Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Bài tập tình huống chương trình chuyên viên chính HVHC: Một số vấn đề về nợ đọng vốn trong xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.54 KB, 24 trang )

MỞ BÀI
Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng, có nhiều bài viết phản
ảnh về vấn đề nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB), từ nguồn vốn
ngân sách Nhà nước (NSNN). Đó cũng là chủ đề được dư luận xã hội hết sức
quan tâm, trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo thực hiện dân chủ
hóa, công khai hóa, minh bạch trong quản lý tài chính công nói riêng và quản
lý Nhà nước nói chung. Chính vì vậy khi nhiều địa phương để sẩy ra tình trạng
nợ đọng vốn XDCB là vấn đề gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân.
Từ đó tác động không tốt khả năng tới cân đối vĩ mô về nguồn lực tài chính,
đồng thời đặt ra yêu cầu Chính phủ phải có các giải pháp đủ mạnh để ngăn
chặn, giải quyết tình trạng trên trong năm 2005 và những năm tiếp theo.
Theo thống kê chưa đầy đủ của các Bộ, ngành và các địa phương thì số
nợ đọng vốn đầu tư XDCB từ năm 2003 trở về trước khoảng 11.500 tỷ đồng,
bằng khoảng 25% tổng số vốn đầu tư của nguồn ngân sách Nhà nước năm
2003. Trong đó các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương có số nợ khoảng
7.500 tỷ đồng.
Nợ đọng vốn đầy tư XDCB có tác động xấu về mặt tài chính – tiền tệ, xã
hội …. Phần nào kìm hãm sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đặc biệt
đối với nền kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến nợ đọng vốn đầu tư XDCB, song chỉ xin nêu 2 nhóm nguyên nhân chủ
yếu sau.
Trước hết là nhóm nguyên nhân khách quan: Khả năng cân đối với đầu tư
XDCB từ NSNN hàng năm cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã
hội còn rất hạn hẹp, chỉ đáp ứng được từ 40 – 50% nhu cầu. Trong khi đó số
lượng các dự án đầu tư cho các đơn vị trình duyệt ngày càng tăng, trên thực tế


số lượng dự án được duyệt đã không phù hợp với khả năng cân đối ngân sách
hàng năm của Nhà nước, từ đó các chủ đầu tư đã vay mượn vốn và chiếm dụng
vốn của nhà thầu để thi công, dẫn đến khối lượng nợ đầu tư XDCB ngày càng
tăng.


Về nhóm nguyên nhân chủ quan: công tác quy hoạch chưa triển khai đầy đủ
từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch chi tiết. Ở một số địa phương có xu hướng
buông lỏng quản lý đầu tư xây dựng, không đảm bảo kỷ cương trong XDCB đã
được chỉ rõ trong nhiều văn bản chỉ đạo của Chính phủ, nghị định của Chính phủ
đã ban hành. Nhiều dự án đầu tư chưa có phương án nguồn vốn để thực hiện dự án
vẫn tiến hành thực hiện với giải pháp “Vừa thi công vừa tìm nguồn vốn”.
Do những tác động tiêu cực trong nền tài chính – tiền tệ, phát triển kinh tế –
xã hội của tình trạng nợ đọng XDCB từ nguồn vốn NSNN, Chính phủ đã ban hành
một số văn bản pháp luật để chấn chỉnh lại trong tình hình phân nguồn vốn XDCB
tập trung từ ngân sách Trung ương đến địa phương. Mục tiêu giải quyết vấn đề ở
đây là việc thực hiện nghiêm văn bản pháp luật, biện pháp, chỉ thị của Nhà nước,
của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương để dần từng bước giải quyết
tình trạng nợ đọng XDCB từ NSNN góp phần cải thiện nền tài chính – tiền tệ, tạo
động lực tăng tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, tập trung nguồn vốn cho các công
trình trọng điểm, cấp thiết, có hiệu quả cao.
Từ những lý do trên và thời gian học tập lớp bồi dưỡng về quản lý hành
chính nhà nước chương trình chuyên viên chính, bản thân tôi đã tiếp thu được một
số lý luận cơ bản nhất định, để gắn lý luân với thực tiễn tôi xin chọn tình huống:
“Một số vấn đề về nợ đọng vốn trong xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách
nhà nước”.

2


I – TÌNH HUỐNG
1. Diễn biến tình huống.
Ngày 17 – 11 – 2003, Thủ tướng Chính phủ giao dự tóan ngân sách Nhà
nước năm 2004 tại Quyết định số 242/2003/QĐ - TTg cho các Bộ, Ngành, các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương. Trong đó, ngân sách tỉnh K được phân bổ với
tổng chi ngân sách địa phương là 837,674 tỷ đồng. Trong đó chi đầu tư phát triển

(XDCB tập trung) là: 16 0 tỷ đồng.
Trên cơ sở đó Bộ Tài chính giao dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước năm
2004 tại Quyết định số 191/2003/QĐ - BTC ngày 17 – 11 – 2003 với số thu, chi
như Quyết định số 242/2003/QĐ - TTg cho tỉnh K, trong đó số vốn XĐCB tập
trung là 160 tỷ đồng.
Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính Phủ và Bộ tài chính. UBNN
tỉnh K giao sở tài chính, phối hợp sở Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn, cùng các Sở,
ban, ngành, các cấp ngân sách lập dự toán ngân sách năm 2004. Căn cứ số ngân
sách được giao, căn cứ Nghị định số 73/2003/NĐ- CP ngày 23-6-2003 (NĐ 73) ban
ngành quy chế xem xét quyết định dự toán ngân sách địa phương, Luật ngân sách,
Nghị định số 60/2003/NĐ- CP (NĐ60) ngày 6-6-2003 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Luật ngân sách Nhà nước; Căn cứ Thông tư số 59/2003/TT/BTC ngày
23-6-203- 2003 (TT59) hướng dẫn thực hiện nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày
06- 06 – 2003 (NĐ60), Sở tài chính tỉnh K, cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh lập
dự tóan ngân sách năm 2004 tại báo cáo số 107/BC – UB ngày 20 – 11- 2003 về
tình hình thực hiện nhiệm vụ thu chi ngân sách năm 2003 và dự kiến phân bổ
nhiệm vụ thu, chi ngân sách năm 2004. Trong đó xác định nhiệm vụ chi ngân sách
trên địa bàn là 837,647 tỷ đồng được phân ra theo các lĩnh vực chi, trong đó lĩnh
vực chi XDCB tập trung là 130 tỷ đồng, từ nguồn vốn XDCB tập trung của trung
3


