CƠNG TRÌNH DỰ THI
“GIẢI THƯỞNG SINH VIÊN NGHIÊN CỨU
KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH 2010”
Tên cơng trình:
TÁC ĐỘNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN, TIỀM LỰC TÀI
CHÍNH VÀ GIA CẢNH CÁ NHÂN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH LỰA
CHỌN NGHỀ NGHIỆP: LÀM CHỦ HAY LÀM THUÊ
Họ và tên sinh viên:
Lê Thanh Hà
Nguyễn Đức Hùng
Ngô Quốc Thái
Trần Nhật Tuấn
Lớp: Kinh tế học 49
Năm thứ: 4/4
Trường: Đại học Kinh tế Quốc dân
Giáo viên hướng dẫn: T.S. Tô Trung Thành
HÀ NỘI, 2010
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KINH TẾ QUỐC DÂN
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------~--~-----------
**********************
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 2010
Kính gửi: Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Tên chúng tơi là: Lê Thanh Hà, sinh ngày 9 tháng 2 năm 1990,
Nguyễn Đức Hùng, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1989 (Trưởng nhóm)
Ngơ Quốc Thái, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1989
Trần Nhật Tuấn, sinh ngày 9 tháng 10 năm 1989
Chúng tôi là sinh viên năm thứ 4/4.
Tổng số năm đào tạo: 4
Lớp Kinh tế học 49
Ngành học: Kinh tế học
Khoa : Kinh tế học
Địa chỉ nhà riêng (Đức Hùng): Khu 3, Liên Kết, Hoàng Lâu, Tam Dương, Vĩnh Phúc.
Số điện thoại (cố định, di động) : 0975.838.015
Địa chỉ email:
Chúng tơi gửi cơng trình này cho VEPR để tham dự “Giải thưởng Sinh viên Nghiên cứu
Kinh tế và Chính sách 2010”.
Tên cơng trình: TÁC ĐỘNG CỦA TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN TIỀM LỰC TÀI CHÍNH
VÀ GIA CẢNH CÁ NHÂN ĐẾN QUYẾT ĐỊNH LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP: LÀM
CHỦ HAY LÀM THUÊ.
Chúng tôi xin cam đoan đây là cơng trình do chúng tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn của
tiến sỹ Tô Trung Thành, giảng viên khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân trong
năm học 2009-2010.
Nếu những thông tin trên khơng chính xác, tơi (chúng tơi) xin chịu trách nhiệm trước
Ban tổ chức cuộc thi.
Người gửi
Nguyễn Đức Hùng
2
Tóm tắt nghiên cứu
Doanh nghiệp tư nhân đã trở thành một lực lượng chính cho sự tăng trưởng kinh tế
nhanh và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Bên cạnh một số
lượng lớn doanh nghiệp hộ gia đình (trong khu vực khơng chính thức), đã có rất nhiều
doanh nghiệp đăng ký mới trong thập kỷ qua là kết quả của sự ra đời Luật Doanh
nghiệp trong năm 2000 và 2005. Theo đó, số doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới đã tăng
160.000 doanh nghiệp trong suốt giai đoạn 2000 – 2005 (Tô Trung Thành và công sự,
2009). Sự bùng nổ của những doanh nghiệp tư nhân đã hấp thụ số lượng lớn số người
thât nghiệp trong những thành phố lớn và những nông dân dư thừa ở khu vực nơng thơn,
do đó đã có những đóng góp tuyệt vời cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong những
năm qua (Perkins và cộng sự, 2008).
Nhận thức được tầm quan trọng của những doanh nghiệp nhỏ đối với tăng trưởng kinh
tế; chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích phát triển doanh
nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, vẫn có sự thiếu hụt những chính sách đồng bộ nhắm tới
những cá nhân đang phải đối mặt với sự lựa chọn việc trở thành doanh nhân (tự làm
chủ) hay trở thành người làm công ăn lương.
Bài nghiên cứu này của chúng tôi sử dụng bộ số liệu điều tra mức sống hộ gia đình
năm 2008 (VLSS 2008). Được tiến hành điều tra bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam
(GSO), dưới sự hỗ trợ kỹ thuật của Ngân hàng Thế giới (WB). Bao gồm 9189 hộ gia
đình với 38253 cá nhân được điều tra. Mơ hình logit được sử dụng để đánh giá sự tác
động của các yếu tố tới xác suất quyết định tự làm chủ của một cá nhân. Trong đó, tập
trung xem xét ảnh hưởng của ba nhân tố: trình độ học vấn, tiềm lực tài chính và gia
cảnh cá nhân. Chúng tơi sẽ làm rõ chiều hướng tác động và ảnh hưởng của các nhân tố
này.
Có thể thấy rằng: tổng số người trong gia đình khơng có ý nghĩa trong mơ hình
xác suất quyết định trở thành người làm thuê nhưng có ý nghĩa trong mơ hình tự làm
chủ và có tác động tích cực. Việc có vợ hoặc chồng cũng khơng ảnh hưởng tới quyết
định của cá nhân. Nhưng tình trạng nghề nghiệp, loại hình cơng việc của vợ hoặc chồng
lại có ảnh hưởng cụ thể: nếu vợ hoặc chồng là làm th thì tác động tích cực đến quyết
định làm thuê và làm giảm xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Nếu vợ hoặc
chồng tự kinh doanh thì sẽ có tác động tích cực, đáng kể và làm tăng xác suất quyết
định tự làm chủ. Tác động là ngược lại đối với khu vực làm thuê. Các biến vợ (chồng)
3
đang làm việc tuy khơng có ý nghĩa thống kê nhưng chúng cho ta thấy sự tác động tiêu
cực tới xác suất trở thành người làm thuê. Biến tài chính mà đại diện ở đây là giá trị nhà
sở hữu tác động tích cực, đáng kể và làm tăng xác suất trở thành người tự chủ kinh
doanh ngược lại với khu vực làm chủ. Trình độ học vấn hay cấp độ giáo dục cao không
phải là yếu tố quyết định nhất đối với một cá nhân trong việc đi đến quyết định tự chủ
kinh doanh. Với bộ số liệu chúng tơi có, được sử dụng trong bài nghiên cứu này. Trong
mơ hình phân tích, giáo dục (việc sở hữu bằng cấp cao) xuất hiện như là một yếu tố tác
động tiêu cực đến xác suất quyết định tự làm chủ (tự làm th cho chính mình) hay việc
đi đến quyết định khởi đầu một doanh nghiệp. Ngược lại, trình độ học vấn cao hơn lại
tác động mạnh mẽ, tích cực và làm đến xác suất cá nhân làm việc trong khu vực làm
cơng ăn lương.
Bài nghiên cứu vẫn cịn nhiều thiếu sót do hạn chế của bộ số liệu sử dụng trong bài
nghiên cứu. Bộ số liệu (VLSS 2008) được điều tra chung bao gồm những câu hỏi về
giáo dục, y tế, sức khỏe, đặc điểm nhân khẩu học, điều kiện kinh tế, hoạt động kinh tế,
cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, sản xuất nông nghiệp,…. Không phải là bộ số liệu
điều tra chuyên biệt và tốt nhất để phục vụ mục đích nghiên cứu của chúng tơi. Các biến
đại diện cho trình độ học vấn khá đầy đủ nhưng biến đại diện cho gia cảnh cá nhân cịn
thiếu. Ví dụ như biến số người phụ thuộc, vợ (chồng) sở hữu doanh nghiệp riêng,... Đặc
biệt các biến đại diện cho tiềm lực tài chính cịn q ít, mới chỉ dừng lại ở số lượng và
giá trị tài sản sở hữu. Các biến tiếp cận nguồn lực tài chính, thu nhập của vợ, đầu tư thu
nhập… Do hạn chế số liệu nên chưa thể đưa vào mơ hình. Điều này gây ra hạn chế
trong việc đánh giá sự tác động của tiềm lực tài chính tới quyết định của mỗi cá nhân.
