Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.5 KB, 23 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống chính quyền của Nhà nước ta, chính quyền cấp xã có vị trí
rất quan trọng ở cơ sở, đây là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, có
chức năng quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị,
văn hoá - xã hội, an ninh quốc phòng. Ở nước ta cũng như các nước trên thế
giới, vai trò của chính quyền địa phương là đặc biệt quan trọng, quyết định sự
thành công của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền do dân, vì dân vững
mạnh. Do cấp xã là đơn vị hành chính thấp nhất, gần dân nhất, có trách nhiệm
chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân địa phương, phát huy mọi khả năng của
mình để xây dựng địa phương vững mạnh, nên chính quyền xã, phường mạnh
hay yếu việc làm của cấp xã tốt hay không tốt, đúng hay sai điều tác động trực
tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần có khi ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị
của người dân, đến lòng tin của nhân dân đến Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, chính quyền cấp xã đã thực hiện khá tốt vai trò
nhiệm vụ của mình, nhưng vẫn còn ở một vài địa phương, chính quyền cấp xã
vẫn còn nhiều hạn chế yếu kém, như: công tác quản lý, điều hành của bộ máy
chính quyền cấp xã còn hạn chế, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, ý thức
trách nhiệm, tính kỷ luật, kỷ cương của một bộ phận cán bộ công chức còn yếu
kém, năng lực trình độ chưa theo kịp với yêu cầu đổi mới hiện nay. Điều này đã
gây ảnh hưởng rất lớn đến năng lực quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân
cấp xã, đồng thời nó còn làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân
trong địa phương, từ đó nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước đã không
được nhân dân hưởng ứng, ngược lại còn có những thái độ và hành động đi
ngược lại với những chủ trương, chính sách đó.
Vì vậy, việc chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp
xã ở tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp chương trình thạc sĩ quản lý Nhà
nước, đó là nhằm mục đích tìm ra những nguyên nhân, giải pháp nhằm củng cố
và nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An



Giang để đáp ứng được nhu cầu của giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài
Luận văn tập trung việc tổng hợp và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
các hoạt động tổ chức và điều hành của Ủy ban nhân dân cấp xã đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương; các vấn đề liên quan đến việc sử dụng, bố trí, tuyển dụng đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã nói chung và tình hình thực tế đội ngũ cán bộ công chức cấp xã
trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng. Qua đó, nhằm tìm ra những nguyên nhân,
đề xuất những giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của Ủy ban
nhân dân cấp xã đảm bảo phù hợp với những nhiệm vụ, yêu cầu phát triển trong
thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã rất rộng và đa dạng nên trong phạm
vi của khoá luận tốt nghiệp, em chỉ tập trung nghiên cứu một số hoạt động có tác
động trực tiếp đến tổ chức bộ máy và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã từ
năm 2005 đến nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao năng lực tổ chức
và trong hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về khoa học tổ chức nhân sự, khoa học
quản lý; các quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Luận văn sử dụng và kết hợp các phương pháp luận duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp qui nạp, phương pháp thống kê, phương pháp
chuyên gia.

2



5. Những đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận, đối với chính quyền cấp xã đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu, đề ra những giải pháp, cách thức nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của chính
quyền cấp xã. Vì vậy, luận văn này chỉ nhằm hoàn thiện hơn về mặt lý luận đối
với chính quyền cấp xã và trong thực tế ở những vùng, miền khác nhau, có những
phong tục, tập quán sinh sống khác nhau, do vậy cần phải xác định được những
mấu chốt của vấn đề trong xây dựng và cũng có chính quyền ở cơ sở vừa phù hợp
với các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vừa phù hợp với
thực tế địa phương, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu cải cách, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã đảm bảo được các yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình
hình mới hiện nay; luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách ở tỉnh An Giang.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp xã.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở
tỉnh An Giang.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang.

3


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.1. Quan điểm của Đảng ta về xây dựng bộ máy chính quyền ở cơ sở

Cấp xã được coi như là chính quyền cấp cơ sở, nơi trực tiếp thi hành đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và địa phương, có chức năng
quản lý hành chính trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, an ninh quốc phòng, theo sự phân công của cơ quan hành chính cấp trên,
nhằm đảm bảo pháp luật được tôn trọng và thực hiện đầy đủ, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân,
đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân ổn định đời sống vật chất và tinh thần trong
phạm vi thẩm quyền quản lý của mình. Do vậy, xây dựng chính quyền cơ sở vưng
mạnh chính là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng bộ máy
chính quyền của nước ta hiện nay.
1.1.1. Về xây dựng Hội đồng nhân dân xã
Căn cứ vào điều 1, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, thì Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân
quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng
nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân
4


theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
1.1.2. Về xây dựng Ủy ban nhân dân xã
Theo điều 123 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) và điều 2 của Luật tổ

chức của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì Uỷ ban nhân dân
do Hội đồng nhân dân bầu ra và là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp,
luật, các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp.
1.2. Cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp

1.2.1. Hệ thống chính quyền cấp xã ở nước ta từ năm 1945 đến trước khi có
Luật tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước, cơ quan chính quyền địa phương giữ vị trí,
vai trò rất quan trọng. Ở nước ta, chính quyền địa phương của Nhà nước kiểu mới
được thành lập bằng cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng vũ trang giành
chính quyền từ tay bọn thực dân đế quốc và bọn tay sai của chúng trong cuộc
cách mạng tháng tám năm 1945. Để xây dựng cơ sở pháp lý cho chính quyền địa
phương, sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành hai
sắc lệnh đầu tiên về tổ chức chính quyền địa phương. Theo quy định của sắc lệnh
số 63/SL và sắc lệnh số 77/SL năm 1945, chính quyền địa phương ở nước ta được
tổ chức ở 4 cấp, đó là: cấp kỳ, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã; ở thành phố tổ chức
hai cấp chính quyền đó là cấp thành phố và cấp khu phố.
Kế thừa các sắc lệnh 63/SL và 77/SL, Hiếp pháp năm 1946 quy định nước
Việt Nam về phương diện hành chính gồm có 3 bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ
chia thành Tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã. Ở tỉnh,
thành phố thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông trực tiếp
bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã và xã cử ra Ủy ban hành chính;
Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính, chứ không có Hội đồng nhân dân.
5


Đến Hiến pháp năm 1959, đã chính thức bãi bỏ cấp hành chính có tính chất
vùng miền (khu, liên khu), chỉ còn ba cấp: cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực

thuộc trung ương; cấp huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã; và cấp xã, thị trấn;
đồng thời ở mỗi cấp đều thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính
Hiến pháp 1980 vẫn duy trì 3 cấp hành chính địa phương, các đơn vị hành
chính điều là cấp tổ chức chính quyền hoàn chỉnh, có Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân được thành lập từ cấp huyện và
tương đương trở lên; Thường trực Ủy ban nhân dân các cấp bị bãi bỏ. Những
công việc thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân đều phải được thảo luận tập thể
và quyết định theo đa số trong các phiên họp toàn thể Ủy ban nhân dân.
Đến Hiến pháp 1992, việc quy định thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân ở các đơn vị hành chính do luật định và không xác định đơn vị hành
chính nào là cơ bản, có tổ chức chính quyền hoàn chỉnh. Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân được thiết lập ở tất cả các cấp hành chính như hiện nay.
Nhìn chung lại, từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến nay, hệ thống chính
quyền địa phương đã không ngừng được cũng cố, kiện toàn, đáp ứng kịp thời yêu
cầu của các thời kỳ cách mạng, đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách
mạng của cả nước.
1.2.2. Tổ chức của Ủy ban nhân dân cấp xã hiện nay
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ủy ban nhân
dân cấp xã cần phải có một cơ cấu, tổ chức khoa học và hợp lý, phát huy vai trò là
nền móng của Bộ máy hành chính nhà nước. Căn cứ Luật tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 thì Ủy ban nhân dân cấp
xã có cơ cấu tổ chức và hoạt động với những nét cơ bản sau:
1.2.2.1. Cơ cấu của Ủy ban nhân dân cấp xã
Điều 122 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003
quy định: Ủy ban nhân dân cấp xã do Hội đồng nhân dân xã bầu ra, có từ 03 đến
05 thành viên, gồm có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các Uỷ viên.
6


Người đứng đầu Ủy ban nhân dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban nhân dân do

Hội đồng nhân dân cấp xã trực tiếp bầu ra. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nhất
thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, còn các thành viên khác của Ủy
ban nhân dân cấp xã thì không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng nhân dân. Kết
quả bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân cấp xã phải được Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện phê chuẩn.
Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân và các ủy viên Ủy ban nhân dân cấp xã do
Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo sự giới thiệu của chủ tịch Ủy ban nhân
dân bằng hình thức bỏ phiếu kín.
1.2.2.2. Chức danh và số lượng đội ngũ cán bộ, công chức của Ủy ban nhân
dân cấp xã
Căn cứ Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính Phủ và Nghị định số 92/2009/ND-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 quy định
về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, cụ thể
các chức danh của cán bộ, công chức cấp xã như sau: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch Hội Nông
dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam); Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ huy
trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê; Địa chính - xây dựng - đô thị và môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi
trường (đối với xã); Tài chính - kế toán; Tư pháp - hộ tịch; Văn hoá - xã hội.
- Về Số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành
chính cấp xã; cụ thể như sau: Cấp xã loại 1: không quá 25 người; Cấp xã loại 2:
không quá 23 người; Cấp xã loại 3: không quá 21 người;
7



Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc
phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Ngoài các chức danh, chức vụ
nêu trên, lực lượng cán bộ, công chức xã còn có các đối tượng là cán bộ không
chuyên trách hay bán chuyên trách do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định tùy
thuộc vào tình hình thực tế của từng địa phương, tương ứng với cấp xã loại 1
được bố trí tối đa không quá 22 người, cấp xã loại 2 được bố trí tối đa 20 người
và cấp xã loại 3 được bố trí tối đa không quá 19 người.
1.3. Những đặc điểm, nguyên tắc làm việc, trách nhiệm và mối quan hệ
công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính quyền địa
phương
1.3.1. Những đặc điểm của Ủy ban nhân dân cấp xã
- Là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Đây là cấp cơ sở, cấp gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, ở ngay
trong dân.
- Là nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống gắn liền mật thiết với những lợi
ích, nhu cầu thường nhật của quần chúng.
- Đây là hình ảnh thu nhỏ của cả xã hội.
- Là cơ sở xã hội của chính trị, là cơ sở của thể chế nhà nước, của chế độ
chính trị.
1.3.2. Nguyên tắc làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã: Ủy ban nhân dân
cấp xã tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò
tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân và tinh thần chủ động, sáng tạo của chủ tịch,
các phó chủ tịch và thành viên Ủy ban nhân dân.
1.3.3. Trách nhiệm, phạm vi giải quyết công việc của Ủy ban nhân dân cấp
xã: Ủy ban nhân dân xã thảo luận tập thể, quyết định theo đa số các vấn đề được
quy định tại điều 124 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân

8



năm 2003 và những vấn đề quan trọng khác mà Pháp luật quy định thuộc thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân xã.
1.3.4. Mối quan hệ công tác của Ủy ban nhân dân cấp xã: Để thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, ngoài trách nhiệm chung, Ủy ban nhân dân cấp xã
còn có mối quan hệ qua lại với Ủy ban nhân dân huyện, các cơ quan chuyên môn
cấp huyện, mối quan hệ với Đảng ủy và Hội đồng nhân dân cùng cấp, mối quan
hệ với UBMTTQ và các tổ chức thành viên; mối quan hệ đối với Trưởng các
khóm, ấp, các tổ tự quản trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
1.3.5. Chế độ hội họp, làm việc của Ủy ban nhân dân xã: Bao gồm các phiên
họp của Ủy ban nhân dân xã, các phiên họp giao ban; các cách thức tổ chức làm
việc với Ủy ban nhân dân cấp huyện và các cơ quan chuyên môn cấp huyện.
1.3.6. Quản lý và ban hành văn bản của Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.4. Vai trò quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân trong hệ thống
chính quyền cấp xã
Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt bộ phận nhân dân cư trú, sinh
sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng
dân cư. Trong đó, vai trò quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp xã là rất
quan trọng, nó được thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và trên mọi
lĩnh vực như kinh tế, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, văn hóa xã hội, an ninh
quốc phòng,…
Kết luận lại, chương I đã trình bày khái quát những nội dung cơ bản về vai
trò, tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở và những nội dung chính về đặc điểm của
chính quyền cấp xã; những nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của
Ủy ban nhân dân cấp xã trong hệ thống chính quyền các cấp ở nước ta hiện nay.


9


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG
2.1. Khái quát vị trí địa lý, tự nhiên, dân số
Tỉnh An Giang có phía tây bắc giáp Campuchia (104 km), phía tây nam giáp
tỉnh Kiên Giang (69,789 km), phía nam giáp thành phố Cần Thơ (44,734 km),
phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp (107,628 km). An Giang là tỉnh đầu nguồn sông
Cửu Long, có cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, có diện tích đất canh tác lớn
nhất trong vùng đồng bằng Sông Cửu Long, toàn tỉnh có tổng diện tích tự nhiên
353.676 ha, trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 280.658 ha, đất lâm
nghiệp 14.724 ha.
Theo số liệu điều tra cuối năm 2009, tỉnh An Giang có tổng dân số
2.273.150 người (dân số thành thị là 645.574 người, nông thôn là 1.627.576
người), đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Ngoài người kinh chiếm đa số, tỉnh An Giang còn có các dân tộc khác như:
Khmer, Chăm và Hoa cùng sinh sống ổn định trên địa bàn tỉnh. Về tôn giáo, An
Giang là địa bàn có nhiều tôn giáo cùng hoạt động, như: Phật giáo đại thừa, Phật
giáo tiểu thừa, Đạo hồi, Cao đài, Tứ ân Hiếu nghĩa, Thiên chúa, Tin lành, Phật
giáo Hòa Hảo (chiếm đa số tín đồ theo đạo ở An Giang),…
2.2. Thực trạng tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh An
Giang
2.2.1. Về tổ chức
Thực hiện theo Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2008 và Nghị định số 92/2009/ND-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009
của Chính Phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ chính sách đối với
cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã. Số lượng cán bộ, công chức cấp xã quy định được bao gồm cả cán

