Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Bài tập tình huống chương trình chuyên viên chính HVHC:quản lý nhà nước đối với văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.25 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

3

Mục đích, yêu cầu và cơ sở pháp lý của việc bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật

6

I. Mục đích, yêu cầu

6

II. Cơ sở pháp lý

8

Nội dung tình huống vụ việc xâm phạm di tích kiến trúc
– nghệ thuật Đình Trong
I. Mô tả tình huống và diễn biến tình huống

10
10

1. Lịch sử làng Hòa Mục và cụm di tích Đình
Trong

10


2. Diễn biến tình huống

12

II. Xác định mục tiêu và xử lý tình huống

16

III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả

16

IV. Các phương án giải quyết vụ việc

20

Kiến nghị và kết luận
I.

25

Kiến nghị

25

II. Kết luận

27

Tài liệu tham khảo


29

1


Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Hoàng Văn Chức, Trưởng khoa Đào
tạo bồi dưỡng công chức và tại chức, các giảng viên Lớp Bồi dưỡng về quản lý
nhà nước chương trỡnh chuyờn viờn chớnh - Học viện Chớnh trị - Hành chớnh
Quốc gia Hồ Chớ Minh cựng nhiều bạn bè, đồng nghiệp đó tận tỡnh giỳp đỡ tôi
hoàn thành tiểu luận này.
Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian, tài liệu và nguồn thông tin nên nội
dung tiểu luận chắc chắn cũn nhiều hạn chế. Vỡ vậy tụi mong nhận được sự cảm
thông và châm chước cũng như cỏc ý kiến gúp ý của bạn bố, đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 02/6/2010

Học viờn
Phạm Trần Long

2


MỞ ĐẦU
Di sản văn hóa Việt Nam tồn tại qua bốn nghìn năm lịch sử của dân tộc là
tài sản quý giá, là niềm tự hào và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có
vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, cũng như
chứng tỏ sức sống mãnh liệt và bản lĩnh văn hóa của dân tộc.
Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật

thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước ta. Theo Luật Di sản do Chủ tịch
nước Trần Đức Lương ký lệnh công bố ngày 12/7/2001, được kỳ họp thứ 9,
Quốc hội khóa X thông qua:
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, lưu truyền bằng miệng, bằng
nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn
xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết và nghề thủ công truyền
thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục
truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,
bảo vật quốc gia.
Trong thời đại hội nhập, toàn cầu hóa, sức mạnh của một quốc gia là tổng
hòa của năng lực quân sự, thực lực kinh tế và bề dày lịch sử, văn hóa. Có thể
nói, các di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh không chỉ góp phần giáo
dục nhân dân Việt Nam về truyền thống văn hóa, lịch sử tốt đẹp của cha ông mà
còn là một bộ phận hữu cơ của “hình ảnh Việt Nam” đối với bạn bè quốc tế.
Với cách hiểu này, hơn bao giờ hết, các cơ quan hữu quan và nhân dân ta
có lợi ích và trách nhiệm ra sức bảo quản, tu bổ, phục hồi và phát huy các di tích
3


lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, các giá trị văn hóa truyền thống của cha
ông. Làm tốt việc này cũng chính là góp phần tích cực vào việc quảng bá hình
ảnh đẹp đẽ của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa. Một trong những nhiệm vụ cụ thể mà Nghị
quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII đã chỉ rõ: “Di

sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc
dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và
dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.
Điều 34 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
đã xác định rõ: “Nhà nước và xã hội bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân
tộc, chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác
dụng của di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các công trình nghệ
thuật, các danh lam thắng cảnh.
Nghiêm cấm các hành động lấn chiếm, xâm phạm đến di tích lịch sử, cách
mạng, các di sản văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh”.
Trong những năm đất nước đổi mới, chúng ta đã xác định rõ những định
hướng lớn trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đã quan tâm tạo lập sự
hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế,
góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ năm
2005, Việt Nam gia nhập Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể và trở thành quốc gia thành viên của ủy ban liên chính phủ của Công ước.
Những năm gần đây, nhận thức về vai trò quan trọng của chủ thể văn hóa và
cộng đồng đang được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tại là công tác quản lý
và bảo tồn các di sản văn hóa hiện đang gặp nhiều khó khăn; tình trạng lấn
4


chiếm, xâm phạm các di sản văn hóa ở một số địa phương còn xảy ra thường
xuyên, dưới nhiều hình thức khác nhau và với quy mô đáng lo ngại. Năm 2003,
Hà Nội có hơn 2000 di tích thì có tới 400 di tích bị xâm phạm vào khu vực I và
II; trong số 385 di tích được xếp hạng cấp quốc gia thì có 119 di tích bị xâm hại,
lấn chiếm vào khu vực I và II; 80 - 85% đơn thư khiếu tố gửi tới thanh tra văn
hóa là khiếu nại về lấn chiếm đất đai di tích. Thực trạng này khiến cho việc tăng

cường quản lý nhà nước về văn hóa đang ngày càng trở thành một đòi hỏi cấp
bách.
Xuất phát từ nhận thức trên, với hiểu biết của một công chức nhà nước,
cùng với những kiến thức được trang bị về quản lý nhà nước, tôi xin trình bày
quan điểm, nhận thức của mình về quản lý nhà nước đối với văn hóa thông
qua trường hợp xâm phạm Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia Đình Trong.

5


MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
CÁC DI SẢN VĂN HÓA, KIẾN TRÚC, NGHỆ THUẬT

I.

