tự nhiên, trong đời sống xã hội
được dùng nguyên dạng (con cá, con ve, múi bưởi,…) hoặc đã được xử lí
(mẫu ngâm, mẫu nhồi, mẫu ép khô…).
- Băng ghi âm: Là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại âm thanh (lời
nói, âm nhạc, tiếng động) và phát lại nội dung đó qua máy ghi âm.

8


- Băng ghi hình: Là loại làm bằng vật liệu từ tính, ghi lại đồng thời hình
ảnh và âm thanh của các sự vật, hiện tượng trong thiên nhiên, trong đời sống
xã hội và phát lại nội dung đó qua máy thu hình.
- Phim đèn chiếu: Là loại hình phim ghi lại hình ảnh các đối tượng
nghiên cứu và được chiếu lên màn ảnh trong quá trình quan sát trực tiếp qua
ống nhòm.
- Đĩa mềm vi tính: Là loại đĩa dùng để hiển thị các thông tin bằng kênh
chữ, kênh hình, kênh hình động và kênh âm thanh có kết luận thông tin chọn
lọc phong phú, đa dạng.

1.3. Vai trò của đồ dùng trực quan trong dạy học tại trường mầm non
1.3.1. Đẩy mạnh hoạt động nhận thức của học sinh
- Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học ở trường mầm non giúp trẻ
nhận thức một cách nhanh nhất những hành động, chuyển ngôn ngữ bên ngoài
thành ngôn ngữ bên trong, là tư duy từ chỗ chưa biết đến hiểu biết, đến kĩ
năng, kĩ xảo và vận dụng vào thực tiễn.
- Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học giúp trẻ biết cách tổ chức có
kế hoạch, có suy nghĩ, biết tư duy một cách độc lập linh hoạt, biết cách ghi
nhớ khoa học, hợp lí, biết tưởng tượng một cách chính xác, đúng hướng.
1.3.2. Giúp học sinh tự khám phá hoàn chỉnh kiến thức
- Theo hướng dạy học đổi mới, lấy học sinh làm trung tâm, học sinh tự
khám phá chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên thì đồ dùng
trực quan trở nên đắc lực trong từng môn học.
- Các đồ dùng trực quan làm cụ thể hóa, chính xác hóa những nội dung
kiến thức ở bài giảng của cô, thông qua tranh, ảnh minh họa trẻ có thể tự hiểu
một cách cụ thể về các sự việc, nhân vật sự kiện được mô tả trong bài học.
Nhiều đồ dùng trực quan nhất là băng ghi âm, ghi hình, máy chiếu trực tiếp
trình bày nội dung kiến thức cơ bản của đối tượng nghiên cứu dưới dạng hệ

9


thống hóa, khái quát hóa, đơn giản hóa hiện thực phức tạp muôn màu muôn
vẻ của đời sống tự nhiên và xã hội tạo điều kiện cho các em biết phân tích, so
sánh, suy nghĩ độc lập để tìm ra tri thức.
1.3.3. Phát triển trí tuệ cho trẻ
Phát triển trí tuệ là một trong năm nhiệm vụ giáo dục trẻ ở trường mầm
non. Trong quá trình sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên đã rèn luyện cho
học sinh năng lực quan sát, năng lực ghi nhớ, tưởng tượng, phân tích, tổng
hợp. Đó là những năng lực trí tuệ cần thiết cho trẻ nhằm phục vụ quá trình

học tập và cuộc sống.
1.3.4. Giáo dục nhân cách cho học sinh
Giáo dục mầm non có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân
cách cho trẻ thông qua các hoạt động học tập, vui chơi, sinh hoạt tập thể.
Trong hoạt động học tập thông qua hệ thống tranh, ảnh, vật thật, vật mẫu…
Các em được biết đến những cảnh sắc thiên nhiên, đất nước con người, văn
hóa của dân tộc (hình ảnh Chùa Một Một, Hồ Gươm, Lăng Bác Hồ…) từ đó
trẻ biết yêu quý thiên nhiên, có thái độ bảo vệ và gìn giữ những di tích lịch sử,
danh lam thắng cảnh của đất nước, qua đó làm phong phú và đẹp thêm tâm
hồn của trẻ.
Như vậy sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học ở trường mầm
non đã góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm đạo đức, hình thành phẩm chất
con người mới, con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.3.5. Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh
Như ta đã biết hứng thú là trạng thái được đặc trưng bởi khát vọng học
tập, sự nỗ lực, tự nguyện trong quá trình nghiên cứu, khám phá nắm vững tri
thức. Hứng thú học tập là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
nhận thức của trẻ. Vì thế để kích thích hứng thú của trẻ cần phải sử dụng các

