Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Phương pháp giảng dạy từ tình thái và quán ngữ tình thái cho sinh viên quốc tế ở trình độ nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 114 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự giúp đỡ nhiệt tình từ
ngƣời hƣớng dẫn là PGS.TS Nguyễn Thiện Nam – ngƣời đã đƣa ra những định
hƣớng ban đầu và những chỉ dẫn quý báu trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng chân thành cảm ơn những góp ý sâu sắc của GS.TS Đinh Văn Đức cho
luận văn này. Qua đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Khoa
Ngôn ngữ học – trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành khóa học
cao học.
Luận văn này cũng sẽ không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ nhiệt tình
của các thầy, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp ở Khoa Việt Nam học và tiếng Việt
trong quá trình khảo sát, lấy tƣ liệu thực tế. Nhân đây, tôi xin đƣợc gửi lời cảm
ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã ủng hộ và giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Phan Thanh Sơn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kì một
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phan Thanh Sơn



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 3
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.................................................................................. 5
6. Bố cục của Luận Văn ....................................................................................... 5
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN .................................................................................. 7
1.1 Tình thái và từ tình thái trong Tiếng Việt hiện nay ....................................... 7
1.2 Quán ngữ tình thái - Khái niệm cơ bản ........................................................ 15
1.3 Phát ngôn tình thái ....................................................................................... 19
1.4 Lai lịch vấn đề .............................................................................................. 21
1.5 Dạy từ tình thái (các sách) ........................................................................... 23
CHƢƠNG 2
TỪ TÌNH THÁI VÀ DẠY TỪ TÌNH THÁI Ở TRÌNH ĐỘ NÂNG CAO ......... 29
2.1 Từ tình thái và cách dạy từ tình thái ở trình độ nâng cao ............................ 29
2.1.1 Mô tả ................................................................................................... 29
2.1.2 Một số hiện tƣợng điển hình và cách dạy ........................................... 31
2.2 Tiểu kết......................................................................................................... 49
CHƢƠNG 3
QUÁN NGỮ TÌNH THÁI VÀ DẠY QUÁN NGỮ TÌNH THÁI Ở TRÌNH ĐỘ
NÂNG CAO ......................................................................................................... 51
3.1 Quán ngữ tình thái và cách dạy quán ngữ tình thái ở trình độ nâng cao ..... 51
3.1.1 Mô tả ................................................................................................... 51
3.1.2 Một số trƣờng hợp điển hình và cách dạy........................................... 57
3.2 Phƣơng pháp dạy liên quan đến yếu tố tình thái ......................................... 68
3.3 Một thiết kế thử nghiệm ............................................................................... 78
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 83
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 86


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ thực tiễn giảng dạy tiếng Việt nhƣ một ngoại ngữ cho sinh viên quốc tế ở
trình độ nâng cao (sau 500-700 giờ lên lớp) cũng nhƣ tình hình nghiên cứu lí
luận chung về tình thái, từ tình thái và quán ngữ tình thái, sự đa dạng phức tạp
nội tại vốn có của nó, cho chúng ta thấy, để hiểu rõ và sử dụng đúng từ tình thái,
quán ngữ tình thái trong hành chức là việc không hề đơn giản đối với sinh viên
quốc tế. Đặc biệt hơn nữa khi đây là một hiện tƣợng ngôn ngữ “đƣợc biểu thị
xuyên thấm qua nhiều cấp độ ngôn ngữ khác nhau, từ ngữ điệu đến trật tự từ, từ
các phƣơng tiện từ vựng đến các phƣơng tiện ngữ pháp, từ những thành tố thuộc
bậc câu đến các thành tố thuộc bậc trên câu, bậc dƣới câu…Và các ý nghĩa tình
thái nhiều khi đan bện vào nhau làm thành một phổ liên tục, không dễ gì qui
hoạch thành những kiểu loại, những bình diện rõ ràng..” ( Nguyễn Văn Hiệp –
Một số phạm trù tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 8 –
2007.)
Tình thái trong ngôn ngữ học phản ánh khá rõ nét văn hóa trong chính ngôn
ngữ của mỗi dân tộc, tình thái bộc lộ rõ nhất trong ngôn ngữ nói, khẩu ngữ sử
dụng hàng ngày. Có thể nói, nắm vững và sử dụng thuần thục hệ thống từ tình
thái, quán ngữ tình thái của ngƣời bản ngữ là chìa khóa để thâm nhập vào cánh
cửa văn hóa mới, tiếng Việt cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tất nhiên việc
này đòi hỏi một quá trình cần thiết có nhiều trải nghiệm nhƣng nó cũng là động
lực giúp sinh viên quốc tế có đƣợc “cảm giác” thâm nhập vào sâu hơn nền văn
hóa mới hay đơn thuần chỉ là cảm giác đƣợc thấy mình thực sự “giỏi” hơn, gần
gũi với ngƣời bản ngữ và ngôn ngữ mà mình đang tri nhận. Sử dụng tốt tình thái