Mục đích, yêu cầu:

Trong những năm vừa qua, công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa đã nhận được sự quan tâm to lớn của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội.
Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh
số 65 ngày 23/11/1945 về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định
10 nhiệm vụ quan trọng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Điều 34, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
đã xác định rõ “Nhà nước và xã hội, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân
tộc, chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo tồn và phát huy tác
dụng của di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các công trình nghệ
thuật, các danh lam thắng cảnh.

Nghiêm cấm các hành động lấn chiếm, xâm phạm đến di tích lịch sử, cách
mang, các di sản văn hóa, các công trình nghệ thuật, các danh lam thắng cảnh”.
Để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh trong việc giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân
dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và
lòng tự hào dân tộc, nâng cao kiến thức, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học,
đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hóa của nhân dân, xây dựng nền văn hóa
6


mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, làm giàu đẹp kho tàng di sản văn hóa
dân tộc và góp phần làm phong phú văn hóa thế giới. Tạo điều kiện cho nhân
dân thực hiện quyền làm chủ tập thể trong việc bảo vệ và sử dụng các di tích lịch
sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về giá
trị và vai trò của di sản văn hóa trong phát triển và huy động nguồn nhân lực,
phát huy chủ thể văn hóa vào việc bảo tồn di sản văn hóa giúp cho các thế hệ
tương lai có điều kiện kế thừa và sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới làm phong
phú thêm kho tàng di sản văn hóa dân tộc.
Đất nước ta, theo thống kê có gần 4 vạn di tích trong đó có 2795 di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia. Rất nhiều
trong số hàng vạn di tích ấy đã trở nên nổi tiếng không chỉ ở trong nước mà còn
ở quốc tế. Nhiều di sản văn hóa của chúng ta đã được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa và thiên nhiên thế giới như: Di tích cố đô Huế, Khu tháp Chăm Mỹ
Sơn, Phố cổ Hội An, Vịnh Hạ Long, Vường Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng,
Nhã nhạc cung đình Huế, Cồng chiêng Tây Nguyên.
Xác định rõ những định hướng lớn trong việc bảo vệ và phát huy di sản
văn hóa là để tạo lập sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, truyền thống và hiện
đại, dân tộc và quốc tế, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước.
Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng, việc quản lý và bảo tồn di sản văn

hóa (gồm di sản văn hóa phi vật thể và phi vật thể) hiện đang gặp nhiều khó
khăn. Bên cạnh việc ổn định, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, sức cám dỗ của đồng tiền trong nền kinh tế thị trường cũng đang
khiến cho nhiều di tích văn hóa bị khai thác một cách bừa bãi. Thêm vào đó, do
quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, việc phát triển du lịch không đồng
bộ và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ cũng gây ra những tác động tiêu cực tới môi
trường cảnh quan xung quanh các di tích.
7


Ở một số tỉnh, các cấp chính quyền do yếu kém về mặt nhận thức không
làm tròn trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc quản lý Nhà nước về di
sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ, đã cho xây dựng nhà
văn hóa, khu công viên, bãi đỗ xe ô tô… ngay trong khu vực bảo vệ của di tích
đã được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia như: Di tích thành cổ Nhà Mạc (Hòa
Bình), Lăng mộ Tuy Lý Vương (Thừa Thiên Huế), di tích Cổ Loa (Hà Nội), Khu
di chỉ làng Vạc (Nghệ An), Đình Trong (Hà Nội)… Có thể thấy việc bảo vệ và
phát huy các di sản văn hóa là một công việc lâu dài và khó khăn, đòi hỏi sự
tham gia và hợp tác không chỉ của riêng đội ngũ cán bộ làm văn hóa mà còn của
toàn thể cán bộ nhân dân trên cả nước.
II.

Cơ sở pháp lý:

Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam - thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường, anh dũng
của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ thì hệ thống pháp luật
XHCN của Nhà nước Việt Nam mới bắt đầu hình thành.
Tại điều 12, Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng nâng cao pháp chế XHCN”. Do đó những mối quan

hệ quan trọng đã được Nhà nước xác định và đã ban hành văn bản pháp luật điều
chỉnh thì trong mọi trường hợp phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải
quyết.
Để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa
ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa
thế giới. Hệ thống các văn bản pháp luật về di sản văn hóa cần áp dụng khi giải
quyết các vụ việc liên quan đến vi phạm di sản văn hóa, cụ thể:
- Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và công bố sắc lệnh số 65
về Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
8


- Ngày 29/10/1957, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Nghị định 519/TTg về
bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh.
- Luật Di sản Văn hóa được Quốc hội Khóa 10, kỳ họp thứ 9, thông qua
ngày 14/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 và Nghị định số 92/2002/NĐCP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật di sản văn hóa.
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
Bộ Văn hóa - Thông tin thay mặt Chính phủ thực thi toàn bộ công tác bảo
vệ và phát huy các di tích lịch sử, văn hóa nói riêng, các di sản văn hóa nói
chung, Cục Di sản văn hóa là cơ quan trực thuộc Bộ Văn hóa - Thông tin, có
chức năng giúp Bộ trưởng quản lý Nhà nước về di sản văn hóa và chỉ đạo, hướng
dẫn về chuyên môn nghiệp vụ đối với các hoạt động bảo vệ và phát huy di sản
văn hóa.
Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình
thực hiện việc quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp
của Chính phủ.