Tiếp đó, là hạn chế của mơ hình nghiên cứu khi mơ hình sử dụng trong việc phân tích
tác động của các yếu tố đến xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Khi chúng tôi
chỉ sử dụng mơ hình logit để đánh giá xác suất tác động của các nhân tố. Điều này, một
phần cũng do thời gian khơng cho phép. Cũng phải nói đến sự hạn chế về trình độ
nghiên cứu, cụ thể trong quá trình sử lý số liệu và biến cho từng lĩnh vực xem xét còn
nhiều biến chưa được xem xét và nhiều biến đưa vào mơ hình gây ra các khuyết tật của
ước lượng. Do vậy phải đưa ra khỏi mơ hình.
Tuy nhiên, bài nghiên cứu đã giải thích được chiều hướng tác động của các biến tới
quyết định lựa chọn của mỗi cá nhân mà trong bài nghiên cứu chúng tơi đã tập trung
vào ba nhóm nhân tố: Trình độ học vấn, tiềm lực tài chính và gia cảnh cá nhân. Kết quả
4
phát hiện phù hợp với mục đích nghiên cứu cũng như trong điều kiện thực tế tại Việt
Nam. Mặt khác, bộ số liệu (VLSS 2008) lần đầu tiên được chúng tơi sử dụng cho mục
đích nghiên cứu về chủ đề này. Trước đó, khơng có nhiều nghiên cứu về các yếu tố
quyết định đến sự lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân ở Việt Nam. Có ý nghĩa như là kim
chỉ nam, tài liệu hướng dẫn cho mỗi cá nhân khi quyết định tự làm chủ (làm th cho
chính mình) hay khởi đầu một doanh nghiệp. Bài nghiên cứu của chúng tơi phần nào bổ
xung những thiếu sót này.
5
MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ........................................................................... 9
1.1. Lý do nghiên cứu ................................................................................................ 9
1.2 Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................... 10
1.2.1 Mục tiêu tổng quát ....................................................................................... 10
1.2.2 Mục tiêu cụ thể ............................................................................................ 11
1.3 Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và số liệu.................................... 11
1.3.1 Phương pháp luận ........................................................................................ 11
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu. .................................................................................... 12
1.3.3 Số liệu ......................................................................................................... 12
1.3.4 Biến ............................................................................................................. 12
1.3.5 Cấu trúc của bài nghiên cứu ......................................................................... 13
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU
TRƯỚC...................................................................................................................... 14
2.1. Tiềm lực tài chính ............................................................................................ 16
2.2. Hồn cảnh gia đình .......................................................................................... 18
2.3. Giáo dục .......................................................................................................... 19
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG, DOANH NGHIỆP VÀ
MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VIỆT NAM. ......................................................... 29
3.1. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM ........................................................ 29
3.2. DOANH NGHIỆP VIỆT NAM ........................................................................ 34
3.3. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH ....................................................................... 40
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP LUẬN, PHÂN TÍCH SỐ LIỆU VÀ KẾT QUẢ THỰC
NGHIỆM .................................................................................................................... 45
4.1. Phương pháp luận ............................................................................................ 45
4.2 . Số liệu .............................................................................................................. 46
4.3. Biến ................................................................................................................. 46
4.4. Phân tích số liệu ............................................................................................... 47
4.5 . Kết quả phân tích thực nghiệm ......................................................................... 49
4.5.1. Gia cảnh cá nhân: ...................................................................................... 50
4.5.2. Tài chính: .................................................................................................. 51
6
4.5.3. Trình độ học vấn ......................................................................................... 55
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ............................ 58
1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu ................................................................................ 58
2. Khuyến nghị chính sách ..................................................................................... 59
3. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo .............................................. 59
3.1
Hạn chế ...................................................................................................... 59
3.2
Hướng nghiên cứu tiếp theo ........................................................................ 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 62
7
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1: Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước................................................................... 24
Bảng 2: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm ................... 30
Bảng 3 : Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm .................. 31
Bảng 4: Cơ cấu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo ngành kinh tế ....................................................................................................... 32
Bảng 5 : Tỉ lệ lao động có việc làm phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật phân chia
theo khu vực ......................................................................................................................... 33
Bảng 6: Tỉ trọng lao động trong nền kinh tế Việt Nam qua các năm: .............................. 34
Bảng 7 : Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô vốn đến 31/12/2007 ........................ 35
Bảng 8: Số lượng doanh nghiệp phân theo quy mô lao động đến 31/12/2007........................ 35
Bảng 9: Số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh sản xuất tại thời điểm 31/12 hàng năm:
............................................................................................................................................... 35
Bảng 10: Đóng góp vào GDP (tính theo %) của các khu vực: .......................................... 37
Bảng 11: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
(theo %): ............................................................................................................................... 37
Bảng 12: Thu nhập lao động theo thành phần sở hữu (đơn vị: triệu đồng) ...................... 38
Bảng 13: Cơ cấu vốn đầu tư và GDP theo thành phần kinh tế:......................................... 39
Bảng 14: Xếp hạng báo cáo môi trường kinh doanh của WB 2008 và (2009)........................ 40
Bảng 15: Thống kê số liệu hồi quy. .................................................................................... 49
Bảng 16: Kết quả hồi quy biến phụ thuộc = 1 nếu làm chủ doanh nghiệp trong khu vực
tư nhân .................................................................................................................................. 52
Bảng 17: Kết quả hồi quy biến phụ thuộc = 1 nếu làm thuê trong khu vực tư nhân…....53
8
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1.
Lý do nghiên cứu
Doanh nghiệp tư nhân đã trở thành một lực lượng chính cho sự tăng trưởng kinh
tế nhanh và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian gần đây. Bên cạnh một số
lượng lớn doanh nghiệp hộ gia đình (trong khu vực khơng chính thức), rất nhiều doanh
nghiệp đăng ký mới trong thập kỷ qua là kết quả của sự ra đời Luật Doanh nghiệp trong
năm 2000 và 2005. Theo đó, số doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới đã tăng 160.000
doanh nghiệp trong suốt giai đoạn 2000 – 2005 (Tô Trung Thành và cộng sự, 2009). Sự
bùng nổ của những doanh nghiệp tư nhân đã hấp thụ số lượng lớn số người thât nghiệp
trong những thành phố lớn và những nông dân dư thừa ở khu vực nông thôn, do đó đã
có những đóng góp tuyệt vời cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua
(Perkins và cộng sự, 2008).
Nhận thức được tầm quan trọng của những doanh nghiệp nhỏ đối với tăng trưởng
kinh tế; chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích phát triển doanh
nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, vẫn có sự thiếu hụt những chính sách đồng bộ nhắm tới
những cá nhân đang phải đối mặt với sự lựa chọn việc trở thành doanh nhân (tự làm
chủ) hay trở thành người làm công ăn lương.
Những yếu tố quyết định sự lựa chọn nghề nghiệp giữa việc tự làm chủ và làm
thuê được đề cập nhiều trong lý thuyết nghiên cứu. Thành tựu giáo dục và các kênh
truyền dẫn mà thành tựu giáo dục tác động đến xác suất trở thành doanh nhân, được đề
cập nhiều trong những nghên cứu như Evans và Jovanovic (1989), De Wit (1993),
Bernhardt (1994) và Lee (1999). Kinh nghiệm thị trường, tuổi tác thái độ đối với rủi ro,
trạng thái hơn nhân, qui mơ hộ gia đình, đặc điểm hộ gia đình và quá trình đào tạo…
những nhân tố khác có tác động đến sự chọn lựa nghề nghiệp vủa cá nhân (Rees và
Shah (1986), Dewit (1993), và Lee (1999)). Một số nhân tố như là nhóm dân tộc, tơn
giáo, nhóm nhân tố nhập cư, cá nhân là người nhập cư hay người địa phương cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc chọn lựa nghề nghiệp (Borjas và Bronars, 1989). Ngồi ra,
khơng chỉ những nhân tố về vốn con người, biến vốn tài chính cũng là những nhân tố
được phân tích trong nhiều lý thuyết việc làm, bao gồm Kidd (1993), Bernhardt (1994),
Blanchower và Oswald (1998) và Constant và Zimmermann (2006).