10


đồ dùng trực quan trong dạy học, giúp các em có hứng thú khám phá tri thức
từ những đồ dùng trực quan.
Mặt khác quá trình dạy học ở trường mầm non, trực quan rất quan trọng
bởi vì lúc này tư duy của trẻ là tư duy trực quan hành động, các bé thích khám
phá các sự vật, hiện tượng bằng các giác quan. Nếu chỉ nghe cô giáo giải thích
bằng lời thì trẻ sẽ nhàm chán không hiểu bài nhưng khi cô sử dụng các đồ
dùng trực quan trong giờ học, tạo điều kiện cho trẻ được trực tiếp sử dụng các
đồ dùng dạy học một cách hợp lí sẽ giúp trẻ nhận biết chính xác các đồ vật, sự

vật, hiện tượng và còn biết cả chức năng, công dụng của chúng.
Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng hình vuông cho trẻ, nếu chỉ được nghe cô
mô tả về hình dạng của hình vuông và so sánh với hình tròn hay hình tam
giác mà trẻ đã biết thì các cháu sẽ không biết hình vuông là hình như thế
nào. Nhưng nếu cô cho trẻ được quan sát các hình vuông bằng bìa, bằng
nhựa trong các bức tranh, sau đó cho trẻ gọi tên các hình đó, tìm được hình
vuông trong nhóm có nhiều loại thì biểu tượng hình vuông sẽ đậm nét trong
trẻ. Được nghe cô nói, xem cô làm mẫu trẻ sẽ dễ dàng thực hiện các thao tác
nhưng biểu tượng chỉ trở thành bền vững khi trẻ được trực tiếp thực hiện các
hoạt động và rút ra nhận xét. Vì vậy sau khi nhận biết, gọi tên và tìm hình
vuông cô cho trẻ dùng các que tính xếp thành hình vuông, đếm số que tính
và so sánh chiều dài các que tính trẻ sẽ có nhận thức đầy đủ về hình vuông:
cả về hình dạng và tính chất đặc trưng: “Hình vuông được xếp bằng 4 que
tính dài bằng nhau”. Khi đó trẻ có thể so sánh được sự giống và khác nhau
giữa hình vuông với hình chữ nhật, hình tam giác qua dấu hiệu đặc trưng
của đường bao. Như vậy nhờ có đồ dùng trực quan, các khái niệm toán học
được mô hình hóa trở nên dễ hiểu đối với trẻ và làm trẻ chú ý tới phần quan
trọng chủ yếu của vấn đề cần lĩnh hội.

11


Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học giúp trẻ tiếp thu bài học
một cách nhanh chóng, trẻ tích cực hoạt động trong các hoạt động. Nhìn
chung phương pháp trực quan được sử dụng nhiều trong giờ học của trẻ tại
trường mầm non đó là trực quan nghe, trực quan nhìn, trực quan nghe nhìn.
1.3.6. Hợp lí hóa quá trình dạy học của giáo viên và học sinh
Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học góp phần hợp lí hóa quá trình
dạy học của giáo viên vì nhiều hoạt động dạy học đã được bản thân đồ dùng
trực quan thể hiện, chẳng hạn như việc sử dụng tranh, ảnh có sẵn có thể thay

cho việc cô giáo phải vẽ mẫu lên bảng… Chính vì vậy, sử dụng đồ dùng trực
quan giáo viên phải giảm nhẹ việc trình bày, giảng giải mà tập trung vào quá
trình hướng dẫn hỗ trợ quá trình hoạt động của trẻ.
Ngoài ra việc sử dụng đồ dùng trực quan còn hợp lí hóa quá trình học
của trẻ. Vì thay cho việc chỉ nghe cô giảng chay chuyển sang hành động với
đồ dùng trực quan, làm giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi tăng cường hứng thú
giúp cho quá trình học tập hiệu quả hơn. Đối với trẻ mẫu giáo được quan sát
tranh, ảnh, đĩa mềm vi tính… sẽ giúp trẻ phát triển tai nghe, phát triển lời nói,
trẻ không chỉ phát âm đúng mà còn diễn đạt tốt ý nghĩ của mình.
1.4. Chức năng của đồ dùng trực quan trong dạy học ở trường mầm non
Đồ dùng trực quan là công cụ đắc lực để đạt mục đích dạy học. Đồ
dùng trực quan thể hiện bốn chức năng sau:
+ Chức năng minh họa: Đồ trực quan minh họa làm sàng tỏ những nội
dung giáo viên trình bày, minh họa lời bình giảng của giáo viên, bổ sung thêm
thông tin, hình ảnh mà giáo viên không thể trình bày được.
+ Chức năng thông tin: Đồ dùng trực quan đóng vai trò chính trọng việc
cung cấp những nội dung thông tin để học sinh học tập, thực hành.