1


chẳng những tạo đƣợc sự hấp dẫn trong câu chuyện mà còn làm cho ngƣời tham
gia cảm thấy ngạc nhiên, phấn khích.
Việc hiểu rõ về tình thái, từ tình thái và quán ngữ tình thái cũng giúp ngƣời
nghiên cứu có thể so sánh, mô hình hóa để đƣa ra những cách giải thích dung dị
dễ hiểu hơn đối với một vấn đề còn khá nhiều ý kiến và phức tạp không chỉ với
sinh viên quốc tế học tiếng Việt.
Với nhận thức đó, chúng tôi thực hiện đề tài Phƣơng pháp giảng dạy từ tình
thái và quán ngữ tình thái cho sinh viên quốc tế ở trình độ nâng cao với
mong muốn khiêm tốn là có những đóng góp thêm về lí luận và ứng dụng giảng
dạy trong thực tiễn.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về từ và quán ngữ tình thái đã đƣợc một số nhà nghiên cứu quan
tâm đến, từ lí thuyết chung cho đến lí giải một số vấn đề cụ thể… Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu của Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp, trƣớc đó một chút là
Đinh Văn Đức, Đỗ Hữu Châu,Nguyễn Thiện Giáp, Cao Xuân Hạo.. gần đây có
nghiên cứu của Đoàn Thị Thu Hà..
Trong khoảng hơn chục năm trở lại đây, tình thái nói chung và từ tình thái,
quán ngữ tình thái nói riêng bắt đầu bƣớc vào giai đoạn mới, đƣợc chú ý hơn
cùng với sự quan tâm hơn đến ngôn ngữ học chức năng và ngữ dụng học.
Từ quan điểm của Jespersen về tình thái, quan điểm hai thành phần cơ hữu
của Bally hay quan điểm của Chomsky, Fillmore…đều có những nét tƣơng đồng
và dị biệt, đó cũng là một lẽ tất nhiên trong công tác nghiên cứu khoa học nhƣng
ngƣợc lại cũng là nguồn động viên cho những ngƣời nghiên cứu mới mạnh dạn
bƣớc vào địa hạt khó khăn này.

2



Tuy nhiên có một thực tế là chƣa có nhiều công trình đi sâu vào ứng dụng
phƣơng pháp giải thích cách dùng hay giải thích nghĩa trong việc dạy tiếng Việt
nhƣ một ngoại ngữ. Chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn trong phần cơ sở lí thuyết của
đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Với tính chất là một bộ phận quan trọng thƣờng đƣợc sử dụng trong khẩu
ngữ-ngôn ngữ nói hàng ngày, một bộ phận tự nhiên đối với bất kì ngƣời bản ngữ
nào,việc hiểu và sử dụng tốt chúng là việc mà mỗi sinh viên nƣớc ngoài đều cần
phải và mong muốn đạt đƣợc trong quá trình thụ đắc một ngoại ngữ.
Một là khảo sát những từ tình thái và quán ngữ tình thái thƣờng dùng nhất
trong giáo trình tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài.
Hai là đƣa ra một sự phân biệt tƣơng đối đơn giản giữa từ tình thái và quán
ngữ tình thái thƣờng gặp trong giảng dạy tiếng Việt.
Ba là đƣa ra một cách lí giải hữu hiệu hơn, đơn giản hơn cho từ tình thái và
quán ngữ tình thái trong hành chức, làm rõ giá trị cũng nhƣ tầm quan trọng của
từ và quán ngữ tình thái trong giao tiếp và trong giảng dạy tiếng Việt.
Nghiên cứu từ tình thái và quán ngữ tình thái cũng không ngoài mục đích
giúp sinh viên quốc tế hiểu rõ và dễ dàng hơn trong việc nắm bắt hay sử dụng từ
hay quán ngữ tình thái trong giao tiếp hàng ngày.
Hơn nữa hiểu rõ, hiểu đúng và sử dụng thành thạo từ tình thái, quán ngữ tình
thái giúp sinh viên “xâm nhập” sâu hơn vào văn hóa cũng nhƣ ngôn ngữ trong
quá trình thụ đắc, đồng thời nâng cao khả năng sử dụng khẩu ngữ trong giao tiếp.
Thiết nghĩ, ngày nay, việc ứng dụng lí luận ngôn ngữ học vào giải quyết
những vấn đề tƣơng đối cụ thể cũng đem lại những hiệu quả nhất định trong đổi

