Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Tìm hiểu đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.54 KB, 58 trang )

mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non là khâu đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo dục Mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ em từ ba
tháng tuổi đến sáu tuổi. Luật giáo dục đã quy định mục tiêu của giáo dục mầm
non: Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một [4, tr18].
Giáo dục Mầm non là cấp học đặt nền móng vững chắc ban đầu cho
việc giáo dục, hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, bởi đây chính là giai
đoạn mà đặc điểm tâm sinh lý của trẻ hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trẻ
đã bắt đầu có những thói quen, nề nếp ngăn nắp và một số thói quen học tập,
tuy hoạt động này của trẻ chưa phải là hoạt động chủ đạo. Đối với trẻ Mầm
non quá trình phát triển tâm lý và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội và tiếp thu
những tri thức mới thường gắn liền với các hoạt động như: âm nhạc, thể dục
thể thao, làm quen tác phẩm văn học, làm quen với môi trường xung quanh,
hoạt động tạo hình nhờ những hoạt động này mà tư duy của trẻ được hình
thành và phát triển mạnh mẽ. Vì vậy phát triển tư duy cho trẻ đóng vai trò rất
quan trọng trong sự phát triển và hoàn thiện nhân cách trẻ, giúp trẻ bước đầu
giải quyết được những khó khăn trong cuộc sống.
Nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý học trẻ em cho chúng ta thấy
được đặc điểm tư duy của trẻ, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về
đặc điểm tư duy trẻ mẫu giáo lớn khi trẻ được giáo dục theo chương trình giáo
dục mầm non mới ban hành năm 2006. Cùng với sự đam mê môn học, chúng
tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: Tìm hiểu đặc điểm tư duy của trẻ mẫu
giáo lớn. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển tư duy cho trẻ mẫu
giáo lớn.

1



2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm phát hiện đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo
lớn. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển tư duy cho trẻ
mẫu giáo lớn.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
- Khách thể nghiên cứu: 30 trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Ngô
Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.
4. Giả thuyết khoa học
Tư duy trực quan - hình tượng chiếm ưu thế ở trẻ mẫu giáo lớn. Tư duy
trực quan - sơ đồ được hình thành và phát triển mạnh. Tuy nhiên số trẻ em giải
mã được chiếm tỉ lệ chưa cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên,
trong đó nguyên nhân quan trọng là trẻ chưa biết khái quát ngững mối liên hệ
phức tạp của sự vật hiên tượng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Tìm hiểu những vấn đề lý luận về tư duy
5.2. Phát hiện và phân tích những đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
5.3. Thử nghiệm và đề xuất các biện pháp nhằm phát triển tư duy cho trẻ mẫu
giáo lớn
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tìm hiểu khái niệm tư duy trong tâm lý học.
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về tư duy và sự phát triển tư duy của trẻ
mẫu giáo.
6.2. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép một cách có mục đích và có kế hoạch những biểu
hiện tư duy của trẻ mẫu giáo lớn cùng những điều kiện, diễn biến của nó trong
đời sống tự nhiên hàng ngày.

2



6.3. Phương pháp đàm thoại
Tổ chức những cuộc hỏi đáp, trong đó trẻ em phải trả lời bằng lời. Mục
đích đàm thoại để tìm hiểu về tri thức và biểu tượng của trẻ, tìm hiểu ý kiến
của trẻ về các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh, về người khác và với
bản thân mình.
6.4. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm phát hiện tạo ra những tình huống, trong đó trẻ phải giải
quyết các bài toánnhất định. Dựa trên cách thức và kết quả giải các tình
huống của trẻ để phát hiện đặc điểm tư duy của trẻ.
Thực nghiệm hình thành: Hoàn thiện giáo án và dạy một số tiết để phát
triển tư duy cho trẻ.
6.5. Phương pháp xử lý số liệu
Dùng toán thống kê để xử lý số liệu, so sánh đối chiếu để rút ra kết luận.
7. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ nghiên cứu đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn về bảo
toàn khối lượng, định hệ không gian, giải mã các sơ đồ.
8. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài này bước đầu tìm hiểu thực trạng tư duy của trẻ mẫu giáo lớn,
góp phần đánh giá chương trình giáo dục mẫu giáo ban hành theo Quy định
số: 5205 QĐ/ BGDĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006 và thử nghiệm hình thành tư
duy trực quan sơ đồ cho trẻ.
9. Cấu trúc của khoá luận
Mở đầu
Nội dung
Chương 1. Cơ sở lý luận
Chương 2. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
Chương 3. Thử nghiệm biện pháp hình thành và phát triển tư duy cho
trẻ mẫu giáo lớn


3


KÕt luËn vµ kiÕn nghÞ
Tµi liÖu tham kh¶o
Phô lôc

4


nội dung
Chương 1. cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài khoá
luận
Tư duy trẻ mẫu giáo là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài của mình, chúng tôi xin điểm qua nghiên
cứu một số tác giả sau:
Trong công trình nghiên cứu về tư duy của trẻ mẫu giáo, Lê Khanh đã
nhận xét: Việc nắm vững được tiếng nói cho phép biểu tượng của trẻ càng trở
nên đầy đủ hơn, khái quát hơn làm cho tư duy của trẻ phát triển mạnh. Thành
tựu đạt được trong tư duy của trẻ mẫu giáo lớn và tư duy tiền thao tác, tác giả
nhận xét: Tư duy tiền thao tác tạo thành bước quá độ quan trọng để chuyển từ
trí tuệ cảm giác- vận động sang hẳn trí tuệ thao tác cụ thể. Trên cơ sở đó dần
dần hình thành và phát triển hành động trí tuệ [2, tr32].
Vũ Thị Nho đã nhận xét: vào khoảng 4 tuổi ở trẻ bắt đầu diễn ra bước
ngoặt cơ bản về tư duy và tác giả đã khái quát đặc điểm tư duy ở giai đoạn
này: Đặc điểm của kiểu tư duy là việc thực hiện các hành động không chỉ ở
bên ngoài mang tính vật chất cụ thể mà được xem xét ngầm trong óc dựa trên
hình ảnh, biểu tượng mà trẻ đã lĩnh hội được trước đó [6, tr61].