12


+ Chức năng định hướng: Định hướng bằng hình ảnh thị giác giúp cho
trẻ thấy rõ hơn hình dáng, cử chỉ, hành động diện mạo… điều chỉnh cho “bức
tranh tự nhiên” trong tưởng tượng của mỗi trẻ.
+ Chức năng bồi dưỡng: Bồi dưỡng vốn sống, tình cảm, thẩm mĩ, năng
lực trí tuệ và tư tưởng cho trẻ thông qua đồ dùng trực quan.
Qua đây chúng ta thấy rằng đồ dùng trực quan có vị trí vô cùng quan
trọng trong quá trình dạy học ở trường mầm non. Sử dụng đồ dùng trực quan
giúp cho giờ dạy đạt hiệu quả cao hơn, hướng dẫn trẻ tham gia sử dụng đồ
dùng trực quan, bồi dưỡng cho trẻ phương pháp quan sát, suy nghĩ, diễn tả,

nghiên cứu độc lập và tự giải quyết vấn đề. Vì vậy việc sử dụng đồ dùng dạy
học trực quan ở trường mầm non là cần thiết.
1.5. Đặc điểm tâm lí của trẻ mẫu giáo
Trẻ ở độ tuổi mẫu giáo (từ 3 đến 6 tuổi) là giai đoạn có nhiều biến đổi
quan trọng về tâm lí, sinh lí. Ở độ tuổi này năng lực chú ý của trẻ còn thấp, trí
nhớ kém bền vững, chủ yếu là tư duy trực quan hành động, tư duy trừu tượng
bước đầu được hình thành và phát triển nhưng còn yếu. Trong giai đoạn này
trẻ luôn hiếu động, thích các đồ chơi mới lạ, hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ
nhưng rất nhanh chán. Đối với trẻ những điều mới lạ thường kích thích các
em tò mò, muốn tìm hiểu, khám phá. Nhận thức của trẻ vẫn mang tính cảm
tính đi từ cái cụ thể đến cái khái quát, từ tư duy cụ thể đến tư duy trừu tượng.
Do vậy phương pháp dạy học trực quan thường được giáo viên sử dụng nhiều
trong các tiết học ở bậc học mầm non. Việc sử dụng phương pháp này cũng
được căn cứ vào đặc điểm tâm lí và sự phát triển tư duy của trẻ ở các độ tuổi.
1.5.1. Trẻ mẫu giáo bé (từ 3 đến 4 tuổi)
Ở độ tuổi mẫu giáo bé tư duy của trẻ có một bước ngoặt rất căn bản. Đó
là sự chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài vào bình diện bên trong mà thực
chất đó là việc chuyển những hành động định hướng bên ngoài thành những

13


hành động định hướng bên trong theo cơ chế nhập tâm. Quá trình tư duy của
trẻ đã bắt đầu dựa vào những hình ảnh của sự vật và hiện tượng đã có trong
đầu, cũng có nghĩa là chuyển từ kiểu tư duy trực quan hành động sang kiểu tư
duy trực quan hình tượng.
Như vậy lứa tuổi mẫu giáo, trong hoạt động tư duy của trẻ tồn tại hai
kiểu: kiểu tư duy trực quan - hành động là kiểu tư duy đã có trước đây nay
vẫn tiếp tục phát triển và kiểu tư duy trực quan - hình tượng là kiểu tư duy
vừa mới nảy sinh mà xu thế của nó là vươn lên chiếm vị trí ưu thế. Như vậy

trong khá nhiều trường hợp, khi giải quyết bài toán, kiểu tư duy trực quan
hành động vẫn còn lấn át kiểu tư duy trực quan hình tượng mới được hình
thành. Vì vậy việc giáo dục, phát triển tư duy cho trẻ ở thời điểm này là giúp
trẻ tích lũy nhiều biểu tượng bằng cách cho trẻ quan sát, tiếp xúc, va chạm với
sự vật, hiện tượng muôn màu muôn vẻ, đồng thời rèn luyện các giác quan để
tăng cường khả năng thu nhận những ấn tượng bên ngoài nhằm làm cho thế
giới biểu tượng của trẻ ngày một phong phú. Mặt khác vẫn phải tổ chức cho
trẻ hoạt động một cách tích cực đối với thế giới đồ vật bằng nhiều phương
thức khác nhau để nắm vững chức năng và cách thức sử dụng chúng, làm cho
quá trình nhập tâm được thực hiện dễ dàng. Vì như vậy cũng chính là thúc
đẩy quá trình chuyển hành động định hướng bên ngoài thành hành động định
hướng bên trong. Đó là một bước ngoặt cơ bản trên con đường phát triển tư
duy, làm cho tư duy của trẻ đạt tới trình độ tư duy theo kiểu con người, tức là
tư duy ở bình diện bên trong, giúp trẻ dần đi sâu vào những mối quan hệ, liên
hệ có tính quy luật giữa các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài.
1.5.2. Trẻ mẫu giáo nhỡ (từ 4 đến 5 tuổi)
Đây là giai đoạn phát triển mạnh tư duy trực quan hình tượng. Đầu tuổi
mẫu giáo, trẻ đã biết tư duy bằng hình ảnh trong đầu nhưng do biểu tượng còn
nghèo nàn và tư duy mới được chuyển từ bình diện bên ngoài vào bình diện

