Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực vĩnh yên vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.57 KB, 65 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta hiện nay thì giáo dục mầm
non được là bậc học quan trọng đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Lịch sử giáo dục mầm non đã ghi nhận: Giáo dục mầm non
là khâu đầu tiên trong quá trình đào tạo nhân cách con người Việt Nam, với
mục tiêu là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ và hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1. [Điều
21- Luật giáo dục 2005]. Lứa tuổi mầm non- lứa tuổi bình minh của cuộc đời,
đây là độ tuổi mà các tố chất trở nên hết sức quan trọng để về sau trẻ có thể
phát triển lành mạnh, hài hoà và toàn diện.
Ông cha ta có câu:
Uốn cây từ thưở còn non
Dạy con từ lúc hãy còn trẻ thơ
Đối với trẻ nhỏ thì gia đình chính là môi trường lí tưởng và thuận lợi nhất
cho việc chăm sóc và giáo dục chúng. Gia đình là tổ ấm, là môi trường văn
hoá được tạo dựng trên cơ sở tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những
người ruột thịt mà ở nơi đó trẻ được ấp ủ, nâng niu, chăm sóc, nuôi dưỡng qua
bàn tay của ông bà, cha mẹ, anh chị một cách chu đáo và cẩn thận.
Văn hoá gia đình là một môi trường đặc biệt, an toàn và phong phú cả về
thể chất lẫn tâm lí trong đó trẻ được nuôi dưỡng và dạy dỗ theo phương thức
gia đình với sự giáo dục mang nhiều tính chất tích hợp và đậm màu sắc nghệ
thuật. Đây chính là tính ưu việt của giáo dục gia đình mà không một thiết chế
xã hội nào có thể thay thế được.
Nhà giáo dục Xô Viết A.C. Makarenco nói rằng: Những gì mà bố mẹ làm
cho con trước 5 tuổi đó là 90% kết quả của quá trình giáo dục hay trong một
câu phương ngôn của người da đỏ: Tương lai của thế giới nằm trong tay cháu


bé. Người mẹ cần ôm chặt con vào lòng để bé nhận ra thế giới là của mình,

Trần Thị Ngọc

1

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

còn người cha thì bồng con lên ngọn đồi cao nhất để bé nhận ra thế giới là như
thế nào. Theo đó giáo dục gia đình với những nội dung phong phú đã xây
dựng và bồi đắp cho trẻ cả về đức, trí, thể, mĩ, chuẩn bị nền tảng vững chắc
cho sự phát triển hoàn thiện của trẻ.
Con cái là công trình của cha mẹ, dành cho con cái những gì tốt đẹp nhất là
mong muốn của tất cả mọi gia đình, nhất là trong xã hội hiện nay khi mà mức
sống của các gia đình đã phát triển, các bậc cha mẹ có điều kiện chăm lo cho
con cái hơn thì nhận thức cuả họ về tầm quan trọng của các nội dung giáo dục
trẻ trong gia đình cũng ngày càng tiến bộ. Trẻ lớn lên khoẻ mạnh thành tài là
khi nhận được sự chăm sóc giáo dục tốt cả về thể chất lẫn tinh thần từ phía gia
đình ngay từ khi còn nhỏ. Trong cuộc sống hằng ngày, trẻ không chỉ học ở
trường, ở bạn bè mà còn học rất nhiều từ cha mẹ, từ những người thân trong
gia đình. Vậy khi trẻ ở nhà gia đình cần giáo dục trẻ những nội dung gì? Đây
không phải là vấn đề mới song không phải bậc cha mẹ nào cũng có cách nhìn
nhận đúng đắn về nó.
Với tư cách là một giáo viên mầm non trong tương lai, nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề nêu trên tôi muốn góp một phần công sức của mình vào

việc nâng cao hiểu biết của các bậc phụ huynh về nội dung chăm sóc giáo dục
trẻ trong gia đình đặc biệt là trẻ mẫu giáo. Vì vậy tôi chọn đề tài: Tìm hiểu
nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong
gia đình khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài.
Đã có rất nhiều các nhà giáo dục, tâm lí cũng như các văn bản pháp luật
của nhà nước nghiên cứu về nội dung giáo dục trẻ mầm non trong gia đình và
các khía cạnh của nó.
Theo Aixtot- Nhà giáo dục Hy Lạp cổ đại, ông đánh giá rất cao vai trò của
gia đình trong việc giáo dục trẻ em nhất là giáo dục ban đầu.

Trần Thị Ngọc

2

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Theo J. A. Coomenxki: Muốn giáo dục trẻ em phải dựa vào đặc điểm phát
triển về mặt tâm lí và sinh lí của trẻ để giáo dục trẻ.
ở việt Nam mục tiêu cao cả của giáo dục gia đình được thể hiện ở
chương IV- Quan hệ giữa cha mẹ và con, Điều 34- Nghĩa vụ và quyền của cha
mẹ trong luật hôn nhân và gia đình: ... giáo dục để con phát triển lành mạnh
về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình,
công dân có ích cho xã hội.
Theo PGS.TS Nguyễn ánh Tuyết [8, 25] : Gia đình có ảnh hưởng tuyệt đối

trong quá trình phát triển của trẻ thơ, sống trong môi trường giáo dục của gia
đình trẻ được thoả mãn mọi nhu cầu về thể chất lẫn tinh thần để lớn lên khoẻ
mạnh hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người.
Tác giả Vũ Mạnh Quỳnh [7, 17] cũng đã khẳng định: Với trẻ thơ, gia đình
là môi trường thuận lợi để hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục bằng
tình cảm huyết thống nên không có một tổ chức xã hội nào có thể thay thế
được.
Tuy nhiên vấn đề tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung
giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc thì chưa
có ai nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình ở khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc nhằm phát hiện thực
trạng và nâng cao nhận thức của họ.
4. Mức độ và phạm vi nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh của các trẻ từ 3- 6 tuổi ở khu
vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến giáo dục trẻ em, tâm lí trẻ em để
xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài.