bộ, công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã.
10


Về số lượng, thì số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn
vị hành chính cấp xã, cụ thể:
+ Đối với cán bộ, công chức: cấp xã loại 1: không quá 25 người; cấp xã loại
2: không quá 23 người và cấp xã loại 3: không quá 21 người.
+ Đối với số lượng người hoạt động không chuyên trách: cấp xã loại 1 được
bố trí không quá 22 người; cấp xã loại 2 được bố trí không quá 20 người và cấp
xã loại 3 được bố trí không quá 19 người.
Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc
phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Theo đó, toàn tỉnh An Giang có
110 xã loại 1, 44 xã loại 2 và 03 xã loại 3.
* Căn cứ vào 92/2009/ND-CP của Chính Phủ và thông tư liên tịch số
03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH của Bộ Nội vụ, bộ Tài chính và bộ Lao
động - Thương binh và xã hội về việc hướng dẫn thưc hiện nghị định
92/2009/NĐ-CP của Chính Phủ, ngày 09 tháng 11 năm 2010, Ủy ban nhân dân
tỉnh An Giang ban hành quyết định số 54/2010/QĐ-UB, về việc ban hành Quy
định chức danh và một số chế độ chính sách đối với những người hoạt động
không chuyên trách và lực lượng công an, quân sự các xã, phường, thị trấn,
khóm, ấp thuộc tỉnh An Giang. Lực lượng cán bộ không chuyên trách của xã, ấp
bao gồm:
- Những người hoạt động không chuyên trách cấp xã bao gồm 20 chức danh.
- Những người hoạt động không chuyên trách khóm, ấp bao gồm ba chức
danh sau: Trưởng ấp kiêm bí thư chi bộ; Phó trưởng ấp phụ trách an ninh trật tự,
kiêm ấp đội trưởng; Phó trưởng ấp phục trách các đoàn thể, kiêm trưởng Ban
công tác mặt trận ấp.
- Bố trí năm người làm công tác đoàn thể ở khóm ấp, bao gồm: Chi Hội

trưởng nông dân; Chi Hội trưởng phụ nữ; Chi Hội trưởng cựu chiến binh; Bí thư
Đoàn thanh niên;
11


2.2.2. Về trình độ chuyên môn, chính trị của cán bộ, công chức cấp xã
Tính đến cuối năm 2009, tổng số cán bộ chuyên trách cấp xã theo quy định
là 1.706 người, trong đó:
- Về học vấn: tốt nghiệp tiểu học là 11 người (chiếm 0,64%), tốt nghiệp
Trung học cơ sở là 228 (chiếm 13,36%) người và tốt nghiệp Trung học phổ thông
là 1.407 người (chiếm 82,47%).
- Về trình độ chuyên môn: chưa qua đào tạo 619 người (chiếm 36,28%), sơ
cấp là 58 người (chiếm 3,39%), trung cấp là 569 người (chiếm 33,35%), cao đẳng
là 23 người (chiếm 1,34%), đại học là 439 người (chiếm 25,73%) và thạc sỹ là 03
người (chiếm 0,18%).
Như vậy, so với yêu cầu công chức cấp xã phải có trình độ chuyên môn từ
trung cấp trở lên thì số lượng công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang mới
chỉ đạt 60,61%, còn lại đến 39,39% công chức cấp xã chưa đạt yêu cầu về chuyên
môn.
- Về trình độ chính trị: chưa qua đào tạo là 208 người (chiếm 12,19%), sơ
cấp là 224 người (chiếm 13,13%), trung cấp là 1.023 người (chiếm 59,96%), cao
cấp là 255 người (chiếm 13,19%).
Thực trạng trên cho thấy sự bức xúc, cần thiết của công tác xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, cán bộ chuyên trách xã, cán bộ
không chuyên trách xã mà mục tiêu là vừa “chuẩn hóa” vừa “nâng cao” chất
lượng trình độ chuyên môn theo yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở
tỉnh An Giang trong thời gian vừa qua
2.3.1. Thành tựu
- An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, an ninh biên giới

được đảm bảo, kinh tế xã hội phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho bà con nhân dân.