ương phân bổ 160 tỷ đồng sau khi đã trừ các nguồn để lại ở cấp huyện (thu cấp đất
theo giá quy định) là 30 tỷ đồng. Báo cáo sẽ được trình Hội đồng nhân dân
(HĐND) tỉnh khóa VIII kỳ họp thứ 13 ngày 04 – 12 – 2003.
Căn cứ vào các văn bản hướng dẫn trên nhất là quyết định số 242/2003/QĐ TTg ngày 17 – 11 – 2003. UBND tỉnh K giao Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, lập báo
cáo số 108/BC/UB ngày 20 – 11- 2003 về “ước tính tình hình thực hiện kế hoạch
XDCB năm 2003 và dự kiến kế hoạch XDCB năm 2004” trình HĐND tỉnh khóa
VIII, tại kỳ họp thứ 13 ngày 14 – 12 – 2003. Trong đó phần phân bổ dự kiến cụ thể
cho ngồn vốn XDCB tập trung cho tỉnh quản lý là 160 tỷ đồng cho 155 công trình

cụ thể có danh sách từng công trình, phần vốn cụ thể trong công trình. Số vốn này
Sở kế hoạch chưa trừ số vốn do cấp huyện, thị trong tỉnh được phân là 30 tỷ đồng.
Ngày 25 – 11 – 2003 theo Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21 – 6 –
1994 (sửa đổi), Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 06 – 06 – 2003; Nghị định số
73/2003/NĐ - CP ngày 23 – 6 – 2003. Ban kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh K tiến
hành thẩm tra Báo cáo số 107/BC – UB ngày 20/11/2003. Và báo cáo số 108/BC –
UB ngày 20/11/2003. Thời gian thẩm tra các báo cáo trên là 2 ngày từ ngày 25 đến
ngày 26 – 11 – 2003. Do điều kiện khách quan, các báo cáo của UBND gửi đến để
Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh thẩm tra là rất gấp rút về thời gian. Thời gian
tiến hành kỳ họp đã được thường trực HĐND ấn định vào ngày 4 – 12- 2003.
Trong quá trình thẩm tra Báo cáo số 107 và 108 Ban Kinh tế – Ngân sách
HĐND tỉnh thấy rằng có sự không thống nhất về vốn phân bổ cho các công trình
XDCB với nguồn vốn đáp ứng (được phân bổ) cho các công trình do thẩm quyền
cấp tỉnh phân cụ thể là lệch nhau 30 tỷ đồng, số vốn này cho các công trình XDCB
năm 2004 là không có nguồn (mặc dù tòan bộ các công trình mà Sở Kế hoạch và

4


Đầu tư tỉnh A đều đáp ứng đầy đủ về hồ sơ kinh tế đã được cấp thẩm quyền phê
duyệt).
Với cương vị là thành viên Ban Kinh tế – Ngân sách, HĐND tỉnh được giao
trách nhiệm lập báo cáo kết luận thẩm tra các báo cáo số 107 và 108 trình trước
HĐND tỉnh khóa XIII, tại kỳ họp thứ 13 ngày 04 – 12 – 2003 tôi phải sử lý tình
huống này như sau:
II – PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Cơ sở lý luận.
Ở nước ta, với nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì pháp luật trở
thành phương tiện hàng đầu trong quản lý nhà nước về kinh tế. Pháp luật trước hết

tạo lập các hành lang pháp lý để cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế tự do , bình đẳng trong một sân chơi và Nhà nước là chủ thể quản lý điều chỉnh
“ sân chơi” đó. Các quan hệ kinh tế thị trường rất đa dạng, phong phú, năng động
và phức tạp do đó cần phải định hướng cho chúng phát triển theo định hướng xã
hội nhất định. Điều đó càng nảy sinh ra nhu cầu điều chỉnh để loại bỏ những yếu tố
ngẫu nhiên, tuỳ tiện, ngăn ngừa rối loạn, khủng hoảng, thiết lập trật tự ổn định. Một
trong những phương tiện điều chỉnh hữu hiệu đó là luật pháp. Bằng sự điều chỉnh
pháp luật mà tạo ra môi trường thuận lợi tin cậy và chính thức cho sự tồn tại và
phát triển của các quan hệ kinh tế.
Trong những năm qua, để đáp ứng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và đáp ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế nợ đọng trong đầu tư xây
dựng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ

5


mới phát sinh, nhất là trong lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng để đạt được mục
đích.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, sản xuất kinh doanh phù hợp
với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời
kỳ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân.
- Sử dụng các nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước đạt hiệu quả cao
nhất đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
- Đảm bảo xây dựng theo quy hoạch được duyệt, đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững, bảo vệ môi trường , tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong xây
dựng, áp dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với
chi phí hợp lý, thực hiện bảo hành công trình.