Trần Thị Ngọc

3

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

Tìm hiểu nhận thức về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình ở
khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.
Xây dựng hệ thống câu hỏi điều tra và tiến hành điều tra.
Một số tác động thử nghiệm nhằm nâng cao nhận thức của các bậc phụ
huynh về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh YênVĩnh Phúc.
6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
6.1.Đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong
gia đình khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.
6.2.Khách thể nghiên cứu.
Các bậc phụ huynh của các cháu từ 3- 6 tuổi.
7. Giả thuyết khoa học.
Thế kỉ XXI- thế kỉ của nền kinh tế tri thức, giáo dục được gia đình và xã
hội hết sức coi trọng trong đó giáo dục gia đình được đánh giá là nền giáo dục
cơ bản và toàn diện nhất. Trong giai đoạn hiện nay, khi các bậc cha mẹ đã chú
trọng hơn đến việc giáo dục con cái thì cùng với những ảnh hưởng tiêu cực
của xã hội vẫn còn không ít các gia đình chưa có hiểu biết, nhận thức đúng
đắn về tác động của giáo dục gia đình mà nhất là các nội dung giáo dục trẻ,
dẫn đến có phương pháp dạy con sai lệch. Bởi vậy nếu các gia đình này được
hướng dẫn tìm hiểu các kiến thức về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình thì
đây sẽ là cơ hội để các bậc cha mẹ nâng cao nhận thức góp phần to lớn trong
việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái mình một cách hiệu quả nhất.
8. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Trong quá trình trưởng thành, đứa trẻ được giáo dục dưới nhiều hình thức
khác nhau nhưng hình thức giáo dục sâu sắc nhất chính là sự giáo dục của gia
đình. Bất cứ gia đình nào cũng muốn con cái mình được nuôi dạy thật tốt
nhưng nuôi dạy như thế nào để đảm bảo trẻ phát triển tốt thì không phải là


Trần Thị Ngọc

4

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

điều dễ dàng. Và không phải bậc cha mẹ nào cũng có nhận thức đầy đủ về các
nội dung giáo dục trẻ trong gia đình. Có không ít các bậc cha mẹ vẫn quan
niệm rằng trẻ có thể tự lớn hoặc đối với trẻ chỉ cần lo nuôi lớn chứ không cần
lo học hành. Do đó, nghiên cứu và tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh
về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình là nhằm nâng cao hiểu biết của các bậc
cha mẹ trong việc chăm sóc- giáo dục trẻ, để giáo dục gia đình phát huy và đạt
hiệu quả cao nhất
9. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp trò chuyện
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phân tích kết quả
- Phương pháp thống kê toán học
10. Dự kiến công trình nghiên cứu.
Phần 1: Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài.
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu.
4. Mức độ và phạm vi nghiên cứu
5. Nhiệm vụ nhiên cứu

6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
7. Giả thuyết khoa học.
8. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
9. Phương pháp nghiên cứu.
10. Dự kiến công trình nghiên cứu.
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Thực trạng nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo
dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc.

Trần Thị Ngọc

5

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 3: Một số tác động thử nghiệm nhằm nâng cao nhận thức của các
bậc phụ huynh khu vực Vĩnh Yên- Vĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ mẫu
giáo trong gia đình..
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.

Trần Thị Ngọc


6

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2
Chương 1
Cơ sở lí luận

1.1 Nhận thức là gì?
Theo quan điểm của triết học Mac- Lênin: Nhận thức là quá trình phản ánh
biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, có tính tích
cực, năng động, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn.[1, 25]
Còn theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Nhận thức là qúa trình biện chứng
của sự phản ánh thế giới khách quan trong ý thức con người, nhờ đó con người
tư duy và không ngừng tiến gần khách thể. [12, 24]
Như vậy để phản ánh hiện thực khách quan, con người không chỉ bày tỏ
thái độ của mình với nó mà trước hết là nhận thức về thế giới đó. Những hiện
tượng tâm lí của con người như cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng... nhằm
phản ánh hiện thực khách quan gọi là hoạt động nhận thức của con người.
Hoạt động này mang lại nhiều sản phẩm khác nhau về hiện thực khách quan
(hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, khái niệm...). Nhận thức chính là một trong
ba mặt cơ bản của đời sống tâm lí con người.
1.2 Giáo dục là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin: Con người là tổng hoà các
mối quan hệ xã hội. Như vậy con người và xã hội là một thể thống nhất
không tách rời, con người chịu tác động của xã hội bằng hoạt động của bản
thân và qua đó con người tham gia vào các mối quan hệ trong xã hội. Xã hội

muốn phát triển thì phải dựa vào giáo dục và ngược lại giáo dục sẽ thúc đẩy xã
hội phát triển thông qua sản phẩm đặc trưng của nó - đó là những con người
có nhân cách.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học- Trung tâm từ điển học- Nhà
xuất bản giáo dục, 1994 trang 394): Giáo dục là hoạt động một cách có hệ

Trần Thị Ngọc

7

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của đối tượng nào đó làm cho đối
tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
Giáo dục trước hết là sự tác động của những nhân cách này đến những nhân
cách khác, tác động của nhà giáo dục đến người được giáo dục cũng như của
những người được giáo dục với nhau. Quá trình giáo dục được hiểu là một quá
trình hoạt động phối hợp tương tác giữa người giáo dục và người được giáo
dục được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch. Dưới sự chỉ đạo của
người giáo dục, người được giáo dục tự giác tích cực và tự lực nắm vững hệ
thống quan điểm, niềm tin, thái độ và hình thành hành vi, thói quen phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức đồng thời chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội
của loài người.
1.3 Giáo dục gia đình là gì?
Giáo dục gia đình có thể được hiểu là tất cả những tác động ảnh hưởng của

gia đình đến sự hình thành phát triển nhân cách của con người mà trước hết
chính là đứa trẻ. Gia đình là một xã hội thu nhỏ- một nhóm xã hội mà ở đó tồn
tại một lối sống với các quan hệ đối xử giữa các thành viên trong gia đình, các
quan hệ đó phát triển theo chiều sâu của sự gắn bó và cùng với tình yêu sẽ
càng nảy nở tình thương. Thông qua nền giáo dục gia đình mà mỗi trẻ em học
hỏi được các giá trị xã hội, biết tự điều chỉnh trong các mối quan hệ xã hội,
những mầm mống ban đầu của nhân cách, những suy nghĩ, hiểu biết về cuộc
sống đều được hình thành ngay trong cuộc sống gia đình.
Giáo dục gia đình chính là chăm sóc- giáo dục trẻ xuất phát từ tình cảm
yêu thương, hành vi mẫu mực của cha mẹ và những người thân trong gia đình
ở mọi nơi, mọi lúc trong đời sống hằng ngày. Sự hoà thuận cân bằng mối quan
hệ của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là cha con cái. Chỉ có tình yêu
thương đích thực của gia đình mới có thể che chở cho đứa trẻ, chỉ có sự trìu
mến thân thương của các thành viên trong gia đình mới tạo cho trẻ được cảm
giác an toàn, mới hình thành và phát triển ở trẻ những trạng thái tâm lí tích