Trong công trình nghiên cứu của mình, Ngô Công Hoàn đã kết luận về đặc
tính chung của sự phát triển tư duy trẻ 5-6 tuổi: Trẻ đã biết phân tích tổng hợp
không chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà ngay cả từ ngữ. Tư duy của trẻ dần dần
mất tính duy kỉ tiến dần đến khách quan, hiện thực hơn [3, tr136].
Nguyễn ánh Tuyết và những cộng sự đã có nhiều công trình nghiên cứu đặc
điểm tư duy trẻ mẫu giáo lớn và đã rút ra kết luận: ở trẻ mẫu giáo lớn, xuất hiện
kiểu tư duy trực quan hình tượng mới và những yếu tố của tư duy lôgíc [78,
tr288].

5


Các công trình nghiên cứu gần đây về tư duy của trẻ mẫu giáo lớn của
Nguyễn ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai đã khẳng định: Kỹ năng sử dụng
các hình tượng sơ đồ hoá là một thành tựu lớn trong sư phát triển tư duy của
trẻ em [89, tr239]. Tuy nhiên tư duy trực quan- sơ đồ giúp trẻ lĩnh hội những
tri thức ở trình độ khái quát, nhưng kiểu tư duy này vẫn nằm trong phạm vi
của kiểu tư duy trực quan- hình tượng nói chung.
Như vậy, trên bình diện lí luận và thực tiễn, các vấn đề có liên quan trực
tiếp đến đề tài đã được chúng tôi điểm qua ở trên giúp chúng tôi có tư liệu quý
báu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu đặc điểm tư duy của trẻ
mẫu giáo lớn khi trẻ được giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non ban
hành theo Quyết định số: 5205 QĐ/ BGDĐT ngày 19 tháng 9 năm 2006 [1].
1.2. Những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài khoá luận
1.2.1. Khái niệm tư duy trong tâm lý học
Để nhận thức và cải tạo thế giới, đòi hỏi con người không chỉ nhận thức
những cái hiện tại mà còn nhận thức cả những cái đã diễn ra trong quá khứ và
những cái sẽ diễn ra trong tương lai, không chỉ phản ánh những thuộc tính bề
ngoài mà quan trọng hơn phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên
hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tương. Đó chính là quá trình nhận

thức lí tính của con người mà đặc trưng là quá trình tư duy.
Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan, mà trước đó ta chưa biết [7, tr121].
Tư duy là một mức độ mới thuộc nhận thức lí tính, khác xa về chất so
với nhận thức cảm tính, tư duy con người tiến hành với tư cách là chủ thể, do
vậy tư duy có một số đặc điểm sau:
+ Tính có vấn đề của tư duy
Trên thực tế không phải hoàn cảnh nào cũng thúc đẩy con người tư duy.
Muốn kích thích được tư duy phải đồng thời có ba điều kiện sau đây:

6


- Trước hết phải gặp hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề.
- Thứ hai, hoàn cảnh có vấn đề đó phải có cá nhân nhận thức đầy đủ, được
chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân, tức là cá nhân phải phân tích cái gì đã
biết, đã cho, và cái gì còn chưa biết phải tìm đồng thời phải có nhu cầu (động
cơ) tìm kiếm nó giải quyết vấn đề.
- Thứ ba, cá nhân phải có những tri thức công cụ cần thiết để giải quyết vấn
đề.
+ Tính gián tiếp của tư duy
Tính gián tiếp của tư duy được thể hiện qua việc sử dụng các công cụ,
hay phương tiện như: Đồng hồ, nhiệt kế, máy móc và các kết quả nhận thức
như: quy tắc, công thức, quy luật của loài người và kinh nghiệm của cá
nhân mình. Ngoài ra tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được biểu
hiện trong ngôn ngữ. Con người luôn dùng ngôn ngữ để tư duy. Nhờ đặc điểm
gián tiếp này mà tư duy đã mở rộng không giới hạn những khả năng những
nhận thức của con người.
+ Tính trừu tượng và khái quát của tư duy

Nhờ có tính trừu tượng và khái quát của tư duy mà con người không chỉ
giải quyết những nhiệm vụ của hiện tại mà còn có thể giải quyết những nhiệm
vụ của tương lai.
+ Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ
Tư duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, nó phải dùng ngôn ngữ
để làm phương tiện cho chính mình. Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư
duy không diễn ra được, các sản phẩm của tư duy cũng không được chủ thể và
người khác chấp nhận.
+ Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính
Tư duy phải dựa trên những tài liệu cảm tính, trên kinh nghiệm, trên cơ
sở trực quan sinh động. Nhận thức cảm tính là một khâu của mối liên hệ trực
tiếp giữa tư duy với hiện thực, là cơ sở của khái quát kinh nghiệm dưới dạng
các khái niệm, quy luật. Ngược lại tư duy và sản phẩm của tư duy cũng ảnh

7


hưởng tới quá trình nhận thức cảm tính. Những đặc điểm tư duy trên có ý
nghĩa to lớn đối với công việc dạy học và giáo dục bởi vì:
* Không có khả năng tư duy thì trẻ không thể lĩnh hội kinh nghiệm xã
hội, ngay trong hoạt động vui chơi, tư duy giúp trẻ giải quyết những tình
huống xảy ra trong trò chơi, làm nảy sinh nhiều sáng kiến.
* Muốn phát triển tư duy cần đặt trẻ vào tình huống có vấn đề.
* Phát triển tư duy gắn liền phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Phát triển tư duy tiến hành cùng và thông qua hoạt động vui chơi, và
các dạng hoạt động khác.
* Phát triển tư duy gắn với rèn luyện cảm giác, tri giác.
1.2.2. Các thao tác tư duy
Xét về bản chất thì tư duy là một quá trình cá nhân thực hiện các thao
tác trí tuệ nhất định để giải quyết các vấn đề hay nhiệm vụ được đặt ra. Cá

nhân có tư duy hay không chính là ở chỗ họ có tiến hành các thao tác này
trong đầu mình hay không, cho nên các thao tác này còn được gọi là những
quy luật bên trong của tư duy (quy luật nội tại của tư duy).
1.2.2.1. Phân tích tổng hợp
Phân tích là quá trình dùng trí óc để phân chia đối tượng nhận thức thành
các bộ phận, các thành phần khác nhau. Tổng hợp là quá trình dùng trí óc
để hợp nhất các thành phần đã được tách rời nhờ sự phân tích thành một chỉnh
thể. Phân tích và tổng hợp có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo thành
sự thống nhất không tách rời được: Sự phân tích được tiến hành theo hướng
tổng hợp, còn sự tổng hợp được thưc hiện theo kết quả của phân tích.
1.2.2.2. So sánh
So sánh là quá trình dùng trí óc để xác định sự giống nhau hay khác nhau,
sự đồng nhất hay không đồng nhất, sự bằng nhau hay không bằng nhau giữa
các đối tượng nhận thức (sự vật, hiện tượng). Thao tác này liên quan chặt chẽ
với thao tác phân tích - tổng hợp và rất quan trọng ở giai đoạn đầu con người
nhận thức thế giới xung quanh.