Nhìn từ góc độ pháp luật có thể nhận thấy pháp luật ngày càng có vai trò to
lớn đối với quản lý nhà nước và xã hội. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định.: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong Hiến pháp cũng đưa ra
một danh mục đáng kể các vấn đề quản lý chịu sự điều chỉnh của pháp luật thông
qua hoạt động lập pháp và hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các
cơ quan nhà nước.
Theo hiến pháp Việt Nam năm 1992 quy định thẩm quyền ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước về điều chỉnh pháp luật đối với
nhiều yếu tố quản lý nhà nước và các mối liên hệ qua lại của chúng.

6


Trong số các hình thức điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước thì ý
nghĩa quan trọng thuộc về các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật được ban hành
trên cơ sở luật và để thi hành luật.
Trong số các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành thì các văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các quan
hệ phát sinh trong quản lý nhà nước chủ yếu là:
- Các văn bản của quốc hội
- Các văn bản của ủy ban thường vụ quốc hội
- Các văn bản của Chính phủ
- Các văn bản cấp bộ, cơ quan ngang bộ
- Các văn bản của chính quyền địa phương
Trong điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước người ta sử dụng cả các
hình thức văn bản quy phạm pháp luật, việc sử dụng loại văn bản quy phạm pháp
luật ở cấp độ nào là tuỳ thuộc vào mức độ quan trọng của các quan hệ cần điều
chỉnh. Điều này tạo ra cho sự điều chỉnh pháp luật một cơ cấu phức tạp.
Sự điều chỉnh của pháp luật đối với quản lý nhà nước bao gồm rất nhiều các

văn bản quy phạm pháp luật. Sự đa dạng này còn tăng thêm bởi một điều là trong
điều chỉnh pháp luật người ta áp dụng các giải pháp khác nhau cho cùng các vấn đề
như nhau. Trong trường hợp này thì quy chế pháp lý của các cơ quan nhà nước và
các cơ quan chính quyền địa phương được quy định khi thành lập chúng. Điều này
tạo khả năng ít nhiều mô tả đầy đủ hơn các vấn đề tương ứng. Trong trường hợp
khác, khi cần thiết người ta bổ sung những thay đổi vào quy chế pháp lý của các
cơ quan đang tồn tại. Điều này thường được thực hiện bởi lẽ trong thực tế hoạt
động chức năng của các cơ quan nhà nước thường phát hiện thấy không đủ các
7


chức năng quản lý hoặc các quyền hạn, mà cũng có thể không đủ cả tiềm năng đội
ngũ nhân viên. Trong trường hợp thứ ba lại có sự quy định trật tự hiện hành một
vấn đề nhất định và giao phó nó cho cơ quan tương ứng.
Nói chung, cơ cấu điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước được hình
thành dưới ảnh hưởng của hai yếu tố dường như gặp nhau. Theo hướng này các
hình thức (các văn bản pháp luật) điều chỉnh pháp luật đã hình thành một cách
khách quan, được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, còn theo hướng khác đó là đặc điểm của bản thân các yếu tố, các quá trình và các quan hệ quản lý nhà
nước, vốn chi phí nội dung điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước.
Vì vậy, cơ cấu điều chỉnh pháp luật đối với quản lý nhà nước cần phải làm
sao cho để mỗi một trong số các yếu tố của quản lý nhà nước đều có một hình thức
pháp luật tương ứng với bản chất và công dụng của nó và đảm bảo thực hiện nó có
hiệu quả
2. Phân tích xử lý tình huống :
1. Theo Điều 34 Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21 – 06- 1994 (sửa
đổi) và quy chế nội quy các kỳ họp của nhiệm kỳ 1999 – 2004 ngày 10 – 02 –
2000, tài liệu phục vụ cho kỳ họp phải được gửi tới đại biểu HĐND trước 5 ngày.
Theo tiết a khoản 2 Điều 25 Luật Ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội
thông qua ngày 16 – 12- 2002. Hội đồng nhân dân quyết định phân bổ dự toán ngân
sách cấp tỉnh mình (cấp tỉnh).

a) Tổng só và mức chi từng lĩnh vực. Theo đó Ban Kinh tế – Ngân sách thẩm
tra báo cáo số 107 và Báo cáo số 108 do UBND trình mà cơ quan tham mưu trực
tiếp cho UBND tình là Sở Tài chính và Sở kế hoạch và đầu tư. Cụ thể đi sâu về vấn
đề vốn đầu tư XDCB và nguồn vốn để đầu tư XDCB công trình năm 2004.

8


2. Về Báo cáo số 107/BC – UB ngày 20 – 11- 2003. Theo Nghị định số
73/2003/NĐ - CP ngày 23-06-2003 (NĐ73). UBND tỉnh K mà ở đây trực tiếp là Sở
Tài chính cơ quan tham mưu đã căn cứ vào các văn bản pháp luật hướng dẫn và số
ngân sách được giao để lập dự tóan năm 2004, tại Điều 4, khoản 4 tiết c chương II
Nghị định số 73 quy định UBND tỉnh giải trình cụ thể về tình hình thực hiện ngân
sách, dự tóan, phân bổ ngân sách cấp mình, trong đó nêu rõ nội dung.
c) “Danh mục, tổng mức đầu tư, tiến độ thực hiện và kế hoạch vốn đầu tư
các dự án, các công trình quan trọng thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương đã
được HĐND cấp mình quyết định theo thẩm quyền; trong đó, nêu chi tiết các dự
án, các công trình XDCB theo quy định của HĐND cấp tỉnh”. Căn cứ vào Nghị
quyết số 14/2003/NQ – HĐ (NQ14) ngày 04 – 8 – 2003 của HĐND tỉnh K khóa
XIII , kỳ họp thứ 11 về phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp:
tỉnh, huyện và xã ổn định trong 3 năm (2004 - 2006).
Theo đó Sở Tài chính đã căn cứ vào số được giao về nguồn vốn XDCB tập
trung có phân cấp nhiệm vụ chi, cụ thể tổng số vốn XDCB tập trung là 160tỷ đồng,
trong đó cấp tỉnh được phân cấp chi (Cho XDCB từng công trình) là 130 tỷ đồng là
có căn cứ và đúng luật, đúng chỉ đạo, đúng thẩm quyền, đảm bảo đúng nguồn vốn
đã được cấp và phê duyệt cho ngân sách năm 2004.
3. Về báo cáo số 108, qua thẩm tra, Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh
thấy rằng đại đa số các công trình trong tổng số 155 công trình thuộc cấp tỉnh phân
bổ vốn (kể cả công trình khởi công mới và công trình chuyển tiếp) đáp ứng đầy đủ
thủ tục về quản lý đầu tư XDCB theo Nghị định 52/1999/NĐ - CP ngày 08 – 71999 như lập dự tóan kinh tế kỹ thuật, đã được cấp thẩm quyền phê duyệt và nằm