Trần Thị Ngọc

8

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

cực, những thói quen, hành vi tốt, lành mạnh làm cơ sở cho sự hình thành và
hoàn thiện nhân cách, phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Chỉ trong môi
trường gia đình và nhận được sự giáo dục từ phía gia đình trẻ sinh ra mới có

thể trở thành người.
1.4 Vai trò của giáo dục gia đình.
Gia đình là chiếc cầu nối đầu tiên hình thành và nuôi dưỡng nhân cách, là
môi trường đầu tiên trong quá trình xã hội hoá nhân cách của đứa trẻ. Đối với
trẻ, nhân cách không thể hình thành, phát triển đầy đủ nếu không có một môi
trường gia đình thuận lợi. Tổ ấm của trẻ là gia đình, chỉ có trong gia đình trẻ
mới được hưởng đầy đủ tình yêu thương, những phút giây vui đùa thích thú
bên mẹ, thủ thỉ trò chuyện với người thân, được vỗ về âu yếm khi ăn khi ngủ.
Sống trong môi trường tràn ngập tình yêu thương ấy đứa trẻ sẽ được thoả mãn
nhu cầu về tình cảm mang tính chất ruột thịt để phát triển.
Trong gia đình trẻ được nuôi dưỡng và dạy dỗ theo một phương thức đặc
biệt, đó chính là phưng thức gia đình: Con hỏi mẹ đáp, mẹ gọi con thưa, mẹ kể
con nghe, mẹ ru con thưởng thức, con nói sai mẹ sửa, con làm sai mẹ ngăn
ngừa.... Đứa trẻ lớn lên bên cạnh cha mẹ, bên cạnh những người thân yêu ruột
thịt qua đó trẻ học ăn, học nói, học gói, học mởHọc làm người một cách tự
nhiên và nhẹ nhàng. Chính văn hoá gia đình đã gieo vào đầu óc non nớt của
trẻ những hạt giống quý báu, làm nảy nở trong đó một tâm hồn với những
phẩm chất đạo đức và năng khiếu mang hình bóng nền văn hoá gia đình.
Gia đình mà đặc biệt là người mẹ có sự gắn bó chặt chẽ đối với trẻ, giúp trẻ
tạo lập các quan hệ xã hội cơ bản, giáo dục cho trẻ những bài học làm người
đầu tiên và là nền tảng phát triển nhân cách cho trẻ từ khi sinh ra cho đến suốt
cuộc đời. Giống như câu nói của Xecminacer trong cuốn Tình huống giáo
dục gia đình : Có một thực tế lạ lùng là phần lớn những thiên tài đều có
những bà mẹ tuyệt vời và họ nhận được ở người mẹ nhiều hơn là ở người cha.
[3,78]. Nếu việc tái sản xuất ra con người là một chức năng của gia đình thì

Trần Thị Ngọc

9


K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

việc chăm sóc giáo dục con cái lại là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi bậc cha mẹ,
là niềm hạnh phúc lớn lao của họ trong cuộc sống.
L.N. Tônxtôi đã từng nói: Tất cả những cái gì mà đứa trẻ sẽ có sau này khi
trở thành người lớn đều thu nhận được trong thời thơ ấu. Trong quãng đời còn
lại những cái mà nó thu nhận được chỉ đáng một phần trăm những cái đó mà
thôi.[9, 337]. Gia đình là môi trường sống, môi trường giáo dục suốt đời, là
nơi ấp ủ cả thể xác và tâm hồn mỗi người. Cùng với giáo dục nhà trường, giáo
dục gia đình vừa có tính toàn diện, vừa có tính cụ thể hoá và cá biệt cao. Giáo
dục gia đình là một hoạt động vô cùng tinh tế, là sự hội tụ của toàn bộ sức
mạnh tình cảm giữa cha mẹ và con cái, khơi nguồn mở mang cho cho việc
hình thành và phát triển những yếu tố nhân cách gốc, tạo cơ sở quan trọng cho
đứa trẻ tiếp thu có hiệu quả giáo dục nhà trường và xã hội sau này.
1.5 Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ mẫu giáo.
1.5.1 Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 3- 4 tuổi
Trẻ 3- 4 tuổi có sự chuyển biến rõ rệt về tâm lí. Đó là sự thay thế hoạt
động với đồ vật bằng hoạt động vui chơi. Chính trong hoạt động vui chơi mà
chủ đạo là trò chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ được thoả mãn mọi nhu cầu muốn
được sống và làm việc như người lớn. Thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề
mà ở trẻ hình thành và phát triển những phẩm chất tốt làm nền tảng cho đạo
đức, nhân cách của trẻ. Đó là ý thức kỉ luật, tinh thần đoàn kết, hợp tác, biết
yêu thương giúp đỡ bạn bè và những người xung quanh...trẻ có dịp được thể
hiện hành vi, tình cảm, cảm xúc của mình qua việc đóng các vai khác nhau
trong trò chơi. Chẳng hạn đóng vai làm chú cảnh sát trẻ biết thể hiện kỉ luật

nghiêm minh, hay làm bác sĩ phải ân cần chăm sóc bệnh nhân...Trẻ nhận thức
được thế giới xung quanh và phản ánh vào trong trò chơi. Chơi là trường học
của cuộc sống và như lời của nhà văn hào lỗi lạc Nga Macxim Gorki đã từng
nói: Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng đối với trẻ. Đứa trẻ thể hiện như thế
nào trong trò chơi thì sau này nó cũng thể hiện như thế trong công việc. Vì

Trần Thị Ngọc

10

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

vậy một nhà hoạt động trong tương lai trước tiên phải được giáo dục trong trò
chơi.[1, tr 65]
1.5.2 Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 4-5 tuổi
Đến tuổi mẫu giáo nhỡ, hoạt động vui chơi của trẻ mới mang đầy đủ ý
nghĩa và có thể nói đã phát triển tới mức hoàn thiện. Xã hội trẻ em được
hình thành, mối quan hệ Người- Người được phản ánh rõ nét trong trò chơi,
được tham gia chơi trong nhóm trở thành nhu cầu không thể thiếu của trẻ.
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc hình thành nhân cách mà nếu người lớn
không thấy được nhu cầu đó của trẻ, tạo điều kiện cho chúng chơi thì sẽ là
một sai lầm trong giáo dục.
ở trẻ mẫu giáo nhỡ thì đời sống tình cảm đã có một bước chuyển biến
mạnh mẽ. Nhu cầu được yêu thương của trẻ rất lớn, trẻ thèm khát sự yêu
thương của mọi người đồng thời rất lo sợ trước thái độ lạnh nhạt của người

xung quanh. Trẻ thường thể hiên sự quan tâm thông cảm đối với những người
xung quanh mà trước hết là với bố mẹ, ông bà, anh chị, cô giáo.... Trẻ có rung
cảm với cái đẹp trong tự nhiên, kích thích trẻ làm điều tốt mang lại niềm vui
cho mọi người. Đây là thời điểm rất thuận lợi cho việc giáo dục thẩm mĩ và
chính việc giáo dục thẩm mĩ lại có khả năng mang lại hiệu quả to lớn đối với
quá trình phát triển toàn diện nhân cách của trẻ và nhất là giáo dục đạo đức.
1.5.3 Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ 5-6 tuổi
Trẻ 5- 6 tuổi là lứa tuổi chuẩn bị bước vào trường phổ thông. Đây là một
môi trường hoàn toàn mới mà trẻ được tham gia, vì thế tâm lí của trẻ có những
bước phát triển quan trọng. Hoạt động vui chơi vốn giữ vai trò chủ đạo trong
suốt thời kì mẫu giáo thì bây giờ những yếu tố của hoạt động học tập bắt đầu
nảy sinh để tiến tới giữ vị trí chủ đạo ở giai đoạn sau.
Trẻ có khả năng tự nhận biết được giới tính của mình. Trẻ không những
nhận ra mình là trai hay gái mà còn biết rõ rằng nếu mình là trai hay gái thì
hành vi phải thể hiện như thế nào cho phù hợp với giới tính. Chẳng hạn con