8


1.2.2.3. Trừu tượng hoá và khái quát hoá
Trừu tượng hoá là quá trình dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc
tính, những liên hệ, quan hệ thứ yếu, không cần thiết và chỉ giữ lại những yếu
tố cần thiết cho tư duy. Khái quát hoá là quá trình dùng trí óc để hợp nhất
nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm, một loại theo những thuộc tính,
những liên hệ, quan hệ chung bản chất của đối tượng. Những thuộc tính chung
này bao gồm hai loại: Những thuộc tính chung giống nhau và những thuộc
tính chung bản chất. Muốn vạch ra những dấu hiệu chung bản chất phải phân
tích - tổng hợp sâu sắc sự vật, hiện tượng định khái quát. Trừu tượng hoá và
khái quát hoá có quan hệ qua lại với nhau như quan hệ giữa phân tích và tổng

hợp nhưng ở mức độ cao hơn.
Khi xem xét tất cả các thao tác tư duy đã trình bày trên đây trong một
hành động tư duy cụ thể chúng ta cần chú ý mấy điểm sau:
- Các thao tác tư duy đều có quan hệ qua lại với nhau, thống nhất theo
một hướng nhất định do nhiệm vụ tư duy quy định.
- Trong thực tế tư duy, các thao tác đó đan chéo nhau chứ không theo
trình tự máy móc nêu trên.
- Tuỳ theo nhiêm vụ, điều kiện tư duy, không nhất thiết trong hành động
tư duy nào cũng phải thực hiện tất cả các thao tác trên.
1.2.3. Phân loại tư duy
Có rất nhiều cách phân loại tư duy, sau đây là một số cách phân loại cơ bản:
1.2.3.1. Theo lịch sử hình thành và phát triển tư duy
Tư duy được chia làm ba loại:
+ Tư duy trực quan - hành động
Đây là tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ
thực tế các tình huống, và nhờ các hành động được diễn ra bởi các thao tác tay
chân cụ thể, nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trực quan.

9


Ví dụ: ở trẻ mẫu giáo, khi cho trẻ làm quen với biểu tượng toán, cụ
thể ở các hoạt động đếm, đo lường thì trẻ đều được trực tiếp đếm qua các đồ
dùng trực quan như tranh lôtô, que tính hoặc tiến hành đo lường trên vật cụ
thể như: Băng giấy, dây len
+ Tư duy trực quan - hình ảnh
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện bằng sự
cải tổ tình huống trên bình diện hình ảnh. Tư duy trực quan - hình ảnh chỉ có ở
người, đặc biệt là ở trẻ nhỏ.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh ở chủ đề thế

giới thực vật (rau, hoa quả) trẻ không những được quan sát mà còn được
dùng tay để tri giác các vật thật, hoặc quan sát vật qua tranh vẽ hoặc mô hình.
+ Tư duy trừu tượng
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ dựa trên việc sử dụng
các khái niệm, các kết cấu lôgíc, được tồn tại và vận hành nhờ ngôn ngữ.
Ví dụ: Trẻ làm toán bằng cách sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện.
=> Các loại tư duy này có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ xung và tri phối
lẫn nhau. Trong đó tư duy trực quan - hành động và tư duy trực quan - hình
ảnh là hai loại tư duy có trước và làm cơ sở cho tư duy trừu tượng.
1.2.3.2. Theo hình thức biểu hiện và phương thức giải quyết nhiệm vụ (vấn đề)
Dưới góc độ này, tư duy của người trưởng thành có 3 loại:
+ Tư duy thực hành
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra một cách trực quan dưới
hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là nhữnh hành động thực hành.
Ví dụ: Con người có thể dùng sa bàn, bản đồ, hoặc đi thực tế ở đồng
ruộng, từ đó có những hành động cụ thể để tìm ra phương án làm mương tưới
tiêu nước cho địa phương mình, phương thức này phải được thực hành, được
làm thì mới đạt được kết quả tốt nhất.

10


+ Tư duy hình ảnh cụ thể
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức hình ảnh cụ
thể và việc giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh trực quan
đã có.
Ví dụ: Khi ta nghĩ xem từ trường học về đến nhà đi con đường nào ngắn
nhất thì phảI có sự so sánh hình ảnh, độ dài các con đường ở trong đầu.
+ Tư duy lý luận
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra và việc giải quyết nhiệm vụ

đó đòi hỏi phải sử dụng những khái niệm trừu tượng, những tri thức lý luận.
Ví dụ: Sự tư duy của trẻ khi nghe cô giáo kể chuyện.
Sự tư duy của cô giáo khi soạn bài.
Trong thực tế, không phải con người chỉ sử dụng một loại tư duy để giải
quyết nhiệm vụ mà thường sử dụng phối hợp nhiều loại tư duy với nhau.
Trong quá trình sử dụng đó, nếu loại tư duy nào phù hợp với tính chất của các
hoạt động nghề nghiệp thì loại tư duy đó sẽ giữ vai trò chủ yếu.
Ví dụ: Một người công nhân sử dụng tư duy thực hành là chính, nhưng họ
vẫn có tư duy lí luận, tư duy hình ảnh. Hay một người nghệ sĩ thường thiên về tư
duy hình ảnh nhưng để xây dựng các hình ảnh mới họ cũng sử dụng cả tư duy lí
luận.
1.2.3.3. Theo mức độ sáng tạo của tư duy
Tư duy của con người được chia thành 2 loại:
+ Tư duy Angôrít
Là loại tư duy diễn ra theo một chương trình, một cấu trúc lôgíc có sẵn,
một khuôn mẫu nhất định. Loại tư duy này có cả ở người và máy móc (tư duy
máy). Tuy nhiên tư duy của con người khác xa về chất so với tư duy của máy
(rô bốt), bởi vì dù có thông minh đến mấy thì tư duy của máy cũng do con
người sáng tạo ra.

11


+ Tư duy ơritxtic
Đây là loại tư duy sáng tạo có tính chất cơ động linh hoạt, (không theo
một khuôn mẫu cứng nhắc nào ngoài ra còn có khả năng trực giác và khả năng
sáng tạo của con người.)
=> Trên đây chúng tôi điểm qua các cách chính phân loại tư duy của
con người. Tuy nhiên trong khuôn khổ đề tài chúng tôi đi sâu tìm hiểu cách
phân loại theo lịch sử hình thành tư duy của con người: Tư duy trực quan hành động, tư duy trực quan - hình ảnh, tư duy trừu tượng.