12


- Dân chủ trong đời sống xã hội ở các xã trên địa bàn tỉnh từng bước được
phát huy, thông qua việc thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Hội đồng nhân dân cấp xã đã có bước phát triển tích cực, với chất lượng và
số lượng ngày càng được nâng cao.
- Bộ máy chính quyền cấp xã từng bước được cũng cố, đội ngũ cán bộ được
trẻ hóa và nâng cao về trình độ chuyên môn, cũng như về phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống. Công tác cải cách hành chính ở cấp xã có những chuyển biến tịch
cực, tổ chức thực hiện cơ chế “một cửa” tại Ủy ban nhân dân xã, các loại thủ tục,
phí và lệ phí, thời gian nhận và trả hồ sở được niêm yết công khai, đã làm giảm
bớt phiền hà cho nhân dân, tạo được lòng tin trong nhân dân. Công tác tiếp dân,
hòa giải ở cơ sở được quan tâm thực hiện thường xuyên, kịp thời, đúng quy định
của pháp luật.
2.3.2. Những hạn chế
- Kinh tế phát triển nhưng chưa thật bền vững, một số chỉ tiêu quan trọng
chưa đạt, nhất là tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khu vực công
nghiệp – xây dựng chuyển dịch chậm.
- Môi trường đầu tư chưa thật thuận lợi, chỉ số năng lực cạnh tranh thấp. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém. Các khu công nghiệp, khu kinh tế
cửa khẩu đã được xây dựng nhưng chưa thu hút được nhà đầu tư.
- Lĩnh vực văn hóa - xã hội, bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều khó khăn, yếu
kém. Giáo dục đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu,
giảm nghèo chưa bền vững.
- Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân có cố gắng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới.

Bên cạnh những hạn chế nêu trên, bản thân còn nhận thấy còn một vài
hạn chế cần được nêu ra như sau:
- Thứ nhất, còn có sự trùng lắp trong thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước
giữa các cấp chính quyền.
13


- Thứ hai, việc tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền chưa có sự
phân biệt rõ ràng giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, như giữa nông thôn và thành
thị, giữa đồng bằng và miền núi, giữa vùng dân tộc kinh với với vùng có nhiều
dân tộc thiểu số, gây ra nhiều khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động quản lý
Nhà nước trên địa bàn.
- Thứ ba, việc tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền không tạo điều
kiện cho việc chủ động, sáng tạo của chính quyền cơ sở, nặng về việc cấp dưới
xin ý kiến chỉ đạo, hoặc phê duyệt của cấp trên, theo cơ chế “xin - cho”.
- Thứ tư, sự mất cân đối trong quan hệ đối trọng giữa Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân.
- Thứ năm, đó là việc lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý và
điều hành, không chịu hoặc ít trách nhiệm của cá nhân trong quản lý, điều hành.
- Thứ sáu, còn có sự phân biệt, thiếu công bằng, chưa xác định đúng vị trí
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã với công chức cấp huyện, giữa đội ngũ cán
bộ công chức cấp xã hoạt động trong lĩnh vực quản lý Nhà nước với cán bộ công
chức của khối đảng và các đoàn thể. Chính sách đãi ngộ cho cán bộ công chức
cấp xã chưa hợp lý.
- Thứ bảy, Trình độ của cán bộ, công chức cấp xã hiện đang còn thấp cả về
chuyên môn và cả chính trị so với yêu cầu hiện nay.
- Thứ tám, trang thiết bị và trụ sở làm việc vẫn còn chưa được đầu tư đồng
bộ, nhiều cơ quan đơn vị cấp xã và ấp chưa có trụ sở hoặc đã xuống cấp cần phải
thay thế.
2.3.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm

2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
- Vai trò của chính quyền cấp xã nói chung và chất lượng của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chính quyền cơ sở nói riêng bị xem nhẹ.

14


- Mặt bằng dân trí ở địa bàn cấp xã tại tỉnh nhìn chung còn thấp, đặc biệt là
các xã vùng cao, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số. Do đó khó có nguồn cán bộ có
trình độ để tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính quyền cấp xã.
- Công tác đánh giá cán bộ chưa được quan tâm đúng mức do chưa nhận
thức đầy đủ ý nghĩa và tác động của đánh giá cán bộ, do đó một số nơi đánh giá
cán bộ không đi vào thực chất, chưa sâu sát, khách quan, khoa học.
- Công tác qui hoạch cán bộ lãnh đạo chính quyền cơ sở, xây dựng đội ngũ
cán bộ tại địa phương thực sự chưa hiệu quả; chưa gắn công tác quản lý, sử dụng,
đánh giá cán bộ với việc qui hoạch, đào tạo chuẩn hoá và tạo nguồn; đồng thời
chưa có chính sách thu hút nhân tài về cơ sở.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại tỉnh còn nhiều bất cập, chỉ mới giải
quyết những vấn đề cấp thiết, tình huống mà chưa có tính chiến lược, lâu dài.
- Điều kiện làm việc của chính quyền cấp xã tại tỉnh còn bất cập, nhất là các
xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, rất thiếu thốn, chưa được
đầu tư đầy đủ đảm bảo điều kiện cần thiết cho hoạt động của một cơ quan công
quyền.
- Ảnh hưởng cuả yếu tố văn hoá địa phương.
2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ có biểu hiện thoái hoá về tư tưởng, dao
động về lý tưởng, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ nghĩa xã hội, ý thức tổ chức kỷ luật đảng kém, tính chiến đấu, ý thức
phê bình, tự phê bình giảm sút…
- Một số cán bộ lợi dụng chức quyền, lợi thế trong công vụ và những khe hở

trong cơ chế, chính sách để tham nhũng, làm giàu bất chính, tiêu sài hoang phí
của công. Nguyên nhân do cán bộ thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, chỉ lo vun vén cá
nhân, mưu lợi cho cá nhân.
- Sự bằng lòng với những kiến thức, trình độ của mình, lười học tập, lười
suy nghĩ, một số đối phó cốt lấy bằng cấp.
- Tình trạng bè phái, ê kíp, co cụm liên kết với nhau, gây chia rẽ nội bộ tồn
tại trong một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ.
15