Trần Thị Ngọc

11

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

trai thì thích đóng vai bộ đội, công an...Còn các em gái thì thích làm cô giáo
hay người bán hàng...Trẻ ở lứa tuổi này phát triển rất nhanh về ngôn ngữ và có
thể sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ, biết sử dụng ngữ điệu để thể hiện cảm xúc

trong giao tiếp. Tuy nhiên trên thực tế thì còn rất nhiều trẻ còn nói ngọng, nói
sai, phát âm chưa chính xác. Tóm lại: Có thể nói bước ngoặt 6 tuổi là một sự
kiện quan trọng đòi hỏi người lớn phải quan tâm, một mặt là để giúp trẻ hoàn
thiện những thành tựu phát triển tâm lí trong suốt thời kì mẫu giáo mặt khác là
cho trẻ làm quen dần với hoạt động học tập và cuộc sống ở trường phổ thông.
1.6 Nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình.
1.6.1 Giáo dục thể chất.
Trẻ mẫu giáo là lứa tuổi còn khá non nớt và nhạy cảm. Đây là giai đoạn
cơ thể trẻ đang dần hoàn thiện về mọi mặt, do đó thời kì này trẻ rất cần được
chăm sóc nuôi dưỡng một cách chu đáo, được thoả mãn mọi nhu cầu sinh lí
để lớn lên khoẻ mạnh và phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Đó
chính là việc đảm bảo cho trẻ nhu cầu dinh dưỡng hợp lí và tổ chức các hoạt
động nhằm rèn luyện và phát triển các tố chất thể lực.


Dinh dưỡng: Gia đình đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng một cách hợp lí về

chất, lượng và có tỉ lệ cân đối giữa các chất: Protein, Lipit, Gluxit, Vitamin và
khoáng chất cho từng trẻ.
Thường xuyên thay đổi món ăn cho trẻ, chế biến món ăn phù hợp với
khả năng tiêu hoá của trẻ, hợp khẩu vị và giúp trẻ ăn ngon miệng.


Phát triển các tố chất thể lực: Gia đình tạo không gian cho trẻ được hoạt

động, vận động: Chạy nhảy, leo trèo, bò, trườn...Hướng dẫn trẻ các vận động:
Nhảy dây, ném bóng...
Gia đình tạo điều kiện cho trẻ được vận động và làm một số việc phù hợp
với khả năng của bản thân, giao một số nhiệm vụ nhẹ nhàng như: Xách túi,
xách làn, di chuyển các vật nhẹ...Tham gia một số trò chơi đặc biệt là trò chơi


Trần Thị Ngọc

12

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

đóng vai theo chủ đề, cách chơi, cách nhập vai cho phù hợp nhằm phát triển
đời sống tâm lí tinh thần và thể chất khoẻ mạnh cho trẻ.
1.6.2 Giáo dục xúc cảm, tình cảm
Người lớn trong gia đình cần giáo dục trẻ nhận biết chính xác xúc cảm của
mình và nói ra được bằng lời. Từ đó trẻ nhận biết chính xác cảm xúc của
những người xung quanh.
Giáo dục trẻ kính trọng yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị và thể hiện
qua những việc làm cụ thể. Ví dụ: Lấy giúp ông bà, cha mẹ các vật dụng, đồ
dùng...nhất là khi ông bà, cha mẹ đau ốm.
Gia đình giáo dục trẻ biết thông cảm, đồng cảm với những người xung
quanh, biết chia sẻ niềm vui, nỗi buồn bằng những việc làm của mình: Chia đồ
chơi cho bạn, không quấy khóc khi cha mẹ bận rộn...
Gia đình giáo dục trẻ có nhu cầu muốn giúp đỡ những người xung quanh
khi họ gặp khó khăn bệnh tật, trẻ thấy được đó là niềm vui, niềm hạnh phúc.
Gia đình cần giáo dục cho trẻ có tình cảm trong sáng, lành mạnh, đúng
đắn, biết yêu thương những người ruột thịt và những người xung quanh.
1.6.3 Giáo dục tinh thần hợp tác với những người xunh quanh.
Trong gia đình cần cung cấp cho trẻ những kiến thức về sự hợp tác và

sự kết hợp nhiều người trong hoạt động để nhằm đạt kết quả cao, đạt được
mục đích chung.
Gia đình cần giáo dục cho trẻ hiểu được sự cần thiết phải đoàn kết, giúp
đỡ lẫn nhau để tạo ra sức mạnh của gia đình dòng họ và xã hội. Trong gia đình
giáo dục hợp tác cho trẻ là thuận lợi nhất. Ví dụ: Trẻ giúp mẹ nhặt rau, lấy cốc
nước sẽ được mẹ thưởng cho bánh kẹo...
Gia đình cần giáo dục trẻ biết hợp tác với mọi người xung quanh bằng cách
có thể đưa trẻ vào các tình huống khó.Ví dụ: Trẻ muốn xem đồ chơi mới của
bạn, muốn tham gia chơi cùng bạn mà bạn không cho chơi cùng thì trẻ sẽ phải
làm như thế nào để bạn cho chơi...

Trần Thị Ngọc

13

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

1.6.4 Giáo dục các tính cách tốt cho trẻ.
a) Sự công bằng.
Trong gia đình phải quan tâm, chăm sóc và nuôi dưỡng giáo dục trẻ để đáp
ứng những nhu cầu cần thiết, cho trẻ thoả mãn sự mong muốn được cư xử
công bằng và được quan tâm như mọi người trong gia đình.
Tuy nhiên có những hoàn cảnh, tình huống có những gia đình thì các cháu
không được đối xử công bằng. Ví dụ: Mẹ mới sinh em bé nên trong những
ngày đầu mẹ phải dành sự quan tâm cho em bé... Trong trường hợp này đòi

hỏi mọi người trong gia đình phải thay mẹ chăm sóc với trẻ để trẻ cảm thấy
công bằng, cảm nhận được là bé vẫn được mọi người yêu thương chăm sóc.
b) Lòng can đảm.
Gia đình cần giáo dục lòng can đảm nghĩa là phải giáo dục cho trẻ biết
đương đầu với những khó khăn và dám chấp nhận thất bại để thành công.
Giáo dục trẻ không nên sợ hãi trước sự đổi thay của cuộc sống mà hãy bình
tĩnh xem xét chấp nhận và tìm cách giải quyết.
c) Sự chăm chỉ
Trẻ ở tuổi mẫu giáo thì đã có khả năng tham gia một số việc nhỏ cho mình
và giúp những người xung quanh bởi vậy gia đình cần giáo dục các cháu tích
cực và chăm chỉ tham gia những việc phù hợp như quét nhà, nhỏ cỏ
vườn...Qua đó hình thành thói quen chăm chỉ thích đựơc làm việc, lao động,
có trách nhiệm với công việc, làm có kết quả và cố gắng đạt được kết quả tốt
nhất. Tuy nhiên ban đầu trẻ có thể làm chưa quen hoặc làm chưa đến nơi đến
chốn, do đó các thành viên trong gia đình cần làm mẫu và nhắc nhở, huyến
khích các cháu làm những công việc có ích.
d) Sự tôn trọng.
Gia đình cần giáo dục trẻ có thái độ hành vi lễ phép khiêm tốn trong ứng
xử, không nói tục, nói bậy, nói trống không, cáu gắt với người hơn tuổi...