trong quy hoạch tổng thể. Tuy nhiên, có một số công trình chuyển tiếp (8 công
trình) chưa đủ thủ tục về đầu tư XDCB theo quy định hiện hành về quản lý đầu tư

9


và xây dựng (NĐ 52), có 4 công trình khởi công mới (Các công trình cần thiết)
chưa phù hợp với quy hoạch được duyệt, quyết định đầu tư sau thời điểm 31 – 11 –
2003.
Tổng số vốn cho 12 công trình này xấp xỉ 30 tỷ đồng.
Theo Luật Ngân sách, Nghị định 73, Thông tư 59, Quyết định 242 và Quyết
định 191 thì Sở Kế hoạch bố trí vốn là 160 tỷ đồng cho 155 công trình. Trong khi
đó theo Sở Tài chính nguồn vốn thuộc thẩm quyền cấp tỉnh phân bổ chỉ có 130 tỷ
đồng cho nguồn vốn XDCB trong năm ngân sách 2004. Như vậy Sở kế hoạch và
Đầu tư bố trí vượt nguồn vốn XDCB là 30 tỷ đồng. Như vậy, Sở Kế hoạch và đầu
tư tỉnh K cơ quan tham mưu trực tiếp cho UBND tỉnh K đã xây dựng dự tóan về
XDCB năm 2004 là trái với luật ngân sách, Nghị quyết số 14 của HĐND tỉnh về
phân cấp nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
4. Việc xảy ra trong quá trình Ban Kinh tế – Ngân sách thẩm tra các báo cáo
của UBND tỉnh K là không có sự thống nhất về nguồn vốn và vốn cho các công
trình XDCB năm 2004 (lệch nhau khoảng 30tỷ đồng) qua báo cáo thấy rằng do
những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Nguyên nhân khách quan:
+ Khoản ngân sách cho XDCB tập trung của Trung ương cho tỉnh A còn quá
hạn hẹp so với nhu cầu cấp thiết về đầu tư XDCB tại tỉnh K.
+ Do đặc điểm riêng biệt của XDCB là công việc phải hoàn thành theo từng
giai đoạn kỹ thuật, theo tiến độ và mùa vụ (hòan thành trước mùa mưa, bão), nhưng
vốn bố trí cho một số công trình chưa kịp ở những năm trước (nợ vốn công trình)
nên trong năm 2004 phải ghi số vốn vào để trả nợ.
- Nguyên nhân chủ quan:


10


+ Qua thẩm tra, Ban Kinh tế – Ngân sách được phản ánh rằng sự phối hợp
giữa Sở Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh K là hai cơ quan chuyên môn,
giúp UBND tỉnh về vấn đề XDCB năm 2004 không được thống nhất và không có
mối liên hệ chặt chẽ trong các khâu lập dự toán.
Theo khoản 6 Điều 3, chương II, Nghị định 73.
“Cơ quan Tài chính chủ động phối hợp với cơ quan Kế hoạch và Đầu tư và
cơ quan có liên quan trình UBND dự tóan thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, chi
ngân sách địa phương; phương án phân bổ ngân sách cấp mình và quyết tóan thu
ngân sách Nhà nước trên địa bàn, chi ngân sách địa phương …”.
Do không có sự phối hợp, bàn bạc với nhau nên việc Sở Tài chính xây dựng
dự tóan chi, trong đó chi XDCB tập trung vào phương án phân bổ Sở Tài chính cử
Xây dựng và ngược lại Sở Kế hoạch và Đầu tư với lý lẽ của mình là cơ quan
chuyên môn về kế hoạch nên chỉ biết rằng Trung ương giao cho bao nhiêu vốn
(theo quyết định số 242) về XDCB tập trung 160 tỷ đồng thì Sở Kế hoạch và Đầu
tư cứ chủ động phân bổ cho các công trình, không cần biết số vốn đó thuộc nguồn
vốn nào, cấp nào được phân, vấn đề này chỉ có cơ quan Tài Chính mới hiểu được
và như vậy là trái với Quyết định 191 và Nghị quyết số 14 HĐND. Ở đây trách
nhiệm thuộc về 2 Sở Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh K.
+ Công tác quy hoạch tổng thể và chi tiết của tỉnh K chưa kịp thời và đồng
bộ, dẫn đến có 4 công trình chưa được phê duyệt quy hoạch, ở đây trách nhiệm
thuộc về Sở Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) tỉnh K không phối hợp với Sở Tài Chính,
dẫn đến lập dự toán về phân bổ vốn XDCB năm 2004 vượt nguồn trái với Luật
Ngân sách và Thông tư số 61/TT – BTC ngày 23 – 6 – 2003 (TT61) về hướng dẫn
xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước năm 2004. Trong Thông tư đã chỉ rõ về chi
cho đầu tư XDCB.


