Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Nghiên cứu thành phần flavonoit từ cây kháo (phoebe tavoyana)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 41 trang )

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm trong vành đai có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm,
với nét đặc trưng thay đổi từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở những
vùng đất thấp phía nam đến các đặc điểm mang tính chất cận nhiệt đới ở vùng
núi cao phía bắc.
Nước ta, phần đất liền trải dài từ 8o30’ đến 23o22’ vĩ độ Bắc, phía đông
và phía nam giáp với biển Đông, tây giáp với Lào và Campuchia, bắc giáp với
Trung Quốc. Với diện tích hơn 330.000 km2, trong đó đồi núi chiếm gần 4/5.
Đây là những điều kiện thuận lợi tạo nên hệ thực vật rất phong phú, đa dạng
với khoảng 12000 loài, trong đó có tới 4000 loài được nhân dân dùng làm
thảo dược [3]. Điều này thực sự có ý nghĩa rất to lớn cho sự phát triển của
ngành y tế, ngành hóa học và một số ngành khác. Các nhà nghiên cứu đã tổng
hợp được rất nhiều hợp chất có tác dụng chữa bệnh, song các hợp chất này có
một số hạn chế, như gây ra tác dụng phụ không mong muốn. Mặt khác, nước
ta là nước đang phát triển, thu nhập bình quân trên đầu người thấp mà các
thuốc chữa bệnh hầu như đều nhập khẩu từ nước ngoài và kèm theo đó là giá
thành cao, gây khó khăn cho người sử dụng. Do đó, nhà nước đã có chủ
trương và khuyến khích tăng cường sản xuất thuốc trong nước. Một trong các
nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc được lấy từ thiên nhiên bởi đặc tính ít gây
ra tác dụng phụ, ít độc, dễ hấp phụ và không làm tổn hại đến môi trường. Vì
vậy, vấn đề đang được đặc biệt quan tâm là nghiên cứu các hợp chất được
tách ra từ sản phẩm thiên nhiên.
Theo công bố hiện nay có khoảng 60-70% các loại thuốc chữa bệnh
đang được lưu hành hoặc đang trong thời gian thử nghiệm lâm sàng có nguồn
gốc từ hợp chất thiên nhiên [2].

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học



1


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trong số các loài cây cần quan tâm nghiên cứu có cây Kháo (Phoebe
tavoyana). Cây Kháo thường phân bố ở miền nam Trung Quốc và miền bắc
Việt Nam cây thường mọc ở độ cao 700-2500m. Theo kinh nghiệm dân gian
lá các cây của chi Kháo dùng để tiêu mụn nhọt và thuốc sắc vỏ cây dùng để
trừ phong thấp [5]. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hoạt tính sinh học
của một số hợp chất trong cây Kháo có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm,
chống kí sinh trùng đường máu, chống lắng đọng tiểu cầu và hoạt tính chống
ung thư.
Xuất pháp từ ý nghĩa thực tiễn nên tôi đã chọn đề tài cho khóa luận tốt
nghiệp là:
“ Nghiên cứu thành phần flavonoit từ cây Kháo (Phoebe tavoyana)”
Với mục đích nghiên cứu thành phần flavonoit có trong cây Kháo và
xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất đã phân lập. Từ đó tạo cơ sở cho
những nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực tìm các phương thuốc mới cũng
như giải thích được tác dụng chữa bệnh của các cây thuốc cổ truyền Việt
Nam. Đây là yếu tố quan trọng có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của nền
y học.
Nhiệm vụ của đề tài là:
1. Thu mẫu lá cây Kháo, xử lí mẫu, tạo dịch chiết.
2. Phân lập các hợp chất flavonoit.
3. Xác định cấu trúc của các hợp chất đã phân lập được.


Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

2


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm, tính vị và công dụng của cây Kháo
1.1.1. Mô tả
Tên khoa học: Phoebe tavoyana.
Tên tiếng Việt: Cây Kháo (Sụ lá
to, Bời lời cơm).
Họ: Long não (Lauraceae).
Là loại cây gỗ nhỏ, cao 10 m,
cành nhỏ, phủ lông dày màu nâu.
Lá có phiến thon gọn ở 2 đầu,
dài 20 - 27cm, rộng 7 - 13cm,
đầu nhọn, gốc hình nêm, mặt
trên nhẵn, mặt dưới có lông, có 8

Hình 1.1: Cây Kháo

- 11 đôi gân bậc hai. Cuống lá
dài 1,5 - 2,5cm, có lông. Cụm
hoa chùy ở đầu cành, dài 6 10cm, phủ lông dày, cuống hoa
dài 5 - 7mm. Mảnh bao hoa 6,
các mảnh của vòng ngoài nhỏ

hơn của vòng trong, phủ lông
nâu. Nhị hữu thụ 9, 6 nhị ở hai
vòng ngoài không lông, 3 nhị

Hình 1.2: Quả Kháo

vòng trong có lông, ở gốc chỉ nhị có hai tuyến hình tim có chân. Nhị lép hình
đầu mũi tên có lông. Bầu hình cầu, vòi hình đầu. Quả hình cầu, đường kính
khoảng 1cm.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

3


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.1.2. Phân bố, sinh thái
Chi Kháo có khoảng 23 loài, phân bố ở miền nam Trung Quốc và miền
bắc Việt Nam. Cây thường mọc ở độ cao 700-2500m. Ở Việt Nam, cây Kháo
phân bố ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc và Như Xuân, Thanh Hóa [5]. Ngoài ra, còn
phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia, Ma-lay-xi-a và Inđô-nê-xi-a.
Nơi sống và sinh thái: Mọc rất rải rác dưới tán rừng mưa nhiệt đới
thường xanh mưa mùa ẩm, ở độ cao khoảng 300m trở lên, cùng với một số
loài của các họ khác như Na (Annonaceae), Đậu (Fabaceae), Thầu Dầu
(Euphoriaceae),...
Sinh học: Cây tái sinh bằng hạt, mùa quả chín tháng 12, mỗi quả chỉ có
một hạt giống duy nhất và chúng thường xuyên phân tán bởi các loài chim.

