Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Bài tiểu luận HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG sản ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.35 KB, 20 trang )

Bài tiểu luận :VẤN ĐỀ KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
Những năm gần đây cùng với sự phát triển chung của đất nước các hoạt động khai
thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. ngành công
nghiệp khai thác mỏ đã và đang chiếm vị trí quang trọng trong nền kinh tế Việt Nam.
Trong những năm qua hoạt động khai thác khoáng sản đã đóng góp tới 5,6% GDP. Tuy
nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực đó thì chúng ta cũng đang phải đới mặt với
những vấn đề về môi trường mà chính họat động khai thác khoáng sản đã gây ra. Quá
trình khai thác mỏ phục vụ cho lợi ích của mình, con người đã làm thay đổi môi trường
xung quanh. Yếu tố chính gây tác động đến môi trường là khai trường của các mỏ, bãi
thải, khí độc hại, bụi và nước thải...làm phá vỡ cân bằng điều kiện sinh thái, đã được hình
thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm nặng nề đối với môi trường nhất là đối
với môi trường đất và là vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và chính trị của cộng
đồng.
I.

CÁC KHÁI NIỆM
I.1. Ô nhiễm đất.
Có rất nhiều khái niệm về ô nhiễm đất:
Khi nồng độ các chất trong đất vượt quá giới hạn cân bằng tự nhiên-sự tự
điều chỉnh hệ sinh thái đất giữ được sự ổn định khi co tác đông ngoại cảnh,thì đất
sẽ có nguy cơ bị ô nhiễm,giảm đọ phì,giảm tính năng sản xuất
Ô nhiễm đất là hậu quả của hoạt động sản xuất của con người làm thay đổi
các nhân tố sinh thái quá ngưỡng sinh thái sinh thái của quần xã sống trong đất
( Giáo trình Đất và bảo vệ đất - sở Giáo dục và đào tạo. NXB Hà Nội).
I.2. Khái niệm khai thác khóang sản:
Khoáng sản là các dạng vật chất được tạo thành trong suất quá trình hình
thành và phát triển của tự nhiên, cuộc sống sinh vật và con người, các dạng vật chất này
cung cấp nguyên - nhiên vật liệu, hỗ trợ và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội của con người ( Giáo trình tài nguyên khoáng sản và vấn đề năng lượng - Phạm Văn
Sang).
Khoáng sản là tài nguyên trong lòng đất, trên mặt đất dưới dạng những tích tụ tự


nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích ở thể rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có


thể được khai thác. Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể được
khai thác lại, cũng là khoáng sản ( Luật Khoáng sản số 47- L/CTN của Quốc hội/09).
- Khai thác khoáng sản là hoạt động xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các
hoạt động có liên quan trực tiếp nhằm thu khoáng sản (Luật Khoáng sản số 47- L/CTN
của Quốc hội/09).
II. HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
Từ khi đất nước ta hoàn toàn giải phóng, công tác điều tra địa chất và tìm kiếm
thăm dò khoáng sản mới được triển khai trên quy mô toàn lãnh thổ Việt Nam. Trong
công tác điều tra cơ bản, bằng việc lập bản đồ địa chất khoáng sản đã phát hiện thêm
nhiều vùng, điểm mỏ có triển vọng lớn. Kết quả của công tác điều tra, khảo sát, thăm dò
địa chất cho thấy, Việt Nam có tiềm năng khoáng sản khá phong phú, đa dạng. Nhiều
khoáng sản có trữ lượng lớn như bôxit, quặng sắt, đất hiếm, apatít…chủng loại khoáng
sản đa dạng.
II.1. Quặng sắt
Ở Việt Nam hiện nay đã phát hiện và khoanh định được trên 216 vị trí có quặng
sắt, có 13 mỏ trữ lượng trên 2 triệu tấn, phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở vùng núi
phía Bắc.
Trong tất cả các mỏ quặng sắt của Việt Nam, đáng chú ý nhất là có hai mỏ lớn đó
là mỏ sắt Quý Xa ở Lào Cai (119 triệu tấn) và mỏ sắt Thạch Khê ở Hà Tĩnh (544 triệu
tấn). Hàng năm, số lượng quặng sắt khai thác và chế biến ở Việt Nam đạt từ 300.000 –
450.000 tấn. Công suất khai thác của mỏ hiện nay là thấp hơn rất nhiều so với công suất
thiết kế được phê duyệt. Công nghệ và thiết bị khai thác, chế biến ở mức trung bình, một
số thiết bị khai thác cũ và lạc hậu, nên công suất bị hạn chế và không đảm bảo khai thác
hết công suất theo các dự án được phê duyệt. Các mỏ cấp giấy phép tận thu không có
thiết kế khai thác, hoặc có nhưng khi khai thác không theo thiết kế. Vì chạy theo lợi
nhuận trước mắt, các doanh nghiệp khai thác tận thu đã làm tổn thất tài nguyên (Không
thu được quặng cám cỡ hạt từ 0-8mm) và môi trường bị ảnh hưởng. Năng lực khai thác

quặng sắt hiện nay có thể đáp ứng sản lượng là 500.000 tấn/năm. Thị trường quặng sắt
hiện nay: 80% sử dụng trong nước, chủ yếu là để luyện thép, còn 20% xuất khẩu.