11


“Xây dựng dự tóan chi cho đầu tư XDCB tập trung phải quán triệt những yêu
cầu của Luật Ngân sách và các văn bản hướng dẫn: Đảm bảo đầu tư có trọng tâm,
trọng điểm, chống dàn trải gây lãng phí thất thoát…”
“… Các công trình đưa vào dự tóan chi ngân sách năm 2004 phải có đủ thủ
tục đầu tư XDCB và được duyệt trước tháng 9 -2003; bố trí căn cứ khả năng ngân
sách theo số kiểm tra dự toán chi đầu tư XDCB, không bố trí tràn lan vượt quá khả
năng của ngân sách Nhà nước….”.
Như vậy một số công trình mà Sở kế hoạch và Đầu tư đã bố trí, không đáp
ứng yêu cầu về quản lý thủ tục đầu tư XDCB như nghị định số 52/1999 Ngày 08 –
7 -1999; số 12/2000/NĐ - CP ngày 30 – 01 – 2003 của Chính phủ về quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng.
Hơn nữa, cũng không đúng với thông tư hướng dẫn của Thông tư 61: Các
công trình đưa vào dự tóan phải đảm bảo nguồn vốn và khả năng ngân sách cấp
mình. Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh cho rằng Sở Kế hoạch và Đầu tư đã có
xu hướng (theo chủ quan) nới lỏng quản lý đầu tư và xây dựng, không đảm bảo kỷ
cương trong XDCB và các văn bản quy phạm pháp luật nói trên.
+ Ở một số công trình đã khởi công (công trình chuyển tiếp) một số nhà thầu
do sức ép lớn về nhu cầu việc làm, đảm bảo thu nhập cho cán bộ, công nhân viên;
khấu hao máy móc, thiết bị … nên các nhà thầu chấp nhận ứng vốn trước, hơn nữa
họ không hiểu thông tin về khả năng vốn của chủ đầu tư. Trong số này khoảng 18
công trình với số vốn gần 38 tỷ đồng, thực chất là những công trình đã hòan thành
nhưng chưa có nguồn vốn từ những năm trước, đến năm 2004 mới ghi được vào để
thanh toán cho nhà thầu.
5. Từ những nguyên nhân trên, nếu chấp nhận theo phương án tại Báo cáo số
108 của Sở Kế hoạch và Đầu tư, trình trước HĐND tỉnh thông qua thì:
12



- Xác định đây là nguyên nhân gây ra tình trạng nợ đọng XDCB từ nguồn
NSNN. Trong khi Chính phủ đang đưa ra một số chủ trương, biện pháp để chống
tình trạng dẫn đến nợ đọng XDCB. Nếu triển khai sẽ dẫn đến tình trạng nợ đọng
XDCB cho những năm sau, làm tăng sự rối loạn trong thị trường tài chính - tiền tệ,
tác động không nhỏ đến việc cân đối ngân sách, phá vỡ kỷ cương phép nước về
quản lý đầu tư và xây dựng; làm mất hình ảnh, uy tín của tỉnh K đối với Trung
ương, từ đó sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
- Từ những nguyên nhân trên, nếu triển khai theo phương án của Sở Kế
hoạch và Đầu tư, tình trạng dây dưa nợ XDCB là không tránh khỏi, hơn nữa trong
năm 2004 tỉnh K đã phải trả nợ XDCB (qua thẩm tra) gần 38 tỷ đồng, gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới tốc độ phát triển kinh tế – xã hội tỉnh K. Nếu số vốn trả nợ
trên được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, công trình xây dựng thực sự phát huy
hiệu quả, cần thiết … theo đúng tinh thần tại Thông tư 61 của Bộ Tài chính hướng
dẫn “… đảm bảo vốn đối với các công trình trọng điểm của Nhà nước, của ngàn,
địa phương có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn
2001 – 2005 ….”.
Trong khi Luật ngân sách ra đời nhằm hạn chế, xóa bỏ cơ chế “xin cho” thì ở
đây không dám chắc rằng trong 155 công trình mà Sở Kế hoạch và Đầu tư lên kế
hoạch sẽ phát huy hiệu quả, hoặc có những công trình các chủ đầu tư xin tự ứng
vốn trước để khởi công đến năm 2004 mới “chạy xin vốn”. Do nhiều nguyên nhân,
dẫn đến Sở kế hoạch và đầu tư bắt buộc phải bố trí vốn cho các công trình đó gây
nên sự bị động trong bố trí vốn cho các công trình cấp thiết khác, hoặc những công
trình trọng điểm khác đang khát vốn để đẩy nhanh tiến độ thi công hòan thành, việc
bố trí vốn bị động dẫn đến một số công trình thiếu vốn do vốn bị phân bố dàn trải,
không tập trung, vì thế không đảm bảo đúng tiến độ, hòan thành đưa vào khai thác,