- Vẫn còn cán bộ quan liêu, sống xa cách dân, coi thường quần chúng; ít tự
phê bình và không thích bị người khác phê bình mình. Trong sinh hoạt đảng có
tình trạng nể nang, né tránh, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh.
2.3.3.3. Một số bài học kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động của Ủy ban
nhân dân cấp xã
Thứ nhất, phải giữ vững đoàn kết nội bộ Đảng, thống nhất ý chí và hành
động của cả hệ thống chính trị là tiền đề có ý nghĩa quyết định thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Thứ hai, phát triển kinh tế - xã hội phải gắn chặt với quốc phòng, an ninh và
an sinh xã hội.
Thứ ba, coi trọng phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong công việc, đồng
thời tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của cấp trên trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị
của địa phương.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo xã và các ấp phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm, có năng lực và trình độ, có khả
năng vận động quần chúng đáp ứng được yêu cầu công việc cũng như thực tiễn
công tác.
Thứ năm, công tác vận động quần chúng phải luôn bám sát nhiệm vụ chính
trị, sâu sát cơ sở, làm tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy các cấp là điều kiện tiên
quyết để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đối với cơ sở.

Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội đối với các gia đình chính sách, hộ
nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Kết luận lại, chương này đã trình bày khái quát về những đặc điểm về điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cơ bản của tỉnh An Giang và những khảo sát về tổ
chức, hoạt động, trình độ cán bộ công chức cấp xã, những hạn chế yếu kém trong
quá trình lãnh đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân cấp xã ở An Giang, đồng thời
cũng chỉ rõ một số nguyên nhân và bài học kinh nghiệm để làm cơ sở đề ra những
giải pháp khắc phục trong thời gian tới.
16


CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ Ở TỈNH AN GIANG
3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về nâng cao hiệu quả hoạt động của
Ủy ban nhân dân cấp xã
Các cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt bộ phận nhân dân cư trú, sinh
sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, huy
động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của công đồng
dân cư.
Xây dựng chính quyền cấp xã thật sự trong sạch, vững mạnh; là cầu nối giữa
Đảng và Nhà nước với nhân dân; nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành và hiệu
quả tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng dân
chủ đi đôi với đảm bảo kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.
3.2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân
dân cấp xã ở tỉnh An Giang nói riêng và ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về ủy ban nhân dân các cấp

trong đó có những quy định chi tiết, cụ thể đối với ủy ban nhân dân cấp xã
Do hiện nay, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã
cũng như các thành viên của Ủy ban nhân dân vẫn chưa được quy định thống
nhất, rõ ràng, cụ thể trong một văn bản pháp luật mà lại nằm rải rác ở nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như: Luật Đất đai năm 2003, Luật Ngân sách Nhà nước
năm 2002….
Thứ nhất, cần phân cấp và quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cũng
như trách nhiệm của Ủy ban nhân dân trong việc thực hiện hoạt động quản lý
hành chính nhà nước ở địa phương, trong đó cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ,
17


quyền hạn, cơ cấu, tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã để thuận tiện
trong việc tổ chức thực hiện.
Thứ hai, không nên phân biệt ngạch công chức cấp xã và công chức cấp
huyện trở lên như Pháp lệnh cán bộ, công chức (sửa đổi) năm 2003, đặc biệt là
các công chức chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp xã, để tạo thuận lợi trong
việc luân chuyển cán bộ, công chức từ cấp xã lên cấp huyện và ngược lại (trừ các
chức danh bầu), bởi đã là công chức, thực hiện công việc như nhau thì chế độ
cũng hưởng giống nhau.
Thứ ba, cần tăng biên chế cho các chức danh chuyên môn của Ủy ban nhân
dân cấp xã trên cơ sở xác định cụ thể các chức danh công chức xã theo hướng ổn
định và chuyên sâu về nghiệp vụ.
3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã
Trên thực tế, Ủy ban nhân dân cấp xã đã thực hiện tương đối tốt các nhiệm
vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực hoạt
động của Ủy ban nhân dân cấp xã vẫn bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định. Do
vậy cần khắc phục những tồn tại, hạn chế trong một số hoạt động sau đây của Ủy
ban nhân dân cấp xã:
Thứ nhất, trong hoạt động tài chính và ngân sách