Kết quả là những hạt giống này trong điều kiện tốt sẽ nảy mầm.
1.1.3. Thành phần hóa học
Ở Việt Nam có ít nghiên cứu và chưa có nghiên cứu chuyên sâu về cây
Kháo. Năm 2005, hai tác giả Nguyễn Văn Hùng và Nguyễn Văn Tuyến [7] đã
công bố 7 hợp chất ancaloit phân lập từ vỏ thân cây Kháo là: Corydin (1),
Pronuciferin (2), Anonain (3), Norcorydin (4), Stepharin (5), Nmetyllaurotetenin (6) và N- metyllaurolitsin (7).
H3CO

H3CO

N

N
HO

O

CH3

H3CO

H

H

H3CO

H3CO

H3CO


NH

O

O

2

H3CO

3

1

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

4


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

H3CO

H3CO

NH
HO


H3CO

HO

NH
H3CO

NH

N
H3CO

H3CO

H

H

H
H3CO
O

H3CO

5

4

H3CO


H3CO
6

OH

7

OH

Cho đến nay, thế giới đã có một số công trình nghiên cứu về các loài
trong chi Kháo (P. molocella, P. pittier, P. formosana, P. valeriana,
P.grandis..) thuộc họ Long não [11,12,16,17,18,19]. Người ta đã phân lập và
xác định cấu trúc của rất nhiều aporphin ancaloit từ các chi này. Theo tác giả
Hanita Omar, năm 2009, từ vỏ của cây Phoebe tavoyana đã cô lập và tinh chế
9 ancaloit, trong đó có 2 hợp chất mới: (+)-tavoyanine 101 và (-)-tavoyanine
102 cùng với 4 aporphines đã biết là: 77 norboldine, 73 laetanine, roemrine
84, boldine 74 và 1 hợp chất morphinandienone: sebiferine 103 [22].
1.1.4. Hoạt tính sinh học
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về hoạt tính sinh học của aporphin
ancaloit có trong cây Kháo. Một số aporphin ancaloit có khả năng kháng
khuẩn, kháng nấm, chống kí sinh trùng đường máu, chống lắng đọng tiểu cầu
và hoạt tính chống ung thư. Các hợp chất này được tìm thấy trong các loài của
chi Kháo (P. pittieri, P. chinensis…)[7].
Trong chương trình sàng lọc tìm kiếm các hợp chất có hoạt tính sinh
học từ thực vật Việt Nam của Viện Hóa Sinh biển đã thử hoạt tính sơ bộ dịch
chiết MeOH của lá cây Kháo Phoebe tavoyana (Meisn.) Hook.f. Kết quả cho
thấy, dịch chiết MeOH này thể hiện hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính gây
độc tế bào với 2 dòng tế bào ung thư gan người (Hep-2) và ung thư màng tim
(RD). Chính vì vậy, việc nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học

các hợp chất được phân lập từ cây Kháo (Phoebe tavoyana (Meisn.) Hook.f.)

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

5


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

có ý nghĩa quan trọng giúp làm sáng tỏ thành phần hóa học và tìm kiếm
những hợp chất có hoạt tính sinh học phục vụ cuộc sống.
1.1.5. Công dụng
Theo kinh nghiệm dân gian thì lá của cây được dùng để tiêu mụn nhọt
và nước sắc vỏ cây được dùng để trừ phong thấp [5].
1.2. Lớp chất flavonoit, thành phần hoá học có trong cây Kháo
1.2.1. Giới thiệu chung [1,4,10,13,19]
Flavonoit là một trong những hợp chất phân bố rộng rãi nhất trong tự
nhiên. Theo quá trình tiến hóa của thực vật, flavonoit bắt đầu xuất hiện ở hai
loại tảo vàng, cách đây 280 triệu năm và sống ở nước ngọt hay nước lợ.
Sự tiến hóa của flavonoit liên quan đến sự tiến hóa thực vật và dẫn đến
ba sự thay đổi quan trọng về mặt cấu trúc của flavonoit:
 Sự biến mất Proantoxianidin.
 Sự mất ba nhóm OH ở trong vòng benzen.
 Sự thay thế flavonol bởi flavon.
Flavonoit có mặt trong hầu hết các bộ phận của cây như: lá, hoa, quả,
thân, rễ… và cư trú ở thành tế bào. Nó tham gia vào sự hình thành màu sắc
của cây đặc biệt là hoa.
Flavonoit là một nhóm hợp chất polyphenol đa dạng về cấu trúc và tác

dụng sinh học. Các polyphenol có thể phản ứng lẫn nhau qua các nhóm OH
để tạo thành phân tử phức tạp hơn hoặc hay có thể liên kết với các hợp cất
khác trong cây.
Các chất flavonoit có cấu tạo gồm hai vòng benzen A và B được nối
với nhau bởi một dị vòng C với bộ khung cacbon C6-C3-C6.
Việc phân loại các flavonoit dựa trên sự khác nhau của nhóm C3 (các
glicozit của nó có màu vàng nhạt và màu ngà; antoxianin và antoxianiđrin màu
đỏ, xanh, tía và các dạng không màu; isoflavon, catecin và leucoantoxianiđrin
là các chất tan trong nước và thường nằm trong không bào).

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

6


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Các flavonoit là các dẫn xuất của 2–phenyl chromen (flavan).