9



NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
“VỤ VIỆC XÂM PHẠM
DI TÍCH KIẾN TRÚC - NGHỆ THUẬT ĐÌNH TRONG”

I. Mô tả tình huống và diễn biến của tình huống:
1. Lịch sử làng Hòa Mục và cụm di tích Đền Trong:
Làng Hòa Mục (nay thuộc phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy – Hà Nội)
đã tồn tại từ hơn 1000 năm nay. Từ thế kỷ thứ 5, làng cú tờn gọi là Trang Nhõn
Mục, thuộc tổng Dịch Vọng. Đến thế kỷ thứ 8, nơi đây đó chứng kiến sự hi sinh
bất khuất của người cháu gái Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng là vợ của Mai
Thúc Loan, hoàng hậu Phạm Thị Uyển trong cuộc chiến với giặc Đường ven
sông Tô Lịch.
Khi đất nước thanh bỡnh, Bố Cỏi Đại Vương trở về chiến trường xưa và
nhận thấy nơi đây là mảnh đất lành, ông ra lệnh xây dựng hành cung và đền thờ
cho những đứa cháu của mỡnh và hướng dẫn dân làng cách làm ăn. Đỡnh làng
hiện nay là nơi dân làng Hũa Mục đó bao đời nay phong Bố Cái Đại Vương
Phùng Hưng là thành hoàng làng để tưởng nhớ công ơn trời biển của ông.
Đến đời nhà Lê, đây là trận địa vững chắc để mở ra những hướng quan
trọng đánh tan giặc Minh. Đến cuối thế kỷ 19, người anh hùng áo vải Quang
Trung khi tiến quân từ Đàng Trong ra cũng chọn mảnh đất của làng để thọc sâu
vào lũng địch, diệt trọn gần 20 vạn giặc Thanh. Những sự kiện lich sử ấy đó gắn
liền với sự phỏt triển của làng. Nhiều cõu chuyện dõn gian khỏc mà đến nay dân
làng vẫn cũn truyền tụng đó khắc ghi cụng trạng của con em dõn làng phũ vua,
giỳp nước.

10



Làng Hũa Mục hiện nay cũng được xem là làng cũn giữ gỡn khỏ đầy đủ
hệ thống thiết chế văn hóa cổ xưa nhất mà cơn sóng đô thị hóa vẫn không phủ
mờ được. Có bảy di tích các loại như đỡnh, đền, chùa, miếu, giếng cổ, cổng làng;
trong đó có di tích đó được Nhà nước xếp hạng quốc gia như đỡnh ngoài, đỡnh
trong (chớnh là hành cung thờ ba chị em họ Phạm) và đền thờ Dục Anh. Ngoài
ra làng cũn cú bốn nhà thờ họ nổi tiếng và hàng chục ngụi nhà cổ trờn dưới 200
tuổi.
Cụm di tích Đình Trong (tức đình Hòa Mục), Đình Ngoài và đền Dục Anh
là cụm di tích thờ chung 3 vị thành hoàng đó là 3 chị em ruột: Phạm Uyển, Phạm
Miễn, Phạm Huy, từng có công giúp Phùng Hưng đánh Cao Chính Bình lấy lại
Tống Bình (tức Hà Nội ngày nay).
Cụm Di tích Đình Trong, Đình Ngoài và Đền Dục Anh mang trên mình
một bề dày lịch sử trên 300 năm. Cũng giống như nhiều ngôi đình, đền, chùa
khác của Việt Nam, nó đã bị phôi phai đi bởi thời gian và bị lưu lạc đi bởi trải
qua những chặng đường lịch sử. Cụm di tích đình, đền Hòa Mục vẫn đứng vững
trong một không gian thoáng đãng, một cảnh quan khá hữu tình. Với kết cấu
theo một quẩn thể di tích, nó đã tạo cho cụm di tích sự gắn bó khăng khít, càng
tăng thêm phần giá trị về mặt nội dung lịch sủ, cũng như về kiến trúc nghệ thuật.
Cụm di tích Đình Trong, Đình Ngoài và Đền Dục Anh tồn tại được cho
đến ngày nay là nhờ sự bảo vệ chu đáo, nhiệt tình của nhiều tầng lớp qua nhiều
thế hệ. Nhất là trong thời gian gần đây các cấp lãnh đạo của Đảng, chính quyền
của địa phương, kết hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cụ phụ lão của làng
đã tích cực tham gia bảo vệ.
Với những giá trị đã kể trên của cụm di tích, ngày 22/4/1992, Bộ trưởng
Bộ Văn hóa - Thông tin đã ra quyết định số 490/QĐ xếp hạng cụm di tích Đình
Trong - Đình Ngoài - Đền Dục Anh là di tích kiến trúc nghệ thuật. Cụm di tích
do UBND quận Cầu Giấy trực tiếp quản lý và bảo vệ theo Quyết định phân cấp
quản lý số 2618/QĐ-UB ngày 07/6/1998 của UBND Thành phố Hà Nội.
11