1.3. Các dạng hoạt động và sự phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
1.3.1. Hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo lớn
Trẻ mẫu giáo lớn là lứa tuổi rất hiếu động, nghịch ngợm, trẻ học mà
chơi, chơi mà học và chơi là chính. Vì vậy đối với trẻ giai đoạn này hoạt động
vui chơi được coi là hoạt động chủ đạo của trẻ.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Không phải
vì nó chiếm nhiều thời gian nhất của giai đoạn này mà cái chính là hoạt động
vui chơi gây ra những biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ. Hoạt động vui chơi đã
chi phối toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ và các hoạt động khác như : học tập, lao
động làm cho hoạt đông vui chơi mang màu sắc độc đáo của lứa tuổi mẫu giáo.
Trẻ mẫu giáo có rất nhiều các hình thức vui chơi như : Hoạt động với đồ
vật, trò chơi có luật, trò chơi đóng vai theo chủ đề thông qua mỗi hoạt động
vui chơi trẻ sẽ tiếp thu và lĩnh hội được những điều mới mẻ chẳng hạn như:
Khi trẻ hoạt động với đồ vật trẻ sẽ biết được chức năng và phương thức sử
dụng đồ vật. Trẻ biết cái chén dùng để uống nước, cái thìa để xúc cơm trẻ
biết mình phải sử dụng thế nào để không bị vỡ chén, vỡ cốc. Bên cạnh việc
hoạt động với đồ vật trẻ còn được giao lưu trực tiếp với người lớn, từ đó giúp
trẻ phát triển ngôn ngữ, những hành vi văn hoá với người xung quanh. Đặc
biệt khi tham gia trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ được thoả mãn nguyện
vọng sống và hoạt động như người lớn. Đó là trẻ đã bắt chước và mô phỏng lại

12


mối quan hệ của người lớn, trẻ thích trò chơi nào thì chơi rất say mê trò chơi
đó, có vui thì mới chơi và đã chơi thì phải vui. đây chính là tính chất đặc biệt
của hoạt động vui chơi ở trẻ mẫu giáo.
Hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo được coi là hoạt động chủ đạo bởi
vì: ở cuối tuổi ấu nhi trẻ xuất hiện mâu thuẫn cơ bản, đó là mâu thuẫn giữa
một bên là tính độc lập của trẻ phát triển mạnh, trẻ có nguyện vọng được làm

những công việc như của người lớn với một bên là năng lực của trẻ còn non
yếu chưa làm được những công việc như người lớn. Bên cạnh đó trẻ còn có
mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu hoạt động của trẻ và bên kia là những yêu
cầu, chuẩn mực của người lớn. Chính vì vậy để giải quyết những mâu thuẫn
trên trẻ đã tìm đến hoạt động mới đó là hoạt động trẻ không được làm thât như
người lớn mà trẻ sẽ làm giả vờ, và hoạt động vui chơi giúp đáp ứng nhu cầu đó
của trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ chơi trò chơi Bác sĩ trẻ mô phỏng mối quan hệ giữa
bác sĩ với bệnh nhân.
Khi tham gia trò chơi điều mà hấp dẫn cuốn hút trẻ chính là việc Bác sĩ
cầm ống nghe đưa vào tai và hoạt động đặt ống nghe lên người bệnh, còn việc
khám có đúng bệnh và chữa có khỏi bệnh hay không thì điều đó trẻ không cần
chú ý đến. Khi mô phỏng lại hoạt động giống như một Bác sĩ thực trẻ tỏ ra rất
hứng thú và say mê.
Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động vui chơi đối với trẻ
mẫu giáo, người lớn cần phải có kế hoạch, có nội dung và phương pháp giảng
dạy phù hợp để thoả mãn nhu cầu bức thiết của trẻ.
Đối với trẻ mẫu giáo lớn, hoạt động chủ đạo vẫn là hoạt đông vui chơi.
Hoạt động này sẽ giúp trí nhớ của trẻ mẫu giáo lớn ngày càng có tính chủ định
nhiều hơn so với những lứa tuổi trước. ở tuổi mẫu giáo lớn, việc đặt mục đích
cho hành động và lập kế hoạch cho hành động thường được thể hiện cách rõ
nét. Điều này thúc đẩy các định hướng bên trong (tức là các quá trình tâm lý)

13


phát triển mang tính chủ định rõ ràng. Tính chủ định này được phát triển cùng
với sự tiến triển của hoạt động vui chơi ở trẻ mẫu giáo lớn, làm cho dạng trò
chơi đóng vai theo chủ đề chuyển dần sang dạng trò chơi có luật rõ hơn. Cho
đến lúc này chủ đề và nội dung chơi được mở rộng hơn đó là sự xuất hiện

những chủ đề mới như: Tham quan, du lịch, điện thoại nội dung chơi phức
tạp hơn so với lứa tuổi trước. ở lứa tuổi trước, trẻ chỉ tái tạo mối quan hệ bề
ngoài của người lớn, còn ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, trẻ tái tạo mối quan hệ bên
trong người lớn về các mặt đạo đức, tình cảm thể hiện một cách sâu sắc hơn
vào thế giới nhận thức. Vậy tại sao trẻ ở độ tuổi này lại có những thay đổi như
vậy? chính bởi sự phát triển, sự lớn lên của trẻ giúp trẻ tiếp xúc với môi trường
xung quanh một cách rộng rãi hơn. Trẻ đã mạnh dạn khám phá và tìm tòi, từ
đó trẻ tích luỹ kinh nghiệm xã hội, việc tích luỹ kinh nghiệm sẽ giúp trẻ tư
duy và tưởng tượng nhanh nhạy hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước.
ở trẻ mẫu giáo lớn bên cạnh trò chơi đóng vai theo chủ đề, xuất hiện khá
nhiều trò chơi có luật, đây là bước phát triển mới cấu tạo tâm lí mới ở lứa tuổi
này. Khi tham gia trò chơi này, động cơ hoạt động của trẻ không chỉ nằm ở
quá trình chơi mà cả trong kết quả chơi, nghĩa là động cơ đang chuyển dần từ
quá trình chơi sang kết quả.
Với trẻ luật chơi là sự thoả thuận giữa các trẻ với nhau mang tính linh
hoạt tuỳ thuộc vào nhóm chơi và chủ đề chơi.
Ví dụ: Trò chơi cướp cờ trẻ không chỉ thích trò chơi này mà trẻ còn
cố gắng làm sao để cướp cho bằng được lá cờ càng nhanh theo luật chơi càng
tốt. Đội nào cướp được lá cờ trước và mang về cho đội theo lụât quy định thì
đội đó sẽ thắng cuộc.
Điều này chứng tỏ rằng việc tham gia vào những trò chơi có luật làm
cho hoạt động của trẻ trở lên có chủ tâm hơn. Hoạt động tâm lí bên trong được
biến đổi một cách rõ rệt từ quá trình tâm lí không chủ định chuyển sang quá
trình tâm lí có chủ định như: Tri giác có chủ định, chú ý có chủ định, ghi nhớ