3


mới phƣơng pháp giảng dạy trong nhà trƣờng nói chung và giảng dạy tiếng Việt

và văn hóa Việt Nam cho sinh viên quốc tế nói riêng.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Những từ tình thái, quán ngữ tình thái xuất hiện tƣơng đối phổ biến trong
khẩu ngữ, thể hiện qua hội thoại trong một số cuốn giáo trình tiếng Việt, tập bài
giảng mà chúng tôi thƣờng sử dụng hàng ngày trong quá trình giảng dạy cho
sinh viên nƣớc ngoài ở trình độ nâng cao và một số tƣ liệu bên ngoài. Từ và quán
ngữ tình thái ở đây đƣợc chúng tôi chọn lựa với tiêu chí chung nhất đơn giản
nhất, bỏ qua những tiêu chí lí thuyết có tính kinh viện không thích hợp với đối
tƣợng mà chúng tôi hƣớng đến là sinh viên nƣớc ngoài – những ngƣời cần một
sự diễn đạt gần gũi và đơn giản, hiệu quả nhất.Tƣ liệu chính bao gồm:
-

Giáo trình Thực hành Tiếng Việt B (Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn

Khánh Hà, Phạm Nhƣ Quỳnh)
-

Giáo trình Thực hành Tiếng Việt C

-

Tiếng Việt nâng cao (cho ngƣời nƣớc ngoài) Quyển 1 – Nguyễn

Thiện Nam
-

Tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài - Trịnh Đức Hiển

-


Tiếng Việt nâng cao dành cho ngƣời nƣớc ngoài Quyển 1 – Nguyễn

Việt Hƣơng
-

Tiếng Việt nâng cao dành cho ngƣời nƣớc ngoài Quyển 2 – Nguyễn

Việt Hƣơng
-

Giáo trình Tiếng Việt dành cho ngƣời nƣớc ngoài 4 – Nguyễn Văn

Huệ
-

Tập bài giảng Tiếng Việt cao cấp – Trần Nhật Chính (lƣu hành nội

bộ)

4


Khảo sát này dành cho những đối tƣợng là ngƣời học từ trung cấp đến nâng
cao, dựa trên tiêu chí đánh giá số lƣợng giờ học từ 500 – 700 giờ để có cái nhìn
mang tính so sánh cũng nhƣ xem xét, đề xuất một số cách giải thích đơn giản, rút
ra nhận định về tần suất xuất hiện của từ tình thái và quán ngữ tình thái tiếng
Việt.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Khảo sát, xử lí tƣ liệu
- Thủ pháp phân tích ngữ cảnh

- Thủ pháp đơn giản hóa (symplification)
- Thủ pháp đối lập tƣơng phản có – không
- Thủ pháp đồng nghĩa cú pháp (Syntax synonymy)
6. Bố cục của Luận Văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Nội dung luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1. Tổng quan.
1.1 Tình thái và từ tình thái trong tiếng Việt hiện nay
1.2 Quán ngữ tình thái – khái niệm cơ bản
1.3 Phát ngôn tình thái
1.4 Lai lịch vấn đề
1.5 Dạy từ tình thái (các sách)
Chƣơng 2. Từ tình thái và dạy từ tình thái ở trình độ nâng cao
2.1 Từ tình thái và cách dạy từ tình thái ở nâng cao
2.1.1 Mô tả
2.1.2 Một số hiện tƣợng điển hình và cách dạy
2.2 Tiểu kết