2. Diễn biến tình huống:
2.1.

Đề xuất của UBND Phường Trung Hòa về việc xây dựng nhà

văn hóa:
Năm 2005, tập thể lãnh đạo phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy gửi văn
bản số 01/LT ngày 11/3/2005 đề nghị đầu tư, xây dựng nhà văn hóa phường
Trung Hòa tại khu vực tổ 29, 30 (làng Hòa Mục).
Theo báo cáo của UBND phường Trung Hòa, căn cứ vào bản đồ địa chính
và hồ sơ được các cấp có thẩm quyền phê duyệt đang lưu giữ tại UBND phường
Trung Hòa, vị trí xây dựng nhà văn hóa là khu đất kẹt nằm trong khu dân cư do
Hợp tác xã quản lý, giao cho các hộ dân canh tác và đã được các cấp có thẩm
quyền phê duyệt xây dựng nhà trẻ theo QĐ số 43/1999/QĐ-UB. Do quá trình đô
thị hóa, các hộ dân cư xung quanh khu đất đã xây dựng nhà ở, đổ rác thải, nước
thải sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường.
Các ban, ngành, đoàn thể phường Trung Hòa mong muốn công trình nhà
văn hóa được xây dựng sẽ góp phần giữ gìn vệ sinh môi trường trong khu vực,
mang lại cho nhân dân một địa điểm rộng rãi để giải trí (đặc biệt đối với người
già và trẻ em), ngoài ra còn hỗ trợ thêm cho hoạt động sinh hoạt văn hóa, tín
ngưỡng của Đình Trong. Công trình nhà văn hóa sẽ được xây dựng phù hợp với
kiến trúc và cảnh quan khu vực ngôi Đình.
Trên cơ sở kiến nghị của phường Trung Hòa, UBND quận Cầu Giấy đã
chỉ đạo các Phòng Tài nguyên môi trường, Ban Quản lý dự án quận và Phòng
VHTT-TDTT tiến hành kiểm tra, khảo sát thực tế. Sau khi xem xét cụ thể, các
phòng, ban đã thống nhất với đề nghị của phường Trung Hòa đề xuất với lãnh
đạo UBND quận đầu tư xây dựng Nhà văn hóa phường Trung Hòa (NVH) tại
khu vực tổ 29, 30 của phường. Đơn vị thi công là Công ty xây dựng dân dụng Hà
Nội.

2.2.

Diễn biến quá trình xây dựng Nhà văn hóa:
12


Ngày 10/10/2005, UBND Quận Cầu giấy ra quyết định số 1384/QĐ-UB
về việc phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư Nhà văn hóa phường
Trung Hòa. Công trình đã bắt đầu được xây dựng.
Tháng 12/2005, nhân dân Hòa Mục - Trung Hòa đã viết đơn gửi Ban Quản
lý di tích và danh thắng Thành phố Hà Nội về việc xây dựng nhà văn hóa nằm
trong khu vực bảo vệ I của di tích.
Ngày 10/01/2006, Ban Quản lý di tích và danh thắng - Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội phối hợp với Phòng VHTT-TDTT quận Cầu Giấy, UBND
phường Trung Hòa tiến hành kiểm tra thực tế tại di tích và căn cứ theo biên bản
và bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích năm 1992 thì vị trí thi công công trình
NVH Trung Hòa nằm trong khu vực bảo vệ I của di tích Đình Trong. Công trình
này được xây dựng không xin ý kiến thỏa thuận của ngành văn hóa.
Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội đã có ý kiến tại các công văn số
10/QLDT, ngày 16/01/2006 và số 36/QLDT, ngày 06/02/2006 đề nghị UBND
quận Cầu Giấy chỉ đạo UBND phường Trung Hòa cho chuyển dịch nhà văn hóa
Trung Hòa ra khỏi phạm vi khu vực bảo vệ I của di tích Đình Trong.
Ngày 06/2/2006, Cục Di sản văn hóa - Bộ VHTT nhận được đơn kiến nghị
khẩn cấp của những người cao tuổi và nhân dân làng cổ Hòa Mục rất bức xúc,
bất bình và phẫn nộ về việc UBND phường Trung Hòa cho xây nhà 2, 3 tầng ở
khu đất thuộc phạm vi di tích đã được xếp hạng, án ngữ trước cửa Đình Trong,
phá vỡ cảnh quan di tích tâm linh tín ngưỡng của nhân dân và vi phạm Luật Di
sản văn hóa.
Ngày 13/2/2006, Cục Di sản Văn hóa đã có công văn số 79/DSVH-DT gửi
Sở VHTT Thành phố Hà Nội, trong đó đề nghị: “Sở VHTT Hà Nội chỉ đạo các
cơ quan chuyên môn kiểm tra sự việc trên, nếu đúng như phản ảnh của nhân dân

cần đề xuất phương án xử lý trình UBND Thành phố xem xét, giải quyết theo
quy định của Luật Di sản văn hóa”.
13


Đến đây sự việc tưởng chừng như đã rõ ràng, ý kiến chỉ đạo của các cơ
quan có chức năng quản lý nhà nước đối với khu di tích đã được ban hành. Theo
thông lệ, các bên liên quan sẽ dừng thi công để bàn bạc và tìm biện pháp tháo gỡ,
tránh xâm hại khu di tích và gây lãng phí cho ngân sách Nhà nước (công trình đã
được xây xong tầng 1).
Tuy vậy, ngày 09/3/2006, Ban Quản lý dự án quận Cầu Giấy có công văn
số 102/CV-BQL đề nghị Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội khẩn trương triển
khai thi công, tiếp tục xây dựng công trình NVH phường Trung Hòa để đảm bảo
tiến độ.
Ngày 01/4/2006, Cục Di Sản Văn hóa lại tiếp tục nhận được đơn kiến nghị
khẩn cấp của những người cao tuổi và nhân dân làng cổ Hòa Mục, phường Trung
Hòa về sự việc nêu trên.
Ngày 11/4/2006, Bộ Văn hóa - Thông tin có công văn số 1223/BVHTTDSVH gửi đồng chí Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội đề nghị chỉ đạo cơ quan
chuyên môn thực hiện đúng quy định của Nhà nước và của Thành phố đối với
việc bảo vệ di tích theo đúng quy định của Luật Di Sản Văn hóa và Nghị định số
92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 hướng dẫn thi hành, đồng thời yêu cầu chính
quyền phải quan tâm làm tốt công tác tư tưởng cho quần chúng nhân dân tại địa
phương.
Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội có công văn số 37/VHTT ngày 10/4/2006
gửi đồng chí Chủ tịch UBND Quận Cầu Giấy và công văn số 39/VHTT ngày
17/4/2006 gửi UBND Thành phố Hà Nội về việc xây dựng nhà văn hóa phường
liên quan đến di tích Đình Trong. Công trình khi xây dựng không xin ý kiến thỏa
thuận của ngành văn hóa và đề nghị UBND quận Cầu Giấy quan tâm và tập
trung chỉ đạo để giải quyết dứt điểm, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài.