II.2. Bô-xit
Nước ta có tiềm năng rất lớn về quặng bôxít với tổng trữ lượng và tài nguyên dự báo
đạt khoảng 5,5 tỷ tấn, phân bố chủ yếu ở tỉnh Đắc Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Bình
Phước,…
Nhìn chung, nước ta có trữ lượng tài nguyên bôxít lớn, chất lượng tương đối tốt,
phân bố tập trung, điều kiện khai thác thuận lợi. Mặt khác, thị trường cung – cầu sản
phẩm alumin trên thị trường thế giới hiện nay rất thuận lợi cho phát triển ngành công
nghiệp nhôm ở nước ta. Bên cạnh nước ta là Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu rất lớn về
alumin, hàng năm khoảng 5-6 triệu tấn alumin. Do vậy, cần phải khai thác và chế biến
sâu bôxít, điện phân nhôm để phát triển ngành công nghiệp nhôm phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
II.3. Quặng titan
Theo kết quả điều tra, thăm dò địa chất, cho tới nay đã phát hiện 59 mỏ và điểm
quặng titan, trong đó có 6 mỏ lớn có trữ lượng từ 1 đến 5 triệu tấn, 8 mỏ trung bình có trữ
lượng > 100.000 tấn và 45 mỏ nhỏ và điểm quặng. Xét về tổng thể, quặng titan Việt Nam
không nhiều, nhưng đủ điều kiện để phát triển ngành titan đồng bộ từ khâu khai thác và
chế biến sâu với quy mô công nghiệp không lớn, đáp ứng nhu cầu trong nước, thay nhập
khẩu, có hiệu quả hơn nhiều so với xuất khẩu quặng tinh và nhập khẩu pigment, ilmenhit
hoàn nguyên và zircon mịn ngay trước mắt và lâu dài cho các ngành công nghiệp
Ngành Titan hoạt động với giá trị xuất khẩu quặng tinh titan 20-30 triệu USD/năm,
có hiệu quả kinh tế đáng kể, đặc biệt có ý nghĩa kinh tế xã hội với nhiều địa phương suốt
dọc ven biển từ Thanh Hoá đến Bình Thuận.
II.4. Quặng thiếc
Ở nước ta, thiếc được khai thác sớm nhất tại vùng Pia Oắc – Cao Bằng khoảng cuối
thế kỷ XVIII. Đến 1945, người Pháp đã khai thác khoảng 32.500 tấn tinh quặng SnO2.
Sau hoà bình lập lại, mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng được Liên Xô (cũ) thiết kế và trang bị

bắt đầu hoạt động từ 1954. Đây cũng là mỏ thiếc lớn đầu tiên khai thác, chế biến có quy
mô công nghiệp. Viện Nghiên cứu Mỏ và Luyện kim và Công ty Luyện kim mầu Thái
Nguyên đã xây dựng các xưởng điện phân thiếc với công suất: 500-600t/n xưởng. Hiện


nay, có ba xưởng điện phân thiếc thương phẩm loại I xuất khẩu với tổng công suất là
1.500t/năm - 1.800t/năm
II.5 Quặng đồng
Quặng đồng phát hiện ở Việt Nam cho tới nay đáng kể nhất là ở mỏ đồng Sinh
Quyền – Lào Cai, sau đó là mỏ đồng Niken – Bản Phúc. Dự án đầu tư xây dựng liên hợp
mỏ tuyển luyện đồng Sinh Quyền quy mô lớn đang thực hiện, chủ đầu tư là Tổng công ty
Khoáng sản Việt Nam thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam – với
công nghệ và thiết bị nhập của Trung Quốc. Khu luyện kim và axit được xây dựng tại
khu Công nghiệp Tằng Loỏng - Lào Cai.
II.6. Quặng kẽm chì
Các mỏ kẽm chì ở nước ta đã được phát hiện và khai thác, chế biến từ hàng trăm
năm nay. Hiện nay, công ty kim loại mầu Thái Nguyên đã xây dựng xong nhà máy điện
phân kẽm kim loại tại khu Công nghiệp Sông Công Thái Nguyên với công nghệ, thiết bị
của Trung Quốc công suất kẽm điện phân là: 10.000t/năm.
Trên cơ sở nắm chắc tài nguyên, và kết quả thăm dò trong các năm 2008-2010,
Tổng công ty KSVN sẽ tiến hành đầu tư khai thác và tuyển các mỏ kẽm – chì Nông Tiến
– Tràng Đà, Thượng ấn, Cúc Đường, Ba Bồ,… với quy mô công suất tuyển từ 40.00060.000 tấn quặng nguyên khai/năm. Từ nguồn nguyên liệu là tinh quặng tuyển nổi và bột
kẽm từ 50.000-100.000 tấn quặng nguyên khai/năm, sẽ tiến hành xây dựng hai nhà máy
điện phân kẽm tại Tuyên Quang và Bắc Cạn với công suất mỗi nhà máy khoảng 20.000
tấn kẽm/năm. Xây dựng một nhà máy luyện chì và tách bạc với công suất 10.000 tấn chì
thỏi và 15.000 kg bạc/năm. Các nhà máy điện phân kẽm và luyện chì dự kiến sẽ xây dựng
trong giai đoạn 2008-2015. Như vậy, nếu tài nguyên cho phép sau khi đã thăm dò nâng
cấp trữ lượng, thì dự kiến đến năm 2010, sản lượng kẽm thỏi sẽ đạt 20.000-30.000
tấn/năm và khoảng 10.000 tấn chì thỏi/năm, đưa tổng thu nhập lên 35 triệu USD/năm
II.7 Dầu khí

Dầu khí đã được phát hiện ở Việt Nam từ những năm 1970, nhưng chỉ sau năm
1984, ngành công nghiệp dầu khí mới thực sự có bước đi vững chắc, ngày càng góp
nhiều vào việc tăng trưởng xuất khẩu của cả nước. Dầu khí được tập trung ở các bể trầm