5


Chƣơng 3. Quán ngữ tình thái và dạy quán ngữ tình thái ở trình độ nâng cao
3.1 Quán ngữ tình thái và cách dạy quán ngữ tình thái ở nâng cao
3.1.1 Mô tả
3.1.2 Một số trƣờng hợp điển hình và phƣơng pháp
3.2 Phƣơng pháp dạy liên quan đến yếu tố tình thái
3.3 Một thiết kế thử nghiệm

6



PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1 Tình thái và từ tình thái trong Tiếng Việt hiện nay
Nhìn chung các quan niệm từ xƣa đến nay vẫn coi tình thái vốn là một khái
niệm liên quan đến ngữ nghĩa của câu, nghĩa là thuộc địa hạt cú pháp. Theo đó,
nghĩa của câu truyền thống đƣợc chia ra hai lớp: lớp nghĩa ngôn liệu (dictum)
gắn với việc miêu tả nội dung mệnh đề và lớp nghĩa tình thái (modus) gắn với
việc đối chiếu nội dung ngôn ngữ với thực tại qua thái độ của ngƣời nói.[8, tr.
242,243] Mỗi ngôn ngữ có một hệ thống từ ngữ dùng để biểu đạt các liên hệ tình
thái của câu trên cơ sở của chất liệu ngôn ngữ từng loại hình. Với các ngôn ngữ
biến tố thì dạng thức nhân xƣng của động từ là phƣơng tiện rất quan trọng, còn
với ngôn ngữ đơn lập nhƣ tiếng Việt thì hệ thống các từ tình thái lại đảm trách
công năng này. Do bản chất ngữ pháp có những khía cạnh rất riêng biệt cho nên
có thể và cần phải xếp từ tình thái thành một phạm trù ngang hàng với phạm trù
thực từ và hƣ từ. Tuy rằng, phạm trù này chỉ bao hàm vài tập hợp nhỏ nhƣ: tiểu
từ, trợ từ, thán từ.
Tiêu biểu cho các tác giả trực tiếp quan tâm khảo sát vấn đề tình thái thể hiện
qua những bài viết đăng trên tập chí Ngôn ngữ nhƣ:
Lê Đông (1991) “Ngữ nghĩa – ngữ dụng của hư từ Tiếng Việt: ý nghĩa đánh
giá của các hư từ”
Nguyễn Minh Thuyết (1995) “Các tiền phó từ chỉ thời – thể trong Tiếng
Việt”
Phạm Hùng Việt (2001) “Vấn đề tình thái với việc xem xét chức năng ngữ
nghĩa của trợ từ Tiếng Việt”

7


Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003) “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ
học”

Hoàng Trọng Phiến trong Ngữ pháp Tiếng Việt – câu (1980) thì nhận xét tình
thái là phạm trù ngữ pháp của câu ở dạng tiềm tàng. Tình thái có mặt trong tất cả
các kiểu câu. Điều này thể hiện ở chỗ câu có giá trị thời sự, nó có tác dụng thông
báo một điều mới mẻ. Qua đó, ngƣời nghe hiểu rằng ngƣời nói có thái độ thế nào
với hiện thực.
Chia sẻ quan điểm trong một bài viết bàn về khái niệm tình thái (1988), với
Hoàng Tuệ “Tình thái là một khái niệm trong sự phân tích theo cách nhìn tìm
đến thái độ của người nói trong hoạt động phát ngôn tức cũng là tìm đến tác
động ngữ dụng, tác động mà người nói muốn tạo ra ở người nghe trong thực tế
hoạt động ngôn ngữ.”
Ở một mức khái quát cao, Cao Xuân Hạo cho rằng tình thái của câu đƣợc
biểu thị trong cấu trúc cú pháp cơ bản (mà tác giả gọi là cấu trúc Đề - Thuyết)
gồm có:
- Nhận định của ngƣời nói về giá trị chân ngụy của điều đƣợc nói ra trong câu
(khẳng định, phủ định, ngờ vực, nêu rõ phạm vi giới hạn và điều kiện của tính
chân lý)
- Về tính khả năng hay tất yếu của điều đó (có thể hay không có thể, tất nhiên
hay không tất nhiên, mức độ cao hay thấp của tính khả năng, tính tất yếu)
- Cách đánh giá của ngƣời nói đối với sự tình đƣợc truyền đạt (đáng mừng
hay đáng tiếc, đáng hi vọng hay e ngại…)
- Sự giới thiệu của ngƣời nói về tính chất của câu nói (tính thành thực, đơn
giản, áng chừng hay chính xác..)