- Cần có sự thống nhất trong việc phân bổ ngân sách cấp xã, không nên chỉ
dựa vào nguồn thu, tăng tính chủ động trong dự toán chi ngân sách hàng năm.
- Cần quy định thống nhất mức chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên
trách cấp xã, ở khóm ấp.
Thứ hai, trong hoạt động quản lý đất đai
- Cần phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền quản lý đất đai cũng như thẩm quyền
xử lý vi phạm về đất đai cho Ủy ban nhân dân cấp xã.
- Cần tăng biên chế đối với công chức Địa chính cấp xã.
- Thực hiện tốt cơ chế một cửa liên thông trong hoạt động quản lý đất đai.
18


Thứ ba, trong hoạt động chứng thực
Cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp hộ tịch ở cấp xã. Bổ sung số lượng công chức Tư pháp - Hộ tịch cho xã, phường,
thị trấn, đặc biệt là những nơi có trên 10.000 dân theo quy định của Chính phủ.
Thứ tư, trong hoạt động đăng ký hộ tịch
Đối với một số các sự kiện hộ tịch mà nhân dân chưa tự giác đi đăng ký như
việc khai tử, nên quy định trách nhiệm cho các ấp, tổ dân phố,… đôn đốc các gia
đình đi khai tử.
Thứ năm, trong hoạt động điều hành của Ủy ban nhân dân cấp xã
Quy định rõ chế độ trách nhiệm cá nhân đối với từng thành viên khi thực
hiện nhiệm vụ quyền hạn của mìn; Phân định rõ trách nhiệm của từng cá nhân với
trách nhiệm của tập thể Ủy ban nhân dân; Phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ
trong hoạt động quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân cấp xã, đồng thời phát
huy chế độ tự chịu trách nhiệm và thể chế người đứng đầu.
3.2.3. Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân cấp xã
Trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Ủy ban nhân dân cấp xã chỉ nên quy định
những vấn đề chung mang tính nguyên tắc, những vấn đề khung để đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Còn những vấn đề
cụ thể, chi tiết nên để cho từng địa phương tự quy định cho phù hợp với đặc điểm

địa lý, kinh tế - xã hội của địa phương, nhưng phải đúng luật. Có thể thực hiện
mô hình chủ tịch Ủy ban nhân dân do dân trực tiếp bầu ra,…
Cần mạnh dạn có phương án quản lý đội ngũ công chức chuyên môn theo
ngành, có sự điều động, luân chuyển cán bộ, công chức giữa các xã, phường, thị
trấn hoặc từ xã lên huyện và ngược lại, nhằm tránh tình trạng cục bộ địa phương,
chia bè phái, móc nối để tham nhũng.
3.2.4. Hiện đại hoá nền hành chính nhà nước ở cấp xã
Hiện đại hoá nền hành chính nhà nước ở xã, phường, thị trấn tức là đảm bảo
cho Ủy ban nhân dân cấp xã đủ điều kiện, phương tiện làm việc, đáp ứng yêu cầu
19


quản lý Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế tri thức phát triển. Đẩy mạnh đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính, của cán bộ,
công chức cấp xã, đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp dụng công nghệ thông tin
Bên cạnh đó, cũng cần phải quy hoạch và xây dựng công sở theo hướng tập
trung và từng bước hiện đại, có đủ phương tiện làm việc, tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân khi đến liên hệ giải quyết công việc.
3.2.5. Đổi mới công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã
Thứ nhất, Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức phù hợp với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình cải cách hành chính.
Thứ hai, Thực hiện đổi mới công tác cán bộ từ khâu quy hoạch tuyển chọn,
đào tạo, bổ nhiệm, sử dụng và chế độ chính sách phù hợp đối với cán bộ, công
chức dựa trên tình hình thực tế của từng địa phương, nâng cao trình độ mọi mặt
của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Thứ ba, Nâng cao tinh thần trách nhiệm và phẩm chất đạo đức cán bộ, công
chức ở cấp xã, cán bộ thực sự là công bộc của nhân dân.
Thứ tư, Cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra nhằm củng cố và phát
huy hiệu lực của Ban thanh tra nhân dân, tăng cường sự giám sát của cơ quan nhà

nước cấp trên và của Hội đồng nhân dân cùng cấp đối với cán bộ, công chức của
Ủy ban nhân dân cấp xã. Thực hiện nguyên tắc: “Quyền lực của nhân dân phải
do chính nhân dân và cơ quan quyền lực của nhân dân kiểm soát”.
3.2.6. Củng cố mối quan hệ của Ủy ban nhân dân cấp xã với nhân dân, huy
động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào việc giám sát các hoạt động của
Ủy ban nhân dân cấp xã
Tiếp tục phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, quán triệt sâu sắc
trong nhận thức và hành động của cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, đặc
biệt là cơ quan hành chính nhà nước cấp xã luôn gần dân nhất trong mọi mối quan