Trần Thị Ngọc

14

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Muốn vậy các gia đình đặc biệt là cha mẹ phải là tấm gương cho trẻ noi theo,
gia đình cần tôn trọng trẻ và dạy trẻ tôn trọng các thành viên trong gia đình.
e) Niềm tự hào.
ở trẻ mẫu giáo các em đã xuất hiện lòng tự hào khi được cô giáo hay bố
mẹ khen là ngoan, giỏi. Trẻ tự hào khi vượt qua được một bài tập khó mà một
số bạn không làm được... Để giáo dục được lòng tự hào cho trẻ gia đình nên
giao cho trẻ những công việc phù hợp với đặc điểm sinh lí của trẻ và trẻ cần
phải cố gắng mới hoàn thành tốt và khi thực hiện thì trẻ thấy hứng thú tò mò
như quét nhà, quét sân... Điều này có tác động tích cực để xây dựng các thói
quen hành vi đạo đức cho trẻ.
1.6.5 Giáo dục hành vi giới tính cho trẻ.
Giáo dục hành vi giới tính diễn ra nhanh mạnh và có sức thuyết phục rất
lớn từ gia đình. Thông qua các hành vi có có tính chất làm mẫu của ông bà,
cha mẹ mà trẻ học tập nhập tâm và bắt chước theo.
Cha mẹ thường xuyên giao việc và đòi hỏi trẻ phải thực hiện các công việc
theo giới. Chẳng hạn: Con gái cùng mẹ nhặt rau, nấu cơm còn con trai thì
cùng bố lấy kìm, búa, đinh sửa xe đạp, xe máy...Con gái thì nhẹ nhàng, duyên
dáng, con trai thì mạnh mẽ, dám làm, dám chịu...
Ngoài ra cha mẹ và các thành viên trong gia đình cần có sự mẫu mực trong
sinh hoạt ứng xử với nhau hằng ngày để trẻ dễ nhập tâm bắt chước, thể hiện
trong trò chơi đóng vai theo chủ đề. Cha mẹ cũng cần trả lời các câu hỏi có
liên quan đến giới tính một cách đúng đắn nghiêm túc và uốn nắn các hành vi
không phù hợp với giới tính của trẻ.
1.6.6 Giáo dục thẩm mĩ trong gia đình.
Trong gia đình bố mẹ nên treo các bức tranh đẹp, trồng các khóm hoa chậu
cảnh đẹp, trang trí phòng ngủ, phòng ăn, nơi tiếp khách hài hoà, sinh động...
Qua đó gây cho trẻ cảm xúc tích cực, yêu thích cái đẹp.

Trần Thị Ngọc


15

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Cha mẹ và các thành viên trong gia đình cần phải thể hiện các hành vi, lời
nói, ứng xử đẹp trong giao tiếp với trẻ và trong sinh hoạt hằng ngày, thường
xuyên có những nhận xét xấu, đẹp về hành vi, lời nói diễn ra xung quanh trẻ
như là một sự hướng dẫn nhận thức đối với vẻ đẹp cho trẻ.
Gia đình cũng cần phải giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua việc trang trí
trong gia đình. Giao cho trẻ việc trang trí nhà cửa trong ngày lễ, tết, trước khi
đến lớp cùng trẻ chọn quần áo, chải đầu tóc gọn gàng...Bồi dưỡng những xúc
cảm thẩm mĩ cho trẻ từ gia đình giúp trẻ lớn lên không chỉ biết bảo vệ, giữ gìn
cái đẹp mà còn biết hành động để tạo ra cái đẹp cho mình và cho mọi người.
1.6.7 Giáo dục đạo đức.
Giáo dục đạo đức cho trẻ trong gia đình là giúp trẻ nhận biết được những
điều thiện, điều ác từ đó có hành vi, lời nói, ứng xử phù hợp. Giáo dục điều
thiện điều ác bắt nguồn từ chính tình yêu thương nồng ấm của cha mẹ, từ sự
mẫu mực về hành vi, hành động của cha mẹ, từ sự nghiêm khắc yêu cầu cao
của gia đình sẽ yêu thương con người, lớn lên sẽ làm việc thiện cho gia đình
và cho xã hội.
Các nội dung trên đây được coi là căn bản bởi lẽ từ các nội dung này trẻ sẽ
có được những sản phẩm tổng hợp khá hấp dẫn như tinh thần trách nhiệm và
sự tôn trọng sẽ hình thành tính kỉ luật, từ yêu thương kính trọng cha mẹ, ông
bà mà trẻ biết kiềm chế, từ lòng can đảm, sự công bằng và khả năng hợp tác

trẻ sẽ tự tin bản lĩnh... Từ tình yêu thương kính trọng ông bà, cha mẹ đến bạn
bè để trở thành tình yêu thương con người, sự khoan dung nhân từ thành nền
tảng đạo đức.

Trần Thị Ngọc

16

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Chương 2
Thực trạng nhận thức
của các bậc phụ huynh về nội dung giáo
dục trẻ mẫu giáo trong gia đình khu vực
Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
2.1 Vài nét khái quát về khách thể nghiên cứu.
Vĩnh Yên là một thành phố mới, tập trung khá đông dân cư và đang trên
đà phát triển, đổi mới về mọi mặt. Điều kiện sống của người dân nơi đây rất
khá giả và có thể nói họ có khả năng về kinh tế để chăm lo cho con cái của
mình. Nhìn chung, trẻ ở khu vực này được chăm sóc khá chu đáo cả về thể
chất lẫn tinh thần, được đảm bảo mọi nhu cầu cần thiết, ăn ngủ, học tập, vui
chơi, giải trí một cách hợp lí. Đây chính là một trong những thuận lợi giúp cho
công tác chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
Trong 2,5 tháng được về thực tập tại trường mầm non Ngô Quyền- Vĩnh
Yên- Vĩnh Phúc, tôi đã có dịp được gần gũi, tiếp xúc và trò chuyện với các

bậc phụ huynh, các trẻ ở khu vực này. Qua tìm hiểu, tôi được biết phần lớn
phụ huynh ở đây đều là công nhân viên chức nhà nước, bộ đội, giáo viên, công
an... Một số ít ở nhà làm nội trợ hoặc buôn bán, kinh doanh. Do đó, nhận thức
của họ về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình cũng khác nhau và ít nhiều còn
hạn chế. Đa số các bậc cha mẹ đều rất quan tâm đến con cái mình, dành thời
gian chăm sóc, đưa đón con đi học. Số ít còn lại do yếu tố công việc phải đi
làm cả ngày, làm theo ca hoặc quá bận bịu với công việc, tập trung làm ăn
buôn bán nên chưa có thời gian chăm sóc con. Một số khác thì giao con cho
ông bà, thậm chí có người còn gửi con ở trường mầm non từ sáng đến chiều,
hết giờ đã lâu mà quên chưa đến đón con. Có gia đình vì quá mải làm kinh tế
mà họ giao luôn con cho người giúp việc, chăm sóc đưa đón đều có người giúp
việc lo. Chính điều này đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến mối quan hệ