A

1'

8
9

7


O

B

3'

2'

4'

2
5'
3

6

10
5

6'

C

4

Hình 1.3 : Flavan (2-phenyl chromen)
1.2.2. Các nhóm flavonoit [1,4,10,13,19]
1.2.2.1. Flavon và flavonol:
Nhóm flavon và flavonl rất phổ biến trong tự nhiên. Công thức cấu tạo
của chúng chỉ khác nhau ở vị trí Cacbon số 3.

O

O
OH

RO

OH

RO

OH
O

O

Hình 1.4: Flavon

Hình 1.5: Flavonol

Trong thưc vật, các flavon và flavonol thường không tồn tại dưới dạng
tự do mà thường dưới dạng glycozit.
1.2.2.2. Flavanon: Các flavanon nằm trong cân bằng hỗ biến các Chalcon do
vòng dihydropyron của flavanon kém bền nên dễ xảy ra mở vòng chuyển
thành chalcon.
O

OR

RO


O

Hình 1.6: Flavanon

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

7


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2.3. Flavanonol-3: Có 2 nguyên tử cacbon bất đối là C-2 và C-3 nên
chúng có tính quang hoạt. Các hợp chất thường gặp là aromadendrin, fustin
và taxifolin.
OR
O
RO
OH
O

Hình 1.7: Flavanonol-3
1.2.2.4. Chalcon: Chalcon khác với các loại flavonoit là gồm 2 vòng benzen
A và B được nối với nhau bởi 1 mạch hở có 3 nguyên tử cacbon. Chalcon có
thể bị đồng phân hoá thành flavonon khi đun nóng với axit clohidric (HCl).
OR
OH
RO


O

Hình 1.8: Chalcon
1.2.2.5. Auron: Có màu đậm và không tạo màu khi thực hiện phản ứng
shinoda (phản ứng định tính flavonoit).
O
RO

A

C

OR
CH

B

O

Hình 1.9: Auron

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

8


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


1.2.2.6. Antoxianidin: Công thức chung như sau.
OR

O
RO

OH

Hình 1.10: Antoxianidin
Thường gặp trong tự nhiên ở dạng glycozit dễ tan trong nước. Màu sắc
của nó thay đổi theo pH.
1.2.2.7. Leucoantoxianidin: Các hợp chất này mới chỉ tìm thấy ở dạng
agycon, chưa tìm thấy ở dạng glycozit.
O

OH
O

Hình 1.11: Leucoantoxianidin
1.2.2.8. Catechin: Catechin là các dẫn xuất flavan-3-ol. Do có 2 trung tâm
cacbon bất đối nên chúng tồn tại dưới dạng 2 cặp đồng phân đối quang.
OH
O

HO

OH

OH

O

HO

OH

OH
OH

OH

OH

Hình 1.12: (+)-Catechin

Hình 1.13: (-)-Catechin

OH
O

HO

OH

OH
O

HO

OH

OH

Hình 1.14: (+)-Epicatechin

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

OH
OH

OH

Hình 1.15: (-)-Epicatechin

9


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.2.2.9. Isoflavonoit: Bao gồm các dẫn xuất của 3-phenyl chroman.
O

O

O

Hình 1.16: 3-phenyl chromen

Hình 1.17: 3-phenylchromen-4-one


1.2.2.10. Rotenoit và neoflavonoit: Các rotenoit có quan hệ chặt chẽ với các
isoflavon về mặt cấu trúc cũng như sinh tổng hợp.

H
O

O
O

H
O
OMe
MeO

Hình 1.18: Rotenoit
1.3. Các phương pháp chiết mẫu thực vật
1.3.1. Đặc điểm chung của chiết
- Chiết là quá trình tách và phân ly các chất dựa vào quá trình chuyển
một chất hòa tan trong một pha lỏng vào một pha lỏng khác không hoà tan với
nó.
- Mục đích của chiết:
+ Chuyển một lượng nhỏ chất nghiên cứu trong một thể tích lớn dung
môi này vào một thể tích nhỏ dung môi khác nhằm nâng cao nồng độ của chất
cần nghiên cứu và được gọi là chiết làm giàu.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

10



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

+ Ngoài ra còn dùng phương pháp chiết pha rắn để tách hay phân ly các
chất trong một hỗn hợp phức tạp với điều kiện chiết thích hợp. Thường dùng
trong phân lập các hợp chất thiên nhiên.
1.3.2. Cơ sở của quá trình chiết
- Dựa vào sự phân bố khác nhau của các chất trong hai chất lỏng không
hoà lẫn với nhau. Sự phân bố khác nhau là do tính tan khác nhau của các chất
trong các pha lỏng.
- Quá trình chiết dựa trên định luật Nerst:
KA = [A]hc/ [A]n
KA: Hằng số phân bố
[A]hc, [A]n: Hoạt độ xác định của chất hoà tan trong pha hữu cơ và pha
nước.
1.3.3.Quá trình chiết thực vật
Sau khi tiến hành thu hái và làm khô mẫu, tuỳ thuộc vào đối tượng chất
có trong mẫu khác nhau (chất phân cực, chất không phân cực, chất có độ phân
cực trung bình...) mà ta chọn dung môi và hệ dung môi khác nhau.
1.3.3.1. Chọn dung môi chiết
Thường thì các chất chuyển hoá thứ cấp trong cây có độ phân cực khác
nhau. Tuy nhiên những thành phần tan trong nước ít khi được quan tâm. Dung
môi dùng trong quá trình chiết cần phải được lựa chọn rất cẩn thận.
Điều kiện của dung môi là phải hoà tan được những chất chuyển hoá
thứ cấp đang nghiên cứu, dễ dàng được loại bỏ, có tính trơ (không phản ứng
với chất nghiên cứu), không độc, không dễ bốc cháy.
Những dung môi này nên được chưng cất để thu được dạng sạch trước
khi sử dụng. Nếu chúng có lẫn các chất khác thì có thể ảnh hưởng đến hiệu