8


- Mối quan hệ giữa câu nói với tình huống đối thoại hay đối với ngôn cảnh và
nhiều nội dung khác thuộc lĩnh vực lô-gic và siêu ngôn ngữ
Mặc dù các diễn đạt của các tác giả không giống nhau, song nhìn chung cách
hiểu tình thái là một phạm trù ngữ nghĩa – chức năng phản ánh mối quan hệ, thái

độ, cách đánh giá của ngƣời nói đối với nội dung của phần còn lại trong câu là
cách hiểu đƣợc nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận nhất.
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc, chúng tôi xin tổng
kết thành mấy điểm chính nhƣ sau về vấn đề tình thái:
-

Tình thái cùng với nội dung mệnh đề là hai thành phần cần thiết tạo nên

cấu trúc ngữ nghĩa của câu, góp phần thực tại hóa câu và gắn câu với điều kiện
giao tiếp hiện thực.
-

Tình thái là một phạm trù rộng lớn thể hiện thái độ, những cách đánh giá

khác nhau của ngƣời nói đối với nội dung mệnh đề, với ngƣời đối thoại và với
các nhân tố khác của ngữ cảnh liên quan đến sự tình đƣợc phản ánh.
-

Tình thái cần đƣợc nhìn nhận, xem xét, nghiên cứu nhƣ một phạm trù

mang tính phức thể, nhiều phƣơng diện tác động lẫn nhau và liên hệ một cách
chặt chẽ với các phạm trù ngữ nghĩa – chức năng cũng nhƣ với các phạm trù của
ngữ dụng học. Theo cách nhìn này, khi nghiên cứu tính tình thái, chúng ta phải
tính đến sự tƣơng tác phức tạp của bốn nhân tố trong quá trình giao tiếp: ngƣời
nói, ngƣời đối thoại, nội dung của phát ngôn và thực tế.
Nội dung, ý nghĩa cụ thể của tình thái rất đa dạng nhƣng phần lớn đều trực
tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến các trạng thái nhận thức, đánh giá, thái độ, tâm lý,
tình cảm của ngƣời nói.
Từ tình thái là một mảng trong từ loại đối lập với thực từ và hƣ từ. Theo Đinh
Văn Đức, từ loại cũng nằm trong mô hình tam phân giữa thực từ, hƣ từ và tình


9


thái từ. Trong đó tình thái từ là một đỉnh. Tuy nhiên, tình thái từ có một cƣơng vị
ngữ pháp riêng biệt và không nằm trong phạm vi của hƣ từ. Nhƣ vậy, tình thái từ
không đơn giản cũng là hƣ từ theo nhận thức truyền thống, phàm từ nào không
phải là thực từ thì là hƣ từ.
Hiện nay, từ tình thái tiếng Việt đƣợc hiểu nhƣ một khái niệm rộng hơn –
khái niệm chức năng tình thái. Từ đó, trên khía cạnh nghĩa học và dụng học giúp
ta hiểu sâu hơn về những đặc trƣng của từ tình thái tiếng Việt. Từ tình thái là
những từ công cụ nghĩa học trong câu nhằm thực tại hóa những đích ngôn trung
của câu. Nó đồng thời biểu đạt tình cảm, thái độ, cách thức nhận xét, cách thức
đánh giá của ngƣời nói với nội dung mệnh đề trong mối liên hệ với thực tại,
trong một số trƣờng hợp khác, một sổ tiểu từ tình thái cũng có vai trò làm dấu
hiệu tƣờng minh đánh dấu đích ngôn trung của phát ngôn.[8,tr.139] Khái niệm
tình thái thực sự đƣợc khảo sát kĩ càng từ Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt sơ
khảo ngữ pháp chức năng. Theo Cao Xuân Hạo, tình thái có hai loại: tình thái
của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn. Cái thứ nhất thuộc bình
diện ngữ dụng, cái thứ hai thuộc bình diện ngữ nghĩa. Tình thái của hành động
phát ngôn thuộc về ngữ dụng, nó phân biệt các lời nói về phƣơng diện, mục tiêu,
tác dụng trong giao tiếp, bao gồm cả sự khu biệt các loại câu nhƣ: câu trần thuật,
câu nghi vấn, câu cầu khiến đã đƣợc ngữ pháp hóa, còn những câu khác cũng
thuộc phạm vi này đó là câu có giá trị ngôn trung đƣợc đánh dấu nhƣ câu xác
nhận, câu bắt buộc, câu ngôn hành. Tình thái thứ hai là tình thái của lời phát
ngôn thì thuộc phạm vi nghĩa học. Cao Xuân Hạo cho rằng, tình thái này thuộc
nội dung đƣợc truyền đạt hay yêu cầu truyền đạt trong các câu trần thuật hay câu
hỏi, nó liên quan đến thái độ ngƣời nói hay nội dung điều mình nói ra, nó liên
quan đến nội dung quan hệ sở thuyết hoặc sở đề.