tích Sông Hồng, Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay, Thổ Chu, Phú Khánh, Tư Chính,
Vũng Mây, Trường Sa. Đến nay, đã có 37 Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký kết giữa
Petro Vietnam và các đối tác nước ngoài nhằm thăm dò, khai thác dầu khí ở thềm lục địa
Việt Nam. Tổng diện tích các lô đã được ký hợp đồng thăm dò vào khoảng 250.000 km2,
chiếm 50% tổng diện tích thềm lục địa Việt Nam. Qua kết quả thăm dò cho thấy: Bể
Sông Hồng chủ yếu là khí. Bể Cửu Long chủ yếu phát hiện dầu. Hai bể còn lại là Nam
Côn Sơn và Malay- Thổ Chu phát hiện cả dầu và khí. Bể Phú Khánh và Tư Chính- Vũng
Mây mới chỉ dự báo triển vọng trên cơ sở nghiên cứu cấu trúc địa chất. Khoáng sản dầu
khí đang được thăm dò với cường độ cao. Trữ lượng dầu đã được phát hiện vào khoảng
1,7 tỷ tấn và khí đốt vào khoảng 835 tỷ m3. Trữ lượng dầu được dự báo vào khoảng 6 tỷ
tấn và trữ lượng khí vào khoảng 4.000 tỷ m3. Trong những năm gần đây, sản lượng khai
thác dầu và khí đều tăng cao, năm 1999 đã khai thác 15,2 triệu tấn dầu và 1.439 triệu m3
khí. Tính đến cuối năm 1999 đã khai thác được 82 triệu tấn dầu và 3.900 triệu m3 khí.
100% số dầu khai thác được dùng để xuất khẩu.
II.8 Than.
Than Việt Nam được hình thành ở 8 thời kỳ khác nhau: Devon giữa và muộn;
Carbon sớm và giữa; Permi muộn; Trias giữa; Trias muộn; Jura sớm; Neogen và Đệ tứ.
Chỉ có than được hình thành ở Trias muộn và Neogen là có giá trị kinh tế cao nhất. Than
có giá trị kinh tế được tập trung ở Triasic muộn và được tập trung chủ yếu ở bể than
Quảng Ninh thành các vùng như: Cẩm Phả, Dương Huy, Hòn Gai, Uông Bí, Bảo Đài
chiếm 90% trữ lượng, bể than Sông Đà ở miền Bắc và bể than Nông Sơn ở miền Trung
Việt Nam. Tổng trữ lượng ước tính của than Triasic muộn là 6,6 tỷ tấn. Nguồn tài nguyên
than nâu ở vùng châu thổ Bắc Bộ với trữ lượng dự báo gần 200 tỷ tấn, nhưng rất khó
khăn cho thăm dò và khai thác vì ở dưới độ sâu từ 200 đến hơn 4.000m dưới đồng bằng.
Hiện nay, sản lượng than khai thác đạt khoảng 15 triệu tấn. Than đã được xuất khẩu đi

nhiều nước trên thế giới.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển chung của cả nước, các hoạt động
khai thác khoáng sản đã và đang góp phần to lớn vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành
công nghiệp khai thác mỏ đã và đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế


của Việt Nam. Trong những năm qua, hoạt động khai khoáng sản đã đóng góp tới 5,6%
GDP. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, chúng ta cũng đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề về môi trường. Quá trình khai thác mỏ phục vụ cho lợi ích của mình,
con người đã làm thay đổi môi trường xung quanh. Yếu tố chính gây tác động đến môi
trường là khai trường của các mỏ, bãi thải, khí độc hại, bụi và nước thải...làm phá vỡ cân
bằng điều kiện sinh thái, đã được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ra sự ô nhiễm
nặng nề đối với môi trường và là vấn đề cấp bách mang tính chất xã hội và chính trị của
cộng đồng.
III. TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN ĐẾN MÔI
TRƯỜNG ĐẤT
III.1. Khai thác làm phá vỡ cấu trúc trạng thái ban đầu của đất, xáo trộn mặt đất
và làm biến dạng cảnh quan (Hình 1)
Tài nguyên khoáng sản đa số là nằm trong đất, cho nên khi khai thác khoáng
sản trước mắt bắt buộc phải phá huỷ toàn bộ thảm thực vật để bốc đi lớp đất phủ trên bề
mặt tới độ sâu 1-5m. Sau đó, sẽ khai thác (cũng bốc đi) lớp khoáng vật chứa khoáng sản
với độ sâu hết chiều dày của thân quặng làm mất lớp phủ thực vật trên diện rộng do vậy
sẽ làm tăng hoạt động chảy tràn, rửa trôi bề mặt vào mùa mưa, làm tăng lượng trầm tích
đi vào các dòng nước mặt, làm cạn kiệt nguồn nước.
Trong quá trình khai thác người ta sử dụng các thiết bị máy móc, các kỹ thuật như
nổ mìn phá đá thì đưa đến các kết quả không mong đợi làm hư hổng, đổ vỡ các công
trình cấu trúc trên bề mặt cũng như cấu trúc bên trong của đất, làm phát triển độ lỗ hổng,
nứt nẻ các khối nền, tăng cường nguy cơ sạt lỡ, sụt lún.
Do đặc thù của khai thác mỏ là một hoạt động công nghiệp không giống các
hoạt động công nghiệp khác về nhiều mặt, như phải di dời một khối lượng lớn đất đá ra

khỏi lòng đất tạo nên một khoảng trống rất lớn và rất sâu. Một khối lượng lớn chất thải
rắn được hình thành do những vật liệu có ích thường chỉ chiếm một phần nhỏ của khối
lượng quặng được khai thác, dẫn đến khối lượng đất đá thải vượt khối lượng quặng nằm
trong lòng đất. Chất thải rắn, không sử dụng được cho các mục đích khác, đã tạo nên trên


bề mặt đất địa hình mấp mô, xen kẽ giữa các hố sâu và các đống đất, đá. Đặc biệt ở
những khu vực khai thác "thổ phỉ", tình hình còn khó khăn hơn nhiều.
Tại các vùng khai thác than đã xuất hiện những núi đất, đá thải cao gần 200m,
những moong khai thác sâu khoảng 100m. Để sản xuất 1 tấn than, cần bóc đi từ 8 đến 10
m3 đất phủ, thải từ 1 đến 3m3 nước thải mỏ. Khối lượng chất thải rắn và nước thải mỏ gây
ô nhiễm nặng cho vùng mỏ. Một vài vùng ô nhiễm đã đến mức báo động như Mạo Khê,
Uông Bí, Cẩm Phả...
II.2. Khai thác khoáng sản làm suy giảm diện tích, ô nhiễm và mất đất canh tác
(Hình 2)
Việc dọn mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ việc mở mỏ, làm các bãi thải,
bãi khai trường, cũng làm cho quỹ đất nông lâm nghiệp bị mất, hoặc thay đổi địa hình,
việc khai thác khoáng sản trên các thửa ruộng đã làm cho các ruộng đất biến dạng và ảnh
hưởng đến sản xuất.
Bảng 1. Mức độ ô nhiễm đất nông nghiệp do khai thác mỏ

Nguồn: Nguyễn Đức Quý, Tạp chí Hoạt động Khoa học, số 4, 1996
Theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2005, tổng diện tích dành cho các hoạt động khai
thác khoáng sản là 41.000ha. Diện tích đó ngày càng mở rộng và lấn sang phần đất khác,
nhiều diện tích rừng nhiệt đới, rừng phòng hộ bị tàn phá, xâm hại.