14


bên trong nên trẻ chỉ mới giải được một số bài toán đơn giản theo kiểu tư duy
trực quan - hình tượng. Cùng với sự hoàn thiện hoạt động vui chơi và sự phát
triển các hoạt động khác (như vẽ, nặn, kể chuyên, xây dựng, đi chơi, đi
dạo…) vốn biểu tượng của trẻ mẫu giáo nhỡ được giàu lên thêm nhiều, chức
năng kí hiệu phát triển mạnh, lòng ham hiểu biết và hứng thú nhận thức tăng
lên rõ rệt. Đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tư duy trực quan hình tượng và đây cũng là thời điểm kiểu tư duy đó phát triển mạnh mẽ nhất,
tất nhiên nó vẫn chưa thể tách rời những hoạt động vật chất và hoạt động thực

tiễn của trẻ.
Tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh cho phép trẻ em ở độ
tuổi mẫu giáo nhỡ giải được nhiều bài toán thực tiễn mà trẻ thường gặp trong
đời sống. Tuy vậy vì chưa có khả năng tư duy tưởng tượng nên trẻ chỉ mới
dựa vào những biểu tượng đã có, những kinh nghiêm đã trải qua để suy luận
ra những vấn đề mới. Vì vậy trong khá nhiều trường hợp chúng chỉ dừng lại ở
các hiện tượng bên ngoài mà chưa đi được vào bản chất bên trong. Cũng do
đó trẻ rất dễ lẫn lộn thuộc tính bản chất và không bản chất của sự việc và hiện
tượng xung quanh. Chẳng hạn một cháu bé bốn tuổi trông thấy một em bé
người Nga đang đi xe đạp ba bánh trên vỉa hè liền kêu lên: “Ơ kìa một ông già
bé” chả là vì cháu thấy em bé người Nga này có mớ tóc vàng nhạt hơi giống
tóc bạc của ông ngoại ở nhà.
Trẻ vào bệnh viện thấy ai mặc áo trắng cũng đều gọi là “bác sĩ”. Cứ
theo đà suy luận này thì tư duy của trẻ sẽ có nguy cơ biến thành lối tư duy
theo lối kinh nghiệm chủ nghĩa. Do đó trong khi giúp trẻ phát triển mạnh tư
duy hình tượng cần phải uốn nắn những suy luận lệch lạc của trẻ, cung cấp
cho trẻ những hiểu biết cần thiết để có được những suy luận đúng hơn. Trước
hết đó là việc cung cấp biểu tượng cho trẻ một cách phong phú và đa dạng, hệ
thống hóa và chính xác dần các biểu tượng qua những buổi đi chơi, đi dạo,

15


qua các câu chuyện kể, qua các bức tranh, bài hát, phim đèn chiếu, điện ảnh
hoặc truyền hình…
Tư duy trực quan - hình tượng phát triển mạnh, đó là điều kiện thuận lợi
nhất để giúp trẻ cảm thụ tốt những hình tượng nghệ thuật được xây dựng nên
trong các tác phẩm văn học nghệ thuật do các văn nghệ sĩ xây dựng nên bằng
những hình tượng đẹp. Đồng thời cần giúp trẻ tạo ra những tiền đề cần thiết
để làm nảy sinh những yếu tố ban đầu của kiểu tư duy trừu tượng. Loại tư duy