9
Đề tài này không chỉ nghiên cứu trong lý thuyết, mà cịn nghiên cứu thực nghiệm,
đã có rất nhiều nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, hầu hết các công việc là những
vấn đề tự làm chủ công việc của dân cư trong các quốc gia phát triển như Rees and Shah
(1986), Borjas and Bronars (1989), Evans and Leighton (1989), Constant and
Zimmermann (2006). Trong khi đó, lĩnh vực này vẫn còn đang được nghiên cứu ở các
quốc đang phát triển nói chung và đặc biệt là ở Việt Nam.
Hiện thiếu hụt nghiêm trọng các nghiên cứu về những nhân tố đằng sau sự lựa
chọn kinh doanh ở Việt Nam. Nghiên cứu của Vijverberg và Haughton (2002) là một
trong những nghiên cứu hiếm hoi về chủ đề này, nhưng các tác giả tập trung vào sự tồn
tại và tăng trưởng của những doanh nghiệp hộ gia đình, cịn những nhà lãnh đạo doanh
nghiệp hoặc các doanh nhân không phải là trung tâm trong những nghiên cứu của họ.
Do đó, các yếu tố quan trọng đằng sau sự quyết định tự kinh doanh hay là làm công ăn
lương chỉ được thảo luận vắn tắt trong những nghiên cứu này. Sự thiếu sót trong những
nghiên cứu thực nghiệm này ở Việt Nam đã dẫn đến sự thiếu kiến thức về sự chọn lựa
của các cá nhân để trở thành doanh nhân và do đó chính sách hướng tới doanh nhân ở
Việt Nam đã bỏ lỡ một khía cạnh quan trọng cho sự phát triển của doanh nghiệp tư
nhân. Có kiến thức tốt về những yếu tố quyết định tới sự lựa chọn của các cá nhân này,
các nhà chức trách có thể cung cấp thơng tin phù hợp hơn, có sức thuyết phục và tập
trung hỗ trợ cho những doanh nhân tiềm năng thực sự và do đó tạo ra nhiều cơ hội hơn
cho họ để thành công trong kinh doanh.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Xác định vai trò quan trọng của khu vực việc làm tự chủ (self-employment) và khu
vực doanh nghiệp trong thị trường lao động tại Việt Nam, nghiên cứu này cố gắng bổ
sung những khoảng trống nghiêm trọng bằng việc nghiên cứu thực nghiệm và tập trung
vào những yếu tố quyết định sự lựa chọn nghề nghiệp của những cá nhân giữa sự tự chủ
việc làm hay doanh nhân với người làm công ăn lương. Kết quả của nghiên cứu này có
thể sẽ rất hữu ích và quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách để thực hiện và đưa
ra những chính sách phù hợp cho sự phát triển doanh nghiệp và doanh nhân.
10
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu tổng quát ở trên, đề tài nghiên cứu này sẽ hướng vào các mục tiêu cụ
thể sau:
-
Đánh giá chung các doanh nghiệp tư nhân và thị trường lao động Việt Nam,
-
Tìm hiều và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn nghề nghiệp của các cá
nhân giữa việc trở thành doanh nhân và đi làm thuê,
-
Những yếu tố nào là quan trọng nhất tác động đến lựa chọn nghề nghiệp, và có mối
liên hệ gì đến mơi trường kinh doanh mà chính phủ xác lập,
-
Dựa trên các kết quả nghiên cứu để đề xuất các khuyến nghị chính sách nhằm tạo
điều kiện thuận lợi ban đầu cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển.
1.3 Phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và số liệu
1.3.1 Phương pháp luận
Xem xét hành vi sự lựa chọn giải thích cho việc quyết định việc làm trong thị trường
lao động tại Việt Nam để trở thành một doanh nhân. Và để đánh giá những yếu tố tác
động đến xác suất quyết định lựa chọn tự làm chủ (làm th cho chính mình) hoặc làm
th (làm cơng ăn lương) thì mơ hình logit như của Hout M. và Rosen H. (2000) được
sử dụng.
Hàm Logit sau được sử dụng :
P
Ln( i ) Zi 1 2C2i 3 E3i 4 F4i 5 Hi
1 pi
Trong đó, biến phụ thuộc: SEi (SE = 1, nếu cá nhân quyết định tự làm chủ; SE = 0,
nếu cá nhân quyết định làm công ăn lương). Nhóm các biến điều chỉnh trong mơ hình
(C); nhóm các biến đại diện cho trình độ học vấn (E); nhóm các biến đại diện cho tiềm
lực tài chính (F); và nhóm biến đại diện cho gia cảnh cá nhân (H).
11
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu.
Để có được kết quả ước lượng thuyêt phục nhất, chúng tôi sẽ cố gắng để thiết lập các
mẫu là thuần nhất có thể. Vì vậy, chúng tôi tập trung vào hành vi tiền lương nhân viên
toàn thời gian hoặc doanh nhân trong tất cả các khu vực đô thị, và do vậy loại trừ thu
nhập từ tiền lương bán thời gian, cá nhân trong những khu vực nông thôn hoặc hoạt
động trong nông nghiệp. Trên cơ sở mẫu đó, nghiên cứu sẽ tập trung vào hành vi của
những cá nhân trong khu vực thành thị trong việc quyết định trở thành người làm công
ăn lương (hưởng tiền lương toàn thời gian) hay là một doanh nhân (kinh doanh tự chủ).
1.3.3 Số liệu
Nguồn dữ liệu chính cho nghiên cứu này là cuộc khảo sát mức sống chuẩn hộ gia đình
Việt Nam (VHLSS) tiến hành năm 2008 bởi tổng cục thống kê (GSO) với sự hỗ trợ kỹ
thuật bởi Ngân hàng Thế Giới (WB). VHLSS bao gồm mẫu đại diện là 9189 hộ gia đình
tại tám khu vực địa lý của đất nước. Khảo sát này bao gồm một loạt các cá nhân và
thuộc tính của các hộ gia đình như tuổi tác, giáo dục, tình trạng việc làm, ngề nghiệp, y
tế, thu nhập và chi tiêu, tiết kiệm, nhà ở, tiếp cận với các dịch vụ cơng,... cũng như các
đặc tính vật lý và nhân khẩu học cơ bản, hoạt động kinh tế, cơ sở hạ tầng,… ở mức độ
chung. Giữ liệu lấy từ cuộc khảo sát này thực sự là đầy đủ và rất hữu ích cho việc phân
tích ước lượng.
1.3.4 Biến
Những biến được sử dụng trong nghiên cứu này được chọn dựa trên các đề xuất từ
các nghiên cứu tổng quan như Bernhardt (1994), Evans và Jovanovic (1989), và
Blanch_ower và Oswald (1998), Hout M. và Rosen H. (2000) và các dữ liệu có sẵn
trong nguồn mà chúng tơi lựa chọn.
Các biến này có thể là cấp độ học vấn, kinh nghiệm làm việc trong thị trường lao
động, vị trí, hoạt động kinh tế, trạng thái hôn nhân, số lượng và độ tuổi của trẻ em, giới
tính, các nguồn tài chính (sở hữu nhà, những thu nhập từ lương, những thu nhập từ vốn,
và thu nhập khác).