Tại Yên Bái, toàn tỉnh có trên 168 điểm mỏ với 15 loại khoáng sản. Ngoài ra, còn
nhiều đơn vị thăm dò khoáng sản theo giấy phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Chỉ
trong 2 năm 2007 và 2008, tỉnh Yên Bái đã cấp phép thăm dò và khai thác hàng trăm

điểm quặng vừa và nhỏ. Điều này đã khiến nhiều diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đã và
đang giảm dần, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cảnh quan sinh thái.
Dù đã có quyết định thu hồi đất của UBND tỉnh Đồng Nai để quy hoạch khu dân
cư, nhưng hàng chục hécta đất ở xã Giang Điền (huyện Trảng Bom) vẫn bị đào xới hằng
ngày để, để lấy phần “khoáng sản” có màu trắng kết dính như vữa xi măng, Người dân
trong khu vực gọi đây là cao lanh dùng để làm gạch men, đồ gốm xứ…Khu vực khai thác
trái phép có diện tích rộng 3 hécta cạnh suối Son, ấp Hòa Bình, xã Giang Điền. Kế bên,
một khu vực rộng hàng chục hécta cũng đã thành… ao hồ trước vấn nạn đào bới đất.

Do đào vàng, đất nông nghiệp ở các huyện Ngân Sơn, Na Rì (Bắc Kạn) bị tàn phá không
thương tiếc, chưa biết khi nào mới có thể sản xuất trở lại. Nhiều diện tích ruộng tốt đã bị
“vàng tặc” đào phá thành các ao sâu. Đất mặt đã bị hủy hoại hoàn toàn, biến thành bãi
hoang lổn nhổn đá cuội. Tại cánh đồng thôn Nà Chúa, xã Thuần Mang có nhiều nhóm
người đưa cả máy xúc vào ruộng. Nhiều thửa ruộng đã bị đào rộng từ 2- 4 mét, khoét sâu
từ 8- 10 mét, xúc đất cho vào bao tải, kéo lên mặt đất rồi rồi vận chuyển ra suối để đãi.
Thậm chí máy bơm nước không phải để chống hạn mà phục vụ cho việc đào vàng.
Theo kết quả kiểm tra của Sở TN&MT Yên Bái, phần lớn các mỏ đang khai thác
đều chưa xây dựng bãi thải theo đúng phương án đã duyệt, nên đã gây bồi lấp dòng chảy,
đồng ruộng của nhân dân, làm ô nhiễm nguồn nước.
Bãi thải mỏ sắt Sài Lương - Nậm Chậu (Yên Bái) nằm trên độ cao từ 500 - 800m,
với độ dốc rất lớn, nên khả năng hàng chục nghìn khối đất đá thải từ các khai trường sẽ
đổ ập xuống ruộng của người dân khi mùa mưa đến, là điều dễ xảy ra. Cánh đồng Sài
Lương - Nậm Chậu hiện nay có khoảng 35ha, mà theo tính toán, các bãi thải quặng của
các đơn vị này không được xử lý và có quy hoạch hợp lý, sẽ làm 10ha diện tích đất nông
nghiệp bị vùi lấp.


Trong quá trình khai thác than, Công ty TNHH Tam Cường đã để nước thải gây ô
nhiễm hơn 17.000 m2 đất canh tác của các hộ dân thôn Lái, xã An Bá (Sơn Động-Bắc
Giang). Cả cánh đồng rộng đất chai cứng, nứt vỡ, nhiều diện tích thâm đen màu đang bị

"sa mạc" hoá không thể canh tác được, đời sống của người dân nơi đây đã khó khăn, nay
càng khó khăn hơn. Thống kê của UBND xã An Bá cho thấy: vụ lúa chiêm năm 2009,
diện tích lúa của thôn Lái bị mất trắng gần 1,6 ha thì vụ lúa mùa năm 2010, diện tích bị
mất trắng tăng lên hơn 1,7ha.
Trước đây, các chuyên gia đã xác định mức độ thiệt hại đối với canh tác nông
nghiệp ở các tỉnh ven biển miền Nam Trung bộ khoảng 3 triệu tấn lúa/năm (cái giá phải
trả tương đương 1 tấn lúa bị thất thu/1 tấn bauxite được khai thác).
III.3. Giảm diện tích đất rừng, gia tăng suy thoái đất (Hình 3)
Tài nguyên khoáng sản không những nằm ngoài rừng mà còn nằm trong lòng rừng
núi cho nên khi khai thác khoáng sản thì phải chặt phá cây rừng làm cho lớp phủ thực vật
bị suy giảm nó tác động gián tiếp làm cho núi đất trọc, dễ phong hóa, không giữ được ẩm
dễ bị xói mòn rửa trôi, sạt lở. Hoạt động khai thác khoáng sản cũng làm cho thực vật,
động vật bị giảm số lượng hoặc tuyệt chủng do các điều kiện sinh sống ở rừng cây, đồng
cỏ và sông nước xấu đi. Một số loài thực vật bị giảm số lượng, động vật phải di cư sang
nơi khác
Hiện nay, ở khu vực Hòn Gai_Cẩm Phả có khoảng 30 mỏ than lớn nhỏ đang hoạt
động, bình quân khoảng 2000ha, có một mỏ với tổng diện tích là 175km 2, chiếm 28,7 %
diện tích đất tự nhiên của thành phố Hạ Long và thị xã Cẩm Phả. Ở Hòn Gai, Nam đường
18A(Cẩm Phả) trong giai đoạn 1970-1997, các hoạt động khai thác than làm mất khoảng
2900ha(trung bình mỗi năm mất 100-110ha) đất các loại, trong đó khoảng 2000ha bị mất
do mở vỉa, đổ đất đá thải. Độ che phủ rừng tự nhiên từ 33,7% năm 1970 giảm xuống
6,7% (1985) và 4,7% (1997). Tại khu vực Cẩm Phả, trước năm 1975 việc khai trường
được mở rộng về phía tây nam (khoảng 100ha) và phía tây (25 ha). Sau 1975 khai trường
và bãi thải phát triển về phía bắc khoảng 435ha, phía tây bắc 265ha và phía đông 75ha.
Việc khai thác than ở Quảng Ninh đã phá huỷ hàng trăm km 2 rừng, tạo ra xói mòn, bồi
lấp ở các sông suối và làm ô nhiễm Vịnh Hạ Long. Một số mỏ than còn sử dụng công