10


Trong tiếng Việt các phƣơng tiện tình thái đƣợc thay bằng việc dùng các phụ
từ tình thái quay xung quanh động từ và tính từ vị ngữ, nó có cả phƣơng tiện từ
vựng và phƣơng tiện ngữ âm. Ngoài Cao Xuân Hạo một số tác giả khác cho
rằng: số lƣợng tiểu từ tình thái tuy nhỏ nhƣng tần số xuất hiện lớn, nó có nhiều
hạng mục, có những từ tình thái chuyên dùng, có những phụ từ tình thái và
những tiểu từ tình thái dứt câu. Chúng tôi đồng ý với Đinh Văn Đức khi ông cho
rằng khó có thể chia sẻ vì xuất phát từ quan hệ chức năng của hai phạm trù này
với tƣ duy, trong cách thức phản ánh của ngƣời bản ngữ thì chúng khác nhau về
bản chất. Trong phạm vi chức năng thì cả hai cũng rất khác nhau trong hoạt
động.
Trong câu hay cấu trúc ngữ pháp hầu nhƣ hƣ từ không vắng mặt, tấn số xuất
hiện cao mặc dù chúng là một tập hợp không lớn về số lƣợng. Khác với thực từ,
ý nghĩa hƣ từ thiên hẳn về tính chất ngữ pháp. Hƣ từ ít tham gia biểu niệm, nó là
phƣơng tiện dùng để phân xuất các hình thức tri nhận thành khái niệm và biểu
đạt mối quan hệ giữa khái niệm với khái niệm trong tƣ duy. Bản chất đó quy
định khả năng cú pháp của các hƣ từ, chúng không làm trung tâm đoản ngữ, đôi
khi có thể làm thành tố phụ một cách giới hạn trong đoản ngữ, còn trong đa số
trƣờng hợp, hƣ từ đƣợc dùng làm yếu tố để liên kết cú pháp, kết hợp từ trong
ngữ lƣu dƣới dạng các cấu trúc ngữ pháp. Bản chất đó cũng quy định chức năng
của hƣ từ ở trong câu: hƣ từ không có khả năng độc lập tạo ra câu và cũng không
làm thành phần câu [8, tr.237,238]. Các từ loại hƣ từ thƣờng gặp nhất là: liên từ,
giới từ, quán từ. Trong tiếng Việt và các ngôn ngữ đơn lập, danh sách hƣ từ có
tăng lên vì đây là những ngôn ngữ thiên về phân tích tính.
Tình thái từ là một tập hợp từ cũng không lớn về mặt số lƣợng (thƣờng là các
trợ từ và thán từ) nhƣng tập hợp này lại có một đặc trƣng rất riêng về bản chất