12
1.3.5 Cấu trúc của bài nghiên cứu
Cấu trúc của bài nghiên cứu theo như 7 chương sau:
Chương 1: Chương này sẽ cung cấp những lý do cho việc nghiên cứu. chương này
cũng đề cập đến mục tiêu, phạm vi của bài nghiên cứu và mô tả ngắn gọn phương pháp
luận và dữ liệu cho nghiên cứu. Một vài giả thuyết cũng sẽ được đề cập đến.
Chương 2: Chương này sẽ cung cấp hình ảnh về thị trường lao động Việt Nam, cả
trong lĩnh vực tiền lương nhân viên và trong khu vực tự kinh doanh và khu vực doanh
nghiệp. Chương này cũng sẽ cung cấp bối cảnh chung cho các nghiên cứu.
Chương 3: Lý thuyết và nhận xét phân tích thực nghiệm sẽ được đề cập đến trong
chương này. Việc xem xét sẽ kiểm tra những thiếu sót trong lý thuyết và phân tích thực
nghiệm sẽ được bổ xung trong nghiên cứu này. Ngoài ra, chương cũng khuyến cáo một
số kỹ thuật, phương pháp luận và các biến ứng dụng trong nghiên cứu này.
Chương 4: Chương này được dành cho mô tả cẩn thận phương pháp luận, dữ liệu,
biến đo lường cụ thể cho việc phân tích và kết quả ước lượng.
Chương 5: Chương này trình bày tóm tắt các kết quả ước lượng và khuyến nghị chính
sách. Cuối cùng, các hạn chế của đề tài sẽ được nêu ra và phân tích kỹ lưỡng, đi kèm
với hướng nghiên cứu đề xuất trong tương lai.
13
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Sự thiếu hụt nghiên cứu về đề tài này ở Việt Nam cũng là nguyên nhân khiến các
tác giả thực hiện bài nghiên cứu. Đa phần các nghiên cứu mới được thực hiện ở các
nước phát triển, như của Rees và Shah (1986), Blanchflower và Oswald (1990) hay Le
(1999) về Liên hiệp Anh; Evans và Jovanovic (1989) nghiên cứu về Mỹ; Evans (1989)
và sau đó là Kidd (1993) ở Australia; de Wit và Van Winden (1993) ở Hà Lan;
Bernhardt (1994) tại Canada, Constant và Zimmermann (2006) về Đức. Trong khi đó,
lĩnh vực này vẫn cịn đang được nghiên cứu ở các quốc đang phát triển nói chung và đặc
biệt là ở Việt Nam. Khơng có nhiều các nghiên cứu tương tự tại các nước đang phát
triển, mà trong số ít này có Cunningham và Maloney (1999) về Mexico, Earle and
Sakova (2000) về các nền kinh tế chuyển đổi hay của Destré và V. Henrard (2004) về
Colombia, Tamvada (2010) về Ấn Độ. Nghiên cứu bởi Vijverberg và Haughton (2002)
hay của Trang Do và Duchêne (2007) là hai bài viết hiếm hoi về chủ đề này ở Việt
Nam. Sau đây, chúng ta sẽ cùng điểm lại các nghiên cứu trước để xem những vấn đề gì
đã được giải quyết và nghiên cứu của chúng tơi có thể lấp khoảng trống học thuật nào.
Điểm qua một số lý thuyết về tự kinh doanh thì nhiều nghiên cứu xem xét sự khác
nhau trong thái độ với rủi ro là nhân tố tác động chính đến quyết định lựa chọn này.
Hamilton (1995) cho rằng việc tự kinh doanh vốn đã mang nhiều rủi ro hơn là làm thuê,
vì vậy mà người ghét rủi ro sẽ tránh tự đứng ra kinh doanh. Phái tân cổ điển lại chỉ ra
rằng di dân là nhóm người dám chấp nhận rủi ro để cải thiện thu nhập và cuộc sống của
mình nên họ có nhiều khả năng tự làm chủ hơn các nhóm dân số khác. Một hướng tiếp
cận khác là tập trung vào sự khác biệt trong khả năng quản trị doanh nghiệp, như
Jovanovic (1982) nhận định người có kỹ năng quản lý – lợi thế tương đối để điều hành
doanh nghiệp– có khuynh hướng mở doanh nghiệp từ khi bắt đầu sự nghiệp và cũng tồn
tại được lâu hơn trong thương trường. Lý thuyết thứ ba nhấn mạnh vai trị của khả năng
tài chính (Evans và Jovanovic, 1989), cho rằng việc thành lập và vận hành doanh nghiệp
cần phải có đủ vốn, mà do nhiều lí do, không phải ai cũng dễ dàng tiếp cận được.
Lý thuyết về những yếu tố quyết định sự lựa chọn và tiến hành kinh doanh đã
được kiểm định trong thực tế. Phương pháp được sử dụng nhiều nhất là hồi quy mơ hình
14
probit dạng cấu trúc và rút gọn (như của Ree và Shah, 1986 hay Bernhardt,1994) để tính
tốn xác suất quyết định tự làm chủ của cá nhân. Cách làm này dựa trên giả định cá
nhân sẽ tối đa hóa lợi ích của mình qua việc lựa chọn cơng việc có thu nhập kỳ vọng
cao hơn trong tương quan với chi phí cơ hội, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều
nhân tố khác như trình độ giáo dục, sự tiếp cận nguồn vốn, điều kiện kinh tế, hồn cảnh
gia đình, thái độ đối với rủi ro, kinh nghiệm trên thị trường lao động, ...
Cá nhân (i) sẽ lựa chọn tự kinh doanh nếu mơ hình probit cấu trúc sau được thỏa
mãn:
Prob (Uei − Uwi > 0) = Prob (M> 0) = Prob [α1 + α2(lnYei − lnYwi) + α3lnCi + εi > 0]
với lnYei = Ziγe + εei, lnYwi = Ziγw + εwi (Zi là vec-tơ các biến mang thông tin cá nhân).
Viết lại thì được cơng thức probit dạng rút gọn:
Prob (M > 0) = Prob (Xiβ + ε0i > 0).
Le (1999) hay Destrés và Henrad (2004) đều thấy rằng các giá trị ước lượng của
mơ hình cấu trúc và mơ hình rút gọn là tương đương nhau, vì vậy mơ hình rút gọn cho
ước lượng đáng tin cậy. Tuy nhiên, cách làm trên vướng phải thực tế hiển nhiên rằng
các mức thu nhập kỳ vọng không thể quan sát được mà chỉ có số liệu về thu nhập trong
trạng thái việc làm hiện tại. Parker (2003), Constant và Zimmerman (2006) đề nghị
dùng mơ hình hai thời kỳ của Heckman (1979) để ước lượng các mức thu nhập kỳ vọng
này:
E(lnYei|Zi, M> 0) = λeZi + πeδei +εei
E(lnYwi|Zi,M< 0) = λwZi + πwδwi +εwi
Destrés và Henrad (2004) trên cơ sở đó đã gợi ý sử dụng cơng thức của Thomas
(2000) khi mà hàm phân phối bị gián đoạn. Các vấn đề liên quan đến chi tiết kỹ thuật
của mơ hình sẽ được thảo luận kỹ hơn ở chương 4. Các nghiên cứu sau đã phát triển quá
trình thực hiện thành kỹ thuật 3 bước, gồm (1): hồi quy mơ hình probit rút gọn về hành
vi lựa chọn của cá nhân, sau đó (2): hồi quy ước lượng thu nhập kỳ vọng của mỗi cá
nhân (dùng mơ hình 2 thời kỳ của Heckman, 1979) và (3): sử dụng các giá trị ước lượng
này để hồi quy mơ hình probit cấu trúc.