13



sử dụng, dẫn đến lãng phí vốn đầu tư, gây ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh
tế – xã hội của tỉnh K.
- Là nguyên ngân cơ bản dẫn đến nợ đọng XDCB, nếu thực hiện theo
phương án tại Báo cáo số 108 của Sở Kế hoạch và Đầu tư và như vậy, trong những
năm ngân sách tiếp theo, Chính phủ không cấp ngân sách để trả nợ XDCB, thì sẽ
ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của một số nhà thầu (các công trình
khởi công và chuyển tiếp nhiều công trình nhà thầu ứng trước vốn) có vốn XDCB
phải đi vay, từ đó làm tăng dư nợ tín dụng, dư nợ quỹ hỗ trợ phát triển, có thể dẫn
đến một số nhà thầu rơi vào tình trạng phá sản, người lao động mất việc làm, ngòai
ra còn là nguyên nhân quan trọng làm cho giá cả nhiều loại sản phẩm hàng hóa tăng
cao. Một số nhà thầu không đủ vốn, nếu muốn vay phải có công trình, hơn nữa còn
đảm bảo khấu hao máy móc, thiết bị, thu nhập và việc làm của công nhân nên tìm
mọi cách để có được công trình (kể cả việc bỏ thầu thấp để trúng thầu) không cần
biết khả năng vốn của chủ đầu tư đến đâu, nếu không có vốn thì đi vay, từ đó rơi
vào vòng luẩn quẩn và nợ đọng XDCB từ nguồn NSNN ngày càng lớn, tạo ra sức
ép về lao động và việc làm rất lớn, ảnh hưởng xấu về mặt xã hội, tạo ra một nền
kinh tế phát triển không lành mạnh về tài chính, trong khi tỉnh K là tỉnh đất chật,
người đông đang cần có những công trình hòan thành để góp phần tạo công ăn việc
làm cho người dân.
3. Phương án giải quyết tình huống
a/ Xây dựng phương án:
Do kỳ họp HĐND tỉnh đã được ấn định vào ngày 04 – 12- 2003, thời gian là
rất gấp, theo Luật tổ chức HĐND, tại Điều 31 và nội quy của các kỳ họp đã nêu ở
phần trên.
Do vậy có thể giải quyết tình huống trên theo các phương án sau:
14


- Phương án 1:
+ Giữ ngyên các phương án tại Báo cáo số 107 và 108 của UBND tỉnh K.

+ Về số nguồn vốn thiếu sẽ đưa ra HĐND tỉnh xem xét quyết định cho phép
UBND bổ sung nguồn vốn bằng biện pháp vay vốn để bù vào số nguồn vốn XDCB
thiếu khoảng 30 tỷ đồng, theo điểm 3 Điều 8 Luật ngân sách:
“ Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo
đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết
định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự tóan, thì
được phép huy động vốn trong và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ
động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá
30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách tỉnh”.
Tại Điều 26 nghị định 60 của Chính phủ hướng dẫn cụ thể việc thực hiện,
yêu cầu khi phát sinh nhu cầu huy động vốn như: Kế hoạch 5 năm thuộc nguồn
ngân sách đã được HĐND tỉnh phê duyệt, dự án đề nghị huy động vốn thuộc danh
mục đầu tư, quyết định của cấp có thẩm quyền đề nghị huy động, phân tích hiệu
quả kinh tế – xã hội của dự án …..
Thực hiện theo phương án này có những ưu điểm, nhược điểm là:
* Về ưu điểm
- Đáp ứng được thời gian gửi tài liệu đến đại biểu HĐND tỉnh theo luật định.
- Sở kế hoạch và Đầu tư không phải tính tóan lại việc xây dựng kế hoạch
XDCB năm 2004 cho 155 công trình.

15


- Đảm bảo một số công trình có vốn xây dựng trong năm ngân sách năm
2004 một phần nào góp phần tích cực vào sự phát triển GDP của tỉnh, đảm bảo lợi
ích của một số nhà thầu.
*Về nhược điểm:
- Sở Tài chính phải bổ sung dự toán ngân sách năm 2004 và báo cáo lại với

Chính phủ, Bộ Tài chính số nguồn vốn XDCB vượt lên.
- Về nguyên tắc tỉnh K không chấp hành luật, nghị định, quyết định, thông tư
hướng dẫn của Chính phủ, Bộ, cơ quan chuyên môn cấp trên, nhất là số vốn đã
được Quốc hội phê chuẩn, Chính phủ giao, Bộ Tài chính phân bố tỉnh K là 160 tỷ
đồng, trong đó XDCB tập trung do cấp tỉnh quản lý là 130 tỷ đồng về XDCB
- Tạo ra một tiền lệ không tốt trong công tác phân bổ nguồn vốn XDCB tập
trung cho những năm sau (Sở kế hoạch và Đầu tư cứ phân thiếu vốn thì tìm nguồn
sau, cứ cho khởi công sau đó chạy vốn, xin vốn sau vì là công trình thuộc vốn ngân
sách nên bắt buộc ngân sách phải no trả nợ).
Điều này rất nguy hiểm, vì chính những điều đó mà việc nợ đọng trong tỉnh
K đang còn rất lớn (Theo báo cáo vào khoảng 25 tỷ đồng tính đến gần hết năm
2003) và nằm trong số 7.500 tỷ đồng nợ đọng XDCB từ nguồn NSNN trên tòan
quốc. Mà vấn đề nợ đọng XDCB có tác động không tốt như đã phân tích ở trên.
- Tuy phương án đã giải quyết được vốn bù đắp ( đi vay hoặc huy động)
nhưng ngân sách tỉnh K phải no trả nợ khi đến hạn, Nhà nước không cấp vốn để trả
nợ XDCB cho những năm tiếp theo, do vậy xẽ gây ra sự bị động về phân bổ vốn
XDCB và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh K, nhất là tỉnh K là tỉnh
nghèo, vừa được tái lập, có nhiều công trình nằm trong kế hoạch XDCB trong
những năm tới. Nếu những năm tới nguồn vốn XDCB còn hạn hẹp thì nguồn vốn
cho những công trình sau này sẽ rất eo hẹp và khó khăn.
16