này sẽ được phát triển ở giai đoạn sau và chỉ có thể phát triển một cách lành
mạnh khi nó có chỗ dựa là những hình tượng rõ ràng, đa dạng và đúng đắn.
1.5.3. Trẻ mẫu giáo lớn (từ 5 đến 6 tuổi)
Ở tuổi mẫu giáo lớn có sự xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng
mới - tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy logic.
Tư duy trực quan - sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu lực để lĩnh hội
những tri thức ở trình độ khái quát cao, từ đó mà hiểu được bản chất của sự
vật. Nhưng kiểu tư duy này vẫn nằm trong phạm vi của kiểu tư duy trực quan
- hình tượng nói chung và do đó nó bị hạn chế khi trẻ cần giải các bài toán đòi
hỏi phải tách biệt những thuộc tính quan hệ mà không thể hình dung một cách
trực quan dưới dạng hình tượng nữa. Vì như chúng ta đã biết trong suốt tuổi
mẫu giáo kể cả giai đoạn cuối cùng (độ tuổi mẫu giáo lớn) hoạt động tâm lí
của trẻ đặc biệt nhạy cảm với những hình tượng cụ thể, sinh động về các sự
vật, hiện tượng của hiện thực và tiếp thu những tri thức được biểu hiện dưới
dạng trực quan - hình tượng là dễ dàng hơn hết.

16


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC
QUAN TẠI CÁC TRƯỜNG MẦM NON HUYỆN SÓC SƠN - HÀ NỘI
Để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại
các trường mầm non huyện Sóc Sơn - Hà Nội, tôi đã sử dụng phương pháp
điều tra bằng phiếu hỏi có kết hợp với phương pháp trò chuyện và phương
pháp quan sát các tiết học của giáo viên ở hai trường mầm non Tiên Dược và
mầm non Mai Đình A.
Đối tượng điều tra: Ban giám hiệu và giáo viên.
Tổng số phiếu phát ra: 28 phiếu, trong đó trường mầm non Mai Đình A
là 14 phiếu, trường mầm non Tiên Dược 14 phiếu.

Tổng số phiếu thu lại là: 28 phiếu.
2.1. Thực trạng trình độ đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lí giáo
dục
2.1.1. Thực trạng trình độ đội ngũ giáo viên
Tổng số giáo viên ở trường mầm non Tiên Dược là 37 người, giáo viên
ở trường Mai Đình A là 28 người, thực trạng trình độ được biểu diễn dưới
bảng số lượng sau.
Bảng 1: Thực trạng về trình độ giáo viên của các trường

Trình độ

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

Trường

SL

%

SL

%

SL

%


MN Tiên Dược

26

70,3

3

8,1

8

21,6

MN Mai Đình A

17

60,7

2

7,1

7

25

17



Từ kết quả điều tra ở bảng 1 chúng ta có thể thấy trình độ của giáo viên
ở hai trường này là khá cao. Giáo viên có trình độ cao đẳng và đại học chiếm
tỉ lệ lớn. Đây là một kết quả rất đáng mừng. Tuy nhiên phần lớn giáo viên này
được đào tạo chắp vá, qua nhiều hệ, nhiều loại hình đào tạo nên năng lực thực
tế chưa tương thích với trình độ đào tạo vì thế mà giáo viên thiếu cập nhật
thông tin, đổi mới trong phương pháp giảng dạy, khả năng đáp ứng yêu cầu
của chương trình giáo dục mầm non mới còn rất hạn chế.
Bên cạnh đó cũng còn có nhiều giáo viên chỉ có trình độ trung cấp:
Trường mầm non Tiên Dược có 21,6%. Trường mầm non Mai Đình A là
25%. Các giáo viên này chủ yếu là những người đã có tuổi, có thâm niên công
tác trên 20 năm nên trình độ và năng lực giảng dạy thường không cao chỉ chủ
yếu là làm các cô nuôi.
Bảng 2: Thực trạng xếp loại giáo viên của các trường

Xêp loại
Trường
MN Tiên
Dược
MN Mai
Đình A

Giỏi cấp tỉnh

Giỏi cấp

Giỏi cấp

huyện


trường

Còn lại

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4

10,8

7

18,9

11


29,7

15

40,5

3

10,7

5

17,9

7

25

16

57,1

Nhìn vào bảng số liệu trên chúng ta thấy được kết quả đáng mừng của
đội ngũ giáo viên mầm non. Mặc dù tỉ lệ giáo viên đạt thành tích xếp loại giỏi
cấp trường, cấp huyện, cấp thành phố còn hạn chế. Tuy nhiên đây thực sự là
những giáo viên rất tài năng và tâm huyết với nghề. Họ sẽ là những cốt cán
trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, cập nhật, ứng dụng các khoa học

18



công nghệ mới vào giảng dạy góp phần đưa chất lượng giáo dục mầm non đi
lên một tầm cao mới.
2.1.2. Thực trạng đội ngũ quản lí giáo dục
Qua điều tra tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 3: Thực trạng đội ngũ quản lí giáo dục