quả và chất lượng của quá trình chiết. Thường có một số chất dẻo lẫn trong

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

11


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

dung môi như các diankyl phtalat, tri-n-butyl-axetylcitrar và tributylphosphat.
Những chất này có thể lẫn với dung môi trong quá trình sản xuất hoặc trong
khâu bảo quản như trong các thùng chứa hoặc các nút đậy bằng nhựa.
Methanol và chloroform thường chứa dioctylphtalat [di-(2-etyhexyl)
phtalat hoặc bis-2-etylhexyl-phtalat]. Chất này sẽ làm sai lệch kết quả phân
lập trong các quá trình nghiên cứu hoá thực vật, thể hiện hoạt tính trong thử
nghiệm sinh học và có thể làm bẩn dịch chiết của cây. Chloroform, metylen
clorit và methanol là những dung môi thường được lựa chọn trong quá trình
chiết sơ bộ một phần của cây như: lá, thân, rễ, củ, quả, hoa...
Những tạp chất của chloroform như CH2Cl2, CH2ClBr có thể phản ứng
với một vài hợp chất như các ancaloit tạo muối bậc 4 và những sản phẩm
khác. Tương tự như vậy, sự có mặt của lượng nhỏ axit clohiđric (HCl) cũng
có thể gây ra sự phân huỷ, sự khử nước hay sự đồng phân hoá với các hợp
chất khác. Chloroform có thể gây tổn thương cho gan và thận nên khi làm
việc với chất này cần được thao tác khéo léo, cẩn thận ở nơi thoáng và phải
đeo mặt nạ phòng độc. Metylen clorit ít độc hơn và dễ bay hơi hơn
chloroform.
Methanol và etanol 80% là những dung môi phân cực hơn các
hiđrocacbon thế clo. Người ta cho rằng các dung môi thuộc nhóm rượu sẽ

thấm tốt hơn lên màng tế bào nên quá trình chiết với các dung môi này sẽ thu
được lượng lớn các thành phần trong tế bào. Trái lại, khả năng phân cực của
chloroform thấp hơn, nó có thể rửa giải các chất nằm ngoài tế bào. Các ancol
hoà tan phần lớn các chất chuyển hoá phân cực cùng với các hợp chất phân
cực trung bình và thấp. Vì vậy khi chiết bằng ancol thì các chất này cũng bị
hoà tan đồng thời. Thông thường dung môi cồn trong nước có những đặc tính
tốt nhất cho quá trình chiết sơ bộ.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

12


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Tuy nhiên cũng có một vài sản phẩm mới được tạo thành khi dùng
methanol trong suốt quá trình chiết [8]. Thí dụ trechlonolide A thu được từ
Trechonaetes aciniata được chuyển thành trechonolide B bằng quá trình phân
huỷ 1-hydroxytropacocain cũng xảy ra khi erythroxylum novogranatense
được chiết trong methanol nóng.
Người ta thường ít sử dụng nước để thu được dịch chiết thô từ cây mà
thay vào đó là dùng dung dịch nước của methanol.
Đietyl ete hiếm khi được dùng cho các quá trình chiết thực vật vì nó rất
dễ bay hơi, bốc cháy và rất độc, đồng thời nó có xu hướng tạo thành peroxit
dễ nổ, peroxit của dietyl ete dễ gây phản ứng oxi hoá với những hợp chất
không có khả năng tạo cholesterol như các carotenoit. Tiếp đến là axeton
cũng có thể tạo thành axetonit nếu 1,2-cis-diol có mặt trong môi trường axit.
Quá trình chiết dưới điều kiện axit hoặc bazơ thường được dùng với quá trình

phân tách đặc trưng, cũng có khi xử lý các dịch chiết bằng axit - bazơ có thể
tạo thành những sản phẩm mong muốn.
Sự hiểu biết về những đặc tính của những chất chuyển hoá thứ cấp
trong cây được chiết sẽ rất quan trọng để từ đó lựa chọn dung môi thích hợp
cho quá trình chiết tránh được sự phân huỷ chất bởi dung môi và quá trình tạo
thành chất mong muốn.
Sau khi chiết dung môi được cất ra bằng máy cất quay ở nhiệt độ không
quá 30 - 400C, với một vài hoá chất chịu nhiệt có thể thực hiện ở nhiệt độ cao
hơn.
1.3.3.2. Quá trình chiết
Hầu hết quá trình chiết đơn giản được phân loại như sau:
- Chiết ngâm.
- Chiết sử dụng một loại thiết bị là bình chiết Xoclet.
- Chiết lôi cuốn theo hơi nước.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

13


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Chiết ngâm là một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi
nhất trong quá trình chiết thực vật bởi nó không đòi hỏi nhiều công sức và
thời gian. Thiết bị sử dụng là một bình thuỷ tinh với một cái khoá ở dưới đáy
để điều chỉnh tốc độ chảy thích hợp cho quá trình tách rửa dung môi. Dung
môi có thể nóng hoặc lạnh nhưng nóng sẽ đạt hiệu quả chiết cao hơn. Trước
đây, máy chiết ngâm đòi hỏi phải làm bằng kim loại nhưng hiện nay có thể

dùng bình thuỷ tinh.
Thông thường quá trình chiết ngâm không được sử dụng như phương
pháp chiết liên tục bởi mẫu được ngâm với dung môi trong máy chiết khoảng
24 giờ rồi chất chiết được lấy ra. Thông thường quá trình chiết một mẫu chỉ
thực hiện qua 3 lần dung môi vì khi đó cặn chiết sẽ không còn chứa những
chất giá trị nữa. Sự kết thúc quá trình chiết được xác định bằng một vài cách
khác nhau.
Ví dụ:
- Khi chiết các ancaloit, ta có thể kiểm tra sự xuất hiện của hợp chất
này bằng sự tạo thành kết tủa với những tác nhân đặc trưng như tác nhân:
Đragendroff và tác nhân Mayer.
- Các flavoloit thường là những hợp chất màu, vì vậy khi dịch chiết
chảy ra mà không có màu sẽ đánh dấu sự rửa hết những chất này trong cặn
chiết.
- Khi chiết các chất béo thì nồng độ trong các phần của dịch chiết ra và
sự xuất hiện của cặn chiết tiếp theo sau đó sẽ biểu thị sự kết thúc quá trình
chiết.
- Các lacton của sesquitecpen và các glicozid trợ tim, phản ứng Kedde
có thể dùng để biểu thị sự xuất hiện của chúng hoặc khi cho phản ứng với
anilin axetat sẽ cho biết sự xuất hiện của các hydrat cacbon, và từ đó có thể
biết được khi nào quá trình chiết kết thúc.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