- Phương án 2.
+ Giữa nguyên báo cáo về dự tóan năm 2004 do Sở Tài chính tham mưu cho
UBND tỉnh về phân bổ nguồn vốn XDCB tập trung cấp tỉnh năm 2004.
+ Yêu cầu UBND tỉnh K chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư trong thời gian
nhanh nhất rà soát lại danh mục công trình XDCB năm 2004: 155 công trình,
những công trình nào không đúng, không đáp ứng theo yêu cầu của Luật ngân sách,
nghị định, thông tư hướng dẫn không phù hợp với quy hoạch được duyệt đã nói ở

phần trên thì kiên quyết cắt giảm hoặc rút bỏ các công trình đó, đặc biệt Sở Kế
hoạch và Đầu tư nên chú ý tới 8 công trình chưa đủ thủ tục về quản lý đầu tư và
xây dựng và 4 công trình chưa phù hợp về quy hoạch, số vốn cho các công trình
XDCB năm 2004 cần rút bớt là khoảng 30 tỷ đồng để tổng số vốn phân bổ cho các
công trình còn 130 tỷ đồng, phù hợp với nguồn vốn được phân bổ theo cấp ngân
sách năm 2004.
Thực hiện theo phương án này có những ưu điểm và nhược điểm sau:
* Về ưu điểm
- Thực hiện đúng chủ trương, quyết định phân bổ vốn của Quốc hội, Chính
phủ và quyết định phân bổ ngân sách của Bộ Tài chính, góp phần vào sự ổn định
cân đối ngân sách từ địa phương tới Trung ương (ý thức, kỷ luật, chấp hành ngân
sách của tỉnh K được ghi nhận).
- Thực hiện phương án này, góp phần vào việc thực hiện Luật ngân sách đã
được Quốc hội thông qua ngày 16 – 12 – 2002, xóa bỏ cơ chế “xin cho”, từ đó từng
bước xóa bỏ tình trạng nợ đọng XDCB từ nguồn NSNN, tăng cường lành mạnh hóa
thị trường tài chính – tiền tệ trên địa bàn và cả nước.

17


Phương án thực hiện cũng tạo ra một tiền lệ cho những nhà quản lý về đầu tư
XDCB như: Thẩm định, quy hoạch dự án …. tăng cường trách nhiệm hơn đối với
sự lựa chọn công trình được phân bổ vốn XDCB cho những năm sau, từ đó tiết
kiệm vốn đầu tư, tăng cường hiệu quả kinh tế – xã hội của công trình đầu tư.
* Về nhược điểm
- Thực hiện phương án, Sở kế hoạch và Đầu tư sẽ phải chuẩn bị lại báo
cáo, vì thế thời gian gửi tài liệu đến các đại biểu HĐND tỉnh có thể không đúng
thời gian theo luật định.
- Gây xáo trộn về kế hoạch XDCB năm 2004 ở một số công trình, từ đó
có thể ảnh hưởng tới giá trị tính vào GDP của tỉnh K.

Gây ảnh hưởng tới lợi ích của một số nhà thầu do công trình phải rút bỏ
hoặc cắt bớt vốn đầu tư.
b. Lựa chọn phương án:
Tỉnh K là tỉnh được Trung ương quan tâm chú ý đầu tư, và sẽ được đưa
vào vùng kinh tế trọng điểm khu vực phía Bắc. Vì vậy để tạo uy tín của tỉnh K
đối với Trung ương, hy sinh lợi ích riêng, trước mắt để tạo đà phát triển lâu
dài, chính vì vậy xét thấy để phương án phù hợp với mục tiêu trên chỉ có
phương án 2 là đáp ứng được yêu cầu đó. Ban Kinh tế – Ngân sách HĐND tỉnh
lập báo cáo thẩm tra theo phương án 2 trình trước HĐND tỉnh khóa XIII, kỳ
họp thứ 13 xem xét quyết định dự tóan năm 2004 của tỉnh K, trong đó có lĩnh
vực về phân bổ nguồn vốn và vốn đầu tư XDCB năm 2004 là 130 đồng.
c. Kế hoạch thực hiện phương án 2
Tại khoản 3 Điều 45 Luật ngân sách quy định:

18


“Hội đồng nhân dân cấp Tỉnh quyết định dự tóan ngân sách địa phương,
phân bổ ngân sách cấp tỉnh năm sau trước 10 tháng 12 năm trước …”.
Tại Điều 48 Luật Ngân sách quy định:
“Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, HĐND về dự toán ngân sách và
phân bổ ngân sách, chính phủ quyết định các giải pháp tổ chức, điều hành ngân
sách Nhà nước và ngân sách Trung ương, UBND quyết định các giải pháp tổ
chức, điều hành ngân sách địa phương và ngân sách cấp mình”.
Căn cứ theo luật định, HĐND tỉnh ra quyết định, quyết định dự tóan ngân
sách tỉnh K và phân bổ ngân sách cấp tỉnh, giao UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện
điều hành. UBND tỉnh chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư, phân bổ số vốn đầu tư
XDCB đã được HĐND tỉnh quyết định tới từng dự án công trình theo đúng luật
chế độ quy định.
Sở Kế hoạch và Đầu tư căn cứ vào số vốn đã được HĐND tỉnh phê duyệt

cho các công trình, dự án XDCB năm 2004 (số công trình có nguồn vốn) lập kế
hoạch giải ngân theo đúng quy định tại các nghị định quy định về quản lý đầu
tư và xây dựng. Tiếp tục thực hiện theo Chỉ thị số 29/2003/CT – TTg ngày 23
12 – 2003 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh quản lý đầu tư xây dựng
bằng nguồn vốn đầu tư XDCB tiết kiệm, phát huy hiệu quả, góp phần làm tăng
tốc độ phát triển kinh tế – xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực đúng hướng của tỉnh.