Trình độ
Trường

Đại học

Cao đẳng

Trung cấp

SL

%

SL

%

SL

%

MN Tiên Dược


2

66,7

1

33,3

0

0

MN Mai Đình A

1

33,3

2

66,7

0

0

Từ kết quả điều tra ở bảng 3 ta thấy ở các trường mầm non hiện nay
hầu hết đều đã có đủ ba cán bộ quản lí giáo dục bao gồm: 1 hiệu phó phụ
trách chuyên môn, 1 hiệu phó phụ trách dinh dưỡng và 1 hiệu trưởng. Đội ngũ

cán bộ quản lí có trình độ đào tạo cao chủ yếu là cao đẳng và đại học không
có giáo viên nào có trình độ trung cấp. Điều này sẽ giúp cho việc quản lí trang
thiết bị, đồ dùng dạy học ở các trường mầm non dễ dàng và đạt hiệu quả cao
hơn.
2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về phương pháp dạy học trực
quan ở trường mầm non
Khi được hỏi chị hiểu như thế nào về phương pháp dạy học trực quan?
Tôi đã thu được kết quả như sau:
Trong tổng số 28 phiếu điều tra có 22 giáo viên (chiếm tới 78,6%) cho
rằng phương pháp dạy học trực quan là phương pháp sử dụng các phương tiện
dạy học trực quan sinh động, cụ thể như: tranh, ảnh, vật thật, mô hình… vào
quá trình dạy học, giúp trẻ được tiếp xúc, tri giác trực tiếp với đối tượng, từ
đó mà trẻ nắm được kiến thức một cách nhanh chóng và hiệu quả.

19


14,3% giáo viên được hỏi cho rằng phương pháp dạy học trực quan ở
trường mầm non hiện nay là phương pháp mang đến cho trẻ những giờ học
sinh động, lí thú, bổ ích, phát triển thẩm mĩ và tăng tính tích cực nhận thức
cho trẻ.
7,1% số người còn lại nói đây là phương pháp rất cần thiết.
Như vậy nhìn chung giáo viên mầm non bước đầu đã có những nhận
thức đúng đắn về phương pháp dạy học trực quan. Điều này có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc sử dụng hiệu quả phương pháp dạy học trực quan cũng
như việc nâng cao chất lượng dạy học ở bậc học mầm non trong giai đoạn
hiện nay.
2.2.1. Thực trạng nhận thức của giáo viên về vai trò của việc sử dụng
phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non
Với câu hỏi việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan tại trường

mầm non có cần thiết hay không? Vì sao?
Tôi đã thu được kết quả như sau:
Sau khi điều tra kết quả thu được cho thấy 100% giáo viên mầm non
cho rằng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan là rất cần thiết. Để lí
giải cho điều này 53,6% giáo viên cho rằng vì ở trẻ mẫu giáo tư duy trực quan
hành động phát triển mạnh, trẻ tiếp thu kiến thức mới một cách hiệu quả
thông qua việc tri giác trực tiếp đối tượng.
28,6% giáo viên giải thích rằng việc sử dụng phương pháp dạy học trực
quan làm cho giờ học sinh động, hấp dẫn hơn, phát huy tính tích cực nhận
thức của trẻ, trẻ sẽ ghi nhớ kiến thức mới lâu hơn.
Bên cạnh đó 17,9% giáo viên được hỏi lại có cách lí giải khác cho việc
cần thiết phải sử dụng phương pháp dạy học trực quan như sau: lứa tuổi mầm
non là lứa tuổi trẻ rất hiếu động, thích khám phá những điều mới lạ, trẻ rất
thích những đồ chơi mới, lạ mắt, hấp dẫn với nhiều màu sắc sặc sỡ. Điều này

20


lí giải việc sử dụng đồ dùng dạy học càng trực quan, càng sinh động bao
nhiêu thì càng thu hút được sự tập trung chú ý của trẻ.
Như vậy với cách giải thích khác nhau nhưng hầu hết giáo viên đều cho
rằng việc sử dụng phương pháp dạy học tại trường mầm non là rất cần thiết.
Đây sẽ là điều kiện thuận lợi để việc sử dụng phương pháp này ở trường mầm
non đạt được hiệu quả tốt hơn.
2.2.2. Thực trạng nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của phương
pháp dạy học trực quan đối với trẻ
Khi được hỏi về việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan có tầm
quan trọng như thế nào đối với trẻ?
Với 3 phương án trả lời chúng tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 4: Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của phương pháp