nghệ khai thác lạc hậu, thiếu chương trình khoa học tổng thể để xác định sự cần thiết về
tăng trưởng công suất cho phù hợp với các yêu cầu bảo vệ môi trường. Do đó, môi trường

đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi những tác động xấu, nước bị ô nhiễm nặng bởi chất thải
rắn lơ lửng, vi trùng và bụi trong không khí v.v...

Hơn 200ha rừng phòng hộ tại khu vực Tài Soỏng, xã Phan Thanh, huyện Nguyên
Bình đang đứng trước nguy cơ bị xoá sổ hoàn toàn bởi những quyết định khó hiểu của
UBND tỉnh Cao Bằng. Ngày 2/7/2009, cũng chính UBND tỉnh Cao Bằng lại ra Quyết
định 1403/QĐ và 1404/QĐ cho phép Hợp tác xã Chiến Công được khai thác quặng thiếc,
vonfram và Công ty cổ phần khoáng sản công nghiệp Cao Bằng được khai thác quặng
sắt, mangan tại mỏ Tài Soỏng, xã Phan Thanh, huyện Nguyên Bình (Cao Bằng). Trong
khi đó, khu Tài Soỏng nằm trọn trong phạm vi quy hoạch khu du lịch sinh thái mà tỉnh đã
phê duyệt. Việc UBND tỉnh Cao Bằng cho phép khai thác khoáng sản tại khu vực này


không chỉ phá vỡ cảnh quan môi trường mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hàng trăm
ha rừng phòng hộ ở thượng nguồn sông Năng, nơi cung cấp nước cho hồ Ba Bể của tỉnh
Bắc Kạn. Hơn nữa, trữ lượng ở đây là quá nhỏ, không đáng để đánh đổi lấy hơn 200 ha
rừng phòng hộ mà phải mất hàng trăm năm mới có được.

III.4. Hoạt động khai thác, vận chuyển, sàng tuyển và đổ thải ra lượng lớn nước
thải kèm theo lượng dầu mỡ từ các phương tiện vận chuyển đổ thải vào môi trường đất từ
đó gây ô nhiễm về mặt lí hóa đất, đặc biệt là ô nhiễm do hóa chất tuyển quặng, kim loại
nặng.(Hình 4)
Trong quá trình khai thác người ta phải vẩn chuyển, sàng tuyển, và đã đổ thải ra
môi trường những chất làm cho ô nhiễm môi trường đất, hay trong quá trình vận chuyển
thì làm đổ các dầu nhớt cũng đã làm cho ảnh hưởng tới đất. Qua quá trình đào xúc thì các


kim loại nặng làm cho cấu trúc đất bị thay đổi và các kim loại nặng trong đất bị đảo lộn
làm cho việc ô nhiễm kim loại nặng trong đất lan rộng ra. Các bãi thải dùng để chứa các
khoáng sản cũng đã làm cho diện tích đất ở khu vực đó và các vùng lân cận bị ô nhiễm.

Một số diện tích đất xung quanh các bãi thải quặng có thể bị bồi lấp do sạt lở, xói
mòn của đất đá từ các bãi thải, gây thoái hoá lớp đất mặt. Việc đổ bỏ đất đá thải tạo tiền
đề cho mưa lũ bồi lấp các sông suối, các thung lũng và đồng ruộng phía chân bãi thải và
các khu vực lân cận. Khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di chuyển xuống vùng
thấp, vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà cửa, vào mùa mưa lũ
thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi trường xã hội.
Một số diện tích đất xung quanh các bãi thải quặng có thể bị bồi lấp do sạt lở, xói
mòn của đất đá từ các bãi thải, gây thoái hoá lớp đất mặt. Các cồn đống cuội, đá thải
trong quá trình khai thác vàng trên lòng sông ngăn cản, thay đổi dòng chảy gây sự xói lở
đất bờ sông, đê điều, gây úng lụt cục bộ.
Việc đổ bỏ đất đá thải tạo tiền đề cho mưa lũ bồi lấp các sông suối, các thung lũng
và đồng ruộng phía chân bãi thải và các khu vực lân cận. Quá trình san lấp mặt bằng, xây
dựng nhà tạm hoặc thủ công, hoặc cơ giới đều gây tiếng ồn, gây bụi làm ô nhiễm môi
trường không khí, ô nhiễm nguồn nước cũng như làm đảo lộn môi trường đất tạo nên một
vùng "đất mượn". Vùng "đất mượn" khi có mưa lớn thường gây ra các dòng bùn di
chuyển xuống vùng thấp, vùng đất canh tác, gây tác hại tới hoa màu, ruộng vườn, nhà
cửa, vào mùa mưa lũ thường gây ra lũ bùn đá, gây thiệt hại tới môi trường kinh tế và môi
trường xã hội.
Theo đề tài “Nghiên cứu sử dụng thực vật để cải tạo đất bị ô nhiễm kim loại nặng
tại các vùng khai thác khoáng sản” của Viện Công nghệ môi trường:
Kết quả phân tích mẫu đất tại mỏ than núi Hồng (Thái Nguyên) cho thấy: Hàm
lượng As trong đất từ 202-3690 ppm (1ppm = 1 phần triệu), gấp 17-308 lầnTCVN, có nơi
lên đến 15146ppm.
Mỏ kẽm, chì làng Hích (Thái Nguyên) cũng có hàm lượng Pb và Zn tương ứng là
13028ppm và 9863ppm; gấp 186 lần TCVN đối với Pb và 49 lần đối với Zn.