20


hệ. Khắc phục tình trạng vô trách nhiệm hoặc đùn đẩy khó khăn cho nhân dân của
cán bộ.
Việc thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân dân
theo Thông báo số 223-TB/TW, ngày 14 tháng 2 năm 2009 của Bộ Chính Trị.
Hiện nay việc thực hiện thí điểm tuy đã có kết quả khả quan bước đầu, nhưng
chưa thể hiện hết những hạn chế, yếu kém khi thực hiện đồng bộ trên cả nước. Do
vậy, để thực hiện tốt chủ trương Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch Ủy ban nhân
dân xã, bản thân nhận thấy cần quan tâm đến những vấn đề sau: Thứ nhất, việc
thực hiện mô hình này là một việc lớn và nhạy cảm, có liên quan đến nhiều tổ
chức, hoạt động của hệ thống chính trị các cấp, mặt khác do thời gian thực hiện
còn ngắn và ở những nơi thí điểm là những địa phương có phong trào khá, nên
những ưu điểm hạn chế của mô hình này chưa bộc lộ hết, vì vậy đề nghị nên có
thời gian tiếp tục thí điểm và có mở rộng thêm một số nơi để tiếp tục nghiên cứu,
đúc kết kinh nghiệm. Thứ hai, mức phụ cấp cho đồng chí bí thư cấp ủy kiêm chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp xã như hiện nay là thấp, cần có chế độ phục cấp cao
hơn (bằng hoặc hơn 50% mức lương hiện hưởng).
Kết luận lại, chương này đã nêu lên những quan điểm và định hướng chỉ

đạo cơ bản về nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã, qua đó
góp phần đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có liên quan đến các cơ chế, chính
sách, tổ chức cán bộ,… nhằm từng bước hoàn thiện và nâng cao hiệu quả tổ chức
và hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp xã ở tỉnh An Giang trong giai
đoạn hiện nay.

21


PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân cấp
xã ở tỉnh An Giang”, bản thân nhận thấy có thể rút ra một số kết luận sau đây:
1. Chính quyền cấp xã có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống
chính quyền bốn cấp ở nước ta. Do đó, nâng cao chất lượng hoạt động quản lý
nhà nước của chính quyền cấp xã là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
2. Để nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp
xã cần phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước của các chức danh chủ chốt,
những đối tượng có vị trí, vai trò hạt nhân, “đầu tàu” trong hoạt động thực thi
quản lý nhà nước tại chính quyền cấp xã.
3. Năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính quyền cấp
xã tại An Giang hiện nay còn rất nhiều bất cập. Những vấn đề tồn tại cần khắc
phục, phải giải quyết thể hiện qua trình độ, kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp,
phong cách quản lý và hiệu quả công việc thực tế của họ gắn với điều kiện tự
nhiên, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương.
4. Trước những xu thế phát triển nhanh chóng của thời đại, đặt ra những yêu
cầu, đòi hỏi mới trong hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã ngày
càng nặng nề, phức tạp hơn. Do đó, bắt buộc người cán bộ lãnh đạo chính quyền
cấp xã tỉnh An Giang phải có năng lực tương xứng với đòi hỏi thực tiễn về vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
5. Phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính quyền cấp xã tại

địa phương gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh An Giang trong
tình hình mới.
6. Để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với đơn vị hành chính cấp xã theo hướng phát triển đi lên, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chính quyền cấp xã phải được củng cố về căn bản, nâng cao trình độ học vấn,
trình độ lý luận chính trị, kiến thức chuyên môn, quản lý nhà nước cần thiết.

22


7. Nhằm nâng cao năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chính quyền cấp xã tại An Giang cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, xác định tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo chính quyền cấp xã một cách
cụ thể, khách quan, khoa học và mang tính thực tiễn, kế thừa, định hướng.
Hai là, đánh giá năng lực quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chính quyền cấp xã thật chính xác, rõ ràng và có phương pháp khoa học, hiện đại.
Ba là, thực hiện tốt công tác qui hoạch và tạo nguồn cán bộ cho chức danh
lãnh đạo chính quyền cấp xã.
Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính
quyền cấp xã tại địa phương.
Năm là, xây dựng chế độ trách nhiệm công vụ một cách rõ ràng, công khai,
minh bạch và gắn với công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý đối với cán bộ
lãnh đạo chính quyền cấp xã.
Sáu là, thực hiện và bảo đảm chất lượng công tác luân chuyển cán bộ về giữ
chức danh lãnh đạo chính quyền tại cơ sở.
Bảy là, tiếp tục cải thiện điều kiện và phương tiện làm việc.
Từ những vấn đề trên cho thấy việc cũng cố và kiện toàn tổ chức và hoạt
động của Ủy ban nhân dân cấp xã là một vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay.
Điều này vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển cán bộ, công chức cấp xã, vừa đảm
bảo cho việc tổ chức quản lý và điều hành phát triển kinh tế - xã hội đi đúng định

hướng, xây dựng quê hương ngày càng giàu, đẹp, đảm bảo cho bà con nhân dân
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát huy được quyền làm chủ của mình.

23



×