14


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


Như vậy, tuỳ thuộc vào mục đích cần chiết lấy chất gì để lựa chọn dung
môi cho thích hợp và thực hiện quy trình chiết hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao.
Ngoài ra, có thể dựa vào mối quan hệ của dung môi và chất tan của các lớp
chất mà ta có thể tách thô một số lớp chất ngay trong quá trình chiết.
1.4. Các phương pháp sắc ký trong phân lập các hợp chất hữu cơ [14,15]
Phương pháp sắc ký (chromatography) là một phương pháp phổ biến và
hữu hiệu nhất hiện nay, được sử dụng rộng rãi trong việc phân lập các hợp
chất hữu cơ nói chung và các hợp chất thiên nhiên nói riêng.
1.4.1. Đặc điểm chung của phương pháp sắc ký
Sắc ký là phương pháp tách các chất dựa vào sự khác nhau về bản chất
hấp phụ và sự phân bố khác nhau của chúng giữa hai pha: pha tĩnh và pha
động.
Sắc ký gồm có pha tĩnh và pha động. Khi tiếp xúc với pha tĩnh, các cấu
tử của hỗn hợp sẽ phân bố giữa pha động và pha tĩnh tương ứng với tính chất
của chúng (tính bị hấp phụ, tính tan...). Các chất khác nhau sẽ có ái lực khác
nhau với pha động và pha tĩnh. Trong quá trình pha động chuyển động dọc
theo hệ sắc ký hết lớp pha tĩnh này đến lớp pha tĩnh khác, sẽ lặp đi lặp lại quá
trình hấp phụ và phản hấp phụ. Kết quả là các chất có ái lực lớn với pha tĩnh
sẽ chuyển động chậm hơn qua hệ thống sắc ký so với các chất tương tác yếu
hơn với pha này. Nhờ đặc điểm này mà người ta có thể tách các chất qua quá
trình sắc ký.
1.4.2. Cơ sở của phương pháp sắc ký
Phương pháp sắc ký dựa vào sự phân bố khác nhau của các chất giữa
hai pha tĩnh và pha động. Ở điều kiện nhiệt độ không đổi, định luật mô tả sự
phụ thuộc của lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh với nồng độ của dung dịch
(hoặc với chất khí là áp suất riêng phần) gọi là định luật hấp phụ đơn phân tử
đẳng nhiệt Langmuir:

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học


15


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

n

Khóa luận tốt nghiệp

n .b.C
1  b.C

n - lượng chất bị hấp phụ lên pha tĩnh lúc đạt cân bằng.
n∞ - lượng cực đại của chất có thể bị hấp phụ lên một chất hấp phụ nào đó.
b - hằng số.
C - nồng độ của chất bị hấp phụ.
1.4.3. Phân loại các phương pháp sắc ký
Trong phương pháp sắc ký pha động là các lưu thể (các chất ở trạng
thái khí hay lỏng), còn pha tĩnh có thể là các chất ở trạng thái lỏng hoặc rắn.
Dựa vào trạng thái tập hợp của pha động, người ta chia sắc ký thành hai nhóm
lớn: sắc ký khí và sắc ký lỏng. Dựa vào cách tiến hành sắc ký, người ta chia ra
thành các phương pháp sắc ký chủ yếu sau:
1.4.3.1. Sắc ký cột (C.C)
Đây là phương pháp sắc ký phổ biến nhất, chất hấp phụ là pha tĩnh gồm
các loại silica gel (có kích thước hạt khác nhau) pha thường và pha đảo YMC,
ODS, Dianion. Chất hấp phụ được nhồi vào cột (cột có thể bằng thuỷ tinh
hoặc kim loại, phổ biến nhất là cột thuỷ tinh). Độ mịn của chất hấp phụ hết
sức quan trọng, nó phản ánh số đĩa lý thuyết hay khả năng tách của chất hấp
phụ. Độ mịn của chất hấp phụ càng nhỏ thì số đĩa lý thuyết càng lớn, khả

năng tách càng cao và ngược lại. Tuy nhiên nếu chất hấp phụ có kích thước
hạt càng nhỏ thì tốc độ chảy càng giảm. Trong một số trường hợp nếu lực
trọng trường không đủ lớn thì gây ra hiện tượng tắc cột (dung môi không chảy
được), khi đó người ta phải sử dụng áp suất, với áp suất trung bình (MPC), áp
suất cao (HPLC).
Trong sắc ký cột, tỷ lệ đường kính cột (D) so với chiều cao cột (L) rất
quan trọng, nó thể hiện khả năng tách của cột. Tỷ lệ L/D phụ thuộc vào yêu
cầu tách, tức là phụ thuộc vào hỗn hợp chất cụ thể. Trong sắc ký, tỷ lệ giữa