Quá trình bốc xúc, tuyển rửa quặng, làm đất tơi xốp tạo điều kiện thuận lợi cho
phong hoá và hoá tách các khoáng vật kim loại chứa trong đó. Vì vậy, có ảnh hưởng lớn
đến môi trường, không chỉ khi cơ sở đang hoạt động mà còn tiếp diễn về lâu dài sau khi

cơ sở ngừng hoạt động. Môi trường chịu ảnh hưởng lớn nhất trong khu mở moong khai
thác là chất thải rắn, không sử dụng được cho các mục đích khác, đã tạo nên trên bề mặt
địa hình mấp mô, xen kẽ giữa các hố sâu và các đống đất đá. Đặc biệt ở những khu vực
khai thác "thổ phỉ", tình hình còn khó khăn hơn nhiều.
Trước khi sử dụng thì các kim loại được tuyển người ta thường gọi là khâu tuyển
quặng. người ta sử dụng một số chất, kim loại nặng để tách, rửa khoáng sản cũng đã góp
phần ô nhiễm đất.
Một nông dân ở thôn Nặm Làng (xã Đức Vân, huyện Ngân Sơn) cho biết muốn
khai thác vàng phải dùng hoá chất Xyanua để trích phân (lọc) lấy vàng nên vàng tặc
thường đào các bể hoá rộng khoảng 5 – 7m 2 trên các khe núi. Sau mỗi trận mưa, nước từ
bể hoá theo dòng nước phân tán đi khắp nơi, gây ô nhiễm môi trường đất, nguồn nước
sinh hoạt cũng bị ô nhiễm nặng.
Về sự ô nhiễm phóng xạ từ các khu vực khai thác khoáng sản: Trong quặng ilmenit
(quặng titan có màu đen), nhất là khoáng vật monazit, có một số nguyên tố phóng xạ khá
cao. Khi tuyển rửa, thu gom thì lượng phóng xạ này có thể vượt ngưỡng cho phép cũng là
điều dễ hiểu. Các nhà khoa học thuộc Trường Đại học Mỏ địa chất và Liên đoàn Địa chất
Việt Nam có cảnh báo về sự ô nhiễm phóng xạ tại một mỏ khai thác titan của một tỉnh
miền Trung. Báo cáo này nêu rõ, tại khu mỏ khai thác đó có hiện tượng ô nhiễm phóng
xạ với giá trị tổng liều tương đương bức xạ 2 mSv/năm < H < 6 mSv/năm (vượt quá tiêu
chuẩn an toàn cho phép đối với con người).
Quá trình chế biến bauxite tạo ra rất nhiều chất thải rắn khó phân huỷ có hại cho
môi trường. Về mặt thạch học, bauxite Tây Nguyên gồm 3 thành phần chính là gibbsite
(hay còn gọi là trihydrate nhôm Al 2O3.3H2O), boehmite (hay còn gọi là monohydrate
nhôm Al2O3.H2O) và diaspore (có thành phần tương tự như boehmite nhưng cứng hơn).
Quá trình xử lý để chế biến bauxite thành alumina sẽ tạo ra các đuôi quặng không hoà tan
chứa các thành phần gồm các oxid sắt, silic, titanium và các nguyên tố đi kèm như kẽm,


phôtpho, nickel và vanadium. Các thành phần này trong chất thải không phân huỷ kể cả
trong điều kiện nhiệt độ cao. Các chất thải này tuy không độc hại nhưng rất bền vững về

mặt hoá học nên có tác động xấu đến môi trường đất. Tỷ lệ chất thải (đuôi quặng) này rất
lớn. Tuỳ thuộc vào chất lượng của bauxits và công nghệ chế biến có thể lên tới 2,5 tấn/
1tấn sảm phẩm alumina. Việc bảo quản các chất thải này để không gây ô nhiễm cho môi
trường đất và nước là rất tốn kém.
Bảng 5: Giới hạn hàm lượng tổng số của một số kim loại nặng trong một số
loại đất (ĐVT: mg/kg đất khô)
Thông

Đất nông

Đất lâm

Đất dân

số
Asen (As)
Cadimi(Cd)
Đồng (Cu)
Chì (Pb)
Kẽm (Zn)

nghiệp
12
2
50
70
200

nghiệp
12

2
70
100
200

Đất công

sinh
12
5
70
120
200

Đất

thương

nghiệp mại
12
12
10
5
100
100
300
200
300
300


Bảng 6: Kết quả phân tích hàm lượng Cd trong đất khu vực bãi thải mỏ than Phấn Mễ
Hàm lượng Cd(mg/kg đất khô)
TT

Kíhiệumẫu
Mẫu đất NC

QCVN03:2008/BTNMT QCVN03:2008/BTNMT(
(Đất nông nghiệp)

Đất lâmnghiệp)

1

MD1

9,6

2

2

2

MD2

2,25

2


2

3

MD3

1,3

2

2

MD1: tại đỉnh bãi thải, MD2: tại khu vực cách chân bãi thải 100m về phía Bắc,
MD3: tại vị trí cách chân bãi thải 150m về phía Tây