Trần Thị Ngọc

17

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

giữa cha mẹ và con cái cũng như quá trình chăm sóc, nuôi dạy trẻ ở gia đình.
Mặt khác, trình độ nhận thức cũng là một vấn đề cần được nói tới. Có không ít
các bậc cha mẹ khi được hỏi về các nội dung giáo dục trẻ trong gia đình đều
rất lúng túng, có người thì lại cho rằng chỉ cần giáo dục một vài nội dung chứ
không nhất thiết phải giáo dục tất cả. Do đó xảy ra tình trạng có người coi
trọng lại có người xem nhẹ. Hơn nữa trong khi giáo dục con cái, việc trống

đánh xuôi, kèn thổi ngược cũng tạo nên những khó khăn trong khi nhìn nhận
các nội dung giáo dục trẻ ở gia đình.
Tuy vậy, cũng có rất nhiều các bậc phụ huynh đã quan tâm chăm lo cho con
cái, thường xuyên gặp gỡ giáo viên chủ nhiệm để trao đổi tình hình của trẻ,
tham khảo mua các loại sách hướng dẫn nuôi dạy trẻ. Với những điều kiện
như vậy nên trẻ em ở khu vực này cũng có những đặc điểm tâm sinh lí khác so
với trẻ em các khu vực nông thôn. Trẻ thường đựơc ông bà, bố mẹ nuông
chiều vì thế rất hay nhõng nhẽo, bướng bỉnh đến lớp hay giành đồ chơi của
bạn, ăn vạ...Trẻ cũng khá nhanh nhẹn, ý thức kỉ luật tốt và có tinh thần tự giác
cao: Biết tự lau tay, lau miệng sau khi ăn, cất đồ chơi, cất ghế trước khi về,
biết tự bỏ rác vào thùng... Tuy nhiên, tình trạng trẻ nói ngọng, nói sai còn khá
phổ biến.
Tất cả những vấn đề nêu trên có ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của
các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ trong gia đình. Và để tìm hiểu rõ
hơn tôi đã tiến hành xây dựng hệ thống phiếu điều tra và đã thu được những
kết quả nhất định.
2.2 Thực trạng nhận thức của các bậc phụ huynh khu vực Vĩnh YênVĩnh Phúc về nội dung giáo dục trẻ mẫu giáo trong gia đình.
Để tìm hiểu nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục trẻ
mẫu giáo trong gia đình tôi đã đưa ra hệ thống câu hỏi theo từng nội dung và
đáp án trong phiếu trưng cầu ý kiến. Đồng thời tôi cũng đã gần gũi, tiếp xúc

Trần Thị Ngọc

18

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp


Trường ĐHSP Hà Nội 2

và trò chuyện giúp họ có những hiểu biết đúng đắn về các nội dung giáo dục
trẻ trong gia đình.
Tôi đã tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến và điều tra đối với phụ huynh
có con ở các độ tuổi sau:
- 32 phụ huynh có con lớp 5 tuổi.
- 37 phụ huynh có con lớp 4 tuổi.
- 21 phụ huynh có con lớp 3 tuổi.
Tổng số phiếu điều tra là 90 phiếu.
2.2.1 Thực trạng nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục
thể chất và giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo trong gia đình.
Bảng 1: Nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung giáo dục thể chất
cho trẻ mẫu giáo.
STT

1

2

Số ý

Tỉ lệ

kiến

(%)

Rất cần


66

66,7

Cần

23

25,5

Không

7

7,8

Anh (chị) hướng dẫn trẻ ăn

Ăn nhiều thịt cá

3

3,3

uống như thế nào để đảm

Ăn nhiều cơm

0


0

Ăn nhiều rau quả

0

0

Ăn đầy đủ cơm, rau,thịt cá

87

96,7

Để trẻ tự chơi

21

23,3

67

74,4

Cấm trẻ không chơi

2

2,3


Gia đình anh (chị) thường tổ

Ăn đủ chất

5

5,6

chức giáo dục thể chất cho

Luyện tập thể thao

8

8,9

Không có hoạt động nào

3

3,3

Ăn đủ chất kết hợp luyện tập thể thao

74

82,2

Nội dung điều tra


Phương án lựa chọn

Theo anh (chị) việc phát
triển các tố chất thể lực cho
trẻ có cần thiết không?

bảo sức khoẻ?

Khi trẻ chơi các trò chơi
3

4

vận động, anh (chị):

trẻ như thế nào?

Trần Thị Ngọc

Hướng dẫn và khuyến khích trẻ chơi

19

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Qua số liệu ở bảng trên, ta có thể nhận thấy
Câu hỏi 1: Trong việc giáo dục và phát triển các tố chất thể lực cho trẻ lứa
tuổi mẫu giáo thì có tới 60 phụ huynh chiếm 66,7% chọn câu trả lời là rất cần
thiết. Điều này cho thấy phần lớn các bậc phụ huynh đều đánh giá cao vai trò
của việc phát triển các tố chất thể lực cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Đây là thời
kì mà hoạt động của não bộ, hệ thần kinh cũng như các cơ quan khác trong cơ
thể trẻ đang dần hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ. Nếu người lớn trong gia
đình kịp thời nắm bắt và giúp trẻ tăng cường thể lực thì đó sẽ là cơ hội để trẻ
có một sức khoẻ tốt, tạo đà cho các giai đoạn tiếp theo. Khi được hỏi các bậc
phụ huynh này đều cho biết thông qua các hoạt động hằng ngày, gia đình bồi
dưỡng hứng thú và giáo dục thể chất cho trẻ giúp trẻ có một tinh thần và tâm lí
thoải mái, trẻ trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát. Trẻ tích cực tham gia lao động và
vận động. Nhờ đó trẻ tự tin, mạnh dạn trong mọi công việc.
Ngoài ra có 23 phụ huynh chiếm 25,5% cho rằng việc phát triển các tố
chất thể lực cho trẻ là có cần thiết. Theo họ, đối với trẻ nhỏ việc giáo dục thể
chất có thì tốt mà không có thì cũng không sao. Họ không thực sự đánh giá
cao vai trò của giáo dục thể chất cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. ở các gia đình
này trẻ thường rất ít khi có cơ hội được hoạt động hay leo trèo, chạy nhảy...
Do đó, trẻ cũng thường ít có hứng thú với các trò chơi vận động được tổ chức
ở các lớp học.
Có 7 phụ huynh chiếm 7,8 % có câu trả lời là không cần thiết. Qua tìm
hiểu tôi được biết đây phần lớn là những người làm nghề buôn bán kinh
doanh. Họ không có thời gian dành cho con cái nên thường giữ con ở một chỗ,
trẻ không có không gian hoạt động, cũng có người cho rằng trẻ còn nhỏ thế
không nên cho leo trèo dễ gây tai nạn. Chính vì lí do đó mà các bậc phụ huynh
này không coi trọng vai trò của việc giáo dục thể chất cho trẻ khi còn nhỏ.