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

16


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

quãng đường đi của chất cần tách so với quãng đường đi của dung môi gọi là
Rf, với mỗi một chất sẽ có một Rf khác nhau. Nhờ vào sự khác nhau về Rf này
mà ta có thể tách từng chất ra khỏi hỗn hợp. Tỉ lệ chất so với tỉ lệ chất hấp
phụ cũng rất quan trọng và tuỳ thuộc vào yêu cầu tách. Nếu tách thô thì tỉ lệ
này thấp (từ 1/5 – 1/10), còn nếu tách tinh thì tỉ lệ này cao hơn và tuỳ vào hệ
số tách (tức phụ thuộc vào sự khác nhau Rf của các chất), mà hệ số này trong
khoảng 1/20-1/30.
Trong sắc ký cột, việc đưa chất lên cột hết sức quan trọng. Tuỳ thuộc
vào lượng chất và dạng chất mà người ta có thể đưa chất lên cột bằng các
phương pháp khác nhau. Nếu lượng chất nhiều và chạy thô, thì phổ biến là
tẩm chất vào silicagel rồi làm khô, tơi hoàn toàn, đưa lên cột. Nếu tách tinh,
thì đưa trực tiếp chất lên cột bằng cách hoà tan chất bằng dung môi chạy cột

với lượng tối thiểu.
Có hai cách đưa chất hấp phụ lên cột:
- Cách 1: Nhồi cột khô. Theo cách này, chất hấp phụ được đưa trực tiếp
vào cột khi còn khô, sau đó dùng que mềm để gõ nhẹ lên thành cột để chất
hấp phụ sắp xếp chặt trong cột. Sau đó dùng dung môi chạy cột để chạy cột
đến khi cột trong suốt.
- Cách 2: Nhồi cột ướt, tức là chất hấp phụ được hoà tan trong dung
môi chạy cột trước với lượng dung môi tối thiểu. Sau đó đưa dần vào cột đến
khi đủ lượng cần thiết.
Khi chuẩn bị cột phải lưu ý không được để bọt khí bên trong (nếu có
bọt khí gây nên hiện tượng chạy rối trong cột và giảm hiệu quả tách), và cột
không được nứt, gẫy, dò.
Tốc độ chảy của dung môi cũng ảnh hưởng đến hiệu quả tách. Nếu tốc
độ dòng chảy quá lớn sẽ làm giảm hiệu quả tách. Còn nếu tốc độ dòng chảy
quá thấp thì sẽ kéo dài thời gian tách và ảnh hưởng đến tiến độ công việc.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

17


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

1.4.3.2. Sắc ký lớp mỏng
Sắc ký lớp mỏng (SKLM) thường được sử dụng để kiểm tra và định
hướng cho sắc ký cột. SKLM được tiến hành trên bản mỏng tráng sẵn silica
gel trên đế nhôm hay đế thuỷ tinh. Ngoài ra, SKLM còn dùng để điều chế thu
chất trực tiếp. Bằng việc sử dụng bản SKLM điều chế (bản được tráng silica

gel dày hơn), có thể đưa lượng chất nhiều hơn lên bản và sau khi chạy sắc ký,
người ta có thể cạo riêng phần silica gel có chứa chất cần tách rồi giải hấp phụ
bằng dung môi thích hợp để thu được từng chất riêng biệt. Có thể phát hiện
chất trên bản mỏng bằng đèn tử ngoại, bằng chất hiện màu đặc trưng cho từng
lớp chất hoặc sử dụng dung dịch H2SO4 10%.
1.5. Một số phương pháp hoá lý xác định cấu trúc của các hợp chất hữu

Cấu trúc hoá học các hợp chất hữu cơ được xác định nhờ vào các
phương pháp phổ kết hợp. Tuỳ thuộc vào cấu trúc hoá học của từng chất mà
người ta sử dụng phương pháp phổ cụ thể nào. Cấu trúc càng phức tạp thì yêu
cầu phối hợp các phương pháp phổ càng cao. Trong một số trường hợp, để
xác định chính xác cấu trúc hoá học của các hợp chất, người ta phải dựa vào
các phương pháp bổ sung khác như chuyển hoá hoá học, kết hợp với các
phương pháp sắc ký so sánh…
1.5.1. Điểm nóng chảy (Mp)
Đối với chất rắn kết tinh, điểm chảy là một tiêu chuẩn vật lý rất quan
trọng. Thông thường việc phân tích đầu tiên sau khi thu được một sản phẩm
kết tinh là việc xác định điểm chảy vì đó là tiêu chuẩn để kiểm tra mức độ
tinh khiết của hợp chất mà chỉ cần lượng rất ít mẫu thử.
Nếu điểm chảy của hai loại tinh thể thu được qua hai lần kết tinh chỉ
chênh lệch nhau không quá 0,50C thì có thể xem sản phẩm kết tinh là tinh

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

18


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp


khiết. Khi điểm chảy xác định được, đối chiếu với tài liệu tham khảo để có thể
đưa ra kết luận sơ bộ về hợp chất đang nghiên cứu.
1.5.2. Độ quay cực ([α]D)
Ánh sáng tự nhiên đi qua một môi trường bất đẳng hướng, trong điều
kiện nhất định nào đó, do tác dụng của môi trường làm cho cường độ điện
trường chỉ còn dao động theo một phương nhất định được gọi là ánh sáng
phân cực thẳng hay ánh sáng phân cực toàn phần.
Mặt phẳng chứa tia sáng và phương dao động của vectơ điện trường
được gọi là mặt phẳng dao động, còn mặt phẳng chứa tia sáng và vuông góc
với mặt phẳng dao động gọi là mặt phẳng phân cực.
Khi cho ánh sáng phân cực thẳng đi qua dung dịch một chất quang hoạt
thì mặt phẳng phân cực sẽ bị quay một góc α. Tuỳ theo chất quang hoạt mà
góc quay này có thể sang phải (+) hay sang trái (-). Độ lớn của góc quay α
phụ thuộc vào nồng độ C (g/100ml dung dịch), chiều dài lớp dung dịch (dung
môi) l, nhiệt độ t và chiều dài sóng λ:
α = [ ]t