14


UBND Thành phố Hà Nội cũng gửi công văn số 467/VP-VX ngày
24/4/2006 giao cho đồng chí Chủ tịch UBND Quận Cầu Giấy có biện pháp giải
quyết triệt để kiến nghị của dân.
Ngày 24/4/2006 UBND Quận Cầu Giấy gửi báo cáo số 48/BC-UB cho
Cục Di Sản Văn hóa và các cơ quan liên quan giải thích việc xây dựng NVH là
cần thiết, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân trong
phường và không làm ảnh hưởng đến kiến trúc, cảnh quan khu vực Đình Trong
đã được xếp hạng.
Ngày 12/5/2006, Cục Di sản Văn hóa đã làm việc với Lãnh đạo UBND
quận Cầu Giấy và tiến hành kiểm tra tại di tích (cùng tham gia có đại diện Ban
Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội, phòng VHTT quận Cầu Giấy). Kết quả
kiểm tra cho thấy một phần công trình NVH đã xây dựng nằm trong khu vực bảo
vệ I của di tích, công trình đã án ngữ mặt tiền của di tích. Công trình đang đổ
mái tầng 2 (thời điểm kiểm tra). Đoàn làm việc kết luận: UBND Quận Cầu Giấy
đã sai về thủ tục hành chính, vi phạm điểu 17 Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh “Các cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân lập đề án xây dựng cải tạo trong khu di
tích lịch sử phải được sự đồng ý của Bộ Trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin”.
Tiếp đó, ngày 22/5/2006, Bộ Văn hóa - Thông tin có công văn số
2077/BVHTT-DSVH đề nghị đồng chí Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội chỉ
đạo các cấp khẩn trương đình chỉ việc thi công và giải quyết dứt điểm vụ việc
trên theo quy định của Luật Di Sản Văn hóa, không để tình trạng khiếu kiện kéo
dài làm ảnh hưởng đến di tích và làm mất niềm tin của nhân dân.
Điều đáng ngạc nhiên là UBND Quận Cầu Giấy và UBND phường Trung
Hòa đã giải quyết vụ việc không theo sự chỉ đạo của Cục Di Sản Văn hóa,
UBND thành phố và Sở VH-TT Hà Nội, không dừng công trình để xin ý kiến
của cơ quan có thẩm quyền và nhân dân sở tại mà vẫn tiếp tục cho xây dựng

NVH. Hành động này đã gây bức xúc trong nhân dân và giới báo chí (Báo Văn
15


hóa có bài viết “Quận làm ngơ trước những chỉ đạo của Bộ và Thành phố, đã
làm sai lại còn thách dân đi kiện”. Ngày 28/6/2006, báo Văn hóa đăng ý kiến của
Bộ VH-TT đề nghị UBND Thành phố xử lý dứt điểm các vi phạm di sản văn
hóa, trước tiên giải quyết dứt điểm vi phạm di tích Đình Trong).
Ngày 28/6/2006, Cục Di Sản Văn hóa lại tiếp tục nhận được đơn khiếu nại
khẩn cấp của nhân dân làng Hòa Mục (tổ 29, 30 và 31), theo phản ánh của dân
thì cứ sau mỗi lần có công văn của ngành chuyên môn việc xây dựng thi công
công trình không dừng lại mà tốc độ xây dựng lại nhanh hơn.
Ngày 04/7/2006, Cục Di Sản Văn hóa gửi công văn số 462/DSVH-DT tới
Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội, đề nghị Văn phòng chỉ đạo các cơ quan
thực hiện đúng công văn số 2077/BVHTT-DSVH ngày 22/5/2006 của Bộ VHTT
đề nghị đình chỉ thi công Nhà văn hóa phường Trung Hòa.
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Dựa trên diễn biến của vụ việc và quyền lợi, nhu cầu của nhân dân phường
Trung Hòa, làng Hòa Mục và các cơ quan chức trách liên quan, mục tiêu của
việc xử lý tình huống này là:
1.

Xử lý nghiêm minh và đúng pháp luật những hành vi vi phạm luật

Di sản văn hóa trong việc xây dựng công trình NVH phường Trung Hòa trong
khu vực bảo vệ I của di tích Đình Trong.
2.

Bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân Hòa Mục.


3.

Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng liên quan.

4.

Tăng cường pháp chế XHCN, duy trì kỷ luật, kỷ cương trong lĩnh

vực bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả:
Hiện nay, với sự đắt đỏ lên tới cực điểm của giá đất, giá nhà, việc UBND
quận Cầu Giấy, UBND phường Trung Hòa quyết tâm xây dựng NVH để vừa tạo
16


điều kiện cho sinh hoạt lành mạnh của nhân dân, vừa giải quyết tình trạng ô
nhiễm môi trường, mất mỹ quan tại khu đất kẹt là một chủ trương đúng, thể hiện
sự quan tâm của chính quyền đói với đời sống của nhân dân. Nếu được triển khai
đúng quy trình, sẽ có thể mang tới cho nhân dân một nhà văn hóa rộng rãi với
hội trường trên 300 chỗ ngồi, có thư viện, sân chơi thể thao. Tuy vậy, UBND
quận Cầu Giấy, phường Trung Hòa đã sai ngay từ thủ tục hành chính đầu tiên
khi ra quyết định cho phép xây dựng công trình NVH phường Trung Hòa mà
không xin ý kiến thỏa thuận của ngành văn hóa.
Khu di tích Đình Trong nằm trên địa phận quản lý hành chính của UBND
phường Trung Hòa, đã được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật và được
giao cho UBND quận Cầu Giấy trực tiếp quản lý, bảo vệ theo Quyết định phân
cấp quản lý số 2618/QĐ-UB ngày 07/6/1998 của UBND Thành phố Hà Nội.
Như vậy, UBND phường Trung Hòa đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng
quản lý trên những khía cạnh sau:
1. Không làm tròn trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc

quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở địa phương theo phân cấp quản lý.
- Mặc dù UBND phường Trung Hòa không được bàn giao hồ sơ di tích
và không biết rõ khu vực khoanh vùng bảo vệ (Báo cáo số 11/BC-UB của
UBND phường Trung Hòa ngày 12/4/2006) nhưng đây là khu di tích lâu đời, có
bề dày lịch sử hơn 300 năm, là niềm tự hào của nhân dân nên từ góc độ quản lý
địa bàn, UBND phường không thể không biết.
- Điều 51 của Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa quy định:
“UBND cấp phường, xã trách nhiệm phải phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời mọi
hành vi làm ảnh hưởng đến sự an toàn của di sản văn hóa”. Khoản 1, điều 32 của
luật Di sản văn hóa quy định: “khu vực bảo vệ I gồm di tích và các yếu tố được
xác định là cấu thành di tích phải được bảo vệ nguyên trạng”.
17


- Như vậy, việc quyết định xây dựng NVH trong phạm vi bảo vệ I của
cụm di tích đã vi phạm điều 51 Nghị định 92/2002/NĐ-CP và khoản 1, điều 32
Luật Di sản văn hóa.
2. Không tuân thủ quy trình xây dựng dự án xây dựng NVH.
- Mọi chủ trương dù đúng đắn tới đâu cũng cần được lấy ý kiến đóng góp
của nhân dân, cũng cần nhận được sự ủng hộ của nhân dân trong quá trình triển
khai. Trên thực tế, UBND phường đã không tuân thủ đúng quy trình xem xét,
thẩm tra dự án (không nghiên cứu bản đồ khoanh vùng của di tích, bỏ qua khâu
làm công tác tư tưởng với nhân dân sở tại (tổ 29, 30), lập đề án xây dựng cải tạo
trong khu di tích lịch sử gửi UBND Thành phố, Bộ VHTT xin ý kiến thỏa thuận
của ngành văn hóa) nên đã dẫn tới sai lầm ngay từ khi lên kế hoạch.
- Như vậy, việc xây dựng NVH vốn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt lành
mạnh của nhân dân, là một chủ trương đúng, đã sớm mắc phải sai lầm, gây lãng
phí ngân sách công, ảnh hưởng không tốt tới uy tín của chính quyền địa phương.
3. Không giải quyết thấu đáo đơn khiếu nại của nhân dân làng cổ Hòa

Mục (tổ 29, 30).
- Hơn bất cứ cơ quan hành chính nhà nước nào khác, UBND phường
Trung Hòa là cơ quan có thẩm quyền gần nhất, chịu trách nhiệm đầu tiên trong
việc thực thi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân. Tuy vậy, UBND đã coi nhẹ các
ý kiến của nhân dân, không kịp thời gặp gỡ, bàn bạc với nhân dân, cũng không
có ý kiến phản hồi, gây ra bức xúc trong dư luận, dẫn tới tình trạng khiếu kiện
lên cấp cao hơn.
Về phần mình, UBND quận Cầu Giấy cũng có trách nhiệm trong việc để
vụ việc xảy ra và diễn biến phức tạp, kéo dài (từ tháng 10/2005 đến tháng
7/2006), cụ thể:
1. Thiếu tinh thần trách nhiệm và năng lực trong việc quản lý nhà
nước về di sản văn hóa ở địa phương.
18


- Bằng quyết định số 1384/QĐ-UB, ngày 10/10/2005, UBND Quận Cầu
đã phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư Nhà văn hóa phường Trung
Hòa. Đây là một quyết định mấu chốt cho phép công trình được triển khai. Mặc
dù quá trình xem xét, thẩm tra trước khi ra quyết định đã được Phòng Tài nguyên
môi trường, Ban Quản lý dự án quận và Phòng VHTT-TDTT thực hiện đầy đủ
nhưng do thiếu tinh thần trách nhiệm kết hợp với năng lực chuyên môn hạn chế
nên các phòng ban chuyên môn trên đã không phát hiện ra sự vi phạm của công
trình đối với cụm di tích Đền Trong, dẫn tới việc không xin ý kiến của cơ quan
quản lý văn hóa và tham mưu sai cho Lãnh đạo UBND ra quyết định cho phép
công trình được triển khai.
2. Nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của di sản văn hóa và
buông lỏng quản lý đối với các hoạt động liên quan tới di sản văn hóa tại địa
phương.
- Mặc dù được giao là cơ quan trực tiếp quản lý, bảo vệ cụm di tích Đền
Trong (Quyết định phân cấp quản lý số 2618/QĐ-UB ngày 07/6/1998 của

UBND Thành phố Hà Nội) nhưng UBND quận Cầu Giấy không quán triệt đầy
đủ tinh thần của luật Di sản văn hóa và các quy định liên quan. Sau khi Sở
VHTT khảo sát và kết luận công trình xây dựng NVH vi phạm khu vực bảo vệ I
của di tích Đền Trong, UBND quận đã không kịp thời báo cáo cơ quan cấp trên
trực tiếp, cũng không áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ cần thiết, trái với
quy định tại khoản 2, điều 33 Luật Di sản văn hóa: “Uỷ ban nhân dân địa
phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá - thông tin khi nhận
được thông báo về di tích bị huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ và báo cáo ngay với cơ quan cấp trên
trực tiếp”.
- Tương tự, UBND quận Cầu Giấy cũng đã buông lỏng quản lý, để cho
Ban Quản lý dự án quận gửi công văn số 102/CV-BQL, ngày 09/3/2006 đề nghị
19


Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội tiếp tục thi công công trình NVH phường
Trung Hòa.
3. Không chấp hành ý kiến chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên.
- Mặc dù Cục Di Sản Văn hóa, UBND thành phố và Sở VH-TT Hà Nội đã
có công văn yêu cầu đình chỉ việc thi công NVH và giải quyết dứt điểm vụ việc
trên theo quy định của Luật Di Sản Văn hóa, không để tình trạng khiếu kiện kéo
dài nhưng UBND quận Cầu Giấy không dừng công trình để xin ý kiến của cơ
quan có thẩm quyền và nhân dân sở tại mà vẫn tiếp tục cho xây dựng NVH.
- Việc không chấp hành ý kiến chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên, dù
xuất phát từ sự non kém về chuyên môn, sự thiếu hiểu biết về quy định quản lý
của Nhà nước hay từ sự mong muốn hoàn thành công trình phục vụ nhân dân
đều dẫn tới sự suy giảm hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước, gây bức xúc
trong nhân dân và giới báo chí.
IV- Các phương án giải quyết vụ việc:
Xuất phát từ một chủ trương đúng, do thiếu tinh thần trách nhiệm trong

triển khai và khi gặp khó khăn không có cách giải quyết “thấu tình, đạt lý” nên
vụ việc trở nên phức tạp, gây những hậu quả tiêu cực. Để giải quyết vụ việc này,
tôi đề xuất 2 phương án xử lý như sau:
Phương án I: Dỡ bỏ hoàn toàn công trình xây dựng
Cơ sở pháp lý của việc dỡ bỏ:
- Công trình xây dựng nhà văn hóa đã vi phạm Luật Di sản văn hóa. Chủ
đầu tư vi phạm điều 32 - Luật Di sản Văn hóa về việc không có ý kiến thỏa thuận
của Bộ Văn hóa - Thông tin. Cơ quan quản lý điạ phương vi phạm điều 33 Luật
Di sản văn hóa khi cho phép chủ đầu tư xây dựng công trình trong khu vực bảo
vệ di tích “Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di
tích có trách nhiệm bảo vệ di tích đó; trong trường hợp phát hiện di tích bị lấn
chiếm, huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời có biện pháp ngăn
20


chặn và thông báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, UBND địa phương
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa- thông tin nơi gần nhất”.
- Căn cứ tính chất của di tích. Đây là di tích có giá trị kiến trúc nghệ thuật,
xét thấy công trình xây dựng mới có quy mô và hình thức kiến trúc hiện đại, lại
xây dựng sát với ngôi đình chắc chắn sẽ phá vỡ cảnh quan của di tích, làm giảm
môi trường và không gian tâm linh lịch sử của Đình. Các hoạt động của nhà văn
hóa không phù hợp với hoạt động tâm linh trong Đình Trong. Việc dỡ bỏ là để
trả lại cảnh quan và môi trường văn hóa tâm linh của Đình.
Biện pháp xử lý:
- UBND Thành phố Hà Nội ra quyết định giao cho UBND quận Cầu Giấy
dỡ bỏ công trình.
- UBND quận Cầu Giấy có trách nhiệm giao cho UBND phường Trung
Hòa thực hiện việc dỡ bỏ công trình.
- Nghiêm túc kiểm điểm làm rõ trách nhiệm các cấp, các cá nhân có liên
quan. Báo cáo UBND Thành phố kết quả xử lý trong thời gian sớm nhất. Thông

báo rộng rãi kết quả xử lý đối với nhân dân phường Trung Hòa.
Kết quả:
- Chấp hành đúng quy định của Luật Di sản văn hóa; trả lại cảnh quan và
môi trường văn hóa cho di tích; đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Hòa Mục;
thể hiện tinh thần trách nhiệm của các cấp chính quyền và cơ quan quản lý nhà
nước.
Phương án này có mặt hạn chế là:
- Lãng phí ngân sách công; không đáp ứng được nhu cầu vui chơi, giải trí
lành mạnh của nhân dân (do không có nhà văn hóa); không giải quyết được tình
trạng ô nhiễm ở khu đất.

21


Phương án II: Cho phép công trình tồn tại; chỉnh sửa lại thiết kế của
NVH cho phù hợp với cảnh quan chung của cụm di tích; xem xét việc khoanh
vùng lại bảo vệ khu vực I.
Cơ sở pháp lý trong việc cho phép tồn tại:
- Căn cứ Luật Di sản văn hóa, xem xét lại ranh giới khoanh vùng bảo vệ
khu vực I khi xếp hạng di tích Đình Trong. Diện tích khoanh vùng khu vực I
trước đây được quy định tại điều 15 của Pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch
sử văn hóa và danh lam thắng cảnh “Mỗi di tích có ba khu vực bảo vệ: Khu vực I
phải được bảo vệ nguyên trạng; khu vực II là khu vực bao quanh khu vực I,
được phép xây dựng những công trình nhằm mục đích tôn tạo di tích; khu vực
III là khung cảnh thiên nhiên. Mọi hoạt động xây dựng phải được phép của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin” và Điều 11 Nghị định 288/HĐBT ngày
31/12/1985 của Hội đồng Bộ trưởng quy định việc thi hành Pháp lệnh bảo vệ và
sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, khoản a, điều 1, phần B
của Thông tư “Nếu di tích là một đơn vị đứng riêng có chiều cao từ 5 mét trở lên
thì lấy chiều cao nhân với 3 lần làm đường bán kính để khoanh vùng bảo vệ khu