dạy học trực quan đối với trẻ

Ý kiến
Rất quan trọng

Quan trọng

Không quan trọng

SL

%

SL

%

SL

%

12/28

42,9

9/28

32,1

7/28


25

Từ kết quả ở bảng 2 cho thấy 42,9% giáo viên cho rằng phương pháp
dạy học trực quan rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. 32,1% giáo viên
đồng ý với ý kiến nó có vai trò quan trọng vì theo họ việc sử dụng phương
pháp dạy học trực quan chẳng những đem lại cho trẻ những kiến thức bền
vững, chính xác mà còn giúp trẻ kiểm tra lại tính đúng đắn của các kiến thức
lí thuyết, sửa chữa và bổ sung, đánh giá lại chúng nếu không phù hợp với thực
tiễn. Đứng trước vật thực hay các hình ảnh của chúng, trẻ sẽ học tập hứng thú
hơn, tăng cường sức chú ý đối với các hiện tượng nghiên cứu, dễ dàng tiến

21


hành các quá trình phân tích, tổng hợp các hiện tượng để rút ra các kết luận
đúng đắn. Từ đó phát triển được tư duy trực quan hình tượng và trí nhớ cho
trẻ.
25% giáo viên lựa chọn câu trả lời là không quan trọng. Sau khi tìm
hiểu lí do các giáo viên lựa chọn câu trả lời như vậy tôi được biết đa số những
giáo viên có câu trả lời như vậy là những giáo viên có trình độ chuyên môn
không cao, chủ yếu là các giáo viên đã có tuổi nên rất ngại sử dụng những
phương pháp dạy học mới, ngại thay đổi do vậy mà nhận thức của họ về tầm
quan trọng của việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan đối với sự phát
triển của trẻ còn nhiều hạn chế.
2.3. Thực trạng việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở trường
mầm non
Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non là rất
cần thiết, tuy nhiên trong thực tế mức độ sử dụng phương pháp này ra sao thì
lại chưa có một số liệu cụ thể nào. Để có cái nhìn khái quát về thực tế này tôi

đã tiến hành tìm hiểu: Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan trong các
giờ học ở trường mầm non hiện nay.
Kết quả thu được như sau:
Bảng 5: Mức độ sử dụng phương pháp dạy học trực quan
Ý kiến
Rất thường xuyên

Thường xuyên

SL

%

SL

%

SL

%

5/28

17,9

16/28

57,1

7/28


25

22

Không thường xuyên


Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy mức độ sử dụng phương pháp dạy
học trực quan tại các trường mầm non là khá cao: số người sử dụng phương
tiện trực quan rất thường xuyên chiếm 17,9%; thường xuyên là: 57,1%. Tuy
nhiên vẫn còn những tiết không sử dụng phương pháp dạy học trực quan, số
này chiếm 25%.
Khi được hỏi vì sao giáo viên sử dụng phương pháp dạy học trực quan
trong tiết dạy của mình các giáo viên đều cho rằng:
Đồ dùng dạy học trực quan có vai trò rất lớn trong quá trình tổ chức,
thiết kế các hoạt động lên lớp của giáo viên theo hướng tích cực hóa hoạt
động nhận thức của trẻ. Nhờ có việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, giáo
viên có thể tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau. Điều này sẽ giúp cho
giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn hơn đồng thời lại kích thích được trí tò
mò, óc sáng tạo của trẻ, thu hút trẻ tham gia vào quá trình dạy học để trẻ tự
mình phát hiện ra những tri thức khoa học mới. Từ đó trẻ sẽ nắm chắc được
nội dung của bài học. Hơn thế nữa, đồ dùng dạy học hiện nay lại khá gọn nhẹ
và dễ sử dụng. Do đó tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên sử dụng trong các
tiết dạy học của mình ở trên lớp. Đồ dùng dạy học còn giúp cho giáo viên tiết
kiệm quỹ thời gian nhờ đó mà lượng kiến thức giáo viên truyền đạt đến cho
trẻ sẽ nhiều lên.
Còn khi được hỏi vì sao giáo viên không thường xuyên sử dụng đồ
dùng dạy học trong quá trình dạy học thì giáo viên giải thích là do quỹ thời
gian dạy học ở trên lớp quá ít (trẻ 3 - 4 tuổi là 15 - 20 phút, trẻ 4 - 5 tuổi là 20

- 25 phút, trẻ 5 - 6 tuổi 25 - 30 phút) trong khi đó lượng kiến thức mà giáo
viên cần phải truyền đạt cho trẻ lại khá lớn nên sử dụng đồ dùng dạy học sẽ
mất nhiều thời gian. Và nếu muốn sử dụng phương tiện dạy học trong quá
trình lên lớp thì giáo viên phải chuẩn bị công phu từ hôm trước, từ việc soan
giáo án đến việc thiết kế các hoạt động học tập sao cho phù hợp với đồ dùng