Hầu hết các nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ giữa tiềm lực tài chính và gia
cảnh cá nhân có ảnh hưởng tích cực tới thiên hướng kinh doanh, nhưng ảnh hưởng của
15
giáo dục tới xu hướng quyết định lựa chọn tự làm chủ hay việc làm lương lại không rõ
ràng.
2.1. Tiềm lực tài chính
Liệu cá nhân phải tự cấp vốn cho cơng việc kinh doanh của mình (self-finance)
hay thị trường sẽ cấp vốn là câu hỏi còn bỏ ngỏ. Frank Knight (1921), như Evans và
Jovanovic (1989) đã dẫn, cho rằng thị trường vốn cung cấp không đủ vốn cho các cá
nhân tự đứng ra kinh doanh do lo ngại rủi ro đạo đức cũng như lựa chọn ngược, chính vì
vậy, cá nhân phải tự huy động vốn và tự chịu rủi ro khi công việc kinh doanh gặp bất
trắc. Trong khi đó, Schumpeter (1934, 1950) , lại cho rằng doanh nhân chỉ phải tìm ra
các cơ hội tìm kiếm lợi nhuận và đẩy rủi ro sang phía nhà tư bản nào sẵn sàng cấp vốn
cho họ kinh doanh.
Các nghiên cứu tiêu biểu xem xét tiềm lực tài chính như là yếu tố quyết định đến
lựa chọn nghề nghiệp của cá nhân (theo lý luận của Knight) có thể kể ra như của Evans
và Jovanovic (1989), Bernhardt (1994), Blanchflower và Oswald (1998), hay Destrés và
Henrad (2004), rồi Constant và Zimmermann (2006). Sử dụng các cách tiếp cận khác
nhau, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng ràng buộc thanh khoản có vai trị quan trọng, nó
vừa là tiền đề để các doanh nhân khởi nghiệp nhưng cũng trở thành rào cản cá nhân tự
đứng ra kinh doanh.
Evans và Jovanovic (1989) khi nghiên cứu mẫu gồm 1839 nam giới da trắng ở Mỹ
đã nhận thấy có mối tương quan dương giữa xác suất tự làm chủ với số tài sản sở hữu
khi và chỉ khi có sự hạn chế về vốn: người có nhiều tài sản hơn có thể khởi nghiệp với
mức vốn ban đầu hiệu quả hơn và đạt thu nhập cao hơn, còn người nghèo hơn phải
dành nhiều hơn trong phần tài sản đã có cho cơng việc kinh doanh của mình. Tuy nhiên
mối tương quan này giảm dần theo thời gian, khi các doanh nghiệp lớn mạnh hơn. Một
điều đáng chú ý khác là các doanh nghiệp nhỏ hơn, đối mặt với ràng buộc thanh khoản
chặt hơn thì lại có xu hướng phát triển ở tốc độ nhanh hơn, trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi. Các tác giả cũng nhận thấy rằng việc chỉ lựa chọn một nửa trong tổng
số quan sát để hồi quy, đi kèm với mô hình tĩnh giản đơn về ràng buộc thanh khoản là 2
hạn chế trong bài nghiên cứu này và đề xuất thực hiện mơ hình có thêm nhiều biến
mang đặc điểm cá nhân hơn để kiểm soát các yếu tố này.
16
Bernhardt (1994) sử dụng mơ hình probit rút gọn và cấu trúc như Rees và
Shah(1986) hay Borjas và Bronars (1989) khi nghiên cứu mẫu của Canada cũng cho các
kết luận đáng lưu ý. Tác giả sử dụng 3 biến giải thích để phản ánh khả năng tài chính
của một cá nhân: biến giả phản ánh thu nhập của vợ (=1 nếu vợ có việc làm), biến giả
phản ánh sở hữu tài sản cố định (=1 nếu đang sở hữu ngôi nhà đang ở) và biến thu nhập
từ đầu tư. Việc sở hữu tài sản có giá trị như ngơi nhà và vợ có việc làm hưởng lương
một mặt giảm thiểu rủi ro do sự dao động trong thu nhập từ việc kinh doanh, mặt khác
cải thiện khả năng huy động vốn. Holtz-Eakin, Joulfaian và Rosen (1994) ví von thu
nhập của người vợ có vai trị như “tấm lưới an tồn” cho cơng việc có tính rủi ro cao
của người chồng. Kết quả hồi quy cho thấy các biến đều có ý nghĩa thống kê cao.
Destrés và Henrad (2004) khi áp dụng mơ hình tương tự cho Colombia thì chỉ có biến
thu nhập từ vốn khơng có ý nghĩa, do trong thống kê, giá trị của biến này trong 2 mẫu
quan sát không khác nhau nhiều trong khi ở mẫu Canada, sự chênh lệch là 3,61 lần.
Constant và Zimmermann (2006) khi nghiên cứu động lực đằng sau quyết định tự kinh
doanh của 2 nhóm dân số là di dân và bản địa ở Đức đều thấy các biến như sở hữu nhà
và sự quan ngại về tài chính dường như gia tăng khả năng trở thành doanh nhân của cả 2
nhóm. Với người đàn ơng đã kết hơn thì xác suất làm chủ doanh nghiệp cũng tăng lên,
song khi có con thì lại giảm đi do trách nhiệm phải có thu nhập ổn định để ni cả gia
đình tăng lên.
Blanchflower và Oswald (1998) thì tiếp cận khả năng tài chính ở góc độ khoản thừa
kế hay quà biếu mà cá nhân được hưởng. Nhận thấy các nghiên cứu trước của Evans và
các cộng sự bỏ ngỏ khả năng ràng buộc tài chính cịn phụ thuộc vào các yếu tố khác, hai
tác giả lập luận việc được thừa hưởng tài sản do người khác để lại cũng giúp cá nhân
khởi nghiệp kinh doanh của mình. Như vậy, kể cả khi khơng bị ràng buộc trong vấn đề
tài chính, vẫn có tương quan giữa tài sản sở hữu với xu hướng tự làm chủ của cá nhân.
Việc được thừa hưởng sản nghiệp của gia đình cũng có thể dùng để giải thích mối tương
quan này. Hai tác giả đi vào nghiên cứu tác động của việc thừa kế lên khả năng tự kinh
doanh giữa các nhóm tuổi và đi đến kết luận rằng việc được nhận thừa kế có ảnh hưởng
tích cực lên xác suất tự đứng ra kinh doanh của một cá nhân điển hình khi các yếu tố
khác khơng đổi.
17
2.2. Hồn cảnh gia đình
Nhân tố thứ hai tác động tới quyết định lựa chọn làm thuê hay doanh nhân là đặc
điểm gia đình. Tình trạng hơn nhân, số trẻ em phụ thuộc hay cơng việc của vợ/chồng là
những khía cạnh chính được xem xét đối với nhân tố này. Rees và Shah (1986) sử dụng
số liệu từ General Household Survey 1978 với 11794 hộ gia đình và 4762 chủ hộ, áp
dụng mơ hình probit để xác định chênh lệch thu nhập kỳ vọng giữa làm thuê và làm
chủ với giả định cá nhân sẽ lựa chọn công việc đem lại thu nhập cao hơn. Rhe và Sha
cho rằng một người đã có gia đình sẵn sàng chấp nhận rủi ro hơn so với người chưa có
gia đình. Đồng thời sự ủng hộ của gia đình có thể làm giảm đi những địi hỏi khó khăn
của lựa chọn là doanh nhân hơn là chưa có gia đình.