vực I”. Đối chiếu với quy định tại điều 1, phần B của Thông tư thấy rằng trước
đây việc khoanh vùng khu vực I của di tích Đền Trong lớn hơn so với quy định
tại điều 1, phần B do trước đây vấn đề đất đai chưa đặt ra bức xúc như thời điểm
hiện nay, nên việc khoanh vùng khu vực I có xu hướng mở rộng để thuận tiện
cho việc bảo vệ. Nay do nhu cầu tận dụng các diện tích đất phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt chung của nhân dân, có thể xem xét phương án điều chỉnh thu hẹp khu
vực I của di tích mà không ảnh hưởng đến cảnh quan.
- Căn cứ tình hình thực tế công trình xây dựng NVH có tính chất phục vụ
cộng đồng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân trong
phường. Bên cạnh đó, công trình nhà văn hóa không gây ô nhiễm môi trường,
không ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng trong khu vực, giữ gìn vệ sinh môi trường
trong khu vực, có thể hỗ trợ thêm cho hoạt động tín ngưỡng của cụm di tích
22


Đình Trong. Đồng thời công trình NVH hiện nay đang trong quá trình xây dựng,
có thể điều chỉnh phương án thiết kế kiến trúc để phù hợp với cảnh quan di tích.
Biện pháp xử lý:
- UBND quận ra quyết định đình chỉ việc xây dựng, chờ phương án thiết
kế điều chỉnh và chờ quyết định của UBND thành phố Hà Nội.
- UBND quận Cầu Giấy tổ chức cuộc họp lấy ý kiến các cấp, ban ngành,
đoàn thể, các cơ quan chuyên môn và đại diện nhân dân làng cổ Hòa Mục (tổ 29,
30) về việc cho phép công trình NVH tồn tại nhưng điều chỉnh lại diện tích
khoanh vùng bảo vệ của di tích Đình Trong, điều chỉnh thiết kế và của NVH.
- UBND Thành phố Hà Nội ra quyết định cho phép tiếp tục xây dựng công
trình; giao UBND quận Cầu Giấy (Chủ đầu tư) xây dựng phương án điều chỉnh
thiết kế và nội dung hoạt động của nhà văn hóa; trình Bộ VHTT phương án điều
chỉnh để Bộ VHTT xem xét thỏa thuận.
- Nghiêm túc kiểm điểm làm rõ trách nhiệm các cấp, các cá nhân có liên
quan. Báo cáo UBND thành phố kết quả xử lý trong thời gian sớm nhất.

Kết quả:
- Chấp hành đúng quy định của Luật Di sản văn hóa; trả lại cảnh quan và
môi trường văn hóa cho di tích; đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Hòa Mục;
thể hiện tinh thần trách nhiệm của các cấp chính quyền và cơ quan quản lý nhà
nước.
- Đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí lành mạnh của nhân dân tại NVH; giải
quyết được tình trạng ô nhiễm ở khu đất; tránh lãng phí công quỹ.
Mặt hạn chế của phương án:
- Làm các thủ tục xác định lại vùng bảo vệ I của cụm di tích; làm lại các
thủ tục xin cấp phép thực hiện dự án; tốn thời gian và chi phí điều chỉnh phương
án thiết kế.
23


Phương án lựa chọn:
Từ góc nhìn của một cơ quan quản lý nhà nước, từ thực thế giải quyết các
vụ việc lấn chiếm, xâm phạm di tích lịch sử văn hóa đã xảy ra và trên cơ sở cân
nhắc các mặt kết quả/hạn chế của 2 phương án nêu trên, ta thấy phương án II hợp
lý, hợp tình và có sức thuyết phục hơn cả. Song, để thực hiện phương án này,
chúng ta cần phải giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau:
- Trao đổi giải thích với nhân dân tổ 29, 30 để có sự đồng thuận, thống
nhất.
- Giải trình rõ lý do với các cơ quan được Bộ VHTT tham khảo ý kiến về
vấn đề này, nêu lý do giải quyết theo phương án II.
- Tổ chức rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn
của phường, quận về nội dung và cách xử lý vụ việc.

24



KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

Những năm gần đây, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước,
đặc biệt là vấn đề xã hội hóa các hoạt động văn hóa, trong đó có hoạt động bảo
vệ và phát huy các di sản văn hóa đã được quy định cụ thể trong hiến pháp 1992
chưa được thể chế hóa thành những chế định pháp luật.
Chính do những đòi hỏi cấp bách đó, một bộ luật mới về bảo vệ và phát
huy các di sản văn hóa Việt Nam đã được soạn thảo vào ngày 14/6/2001, tại kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa X, Luật Di sản văn hóa đã được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực vào ngày 1/1/2002 là cơ sở pháp lý quan trọng để đẩy mạnh việc đổi
mới các hoạt động nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam.
I. Kiến nghị:
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ mới và để sự nghiệp bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa không ngừng phát triển. Tôi xin trình bày một
số kiến nghị cơ bản sau đây:
1- Nhà nước cần ban hành và triển khai có hiệu quả các văn bản quy
phạm pháp luật, không ngừng tăng cường công tác quản lý Nhà nước.
Xét cho cùng, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa đều chính là sự cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, đường
lối của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực công tác này.
Chú trọng việc triển khai thực hiện Luật Di Sản văn hóa. Để dự luật quan
trọng này sớm đi vào cuộc sống thì việc tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi về nội
dung của Luật và những quy định cụ thể tại các văn bản dưới luật cần được đẩy
mạnh với sự tham gia và phối hợp của các phương tiện thông tin đại chúng. Mặt
25


×