Cl
100

1.5.3. Phổ hồng ngoại (Infrared spectroscopy, IR)
Phổ hồng ngoại được xây dựng dựa vào sự khác nhau về dao động của
các liên kết trong phân tử hợp chất dưới sự kích thích của tia hồng ngoại. Mỗi
kiểu liên kết được đặc trưng bởi một vùng bước sóng khác nhau. Do đó, dựa
vào phổ hồng ngoại, có thể xác định được các nhóm chức đặc trưng trong hợp
chất, ví dụ như dao động hoá trị của nhóm OH tự do trong các nhóm hydroxyl
là 3300- 3450 cm-1, của nhóm cacbonyl C = O trong khoảng 1700-1750 cm-1…
1.5.4. Phổ khối lượng (Mass spectroscopy, MS)
Nguyên tắc của phương pháp phổ này là dựa vào sự phân mảnh ion của

phân tử chất dưới sự bắn phá của chùm ion bên ngoài. Phổ MS còn cho các

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

19


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

pic ion mảnh khác mà dựa vào đó người ta có thể xác định được cơ chế phân
mảnh và dựng lại được cấu trúc hoá học các hợp chất. Hiện nay có rất nhiều
loại phổ khối lượng, như những phương pháp chủ yếu sau:
- Phổ EI-MS (Electron Impact Ionization mass spectroscopy) dựa vào
sự phân mảnh ion dưới tác dụng của chùm ion bắn phá năng lượng khác nhau,
phổ biến là 70eV.
- Phổ ESI-MS (Electron Spray Ionization mass spectroscopy) gọi là
phổ phun mù điện tử. Phổ này được thực hiện với năng lượng bắn phá thấp
hơn nhiều so với phổ EI-MS, do đó phổ thu được chủ yếu là pic ion phân tử
và các píc đặc trưng cho sự phá vỡ các liên kết có mức năng lượng thấp, dễ bị
phá vỡ.
- Phổ FAB (Fast Atom Bombing mass spectroscopy) là phổ bắn phá
nguyên tử nhanh với sự bắn phá nguyên tử nhanh ở năng lượng thấp, do đó
phổ thu được cũng dễ thu được pic ion phân tử.
- Phổ khối lượng phân giải cao (High Resolution Mass Spectroscopy),
cho phép xác định pic ion phân tử hoặc ion mảnh với độ chính xác cao.
- Ngoài ra, hiện nay người ta còn sử dụng kết hợp các phương pháp sắc
ký kết hợp với khối phổ khác như: GC-MS (sắc ký khí-khối phổ), LC-MS
(sắc ký lỏng-khối phổ). Các phương pháp kết hợp này còn đặc biệt hữu hiệu

khi phân tích thành phần của hỗn hợp chất (nhất là phân tích thuốc trong
ngành dược).
1.5.5. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (Nuclear Magnetic Resonance
Spectroscopy, NMR)
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân là một phương pháp phổ hiện đại và hữu
hiệu nhất hiện nay. Với việc sử dụng kết hợp các kỹ thuật phổ NMR một
chiều và hai chiều, các nhà nghiên cứu có thể xác định chính xác cấu trúc của
hợp chất, kể cả cấu trúc lập thể của phân tử.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

20


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Nguyên lý chung của các phương pháp phổ NMR (phổ proton và
cacbon) là sự cộng hưởng khác nhau của các hạt nhân từ ( 1H và 13C) dưới tác
dụng của từ trường ngoài. Sự cộng hưởng khác nhau này được biểu diễn bằng
độ chuyển dịch hoá học (chemical shift). Ngoài ra, đặc trưng của phân tử còn
được xác định dựa vào tương tác spin giữa các hạt nhân từ với nhau (spin
coupling).
1.5.5.1. Phổ 1H-NMR:
Trong phổ 1H-NMR, độ chuyển dịch hoá học của các proton được xác
định trong thang ppm từ 0-14ppm, tuỳ thuộc vào mức độ lai hoá của nguyên
tử cũng như đặc trưng riêng của từng phần. Dựa vào những đặc trưng của độ
chuyển dịch hoá học và tương tác spin mà ta có thể xác định được cấu trúc
hoá học của hợp chất.

1.5.5.2. Phổ 13C-NMR:
Phổ này cho tín hiệu vạch phổ cacbon. Mỗi nguyên tử cacbon sẽ cộng
hưởng ở một trường khác nhau và cho tín hiệu phổ khác nhau. Thang đo của
phổ 13C-NMR là ppm, với dải thang đo rộng 0 - 230ppm.
1.5.5.3. Phổ DEPT (Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer):
Phổ này cho ta các tín hiệu phân loại các loại cacbon khác nhau. Trên
phổ DEPT, tín hiệu của các cacbon bậc bốn biến mất. Tín hiệu của CH và
CH3 nằm về một phía và của CH2 về một phía trên phổ DEPT 1350. Trên phổ
DEPT 900 chỉ xuất hiện tín hiệu phổ của các CH.
1.5.5.4. Phổ 2D-NMR:
Đây là các kỹ thuật phổ hai chiều, cho phép xác định các tương tác của
các hạt nhân từ của phân tử trong không gian hai chiều. Một số kỹ thuật chủ
yếu thường được sử dụng như sau:
- Phổ

HMQC (Heteronuclear Multiple Quantum Coherence): Các

tương tác trực tiếp H-C được xác định nhờ vào các tương tác trên phổ này.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

21


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

Trên phổ, một trục là phổ 1H-NMR, còn trục kia là 13C-NMR. Các tương tác
HMQC nằm trên đỉnh các ô vuông trên phổ.