14


có chủ định. Trẻ mẫu giáo lớn ý thức bản ngã được rõ ràng hơn và các quá
trình tâm lí không chủ định chuyển dần sang qua trình tâm lí mang tính chủ

định làm cho các hành động ý chí của trẻ ngày càng được bộc lộ rõ nét trong
hoạt động vui chơi và trong cuộc sống. Trẻ mẫu giáo lớn đã có những biểu
hiện ý chí tương đối lâu, mặc dù về mặt này vẫn còn kém xa học sinh lứa tuổi
đầu Tiểu học.
Bên cạnh việc xuất hiện dạng trò chơi có luật thì trẻ mẫu giáo lớn đã
biết cách hình thành, xây dựng trò chơi có ý đồ và vai trò của thủ lĩnh. Có
thể nói rằng, việc phát triển hoạt động vui chơi giúp trẻ hiểu rõ hơn vai trò của
người thủ lĩnh (tức là người đứng đầu có thể làm trọng tài, có thể là người dẫn
đầu một cuộc chơi, hay một nhóm trẻ nào đó tham gia chơi). vì vậy trò chơi
sẽ giúp trẻ khẳng định được nguyện vọng độc lập, sự nhanh nhạy trong quá
trình phát triển tư duy. Có thể nói hoạt động vui chơi đối với trẻ mẫu giáo nói
chung, độ tuổi mẫu giáo lớn nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và vai trò
quyết định đối với sự hình thành, phát triển tư duy trẻ.
1.3.2. Hoạt động học tập của trẻ mẫu giáo
Hoạt động học tập là hoạt động do người học thực hiện nhằm tiếp thu
những tri thức khoa học và kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Trên cơ sở đó hình
thành và phát triển nhân cách người học theo mục tiêu giáo dục đề ra.
Hoạt động học tập là dạng hoạt động chủ đạo của học sinh phổ thông,
dạng hoạt động này mới phát triển tới mức chính thức, còn trước đó ở tuổi
mẫu giáo, hoạt động học tập đang ở thời kỳ phôi thai. Trẻ em mẫu giáo chưa
thực hiện được hoạt động học tập bởi vì các chức năng tâm lý và sinh lý ở trẻ
em chưa đủ để thực hiện hoạt động này. Thông qua giao tiếp và hoạt động vui
chơi ( đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề ) đã hình thành ở trẻ mẫu giáo
một số yếu tố sơ khai của hoạt động học tập đó là tri thức. Trong cuộc sống
hằng ngày trẻ đã tiếp thu được một lượng tri thức đáng kể về thế giới xung
quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy và sờ thấy được hoặc là người lớn kể lại qua

15



các câu chuyện, phim ảnh. Tuy nhiên đây chưa phải là tri thức khoa học mà là
tri thức kinh nghiệm, tri thức tiền khoa học.
Sự phát triển lòng ham hiểu biết của trẻ trong suốt thời kỳ mẫu giáo
được thể hiện ở sự tăng lên mạnh mẽ ở số lượng và sự biến đổi tính chất trong
những câu hỏi của trẻ. Nếu lúc 3 4 tuổi trẻ chỉ có một số câu hỏi hướng vào
việc tìm hiểu thế giới xung quanh, thì đến 5 6 tuổi những câu hỏi tìm hiểu
cái mới đã chở nên chiếm ưu thế. Nhiều trẻ đã quan tâm đặc biệt đến nguyên
ngân của những hiện tượng muôn màu muôn vẻ, và những mối quan hệ giữa
chúng trong thế giới tự nhiên, trong đời sống xã hội, như: Tại sao có mưa?,
Tại sao bàn tay có 5 ngón?Lòng ham hiểu biết của trẻ mẫu giáo vẫn chưa
đủ để bảo đảm thái độ sẵn sàng học tập, tiếp thu tri thức một cách có hệ thống
trong các môn học. ở trẻ mẫu giáo sự hứng thú đối với một hiện tượng nào đó
xuất hiện nhanh chóng ở trẻ cũng lại biến mất ngay và liền được thay thế bằng
một hứng thú khác mới hơn.
Hứng thú bền vững sẽ xuất hiện ở trẻ em vào cuối tuổi mẫu giáo lớn nếu
như trẻ được giáo dục và dạy dỗ một cách hợp lý, có tổ chức và có khoa học.
Việc hình thành những hứng thú bền vững và nảy sinh những kỹ năng hoạt
động trí tuệ cho trẻ vào trường phổ thông, người ta đã dạy trẻ trong các hình
thức có tổ chức đặc biệt gọi là tiết học. Đó là một khoảng thời gian nhất
định được tăng dần lên theo lứa tuổi (ở lứa tuổi mẫu giáo bé khoảng 10 15
phút; ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ 15 20 phút; ở lứa tuổi mẫu giáo lớn từ 20 25
phút). Khoảng thời gian đó trẻ được dạy những tri thức, những kỹ năng tương
đối có hệ thống về các lĩnh vực của đời sống tự nhiên và xã hội xung quanh trẻ
theo một chương trình nhất định ( nhưng còn khác xa với chương trình các
môn học ở trường phổ thông) nhằm chính xác hoá và hệ thống hoá những tri
thức vô cùng phong phú nhưng còn tản mạn mà trẻ đã thu lượm được trong
sinh hoạt hằng ngày ở mọi nơi mọi lúc. Tuy nhiên trong các tiết học của trẻ
mẫu giáo bước đầu đặt ra những yêu cầu nhất định về mức độ và chất lượng
lĩnh hội các tri thức. Luyện tập cho trẻ những kỹ năng nghe, làm theo lời chỉ