23


dạy học. Nhiều khi còn thiếu các thiết bị dạy học giáo viên muốn dùng thì
phải tự làm vì vậy mà đa số các giáo viên đều rất ngại vì sợ tốn kém, mất
nhiều thời gian, khả năng làm đồ dùng, đồ chơi còn kém. Ngoài ra do một số
bài học có nội dung khá trừu tượng nên khó khăn trong việc sử dụng đồ dùng
dạy học phù hợp. Số lượng trẻ trong mỗi lớp đông nên làm thí nghiệm hướng
dẫn trẻ quan sát rất khó khăn. Do đó nhiều tiết giáo viên vẫn phải dạy chay,
học sinh học chay.
Bàn về việc sử dụng các loại đồ dùng trực quan ở các trường mầm non
Thông qua câu hỏi theo chị loại phương tiện trực quan nào được sử
dụng nhiều nhất ở các trường mầm non hiện nay?
Tôi thu được kết quả như sau:
Bảng 6: Mức đồ sử dụng các loại phương tiện trực quan
Ý kiến
Vật thật

Ứng dụng khoa

Tranh ảnh

Tiêu bản


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

19/28

67,9

0/28

0

2/28

7,1

7/28


25

học công nghệ

Từ kết quả điều tra ta thấy có 67,9% giáo viên lựa chọn tranh, ảnh là
phương tiện dạy học trực quan mà họ thường dùng để giảng dạy. Có thể nói
từ xưa đến nay tranh, ảnh đã được giáo viên sử dụng rất thường xuyên và là
đồ dùng dạy học rất hữu ích bởi tính năng dễ sử dụng, dễ tìm lại có giá trị
thẩm mĩ và giáo dục cao. Việc sử dụng tranh, ảnh có rất nhiều tác dụng như
giáo viên có thể sử dụng nó để dạy kiến thức mới, để giới thiệu bài… Bước
giới thiệu bài trong một tiết học vô cùng quan trọng. Để lôi cuốn sự chú ý của
trẻ vào trọng tâm giờ học thì ngay từ phần giới thiệu bài cô cũng có thể sử

24


dụng tranh, ảnh nhằm gây hứng thú cho trẻ. Ví dụ khi dạy bài thơ: “Ông mặt
trời” ở lớp mẫu giáo nhỡ, cô cầm tranh vẽ ông mặt trời và hỏi trẻ:
- Trong tranh có gì? Hoặc - Ai đây?
Cô nói: Đây là ông mặt trời luôn dậy sớm, tỏa các tia nắng trên khắp các con
đường, cả trên con đường mẹ dắt bé đi dạo chơi… Hôm nay cô đọc cho các
con nghe bài thơ: “Ông mặt trời”
Sau đó cô có thể sử dụng tranh, ảnh để minh họa cho lời kể chuyện, đọc
thơ.
Khi giới thiệu bài xong, cô đọc hoặc kể diễn cảm tác phẩm từ một đến
hai lần cho trẻ nghe. Thường đến hai lần cô sử dụng đồ dùng (tranh, ảnh) kèm
theo lời kể (đọc). Ví dụ: truyện “Ba cô gái”, cô dùng ba bức tranh tương ứng
với ba đoạn trong truyện. Cô kể đoạn một cho trẻ xem tranh thứ nhất (tranh vẽ
cô cả đang cọ chậu, bên cạnh là một con Rùa). Đoạn hai, đoạn ba cô cũng tiến
hành như trên.

Ngoài ra giáo viên cũng có thể sử dụng tranh, ảnh để dạy trẻ kể lại
chuyện theo tranh. Hình thức kể chuyện theo tranh được trẻ thích thú. Chúng
ta treo các bức tranh theo thứ tự từ đầu đến cuối lên bảng. Trẻ nhìn tranh kể
theo từng bức tranh (nhìn tranh, chỉ vào hình ảnh trong tranh và lời kể tương
ứng với nội dung trong tranh)… Như vậy để có được một giờ học tốt thì đồ
dùng trực quan nói chung và tranh, ảnh nói riêng góp một phần hết sức quan
trọng.
7,1% giáo viên lựa chọn thường xuyên sử dụng vật thật làm phương
tiện trực quan để dạy học. Việc sử dụng vật thật vào bài giảng cũng là một
phương pháp rất hiệu quả. Đây là cách thức cô cho trẻ được tiếp xúc với từng
vật cụ thể (trẻ được nhìn, được xem, được sờ nắn… vật ngay trước mặt). Xem
xét vật thật giúp trẻ nhận biết, tri giác vật thật một cách khái quát và cụ thể
từng chi tiết. Ví dụ xem xét quả cam, quả cà chua, cái bát, cái thìa… Trong

25


×