Bảng 7: Thành phần và chất lượng nước thải mỏ than Mạo Khê


Chỉ tiêu ĐV
pH

Moong vỉa 8Cửalò+30Mạ Giếng phụBể lắng nhàTCVN
TB

o Khê

-25

sàng


3,49

6,75

6,7

6,78

5945-

1995
5,5-9

Độ đục

Mg/l

91

53,5

13,3

120

100

DO

Mg/l


5,9

6,3

6,4

6

-

NO3-

Mg/l

-

6,86

8,46

6,86

60

SO42-

Mg/l

-


142,8

82,8

66,3

0,5

Fe

Mg/l

-

1,591

1,548

0,528

5

Mn

Mg/l

-

5,042


1,288

0,722

0,1

Zn

Mg/l

-

0,633

1,277

0,103

2

Pb

Mg/l

-

0,006

Hg


Mg/l

-

0,29

0
0,21

0
0,06

0,5
5

Nguồn: Phòng tài ngyên và môi trường huyện Đông Triều, 2008
III.5. Ô nhiễm đất do dầu mỏ
Ở Việt Nam đất bị ô nhiễm do kim loại nặng chưa phải là phổ biến tuy nhiên cũng
đã xuất hiện mang tính cục bộ trên một diện tích nhất định. Và có một nguyên nhân gây ô
nhiễm đất mới xuất hiện gần đây nhưng nó có ảnh hưởng tới môi trường đất rất lớn đó là
ô nhiễm đất do hoạt động khai thác dầu mỏ. Ô nhiễm do dầu mỏ xuất hiện từ những năm
1980. Trong quá trình vận chuyển dầu mỏ khí đốt hoặc trong quá trình súc rửa thùng
chứa hoặc dầu nhớt từ các máy móc trong khi hoạt động khai thác bị đổ, nhiễm ra đất
không tránh khỏi làm ảnh hưởng tới môi trường đất.

Khi trên mặt đất có một lớp dầu mỏng (dù chỉ từ 0,2-0,5mm) thì cũng cản
trở quá trình trao đổi chất của sinh vật trong đất(vi sinh vật, động thực vật). Đất thiếu oxy
do không tiếp xúc với không khí nên các sinh vật trong đất sẽ chết dần.


Khi dầu thấm dần vào trong lòng đất nó sẽ chiếm dần vị trí của các mao
quản và phi mao quản, đẩy nước và không khí ra ngoài làm môi trường đất bị giảm thiểu
không khí và nước, do đó làm ảnh hưởng tới tính chất của đất và hệ sinh thái trong đất.

Khi dầu thấm vào trong đất nó sẽ làm thay đổi cấu trúc, đặc tính lí học và
hóa học của đất. Chúng biến hạt keo thành “trơ” không có khả năng hấp thụ và trao đổi


nữa, làm cho vai trò đệm, tính ôxy hóa, tính dẫn điện...của môi trường đất thay đổi mạnh,
làm giảm tính dẻo, tính dính.

Khi dầu thấm qua đất tới mao mạch nước ngầm làm ô nhiễm nguồn nước
ngầm. Dầu là hợp chất cao phân tử có thể tiêu diệt trực tiếp hầu hết các sinh vật vó trong
đất trừ một số loài có thể phân giải được dầu: corynebacterium, pseudomonas, nấm đơn
bào candida.
IV. NGUYÊN NHÂN
-

Công nghệ khai thác ở nhiều nơi còn lạc hậu, các công trình xử lý nước

thải, bùn thải sau khai thác còn thô sơ, tiềm ẩn những rủi ro cao và quy hoạch chưa hợp
lý. (hình 4)
Với thiết bị lạc hậu với các phương pháp cơ học, tức là dùng nước để rửa đất từ
quặng và nước đó kèm theo bùn xả ra ngoài, nồng độ chất thải trong đó cũng khá đậm
đặc, cùng với một lượng lớn, dày đặc bùn phủ dày lên mặt đất, một số lớp bùn từ các
quặng có kim loại nặng, quặng sắt thô nên hàm lượng vi sinh vật rất thấp, nó không
những ảnh hưởng đến đời sống người dân mà còn ảnh hưởng đến vi sinh vật trong đất,
làm ô nhiễm đất.
Việc đập chắn nước thải tại khu mỏ sắt của Xí nghiệp khai thác quặng sắt Nà Lũng
(Cao Bằng) bị vỡ, hàng nghìn khối bùn quánh đặc, đỏ ngầu, dày hơn 1m, chảy từ chân

đập, loang rộng, vùi lấp các cánh đồng, theo dòng suối tràn vào khu dân cư trùm lấp
vườn, ruộng và nhà ở của người dân xã Duyệt Trung. Ước tính ban đầu, khoảng 50 hộ
dân bị ảnh hưởng. Đó là do nguyên nhân các công trình xử lý nước tuyển rửa lạc hậu.
-

Công tác hoàn thổ, cải tạo, phục hồi môi trường sau khai thác còn chưa

được thực hiện tốt.
Việc hoàn thổ sau khi khai thác đối với các mỏ bauxite (cụ thể tại Tây Nguyên) chỉ
mang tính lý thuyết vì lý do kỹ thuật: lớp đất đá phủ bốc đi trước khi khai thác không giữ
lại được (chỉ trừ khi chúng ta tạo ra các bãi thải ở những nơi không có độ dốc và không
có nguy cơ trôi để đổ vào); việc hoàn thổ sau khi khai thác sẽ không có ý nghĩa nếu giữa
hai mùa mưa chưa phục hồi kịp tầng thực vật như trước khi khai thác. Những nơi khai
thác bauxite ở Tây Nguyên có độ dốc trên 25o nằm ở độ cao hàng nghìn mét so với mặt


nước biển lại có mùa mưa lũ cố định hàng năm, việc trôi lấp những lớp đất đá phủ bốc đi
trước khi khai thác và lớp đất hoàn thổ sau khi khai thác sẽ xảy ra trong các mùa mưa
thường xuyên hàng năm không thể ngăn chặn được.
-

Công tác tuyên truyền và thực hiện Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản

liên quan còn hạn chế
Pháp luật quy định mức phạt lên tới một tỷ đồng. Nếu tiếp tục vi phạm có thể phạt
nhiều lần và áp dụng các biện pháp khác. Công tác kiểm tra, xử phạt nghiêm minh là một
biện pháp hữu hiệu (tuy không phải là duy nhất) để tổ chức, cá nhân không dám coi
thường chính quyền, pháp luật. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận có tình trạng xuê xoa, nới
lỏng, kể cả tiêu cực nên DN nộp phạt lấy lệ rồi tiếp tục vi phạm.
Luật Khoáng sản, Luật Bảo vệ môi trường với những quy định cụ thể về trách

nhiệm bảo vệ môi trường (BVMT) của cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân tiến
hành hoạt động khoáng sản. Việc thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản phải có giấy
phép, có cam kết BVMT hoặc báo cáo đánh giá tác động môi trường, trong đó quy định
rõ quyền và trách nhiệm của các bên liên quan. Quy định là như vậy nhưng sau khi được
cấp phép, một số DN lại tìm mọi cách để giảm chi phí BVMT nhằm thu lợi tối đa. Cơ
quan quản lý chưa làm hết trách nhiệm trong việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm.
-