16


dẫn của cô giáo để thực hiện các nhiêm vụ do cô đề ra giúp trẻ phát triển một
cách toàn diện đáp ứng được mục tiêu của Giáo dục Mầm non đề ra.
Tiết học ở trường mẫu giáo thường được tích hợp giữa các môn học, chủ
đề với nhau và lấy trò chơi làm phương pháp chủ yếu nhằm tiếp nhận một lĩnh
vực văn hoá nào đó chứ không phải là lĩnh hội một môn học được cấu trúc
theo một lôgíc nội tại của một khoa học tương ứng.
Ví dụ: ở trường mẫu giáo chỉ có các tiết học hát, vận động theo nhạc
chứ không có những giờ học chuyên biệt như xướng âm, luyện thanh.
Tiết học của trẻ mẫu giáo chủ yếu được thông qua trò chơi và chủ yếu
là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi có luậttrẻ bắt đầu tiếp cận với quy
luật chung của sự vật và hiện tượng xung quanh, trẻ em rất thích theo dõi biểu
hiện của những quy luật chung trong những trường hợp riêng. Trước mắt trẻ
có biết bao điều mới lạ trong thế giới xung quanh mà trẻ khao khát muốn
hiểu, dần dần trẻ cảm nhận thấy rằng chính học tập ở trường phổ thông mới là
con đường dẫn tới những khám phá kỳ diệu ấy.
Trẻ mẫu giáo chỉ thích tiếp nhận nhiệm vụ học tập trong trường hợp mà
những tri thức kỹ năng có thể vận dụng ngay vào trò chơi, vào các hoạt động
tạo hình hoặc vào một hình thức hấp dẫn nào đó. Trong hoạt động vui chơi đặc
biệt là trong các tiết học, người lớn đánh giá những việc trẻ đã làm, so sánh
tiến trình và kết quả việc làm của trẻ này với trẻ khác, làm cho trẻ bắt đầu tự
kiểm tra những hành động của mình và đánh giá những tri thức, kỹ năng của
mình một cách đúng đắn hơn. Nhờ vậy kỹ năng tự kiểm tra, tự đánh giá sẽ
được hình thành ở trẻ.
=> Như vậy đối với trẻ mẫu giáo hoạt động học tập tuy chưa đạt tới
dạng chính thức nhưng đã xuất hiện những yếu tố cần thiết (như tính chủ định
của các quá trình tâm lý, ý thức nghĩa vụ, bước đầu tự kiểm tra, tự đánh
giá). Việc tổ chức trò chơi có định hướng cùng với việc tổ chức các tiết học

vừa sức và phù hợp với đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo sẽ thúc đẩy

17


những yếu tố của hoạt động học tập được nảy sinh một cách thuận lợi chuẩn bị
tốt scho trẻ học tập ở trường phổ thông sau này.
1.3.3. Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
Phát triển tư duy là một mức độ cao của nhận thức, nhận thức là một
mặt quan trọng trong 5 mặt phát triển đó là: Phát triển nhận thức; phát triển
ngôn ngữ; phát triển tình cảm xã hội; phát triển thẩm mĩ. Việc phát triển tư
duy tốt dẫn đến nhận thức tốt. vậy muốn trẻ phát triển tư duy tốt người lớn
đặc biệt là giáo viên mầm non cần phải nắm được đặc điểm tư duy của trẻ ở
từng độ tuổi. Từ đó xây dung nội dung, biện pháp giáo dục phù hợp cho trẻ.
Nếu ở tuổi hài nhi trẻ xuất hiện những hành động có thể coi là mầm
mống của tư duy thì bước sang tuổi ấu nhi, tư duy trực quan - hành động bước
đầu được hình thành và phát triển. Đây là loại tư duy được thực hiện bằng hoạt
động bên ngoài theo phương pháp thử và sai. Việc xác lập mối quan hệ giữa
các sự vật - hiện tượng với nhau chính là nhiệm vụ của hoạt động tư duy. Tuy
nhiên ở lứa tuổi này việc xác lập mối quan hệ đó chỉ mang tính ngẫu nhiên.
Ví dụ: Trẻ muốn lấy đồ chơi trên bàn nhưng vô tình kéo khăn trải bàn
làm đồ chơi rơi xuống, nhiều lần như vậy trẻ xác lập được mối quan hệ giữa
tấm khăn trải bàn với đồ vật trên bàn. Những lần sau trẻ sẽ hoạt động sáng tạo
hơn: Trẻ không kéo khăn trải bàn nữa mà dùng cây, gậy để khều. Điều đó cho
thấy rằng trẻ đã ngẫu nhiên nắm được kĩ năng, từ đó sáng tạo và các quá trình tư
duy xuất hiện.
Khi trẻ chuyển từ biết sử dụng mối quan hệ có sẵn, hay mối quan hệ do
người lớn chỉ ra, sang biết xác lập mối quan hệ giữa các đối tượng. Đây là
mức độ rất quan trọng đối với sự phát triển tư duy của trẻ. Tư duy trực quan hành động thực sự phát triển và chiếm ưu thế khi trẻ ở tuổi ấu nhi, chính vì thế
giáo viên cần giúp trẻ phát triển tư duy trực quan - hành động bằng một số biện

pháp như:
+ Tổ chức nhiều hoạt động phong phú cho trẻ thử và sai với đồ vật, để
trẻ hiểu được mối quan hệ giữa các sự vật.

18


+ Tổ chức môi trường chơi, học tập phong phú, kết hợp nhiều cách chơi
khác nhau để trẻ xác lập mối quan hệ dễ dàng hơn, tư duy nhạy bén hơn.
+ Tạo tình huống có vấn đề để trẻ sáng tạo trong việc xác lập mối quan hệ.
+ Đưa trẻ vào vùng phát triển gần, vì như thế tư duy của trẻ mới phát
triển được.
Ví dụ: Khi dạy trẻ về hình tròn mà trẻ đã biết cô cho trẻ dùng hình tròn
để tạo ra sản phẩm luôn, dạy học đón đầu sự phát triển. Đây là giai đoạn trẻ
lấy mình làm trung tâm nên cô cần có phương pháp, biện pháp thích hợp
không nên quá cứng nhắc với trẻ.
Ngoài tư duy trực quan - hành động thì cuối tuổi ấu nhi xuất hiện tư duy
trực quan - hình ảnh nhưng còn yếu vì vốn kinh nghiệm của trẻ còn nghèo
nàn, các thao tác tư duy chưa phát triển, loại tư duy này dựa vào hình ảnh
trong đầu để xác lập mối quan hệ. Kiểu tư duy này là một trình độ phát triển
cao hơn kiểu tư duy trực quan hành động. Nhờ có tư duy trực quan - hành
động, mà trẻ tích luỹ được vốn kinh nghiệm. Vậy để giúp cho việc phát triển
tư duy trực quan - hình ảnh được dễ dàng hơn, cần phải phát triển tư duy trực
quan - hình ảnh cho trẻ vì loại tư duy này sẽ phát triển mạnh cho lứa tuổi tiếp
theo - đó là lứa tuổi mẫu giáo. Giáo viên cần phải có những biện pháp để giúp
trẻ phát triển loại tư duy này.
ở các lứa tuổi trước tư duy chủ yếu của trẻ là tư duy trực quan - hình
ảnh thì điểm phát triển nhất của tư duy trẻ lớn là: Xuất hiện kiểu tư duy mới
đó là tư duy trực quan - sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy lôgíc.
Tư duy trực quan - sơ đồ tạo cho trẻ một khả năng phản ánh những mối

liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ
quan của bản thân trẻ. Sự phản ánh này là điều kiện cần thiết để lĩnh hội
những tri thức vượt ra ngoài những khuôn khổ của việc tìm hiểu từng sự vật
riêng lẻ với những thuộc tính sinh động của chúng để đạt tới tri thức khái quát.
Tư duy trực quan - sơ đồ giúp trẻ một cách có hiệu lực để lĩnh hội
những tri thức ở mức độ khái quát cao. Từ đó mà trẻ hiểu được bản chất của sự

19


vật. Loại tư duy này đã biểu hiện một bước phát triển đáng kể trong tư duy của
trẻ mẫu giáo lớn. Đó là kiểu trung gian, quá độ để chuyển từ kiểu tư duy hình
tượng lên một kiểu tư duy mới khác về chất đó là: Tư duy lôgíc (hay còn gọi
là tư duy trừu tượng). Kiểu tư duy này sẽ được tiếp tục phát triển ở giai đoạn
sau này ở lứa tuổi học sinh.
Tư duy trưc quan - sơ đồ phát triển cao, sẽ dẫn đứa trẻ tới ngưỡng cửa
của tư duy trừu tượng. Trẻ sẽ hiểu những biểu diễn sơ đồ khái quát mà sau này
sự hình thành khái niệm sẽ được tiến hành chủ yếu trên đó.
Ví dụ:

Cho sơ đồ như hình vẽ trên hãy tìm ngôi nhà số theo chìa khoá sau:

20


Khi trẻ thực hiện kỹ năng lập và sử dụng các hình tượng sơ đồ hoá là
một thành tựu lớn trong sự phát triển tư duy của trẻ 5 - 6 tuổi. Điều này sẽ giúp
trẻ đi sâu vào những mối liên hệ phức tạp hơn của sự vật, hiện tượng mà ở lứa
tuổi trước đó tư duy trực quan - hình ảnh không cho phép nhìn thấy được.
Sự phát triển tư duy của trẻ giai đoạn này, giúp trẻ có thể lĩnh hội được

những khái niệm đơn giản trong điều kiện được dạy dỗ đặc biệt, phù hợp với
đặc điểm của lứa tuổi mẫu giáo. Một số nghiên cứu cuả các nhà khoa học
P.J.Ganperin; Đ.B.Encônin; V.V.Đavưđôp; L.A.Venger đã chứng minh
rằng: Nếu đưa những phương tiện đặc biệt vào nội dung dạy học như: Các
chuẩn về hình dạng, màu sắc, độ cao trong hoạt động nhận cảm, các thước đo,
các mô hình và các sơ đồ khác nhau, thì dẫn tới sự biến đổi có tính chất
nguyên tắc của những giai đoạn phát triển trí tuệ mà người ta đã coi là những
giai đoạn tuyệt đối và bất biến. Những công trình nghiên cứu này đã chứng
minh rằng: Trẻ em ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi có thể lĩnh hội được những khái niệm
khoa học đơn giản, điều này đã giúp trẻ thay đổi khá nhiều trong hoạt động tư
duy của chúng, được biểu hiện ở sự nảy sinh các yếu tố tư duy lôgíc. Việc
hình thành những khái niệm tiền khoa học cho trẻ mẫu giáo lớn có thể không
cần phải dựa trực tiếp vào các biểu tượng như ở các độ tuổi trước. Đây là mặt
rất quan trọng của tư duy trẻ trong quá trình phát triển trí tuệ.

21


Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo ở giai đoạn trẻ 5 - 6 tuổi, hoạt động
tâm lý của trẻ đặc biệt nhạy cảm với những hình tượng cụ thể, sinh động về
các sự vật và hiện tượng của hiện thực. Trẻ tiếp thu những tri thức dưới dạng
trực quan - hình tượng rất dễ dàng, chính vì vậy việc hiểu và nắm được tư duy
của trẻ mẫu giáo lớn nói riêng sẽ giúp cho việc hình thành và hoàn thiện bậc
thang phát triển tư duy của trẻ một cách đúng đắn, hợp lý và khoa học. Tuy
nhiên cần phải tránh các hình thức thúc đẩy, muốn tăng nhanh quá mức tốc độ
để trẻ lĩnh hội kiểu tư duy lôgíc sớm, hay lĩnh hội kiểu tư duy lôgíc kiểu người
lớn khôn trước tuổi sẽ không tốt, điều đó làm ảnh hưởng và mất đi tính ngây
thơ hồn nhiên và tính mềm dẻo của trí tuệ trẻ.
1.4. Chương trình chăm sóc và giáo dục của trẻ mẫu giáo đối với sự phát
triển tư duy của trẻ 5 - 6 tuổi

Nhà giáo dục học liên xô Mararenkô đã từng nói: Những cơ sở căn
bản của việc giáo dục trẻ được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy
cho trẻ trong thời kỳ đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ, về sau việc giáo
dục đào tạo con người vẫn tiếp tục nhưng đó là lúc bắt đầu nếm quả, còn
những nụ hoa thì đã được vun trồng trong 5 năm đầu tiên. Có thể nói rằng sự
phát triển tư duy của trẻ có liên quan mật thiết đến quá trình chăm sóc và giáo
dục trẻ mẫu giáo, đặc biệt ở lứa tuổi mẫu giáo lớn.
Để giúp trẻ phát triển tư duy tốt và ổn định, trước tiên việc chăm sóc trẻ
được đặt lên hàng đầu vì trẻ có thể chất tốt thì hiệu quả giáo dục mới cao, quá
trình phát triển tư duy mới có hiệu quả. Điều này cũng đồng nghĩa với việc
cần phải cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng (đủ về chất và lượng), tổ chức chế
độ ăn hợp lý sẽ giúp cơ thể phát triển khoẻ mạnh, sức đề kháng cao, khả năng
chống bệnh tốt. Công tác chăm sóc và giáo dục trẻ có hiệu quả, phù hợp với hoạt
động tâm lý của trẻ lứa tuổi này sẽ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ đạt kết
quả cao.