Trần Thị Ngọc

20


K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Câu hỏi 2: Tìm hiểu về việc xây dựng chế độ dinh dưỡng trong việc giáo
dục thể chất cho trẻ tôi thu được kết quả như sau:
86 phụ huynh chiếm 95,6% đồng ý với việc nên tập cho trẻ ăn đầy đủ cơm,
rau, thịt cá để đảm bảo cung cấp một cách toàn diện các chất dinh dưỡng cho
cơ thể trẻ. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn bởi với cơ thể còn non yếu và
cần được chăm sóc chu đáo của trẻ thì việc hướng dẫn trẻ ăn uống đủ chất,
hợp lí là một điều rất quan trọng. Các bậc phụ huynh này đều cho rằng dinh
dưỡng hợp lí là một vấn đề rất cần được quan tâm trong việc giáo dục thể chất
và nâng cao thể lực cho trẻ, có tác động toàn diện đến cơ thể, tâm lí của trẻ.
Nếu trẻ không được ăn uống đầy đủ, đảm bảo cả chất và lượng thì trẻ không
thể có một thể trạng, tinh thần sảng khoái và ổn định. Qua trò chuyện tôi cũng
được biết trong bữa ăn các gia đình cũng thường xuyên thay đổi món, chế biến
thức ăn phù hợp với đặc điểm tiêu hoá của trẻ. Tuy nhiên, không phải phụ
huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề này.
Có 3 phụ huynh chiếm 3,3% lại cho rằng trẻ chỉ cần ăn thịt cá là đảm bảo
được sức khoẻ. Tư tưởng này xuất phát từ tâm lí xưa nay trong các bữa ăn ở
gia đình thì thịt cá luôn là món ăn chính và trẻ thường thích ăn thịt cá hơn là
rau quả. Trẻ cũng không được cha mẹ hướng dẫn là cần ăn thêm rau, củ, quả,
cơm mới đủ chất cung cấp cho cơ thể. Quan sát con của các bậc phụ huynh
này tôi thấy trẻ thường rất ít ăn canh hoặc nếu có chan canh thì chỉ ăn nước
chứ không ăn rau. Như vậy vô hình các bậc cha mẹ đã tạo cho con thói quen
xấu mà sau này rất khó sửa.

Câu hỏi 3: Nếu xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lí là một mặt của việc rèn
luyện thể chất cho trẻ thì trò chơi vận động cũng là một phần không thể thiếu.
Trong số 90 phụ huynh đựợc hỏi về thái độ của cha mẹ trước các trò chơi
vận động của trẻ thì có 67 phụ huynh chiếm 74,4% là thường xuyên hướng
dẫn và khuyến khích trẻ chơi. Từ đó cho thấy các bậc phụ huynh đã nhận thức
rất đúng đắn về vai trò của trò chơi vận động đối với sự phát triển thể chất của

Trần Thị Ngọc

21

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

trẻ. Họ đã hiểu đựơc rằng trẻ mẫu giáo phải được chơi, được vận động thì mới
linh hoạt, nhanh nhẹn và sáng tạo. Các trò chơi vận động là nhu cầu trong
cuộc sống của trẻ, trẻ không thể phát triển cân đối khi không được hoạt động,
được tham gia chơi. Những bậc phụ huynh chọn câu trả lời này đa phần đều là
những người rất coi trọng giáo dục thể chất. Chính vì thế họ hiểu được ý
nghĩa của trò chơi vận động trong quá trình phát triển của trẻ và có phương
pháp hướng dẫn con cái mình chơi một cách khoa học và an toàn.
Có 21 phụ huynh chiếm 23,3% cho rằng nên để trẻ tự chơi các trò chơi vận
động. Họ đã hiểu được vai trò của các trò chơi vận động, tuy nhiên lại chưa có
phương pháp hướng dẫn trẻ chơi phù hợp. Trò chơi vận động rất bổ ích song
cũng có lúc sẽ gây nguy hiểm cho trẻ nếu không có sự theo dõi, quan sát của
người lớn. Do đó, bên cạnh việc khuyến khích trẻ chơi thì cũng cần hướng dẫn

trẻ chơi sao cho đúng, cho an toàn. Đây đều là các gia đình có bố mẹ đi làm cả
ngày hoặc bận làm ăn, họ thường để con tự chơi một mình hay chơi với bạn
mà không để ý.
Còn lại 2 phụ huynh chiếm 2,3% thì hoàn toàn không muốn cho trẻ tham
gia các trò chơi vận động. Theo họ như thế qua nguy hiểm và không vừa sức
với trẻ. Qua tìm hiểu tôi được biết trong 2 gia đình này thì một gia đình làm
nghề buôn bán tự do còn một gia đình thì có điều kiện kinh tế rất khá giả và
chăm sóc con rất cẩn thận. Họ không muốn con chơi các trò chơi vận động vì
sợ xảy ra tai nạn. Như vậy, có thể do nhận thức chưa đầy đủ, sợ con gặp nguy
hiểm hoặc quá bận bịu với công việc không thể trông được con mà các bậc
phụ huynh này đã cấm không cho trẻ chơi. Chính điều này đã tạo ra những tác
động tiêu cực, có ảnh hưởng rất lớn đến việc rèn luyện thể chất cũng như quá
trình phát triển của trẻ.
Câu hỏi 4: Gia đình nhận thức được tầm quan trọng của nội dung giáo dục
thể chất cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Vậy trong gia đình các bậc cha mẹ
thường có những hoạt động nào để giáo dục thể chất cho con?"