Ý thức chấp hành pháp luật của người dân và các doanh nghiệp còn yếu

kém.
Vấn đề này thể hiện ở điểm hiện nay các hộ gia đình, cá nhân xí nghiệp tự do khai
thác khoáng sản mà không có giấy phép, hoặc những xí nghiệp được cấp giấy phép
nhưng không chấp hành quy định pháp luật, gây ô nhiễm môi trường.
Trong quá trình khai thác khoáng sản, ít có doanh nghiệp (DN) thực hiện các biện
pháp bảo vệ môi trường, đa phần còn thiếu trách nhiệm đối với các yêu cầu về giảm thiểu
bụi, tiếng ồn, xử lý nước thải…
Luật Bảo vệ môi trường 2005 yêu cầu các dự án khai thác, chế biến khoảng sản
phải có báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), song việc lập báo cáo đối với
nhiều dự án không đảm bảo giá trị mà chỉ mang tính hình thức, hợp lý hóa các thủ tục
trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền.


V. CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Đổi mới quy trình, công cụ khai thác tiên tiến hiện đại ít tổn thất đến môi trường,
khuyến khích đầu tư cơ giới hóa trong thi công.
Giảm thiểu chất thải của các loại khoáng sản độc hại, khuyến khích quy trình công
nghệ có ít chất thải nhằm hạ thấp chi phí cải tạo lại môi trường.
Có các biện pháp cải tạo lại những vùng mỏ: thu gom, sử lý các loại chất thải của
những loại khoáng sản có nguy cơ gây ô nhiễm và thoái hóa môi trường đất. Khống chế

việc đưa chất thải trực tiếp vào môi trường, buộc sử lý chất thải và cô lập các chất thải
độc hại.
Trồng cây, gây lại rừng tại các vùng mỏ đã khai thác xong nhằm chống xói lở, bào
mòn tầng đất mặt.
Theo đó, các nhà khoa học tiến hành trồng thử nghiệm cỏ vetiver và dương xỉ
Pteris vittata, Pityrogramma calomelanos tại mỏ chì, kẽm làng Hích (huyện Đồng Hỷ),
mỏ thiếc Hà Thượng (huyện Đại Từ, Thái Nguyên). Kết quả kiểm tra cho thấy, sau khi
trồng khoảng 4 tháng, hàm lượng asen trong đất ở các mỏ này giảm rõ rệt. Kết quả trồng
đối chứng cũng cho thấy dương xỉ Pteris vittata có khả năng chống chịu với đất có hàm
lượng asen đến 1.500 ppm, chì đến 5.000 ppm. Cây sinh trưởng và tích lũy kim loại nặng
tốt nhất khi bổ sung phân bón vô cơ, hữu cơ và kim loại nặng trong đất sẽ được cây hấp
thụ, làm giảm nồng độ ô nhiễm. Đặc biệt, hàm lượng chì, kẽm, asen… trong đất ở độ sâu
đến 30cm được xử lý khá hiệu quả... Từ kết quả của 2 mô hình này, các nhà khoa học
đang đề xuất với Nhà nước và các đơn vị khai thác, chế biến quặng sớm triển khai việc
ứng dụng thực vật trong xử lý ô nhiễm môi trường đất. Đây là giải pháp thân thiện với
môi trường, thích hợp với điều kiện nước ta và rất khả thi khi chuyển giao công nghệ.
Đối với một số kim loại nặng như As, Zn, Pb có thể tiến hành trồng một số loại cây như:
+ As: Cây dương xỉ, cỏ màn trầu
+ Zn: cỏ vetiver và cỏ màn trầu
+ Pb: trồng liễu, lau sậy, cỏ vetiver hay cỏ màn trầu
Phải tiến hành khai thác nhanh, dứt điểm tại các vùng mỏ đã được quy hoạch khai
thác.


Hoàn thiện cơ sở pháp lý: hoạt động khoáng sản phải chịu sự chi phối của luật môi
trương, luật khoáng sản, luật tài nguyên đất, nước. Pháp lệnh bảo vệ tài nguyên rừng và
pháp lệnh về quản lý chất thải rắn. Giấy phép khai thác chỉ được cấp khi đã có báo cáo
đánh giá tác động môi trường đã được thông qua giám định. Trong báo cáo đánh giá tác
động môi trường của hoạt động khoáng sản yêu cầu phải có nội dung cải tạo môi trường
và hoàn thổ cụ thể; ngoài ra còn có chương trình quản lý và giám sát môi trường.

Giải pháp về giáo dục môi trường: Xây dựng quy trình, và ý thức môi trường
trong đội ngũ trực tiếp tiến hành khai thác . Giáo dục môi trường và huy động các chủ mỏ
tham gia một cách tự nguyện vào việc bảo vệ môi trường . Không ngừng nâng cao ý thức
trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cấp lãnh đạo và toàn bộ công nhân viên làm việc
trong mỏ đang khai thác vì lợi ích chung của cả khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.

“Đất và Môi Trường”, Lê Văn Khoa(chủ biên), Nguyễn Xuân Cự,

Lê Đức, Trần Khắc Hiệp, Trần Cẩm vân, Nxb Giáo Dục, 2000.
2.
Giáo trình “Tài Nguyên Khoáng Sản và Vấn Đề Năng Lượng”,
Phạm Văn Sang.
3.
“Hóa học môi trường”. Đặng Kim Chi.NXB khoa học và kỹ thuật
/> />ghuyenkhoangsannangluong.htm#I.3%29
/>s=c400bec2c40582fc73b6f203801ec4af
/>



×