- Phổ 1H-1H COSY (HOMOCOSY) (1H-1H Chemical Shift Correlation
Spectroscopy): Phổ này biểu diễn các tương tác xa của H-H, chủ yếu là các
proton đính với cacbon liền kề nhau. Nhờ phổ này mà các phần của phân tử
được nối ghép lại với nhau.
- Phổ HMBC (Heteronuclear Multiple Bond Connectivity): Đây là phổ
biểu diễn tương tác xa trong không gian phân tử. Nhờ vào các tương tác trên
phổ này mà từng phần của phân tử cũng như toàn bộ phân tử được xác định
về cấu trúc.
- Phổ NOESY (Nuclear Overhauser Effect Spectroscopy): Phổ này biểu
diễn các tương tác xa trong không gian của các proton không kể đến các liên
kết mà chỉ tính đến khoảng cách nhất định trong không gian. Dựa vào kết quả
phổ này có thể xác định cấu trúc không gian của phân tử.
Người ta còn sử dụng hiệu ứng NOE bằng kỹ thuật phổ NOE
differences để xác định cấu trúc không gian của phân tử. Bằng việc đưa vào
một xung đúng bằng từ trường cộng hưởng của một proton xác định thì các
proton có cùng phía về không gian cũng như gần nhau về không gian sẽ cộng
hưởng mạnh hơn và cho tín hiệu với cường độ mạnh hơn.
Ngoài ra, còn sử dụng phổ X-RAY (nhiễu xạ Rơngen) để xác định cấu
trúc không gian của toàn bộ phân tử của hợp chất kết tinh ở dạng đơn tinh thể.
Nhưng phạm vi sử dụng của nó hạn chế vì yêu cầu cần tiên quyết của phương
pháp này là cần phải có đơn tinh thể. Đây là một điều kiện không phổ biến đối
với các hợp chất hữu cơ.
Như trên đã đề cập, ngoài việc sử dụng các loại phổ, người còn sử dụng
kết hợp với các chuyển hoá hoá học cũng như các phương pháp phân tích, so
sánh kết hợp khác. Đặc biệt đối với các phân tử nhiều mạch nhánh dài, tín

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

22



Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

hiệu phổ NMR bị chồng lấp nhiều khó xác định chính xác được chiều dài các
mạch. Đối với phân tử có các đơn vị đường thì việc xác định chính xác loại
đường cũng như cấu hình đường thông thường phải sử dụng phương pháp
thuỷ phân rồi xác định bằng phương pháp so sánh LC-MS hoặc GC-MS với
các đường chuẩn dự kiến.

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

23


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mẫu thực vật
Mẫu lá cây Kháo (Phoebe tavoyana) được thu hái vào tháng 08 năm
2011 tại vườn Quốc gia Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Mẫu cây được PGS.TS. Ninh
Khắc Bản ,Viện Hóa Sinh biển, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam giám định. Mẫu tiêu bản được lưu giữ tại Viện Hóa Sinh biển, Viện
Hàm lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.2 Phương pháp phân lập các hợp chất
2.2.1 Sắc kí lớp mỏng (TLC)
Sắc kí lớp mỏng được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-Alufolien

60 F254 (Marck 1,05715), RP18 F254S (Merck). Phát hiện bằng đèn tử ngoại ở
hai bước sóng 254nm và 368nm hoặc dùng thuốc thử là dung dịch H2SO4 10%
được phun đếu trên bản mỏng, sấy khô rồi hơ nóng trên bếp điện từ từ tới khi
xuất hiện màu.
2.2.2 Sắc kí lớp mỏng điều chế
Sắc kí lớp mỏng điếu chế được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn
silicagel 60G F254 (Merck, kí hiệu là 105875), phát hiện chất bằng đèn tử
ngoại ở hai bước sóng 254nm và 368nm, hoặc cắt rìa bản mỏng để phun thuốc
thử là dung dịch là H2SO4 10%, hơ nóng để phát hiện vết chất, ghép lại bản
mỏng như cũ để xác định vùng chất, sau đó cạo lớp silicagel có chất, giải hấp
phụ bằng dung môi thích hợp.
2.2.3 Sắc kí cột (CC)
Sắc kí cột được tiến hành với chất hấp phụ là silicagel pha thường và
pha đảo.
Silicagel pha thường có kích thước hạt là 0,040-0,063 mm (240-430 mesh).
Silicagel pha đảo ODS hoặc YMC (30-50m, Fujisilisa Chemical Ltd.).

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

24


Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Khóa luận tốt nghiệp

2.3 Phương pháp xác định cấu trúc hóa học của các hợp chất
2.3.1 Điểm nóng chảy (Mp)
Điểm nóng chảy được đo trên máy Kofler micro - hotstage của Viện
Hóa học.

2.3.2 Phổ khối lượng (ESI-MS)
Phổ khối lượng phun mù điện tử (Electron Spray Ionization Mass
Spectra) được đo trên máy AGILENT 1100 LC-MSD Trap của Viện Hóa
Học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.3.3 Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR)
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR): 1H-NMR (500 MHz) và 13C-NMR
(125MHz) được đo trên máy Bruker AM500 FT-NMR Spectrorneter, Viện
Hóa Học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.3.4 Độ quay cực []D
Độ quay cực được đo trên máy JASCO DIP-1000 KUY polarimeter của
viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.4. Dụng cụ và thiết bị
2.4.1. Dụng cụ và thiết bị tách chiết
Các dụng cụ và thiết bị dùng cho tách chiết và tinh chế chất sạch được
sử dụng bao gồm:
+ Bình chiết 30 lít
+ Máy cô quay chân không
+ Đèn tử ngoại hai bước sóng 254 và 368 nm
+ Tủ sấy chân không
+ Máy sấy
+ Micropipet
+ Bình sắc ký loại phân tích và điều chế
+ Cột sắc ký pha thường các loại đường kính

Phạm Thị Hoài, K35C- Khoa Hóa học

25



×