Khơng nhằm mục đích làm rõ sự khác biệt giữa hai lựa chọn (doanh nhân hay làm
thuê), Christopher Dawson, Andrew Henley và Paul Latreille (2009) tìm hiểu mối quan
hệ của lựa chọn doanh nhân với các động cơ dẫn tới lựa chọn đó, đồng thời xem xét tác
động của yếu tố nền, nhân khẩu học của một cá nhân tới quyết định tự làm chủ. Bộ số
liệu sử dụng được lấy từ United Kingdom Quarterly Labour Force Survey từ 1999 đến
2001, thực hiện với gần 59000 hộ và 138000 cá nhân trong mỗi lần. Quy mô số liệu lớn
cung cấp cho các tác giả mẫu quan sát lớn, và thuận lợi cho việc phân tích các nhóm
quan sát đặc biệt. Với kết quả điều tra từ các bảng hỏi chi tiết, các tác giả sử dụng mơ
hình ước lượng của Satori (2003) để thực hiện các kiểm định. Kết quả cho thấy, việc có
trẻ phụ thuộc làm tăng xác suất lựa chọn doanh nhân. Cách giải thích chính xác cho mối
quan hệ này thật sự khơng rõ ràng, nhưng có thể hiểu lựa chọn tự làm chủ trong trường
hợp này nhằm hướng đến một thời gian làm việc linh hoạt hơn. Khơng có thống kê có ý
nghĩa nào chỉ ra mối quan hệ giữa tình trạng hơn nhân và lựa chọn làm doanh nhân,
nhưng các hệ số là đáng tin cậy: tiêu cực đối với người có gia đình và tích cực đối với
người đã từng kết hơn (kể cả đã ở góa hay đã ly dị) và những người chưa kết hôn. Kết
quả này trái ngược hẳn với Rees và Shah (1986) như nói ở trên.
Nếu trong hai nghiên cứu trên, đặc điểm gia đình chỉ là một phần trong phân tích
tác động thì Hout M. and Rosen H.(2000) lại xem đó như là vấn đề trung tâm để phân
tích. Sử dụng số liệu của General Social Survey (University of Chicago), từ 1973 đến
1996, mẫu quan sát chỉ bao gồm nam từ 25 đến 64 tuổi, làm việc ngồi khu vực nơng
nghiệp và có trên 15 giờ lao động 1 tuần. Mơ hình logit được sử dụng cho phân tích. Kết
quả cho thấy, nếu cha là một doanh nhân thì khả năng người con là doanh nhân cao hơn.
18
Ảnh hưởng của cỡ hộ là không đáng kể, khi cỡ hộ lớn hơn sẽ làm giảm xác suất trở
thành doanh nhân. Tương tự với cấu trúc gia đình, ảnh hưởng là không đáng kể, tuy
nhiên cá nhân cá nhân sống thiếu cả cha và mẹ thì xác suất làm chủ thấp hơn (tương tư
với ý kiến của Rhe và Sha về sự ủng hộ của gia đình). Tương tự, việc thử đưa thêm biến
có con nhỏ cũng khơng ảnh hưởng nhiều đến xác suất. Người độc thân có xác suất thành
doanh nhân thấp hơn cả. Tuy nhiên, đàn ông đã từng cưới – bất kể tình trạng hơn nhân
bây giờ ra sao – lại có khả năng làm chủ doanh nghiệp cao hơn.
Qua một số nghiên cứu ta thấy rằng, tác động của mỗi nhân tố lại khác nhau với
mỗi nghiên cứu. Trong khi Rees và Shah cho rằng có gia đình ảnh hưởng tích cực đến
việc trở thành doanh nhân thì Henley và đồng nghiệp lại có ý kiến trái ngược, với kết
luận của Hout M và Rosen H thì ảnh hưởng của tình trạng hơn nhân lại khơng rõ ràng.
Sự sai khác đó có thể do chọn mẫu hay phương pháp khác nhau. Để có một đánh giá
chính xác cho Việt Nam, chúng ta cần phải xem xét cụ thể.
2.3. Giáo dục
a. Giáo dục có tác động tích cực đáng kể tới người làm th (employee), nhưng
khơng ảnh hưởng nhiều tới quyết định tự làm chủ (self-employment) như nghiên cứu
của Carolona Castagnetti, Francesco Chelli và Luisa Rosti (2008). Bài nghiên cứu nhấn
mạnh vai trò của giáo dục ảnh hưởng tới thu nhập cá nhân quết định tự làm chủ. Tác giả
xây dựng hàm hiệu suất giáo dục gồm các biến kết quả học tập cuối kỳ và thời gian mà
sinh viên hoàn thành sự nghiệp học tập. Cũng như các bài nghiên cứu trước tác giả tiến
hành hồi quy hàm thu nhập đối với người làm thuê tồn thời gian và người làm chủ
bằng việc kiểm sốt lựa chọn của cá nhân. Các tác giả ước tính mơ hình lựa chọn mẫu
bằng phương pháp 2 bước của Heckman (1979) tiến hành kiểm tra lại kết quả ước lượng
bằng mơ hình probit với biến nhị phân - nếu cá nhân có mức lương cao trong 2 trạng
thái nghề nghiệp. Cuối cùng kết quả được chỉ ra giáo dục có tác động khơng đáng kể
vào khu vực làm chủ nhưng có tác động đáng kể vào khu vực làm thuê.
b. Giáo dục có tác động đáng kể đến quyết định tự làm chủ doanh nghiệp
Nghiên cứu của Alba-Ramirez và San Segundo (1995) cung cấp kết quả ước lượng
mơ hình với số liệu ở Tây Ban Nha. Giáo dục được xét là số năm giáo dục và bằng cấp
giáo dục cao nhất đạt được. Kết quả cho thấy tác động của giáo dục đại học là đáng kể
và cao hơn đối với cá nhân quyết định tự làm chủ doanh nghiệp. Cho kết quả khác biệt
19
hơn, nghiên cứu của Garcia-Mainar và Montuenga-Gosmez (2005) hỗ trợ tiếp kết quả
nghiên cứu về Tây Ban Nha. Ảnh hưởng trở lại cấp giáo dục cao hơn là thấp hơn đối với
cá nhân quyết định tự kinh doanh.
Rees & Shah (1986) sử dụng bộ số liệu General Household Survey 1978 của Anh
với khoảng 11,794 hộ gia đình. Với mục đích xem xét sự tác động qua lại giữa tình
trạng việc làm và thu nhập, mẫu quan sát chỉ bao gồm những người làm việc đủ thời
gian (trên 30 tiếng/tuần), hồi quy probit với biến nhị phân đại diện cho quyết định lựa
chọn nghề nghiệp cá nhân, chỉ ra sự khác nhau giữa hai quyết định bằng chênh lệch
trong thu nhập đối với mỗi lựa chọn. Hai tác giả cho rằng giáo dục có ảnh hưởng tới tích
cực đến lựa chọn tự làm chủ. Tác động có thể xảy ra theo hai cách. Thứ nhất, giáo dục
đóng vai trị như một bộ lọc mà những người được đào tạo cao hơn sẽ muốn đồng bộ
khả năng của họ. Thứ hai, họ cũng có xu hướng hiểu biết hơn và do đó đánh giá tốt hơn
cơ hội tự làm chủ của mình. Kết quả hồi quy cho thấy các biến đặc trưng cho giáo dục
tác động tích cực và đáng kể tới thu nhập của người tự làm chủ.
Justin van der Sluis, Mirjam van Praag và Wim Vijverberg nghiên cứu tổng quan
các nghiên cứu thực nghiệm trước đó đánh giá tác động của giáo dục chính thức về sự
lựa chọn và tiến hành kinh doanh trong những quốc gia phát triển. Sử dụng phương
pháp phân tích meta-analysis tác giả miêu tả ảnh hưởng chủ yếu được nhận thấy trong
nghiên cứu và giải thích sự mâu thuẫn về kết quả qua nhiều nghiên cứu trước đó. Năm
kết luận chính được chỉ ra từ phân tích meta-analysis là: Tác động của giáo dục đi đến
quyết định lựa chọn kinh doanh là đáng kể; ảnh hưởng của giáo dục tới việc tiến hành
kinh doanh là đáng kể; tác động biên của số năm giáo dục cho một doanh nhân là 6,1%;
ảnh hưởng của giáo dục về thu nhập là nhỏ hơn cho các doanh nhân nhưng nhỏ hơn ở
Mỹ; Tác động trở lại của giáo dục đến thiên hướng tự kinh doanh ở Mỹ là cao hơn châu
Âu (xem thêm Van Der Sluis và cộng sự).