22


Chương trình chăm sóc trẻ bao gồm các mặt:
+ Chăm sóc bữa ăn cho trẻ.
+ Chăm sóc giấc ngủ cho trẻ.
+ Vệ sinh cá nhân trẻ.
=> Việc chăm sóc trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi đảm bảo các mặt trên tạo những cơ
sở đầu tiên để phát triển tư duy trẻ.
Khi tạo cho trẻ một tâm thế vững chắc thì quá trình giáo dục phát triển
tư duy trẻ sẽ đem lại hiệu quả. Cần giáo dục phát triển trẻ ở các mặt phát triển
như:
+ Phát triển thể chất.
+ Phát triển nhận thức.

+ Phát triển tình cảm - xã hội.
+ Phát triển thẩm mĩ.
+ Phát triển ngôn ngữ.
=> Các mặt phát triển này được giáo dục tích hợp ở tất cả các chủ đề,
các môn học (môi trường xung quanh, tác phẩm văn học, biểu tượng toán)
giáo dục trẻ qua những hoạt động này giúp trẻ hoạt động một cách tích cực
trong môi trường thân thiện. Trẻ được chủ động tham gia vào quá trình học
tập, khám phá, trải nghiệm, được sử dụng đồ dùng học tập, đồ chơi, hoạt động
cá nhân, hoạt động theo nhóm. Những hoạt động này rất phù hợp với trẻ 5 - 6
tuổi, vì thế nó đã giúp tư duy trẻ được hình thành và phát triển.
=> Như vậy chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ có ảnh hưởng lớn
đối với sự phát triển của trẻ mẫu giáo, đặc biệt là sự phát triển tư duy của trẻ 5
- 6 tuổi. Quá trình chăm sóc và giáo dục tốt, phù hợp với độ tuổi, phù hợp đặc
điểm tâm sinh lý trẻ thì sự phát triển tư duy sẽ tốt. Ngược lại chăm sóc và giáo
dục không đúng trẻ sẽ phát triển lệch lạc ảnh hưởng xấu đến quá trình hoạt
động và tư duy của trẻ. Trẻ 5 - 6 tuổi là giai đoạn trẻ nhạy cảm nên khi áp
dụng chương trình chăm sóc và giáo dục phải phù hợp, khoa học, điều này sẽ
làm nên thành công trong quá trình phát triển tư duy của trẻ mẫu giáo.

23


chương 2. đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo lớn
2.1. Đặc điểm tư duy trực quan - hình tượng của trẻ mẫu giáo lớn
2.1.1. Đặc điểm tư duy trực quan - hình tượng về sự bảo toàn số lượng
Để khảo sát đánh giá đặc điểm tư duy trực quan - hình tượng về sự bảo
toàn số lượng. Chúng tôi đã dùng thực nghiệm của J.Piaget. Thực nghiệm
được tiến hành như sau:
Xếp dàn hàng ngang 6 hình tròn màu xanh trên bàn và bảo trẻ: Con
hãy xếp những hình tròn màu đỏ bằng số hình tròn màu xanh và xếp ở dưới cứ

1 hình tròn màu xanh lại xếp 1 hình tròn màu đỏ.
Bước 1: Gom hai loại hình tròn xanh và đỏ lại riêng với nhau rồi hỏi:
Thế bây giờ số hình tròn đỏ có bằng số hình tròn xanh không?.
Bước 2: Xếp dàn hàng ngang 6 hình tròn xanh, đỏ thành 2 hàng như đã
xếp ban đầu, sau đó dồn hình tròn xanh xít vào nhau và hỏi trẻ: Số hình tròn
đỏ có bằng số hình tròn xanh không hay nhiều hơn hoặc ít hơn.
=> Quá trình thực nghiệm với từng trẻ cho chúng tôi kết quả khảo sát
như sau:
Bảng 1: Tư duy trực quan - hình tượng về sự bảo toàn số lượng
Số

Câu hỏi

Trả lời

trẻ

Xếp

Không

được và

xếp

đúng

được




Không

yêu cầu
Sl
30

%

1. Con hãy xếp những 30

Sl

100% 0

hình tròn màu đỏ
bằng số hình tròn màu
xanh, và xếp ở dưới
cứ một hình tròn màu

24

%
0%

Sl

%

Sl %



xanh lại xếp 1 hình
tròn màu đỏ.
2. Số hình tròn đỏ có

25 83,3 5

16,7

27 90

10

bằng số hình tròn
xanh không?
3. Số hình tròn đỏ có

3

bằng số hình tròn
xanh

không?

Hay

nhiều hơn ít hơn?
=> Từ bảng số liệu trên, chúng tôi thấy được 100 % số trẻ thực nghiệm
đã làm đúng yêu cầu của cô giáo ỏ câu hỏi số (1), trẻ đã biết sử dụng những

mối liên hệ giữa các sự vật, hành động và phép tương ứng 1 - 1 đê làm theo
yêu cầu của cô. Tư duy trực quan - hành động đã hình thành ở giai đoạn trước,
đến trẻ mẫu giáo lớn loại tư duy này vẫn tiếp tục phát triển mạnh. Đây là điều
kiện quan trọng để trẻ phát triển mạnh tư duy trực quan - hình tượng.
Để trả lời câu hỏi (2), trẻ phải biết giải thầm trong óc dựa vào những
biểu tượng đã thu nhận được, 83,3% trẻ đã giải bài toán bằng các phép thử
ngầm trong óc, dựa vào các biểu tượng: Tư duy trực quan - hình tượng chiếm
ưu thế, ở trẻ trong khi hành động với các biểu tượng trong óc, trẻ hình dung
được các hành động thực hiện với các đối tượng và kết quả của những hành
động ấy. Qua câu hỏi (2), chứng tỏ rằng trẻ mẫu giáo lớn đã nắm được nguyên
lý bảo toàn vật thể. Tuy nhiên vẫn còn 16,7% trẻ trả lời sai là do chưa biết dựa
vào các biểu tượng để giải quyết nhiệm vụ, chưa hình thành được tư duy trực
quan - hình tượng. Quan sát giờ học và hành động vui chơi thì những trẻ này
rất khó khăn trong việc tiếp thu tri thức.
ở câu hỏi số (3) trẻ trả lời đúng câu hỏi của cô chiếm 90%, trẻ đã suy
luận để trả lời yêu cầu của cô dù những suy luận đó rất đơn giản.

25


×