19


III - KIẾN NGHỊ
Với phương án giải quyết (phương án 2) tuy có gây khó khăn trong thực
hiện đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư, và ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích của
một số nhà thầu đã xây dựng công trình phải rút bỏ hoặc cắt bớt vốn. Nhưng
phương án 2 góp phần bảo vệ kỷ cương phép nước về quản lý đầu tư và xây
dựng . Tạo nên tiền lệ tốt về phân bổ vốn và nguồn vốn XDCB, bước đầu tránh
tình trạng gây nên nợ đọng XDCB từ nguồn vốn NSNN, cùng cả nước tạo nên
thị trường tài chính – tiền tệ lành mạnh, tác động tích cực tới đời sống xã hội,
tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế – xã hội.
Tuy nhiên để không mắc phải cho những tình huống tương tự cho những
năm ngân sách tiếp theo, tôi xin đưa ra một số kiến nghị:
- Tăng cường trách nhiệm chấn chỉnh trong hoạt động quản lý Nhà nước của
Sở Tài chính và Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc phối kết hợp trong hoạt động
thực hiện nhiệm vụ, chức năng đã được phân công.
- Đề nghị Chính phủ quan tâm tới tỉnh K, là tỉnh nghèo nhưng giàu tiềm năng
là địa bàn chiến lược về quốc phòng và an ninh, tăng nguồn vốn XDCB tập trung
hợp nữa để tỉnh K có nguồn vốn cho đầu tư xây dựng XDCB, xứng tầm với tiềm
năng, nhanh chóng đưa tỉnh K tiến kịp với các tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm.

- Nhanh chóng triển khai đưa Luật xây dựng vào cuộc sống hòan thiện cơ
chế, chính sách về quản lý đầu tư và xây dựng, quy chế đấu thầu, hợp đồng kinh tế
giữa chủ đầu tư và nhà thầu, nâng cao năng lực cơ quan tư vấn, giám sát để nhằm
mục đích năng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB và hiệu quả kinh tế – xã
hội của công trình đầu tư.

20


- Nằm trong tình hình chung, có yếu tố lịch sử của tình trạng nợ đọng XDCB
từ nguồn vốn NSNN nên tỉnh K không tránh khỏi có tình trạng nợ đọng XDCB, vì
vậy đề nghị Chính phủ rà soát lại một số công trình nợ đọng để có biện pháp xử lý
dứt điểm nếu là nguyên nhân khách quan đề nghị Chính phủ hỗ trợ vốn để thanh
toán hoặc bằng cách chính phủ cho phép Tỉnh K được thực hiện “Đổi đất gán cho
các nhà thầu thông qua hình thức đấu giá sử dụng đất; nhà thầu thống nhất và cam
kết về mục đích sử dụng đất phù hợp với quy hoạch của tỉnh”. Những giải pháp này
sẽ góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính tiền tệ của tỉnh trong vấn đề nợ đọng
xây dựng cơ bản đảm bảo vốn xây dựng cơ bản năm sau sẽ giành đúng mục đích,
đúng trọng tâm, trọng điểm cho các công trình cần thiết đạt hiệu quả kinh tế – xã
hội.

21


KẾT LUẬN
Đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển, Đảng và Nhà nước
đề cao công cuộc cải cách nền kinh tế, cải cách hành chính từ trung ương đến địa
phương, ở các cấp, các ngành, trong đó bước đầu cải cách phương thức phân bố
ngân sách Nhà nước hàng năm. Bởi vốn ngân sách là vấn đề “nhạy cảm”. Trong
quan niệm cũ đó là “chiếc bánh ngân sách”. Địa phương nào, cơ quan nào cũng

muốn giành được phần hơn cho mình, bởi trong tình hình hiện nay đất nước ta còn
nghèo, trong khi đó nhu cầu về vốn cho các lĩnh vực thì rất ít. Trong đó có chi cho
đầu tư xây dựng cơ bản thì càng tăng.
Để khắc phục những tồn tại đó Chính phủ đã đưa ra một số chính sách cụ thể
như Luật ngân sách, Nghị định số 60, các Quyết định, Thông tư hướng dẫn để các
Bộ, Ngành, Địa phương thực hiện. Đặc biệt tại kỳ họp thứ IV Quốc hội khóa XI đã
tham gia phân bổ ngân sách Nhà nước, ngân sách Trung ương, ở địa phương
HĐND tỉnh phân bố ngân sách địa phương và ngân sách của cấp mình. Trong đó có
phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản để từng bước quản lý nguồn vốn đầu tư xây
dựng cơ bản khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước.
Qua nội dung câu truyện tình huống và phương án giải quyết đã đưa ra ở tỉnh
K. Trong tình huống này vấn đề giải quyết là quyết định thế nào để các cơ quan
Nhà nước thấy được công việc tham mưu của mình trong lĩnh vực quản lý Nhà
nước chưa đúng với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp
trên mặc dù phương án, đề án của mình đưa ra có mục đích phát triển kinh tế xã hội
chung cho tỉnh K. Nhưng xét trên toàn diện và chủ trương, văn bản của cấp trên
hướng dẫn thì không đúng.
Qua câu chuyện tình huống cũng đề cập đến vấn đề phối hợp hoạt động trong
lĩnh vực quản lý Nhà nước của các cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước ở tỉnh
22


K sao cho có sự phối hợp chặt chẽ hơn để có sự thống nhất cao trong việc giúp cho
UBND tỉnh K đưa ra một vấn đề nào đó được hiệu quả hơn, tránh tình trạng nhiệm
vụ của cơ quan nào thì cơ quan đó làm. Với tỉnh K cần hoàn thiện quy chế hoạt
động của UBND, các Sở, Ban, Ngành nhất là vấn đề phối hợp hoạt động giữa các
cơ quan chuyên môn giúp UBND về quản lý Nhà nước trong từng lĩnh vực. Trong
điều hành, chủ trì, quán triệt tới các cơ quan có sự phối hợp với nhau để thống nhất,
uốn nắn những biểu hiện sai phạm, không đúng hướng của các cơ quan giúp
UBND, coi trọng mục tiêu, chủ trương phát triển chung chứ không vì lợi ích địa

phương. Đảm bảo trong lĩnh vực hoạt động quản lý Nhà nước đúng luật và hiệu
quả.

23


MỤC LỤC

24



×