Peter van der Zwan, Ingrid Verheul, Roy Thurik và Isabel Grilo (2009) sử dụng
dữ liệu năm 2007 khảo sát ở châu Âu về tinh thần kinh doanh, No.192” của hội nghị
châu Âu gồm 20.674 quan sát gồm 25 nước thành viên và Norway, Iceland, US. Bằng
cách sử dụng một mô hình logit tích lũy, mơ hình cơ bản đánh giá tác động của các biến
giải thích về sự chênh lệch (tỷ lệ hai xác suất) nghiên cứu về tiến trình kinh doanh bao
gồm năm cấp độ nghiên cứu "không bao giờ xem xét mở doanh nghiệp", "tư duy về
điều đó", "thực hiện các thủ tục", "đang kinh doanh dưới ba năm" và "đang kinh doanh
trên ba năm". Kết quả thu được chỉ ra rằng tác động của giáo dục là tích cực và đáng kể
20
cho sự chuyển đổi nhận thức đầu tiên ("không bao giờ nghĩ tới" đi đến "tư duy tự kinh
doanh"), không đáng kể cho sự chuyển đổi tiếp theo ("tư duy" để "thực hiện các bước
kinh doanh") và tiêu cực đáng kể khi đi đến các cấp độ quyết định kinh doanh tiếp theo
nữa (nghĩa là "thực hiện các bước" tới “đang kinh doanh dưới 3 năm” và “đang kinh
doanh sau 3 năm"). Giáo dục tinh thần kinh doanh xuất hiện thực sự quan trọng đối với
việc có ý định tự kinh doanh ban đầu, nhưng khơng có hiệu lực vào q trình chuyển
đổi trong tương lai. Vai trị của người làm gương, cụ thể là thành viên trong gia đình sở
hữu doanh nghiệp riêng ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng quyết định tự kinh doanh.
Nghiên cứu của Joern H. Block, Lennart Hoogerheide và Roy Thurik (2009) khi
đo lường ảnh hưởng của trình độ học vấn đến xu hướng quyết định tự làm chủ doanh
nghiệp gặp phải khó khăn là đưa biến đại diện cho trình độ học vấn vào mơ hình như
một biến nội sinh. Giáo dục xuất hiện như là biến ngun nhân trong mơ hình kinh tế
trong khi nó có mối tương quan trong thực tế với sai sót trong mơ hình (Van der Sluis
và cộng sự, 2008). Sự tương quan này có thể qui cho nguyên nhân sai sót trong đo
lường hoặc bỏ qua biến. Nguyên nhân khác bao gồm, tự hồi qui với khuyết tật tự tương
quan và mẫu không ngẫu nhiên (Kennedy, 2008). Nghiên cứu của Joern H. Block
Lennart, Hoogerheide và Roy Thurik (2009) lần đầu tiên đưa giáo dục vào mơ hình như
một biến nội sinh bằng cách sử dụng hồi qui biến công cụ và dữ liệu từ hơn 10.000 cá
nhân ở 27 quốc gia châu Âu và Mỹ, chỉ ra rằng tác động của giáo dục tới quyết định
thành lập doanh nghiệp, có tác động mạnh và tích cực. Cá nhân có cấp độ giáo dục cao
hơn có khả năng lớn hơn khởi đầu một doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của họ cũng
chỉ ra rằng mơ hình logit, probit chuẩn đánh giá không đúng mức tác động mạnh mẽ của
giáo dục đến quyết định lựa chọn kinh doanh và có thể đưa đến kết quả sai lệch.
c. Giáo dục có tác động tiêu cực tới quyết định lựa chọn làm chủ:
Tamvada, Jagannadha Pawan, Max Planck (2010) tập trung vào lĩnh vực phi nơng
nghiêp, trình độ giáo dục cao làm giảm quyết định lựa chọn trở thành người làm chủ
qua thời gian và tác động ngược lại trong lĩnh vực nông nghiệp. Tác giả đã tiến hành
ước lượng mơ hình với 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp trong 2 năm 2000 và
2004. Tương tự như các nghiên cứu trước biến phụ thuộc là biến nhị phân, các biến
tham số là giới, tình trạng hơn nhân, giáo dục, khu thành thị, tài sản, biến cấu trúc.
Trong lĩnh vực phi nông nghiệp biến giáo dục làm giảm xác suất của người làm
chủ trong năm 2004, và nó có tác động đáng kể trong năm 2000 (tương tự, Lucas (1978)
21
và Iyigun và Owen (1999)). Trong lĩnh vực nông nghiệp, giáo dục làm tăng xác suất trở
thành người làm chủ trong cả hai năm. Kết quả cuối cùng cho thấy, người có giáo dục
cao dường như trở thành người làm chủ trong lĩnh vực phi nông nghiệp năm 2000,
nhưng xác suất ít hơn trong năm 2004.
Tác giả chọn mẫu hẹp hơn là đàn ông đang làm việc trong lĩnh vực phi nông
nghiệp và nông nghiệp. Các biến thể hiện mức giáo dục cao hơn và giáo dục kỹ thuật
tác động không đáng kể. Trong lĩnh vực phi nông nghiệp, giáo dục phi chính thức giảm
khả năng trở thành người làm chủ. Tác động của việc có bằng kỹ thuật là tiêu cực. Tiếp
theo, tác giả tiến hành xây dựng mô hình với cá nhân làm việc trong lĩnh vực phi nông
nghiệp ở nông thôn, và làm phi nông nghiệp ở thành thị. Kết quả thực nghiêm cho thấy,
giáo dục có tác động tiêu cực đáng kể. Tiến hành nghiên cứu cụ thể hơn với mẫu đàn
ông ở thành thị, cho thấy tác động tiêu cực của giáo dục với việc lựa chọn làm chủ của
cá nhân. Trong khu vực nông nghiệp, giáo dục lại có tác động đáng kể đến việc quyết
định làm chủ của một cá nhân trong năm 2004, tác động này mạnh hơn so với năm
2000. Và đặc biệt tác động tới việc lựa chọn làm chủ cao nhất đối với khu vực giáo dục
phi chính thức. Cá nhân có bằng cấp giáo dục trong lĩnh vực nơng nghiệp có xu hướng
quyết định trở thành người làm chủ.
Anh T.Le (1999) nghiên cứu về những yếu tố tác động đến quyết định tự kinh
doanh cá nhân người nhập cư ở Australia với dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu
“Điều tra dân số và nhà ở Australia, 1981 và 1991”, chỉ ra ảnh hưởng tới việc tự kinh
doanh bởi cả hai biến vốn con người và vốn phi con người (xem Le, 1999). Phân tích
tập trung miêu tả nhóm dân số, nhóm 15-64 làm cơng ăn lương hoặc tự kinh doanh và
thu nhập theo giờ. Với biến phụ thuộc là thiên hướng tự kinh doanh, sử dụng mô hình
logit với 2 mơ hình : MH1 bao gồm biến vốn con người, đặc điểm mối quan hệ công
việc, địa phương người nhập cư, và tôn giáo, nơi sinh; MH2 bao gồm các biến trong
MH1, nhưng biến enclave được tạo với biến ngôn ngữ của người nhập cư.