Trần Thị Ngọc

22

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

Có 5 phụ huynh chiếm 5,6% cho rằng trẻ chỉ cần ăn uống đủ chất là đảm
bảo có sức khoẻ tốt. Các gia đình này thường rất ít khi dành thời gian để vui

chơi cùng con cái mà chỉ quan tâm đến việc chăm lo bữa ăn cho trẻ, cho trẻ ăn
thật nhiều mà không quan tâm đến các nhu cầu khác. Theo các bậc phụ huynh
này, trẻ chỉ cần được nuôi dưỡng tốt là đủ.
Có 8 phụ huynh chiếm 8,9% đồng ý rằng phát triển thể chất cho trẻ thông
qua các hoạt động luyện tập thể dục thể thao. Đây là ý kiến đúng song chưa
đầy đủ vì họ chưa chú ý đến việc xây dựng chế độ ăn uống, dinh dưỡng của
trẻ. Khi được hỏi các bậc phụ huynh này cho biết là thường cùng trẻ tập thể
dục vào buổi sáng hay thỉnh thoảng giao cho trẻ các công việc nhẹ như tưới
hoa hay quét nhà... Họ tạo cơ hội cho trẻ được vận động, trong gia đình cha
mẹ cũng dành nhiều thời gian chăm sóc trẻ. Đây là một hoạt động rất có ý
nghĩa với mục đích rèn luyện các tố chất thể lực cho trẻ trong gia đình.
Đa số các bậc phụ huynh, 74 phụ huynh chiếm 82,2% thì nêu ý kiến là cần
phải có sự kết hợp giữa ăn uống và luyện tập các hoạt động thể dục thể thao.
Những bậc phụ huynh này đã nhận thức được vai trò của giáo dục thể chất và
có phương pháp giáo dục con khoa học. Quan sát con của các bậc phụ huynh
này tôi thấy các cháu rất hiếu động, nhanh nhẹn. Trẻ rất tích cực và hào hứng
tham gia các trò chơi, hoạt động khám phá khoa học. Nhờ những hoạt động
này mà trẻ vừa có sức khỏe lại vừa có tinh thần thoải mái, tạo điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển chung về mọi mặt của trẻ.

Trần Thị Ngọc

23

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2


Bảng 2: Nhận thức của các bậc phụ huynh về nội dung
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo.
STT

1

Số ý

Tỉ lệ

kiến

(%)

Rất cần

63

70

Cần

22

24,4

Không

5


5,6

Trước khi đến trường trẻ

Theo ý thích của trẻ

19

21,1

thường chọn quần áo như

Theo ý thích của bố mẹ

4

4,4

Chọn quần áo gọn gàng phù hợp .

67

74,5

Treo tranh ảnh, trang trí chậu hoa, cây cảnh

20

22,2


0

0

phục, hành vi xấu, đẹp hướng dẫn trẻ

66

73,4

Không có hoạt động nào

4

4,4

diễn nghệ thuật.

15

16,7

Cho trẻ tham gia cuộc thi vẽ tranh, múa hát

20

22,2

Đưa trẻ đi mua giấy, bút vẽ


55

61,1

Nội dung điều tra

Phương án lựa chọn

Theo anh (chị) việc phát
triển khiếu thẩm mĩ cho
trẻ có cần thiết không?

2

thế nào?

Trong gia đình anh (chị) Thường trang điểm cho trẻ(soi gương, buộc nơ)
có diễn ra hoạt động nào
3

dưới đây?

Khi xem ti vi thường có nhận xét về trang

Dẫn trẻ đi xem triển lãm mĩ thuật hay biểu
4

Anh (chị) đã tổ chức cho
trẻ tham gia hoạt động

nào dưới đây?

Câu hỏi 1: Có 63 phụ huynh chiếm 70% cho rằng việc phát triển khiếu
thẩm mĩ là rất cần thiết cho trẻ mẫu giáo. Họ luôn chú ý phát triển khiếu thẩm
mĩ cho con và coi đó là một nội dung quan trọng trong việc dạy dỗ trẻ. Đứa trẻ
ngụp lặn trong các sản phẩm nghệ thuật, trong thế giới cái đẹp sẽ hình thành
nên những tâm hồn nghệ thuật, không chỉ biết thưởng thức cái đẹp mà còn
hành động tạo ra cái đẹp, hưởng ứng với cái đẹp: Thấy bạn hát hay trẻ biết vỗ
tay, khi nhìn bức tranh trẻ biết khen đẹp...Đó là những yếu tố không thể thiếu
để hình thành và bồi dưỡng khiếu thẩm mĩ cho trẻ.
Trong khi đó có 22 phụ huynh chiếm 24,4% lại cho ý kiến rằng việc phát
triển thẩm mĩ là cần thiết cho trẻ mẫu giáo. Họ không đánh giá cao vai trò của

Trần Thị Ngọc

24

K32 Mần non


Khoá luận tốt nghiệp

Trường ĐHSP Hà Nội 2

giáo dục thẩm mĩ đố với trẻ. Họ nghĩ rằng, trẻ còn còn nhỏ chưa cần biết về
cái đẹp, cho nên giáo dục cũng được mà không giáo dục cũng không sao, sau
này khi học ở các bậc học cao hơn dần dần trẻ sẽ biết, không nhất thiết phải
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ ngay ở tuổi mầm non, lớn lên trẻ sẽ tự phân biệt
được đâu là đẹp và đâu là không đẹp. Với suy nghĩ như vậy, họ đã kết luân
việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ chỉ là một việc làm cần thiết.

Bên cạnh đó lại có 5 phụ huynh chiếm 5,6% thì cho rằng trẻ nhỏ không cần
thiết phải giáo dục thẩm mĩ, nên dành thời gian đó để giáo dục cái khác. Có
người thì lại cho rằng việc giáo dục thẩm mĩ là của nhà trường, của các cô
giáo chứ gia đình thì không có gì phải giáo dục. Đây phần lớn là những bậc
phụ huynh làm nghề buôn bán ngoài chợ, và trong cách đánh giá có phần xem
nhẹ nội dung giáo dục này.
Câu hỏi 2: Từ nhận thức vai trò của giáo dục thẩm mĩ mà các bậc phụ
huynh cũng có những ý kiến khác nhau trong việc chọn quần áo cho trẻ.
Có 19 phụ huynh chiếm 21,1% sẽ chọn quần áo theo ý thích của trẻ trước
khi đến trường. Đây đa phần đều là các gia đình chiều chuộng con cái và đánh
giá không cao vai trò của giáo dục thẩm mĩ. Theo họ trẻ đang ở lứa tuổi hồn
nhiên, thích tự do thoải mái, vì vậy trẻ thích gì thì mặc. Họ không quan tâm
đến việc trẻ mặc quần áo như thế nào? Có đẹp hay không? Miễn sao là trẻ cảm
thấy thích thú. Với tâm lí chiều con như vậy, trẻ lại hay nhõng nhẽo đòi gì
được nấy và nếu trẻ mặc quần áo chưa phù hợp mà không có sự uốn nắn kịp
thời của cha mẹ thì chúng rất dễ nhiễm thói xấu ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của trẻ sau này.
Có 67 phụ huynh chiếm 74,5% sẽ chọn quần áo gọn gàng phù hợp với thời
tiết. Họ là những gia đình đánh giá rất cao tầm quan trọng của giáo dục thẩm
mĩ. Chính từ nhận thức như vậy mà họ giáo dục con cái mình rất khoa học,
theo hướng tích cực và lành mạnh. Qua điều tra tôi được biết họ luôn hướng
dẫn con mình phải ăn mặc sạch sẽ, phù hợp với lứa tuổi, giới tính và thời tiết.

Trần Thị Ngọc

25

K32 Mần non



×