Kết luận được Le đưa ra từ bài nghiên cứu là hầu hết những biến ảnh hưởng quan
trọng là giáo dục, kinh nghiệm thị trường lao động, thành thạo tiếng Anh, sở hữu nhà
(yếu tố vốn), trạng thái hôn nhân, và trạng thái nghề nghiệp. Người khơng phải quốc
tịch Australia tác động tích cực hơn so với người có quốc tịch Australia tới xu hướng
quyết định tự làm chủ. Đặc biệt cá nhân có vợ chồng, sở hữu nhà cao hơn trong xu
hướng tự kinh doanh. Trái lại, giáo dục làm giảm xu hướng tự làm chủ.
22
Guillaume Destrés và Valentine Henrad. 2004 thì sử dụng biến đại diện cho giáo
dục là “no schooling” (không theo trường lớp), cấp 1, cấp 2 và đại học. Mẫu quan sát là
đàn ông, từ 18-70 tuổi là chủ hộ lấy từ Điều tra Hộ gia đình ở Colombia (ENH) tháng
06/1996. Hai tác giả dùng mơ hình cấu trúc như của Rees và Shah (1986) hay của
Bernhardt (1994), trong đó quyết định lựa chọn làm chủ hay làm thuê phụ thuộc phần
lớn vào chênh lệch thu nhập kỳ vọng giữa hai trạng thái. Giáo dục cho tác động âm, đối
với cấp đại học thì ảnh hưởng âm cịn lớn hơn, có thể là vì giáo dục đại học mang lại lợi
ích lớn hơn cho người làm thuê như de Wit đã chỉ ra (1993).
d. Giáo dục không ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn của cá nhân:
Trang, Do và Duchêne (2007) sử dụng bộ số liệu Điều tra mức sống Việt Nam
(VLSS) năm 2004. Mơ hình hồi quy 3 bước: bước 1, hồi quy mơ hình probit giảm;
bước 2 ước lượng hồi quy thu nhập với 2 trạng thái nghề nghiệp; bước 3 ước lượng mơ
hình probit để xem xét chênh lệch lợi ích giữa 2 trạng thái. Biến giải thích đại diện cho
giáo dục là số năm đến trường ở các mức (1-5, 6-9, 10-12) cấp giáo dục cao hơn là biến
giả với mức ít nhất là có 15 năm giáo dục. Ngồi ra, cịn biến giả những người có tham
gia khóa đào tạo nghề. Kết quả được chỉ ra trong nghiên cứu là giáo dục ảnh hưởng tiêu
cực tới xu hướng quyết định tự làm chủ của cá nhân.
23
Bảng 1: Tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước.
Tác giả, năm
Rees và Shah
(1986)
Evans và
Jovanovic,
1989
Bernhardt,
1994
Le, 1999
Đo lường
và phương
pháp kỹ
thuật mơ
hình
Ảnh hưởng
của giáo dục,
tiềm lực tài
chính và gia
cảnh cá nhân
Dữ liệu: General
Household Survey
1978, bao gồm 11,794
hộ gia đình. Xét với
cá nhân là chủ hộ - có
4762 chủ hộ; trong đó
có 327 là tự làm chủ
cón 4435 là làm th
Mơ hình sử
dụng biến
nhị phân
đại diện cho
quyết định
lựa chọn
nghề
nghiệp của
cá nhân
(MH
probit)
Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng hình chữ
U ngược
Sử dụng dữ liệu:
National Longitudinal
Survey of Young Men
(NLS). Mẫu gồm
5225 đàn ông, tuổi
14-24, năm 1966 định
kỳ tới 1981.
Mơ hình
probit
Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực
Mẫu được chọn là đàn
ơng da trắng trong
Canada.
Mơ hình
probit giảm
(MH hai
khu vực).
Dữ liệu, mẫu
Tác giả sử dụng dữ
liệu nghiên cứu “Điều
tra dân số và nhà ở
Australia, 1981 và
1991”
Tập trung miêu tả
nhóm 15-64 tuổi làm
công ăn lương hay tự
kinh doanh và thu
Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Có ảnh
hưởng tới quyết
định lựa chọn
Tiềm lực tài
chính như là
một yếu tố
quyết định
Mơ hình
logit, probit
được tác
giả sử dụng
trong
nghiên cứu
Nghiên cứu
các yếu tố
tác động
Tác động của
tiềm lực tài
chính là rõ
ràng. Như là
một yếu tố
quyết định sự
lựa chọn
Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực
Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Việc có
sở hữu nhà có
tác động mạnh.
Kết quả phân tích
thực nghiệm &
Chú ý khác
- Vốn ban đầu (của
cải tích lũy, quà
tặng, thừa kế hay
các khoản nợ) đều
có ảnh hưởng tới
quyết định của việc
tự làm chủ
- Người đã có gia
đình sẵn sàng chấp
nhận rủi ro hơn so
với người chưa có
gia đình
- Việc thành lập và
vận hành doanh
nghiệp cần phải có
đủ vốn, mà do
nhiều lí do, khơng
phải ai cũng dễ
dàng tiếp cận được.
- Thu nhập tiềm
năng là yếu tố quyết
định.
- Tự làm chủ có
mức thu nhập cao
hơn.
- Biến ảnh hưởng
quan trọng là giáo
dục, kinh nghiệm
thị trường lao động,
thành thạo tiếng
Anh, sở hữu nhà,
trạng thái hôn nhân,
và trạng thái nghề
nghiệp
24
nhập theo giờ
Hout M. and
Rosen H.
(2000)
Dữ liệu: General
Social Survey
(University of
Chicago), từ 19731996
Mẫu quan sát: Nam,
25-64 tuổi, làm cơng
việc ngồi nơng
nghiệp trên 15 giờ
lđ/tuần
W.P.M.
Vijverberg and
J. Houghton.
2002.
Destré và
Henrard (2004)
đến xu
hướng
quyết định
tự làm chủ
của những
người nhập
cư ở
Australia
Mơ hình
logit, tính
tốn xác
suất một cá
nhân quyết
định tự làm
chủ
Xem xét
mối quan
hệ giữa bối
cảnh gia
đình, và
chủng tộc
với quyết
định kinh
doanh
Xem xét biến động
của doanh nghiệp gia
đình phi nơng nghiệp
(non-farm households
enterprise) ở Việt
Nam qua hai cuộc
điều tra VLSS năm
1993 và năm 1998.
Mơ hình
logit tương
tự của
Vijverberg
(1998)
Mẫu quan sát: đàn
ơng, 18-70 tuổi, là
chủ hộ lấy từ Điều tra
Hộ gia đình ở
Colombia (ENH),
06/1996
MH cấu
trúc như
của Rees và
Shah
(1986) hay
của
Bernhardt
(1994)
- Đặc biệt cá nhân
có vợ chồng, sở
hữu nhà xác suất
cao hơn trong xu
hướng tự kinh
doanh
- Giáo dục làm
giảm xu hướng tự
làm chủ
Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng
Gia cảnh cá
nhân: Tác động
tích cực. Như
là một yếu tố
trung tâm
- Cha từng là doanh
nhân, khả năng con
làm doanh nhân
cao hơn
- Cỡ hộ có ảnh
hưởng đáng kể, khi
cỡ hộ lớn hơn thì
xác suất thành
doanh nhân thấp
hơn
- Cấu trúc gia đình
có ảnh hưởng
khơng đáng kể
Gia cảnh cá
nhân có tác
động đáng kể
- Nếu bố mẹ được
giáo dục tốt và là
doanh nhân, con cái
cũng có nhiều khả
năng làm chủ.
- Dân thành thị có
khả năng làm chủ
doanh nghiệp hơn.
Tác động của
giáo dục: Ảnh
hưởng tiêu cực
Tác động tiềm
lực tài chính và
gia cảnh cá
nhân: Tác động
- Ảnh hưởng âm có
thể là vì cấp bậc
giáo dục cao hơn
mang lại lợi ích lớn
hơn cho người làm
th
- Vì nó không phải
là biến đại diện
25