11



ngữ pháp ngữ nghĩa. Tình thái từ không có ý nghĩa từ vựng và cũng không có ý
nghĩa ngữ pháp theo cách hiểu truyền thống về hƣ từ. Ở trong câu tuy chúng có
bị chi phối bởi các quy tắc kết học nhƣng vị trí và sự di chuyển của chúng cho
thấy từ loại này thiên về công cụ của nghĩa học nhiều học [8,tr.238]. Ý nghĩa của
các từ tình thái tập trung vào việc diễn đạt tình cảm, thái độ của ngƣời nói trong
mối quan hệ với nội dung của câu và sự đối chiếu với thực tại, nhờ đó tình thái
từ góp phần quan trọng vào việc hình thành mục đích phát ngôn của các câu.
Đây chính là luận điểm mà chúng tôi hƣớng tới bởi hơn ai hết, điều mà sinh viên
nƣớc ngoài nào khi tri nhận một ngoại ngữ đều là nắm đƣợc cách dùng cũng nhƣ
mục đích sử dụng của ngôn ngữ đó. Bản chất này quy định sự độc lập của tình
thái từ đối với các cấu trúc ngữ pháp, sự cơ động vị trí của chúng trong phát
ngôn nhƣ một tác tử ngữ nghĩa, cho thấy chúng có mối quan hệ đặc biệt với cả
cấu trúc phán đoán hơn là với từng khái niệm riêng biệt trong tƣ duy. Việc thiết
lập mối liên hệ giữa ngƣời nói và từ loại này khiến cho tình thái từ trở thành mối
quan tâm đặc biệt của nghĩa học và dụng học. Bản chất nghĩa của từ loại này
cũng quy định rằng, tình thái từ không tham gia vào cấu trúc đoản ngữ và cũng
không có khả năng làm thành phần câu.
Từ tình thái thƣờng đƣợc biết đến với hai loại: từ tình thái chuyên dụng và từ
tình thái lâm thời. Từ tình thái chuyên dụng nhƣ: à, ư, nhỉ, nhé, a, ấy… đó là
những tiểu từ chuyên dụng đồng thời cũng có những từ tình thái lâm thời nhƣ:
đang, từng, cũng, vẫn, đều, lại… Cao Xuân Hạo cho rằng, có từ tình thái chuyên
dụng cũng nhƣ các phụ từ tình thái và những tiểu từ tình thái, cũng có ngƣời xếp
tiểu từ tình thái vào hƣ từ nhƣ Nguyễn Anh Quế, coi nó là công cụ lớn trong tạo
câu nhƣng để nó trong khuôn khổ hƣ từ. Lê Đông thì cho rằng: các phƣơng tiện
tình thái thể hiện những nhóm sắc thái đan bện vào nhau. Chúng tôi thấy rằng,

12



nhóm tiểu từ tình thái cuối câu vẫn là quan trọng nhất, nó thực tại hóa câu nên
thƣờng đƣợc nhìn nhận trên phƣơng diện lời nói chứ không phải trên phƣơng
diện ngôn ngữ. Tiểu từ tình thái ít đƣợc quan tâm, nghiên cứu trong câu trúc câu,
các tiểu từ tình thái tiếng Việt rất phức tạp, có nhiều tiểu lớp ngữ nghĩa đan xen
với nhau và khó bóc tách. Để có một sự phân loại chi tiết là rất khó và ngay cả
việc muốn xác lập một khung miêu tả cũng không đơn giản.
Các tiểu từ tình thái là loại phƣơng tiện biểu thị cho quan hệ tình thái trong
tiếng Việt, về ngữ pháp, nó thƣờng đứng ở cuối câu đơn, còn trong câu phức, nó
thƣờng đứng cuối một vế. Tiểu từ tình thái không có nghĩa từ vựng trong nghĩa
biểu hiện ít dùng độc lập, cũng có những ngƣời loại thán từ ra khỏi khu vực này.
Tiểu từ tình thái cuối câu mang nhiều khía cạnh khác nhau. Nó phức tạp hơn ở
chỗ, một từ có nhiều nét nghĩa khác nhau gắn với ngữ cảnh. Nội dung thông báo
có tính miêu tả trong câu bao giờ cũng gắn với ít nhất một tình thái nhất định.
Câu nào cũng phải có ý nghĩa tình thái. Tuy ý nghĩa tình thái không chỉ ra ý
nghĩa chỉ sự vật hiện tƣợng nào đó trong thực tại nhƣng nó có tác dụng quan
trọng, nó hàm ẩn, thể hiện tâm lý thái độ, tình cảm của ngƣời nói khi hỏi nghĩa
của nó là gì cũng không đơn giản trong khi giải thích. Đứng trƣớc một sự tình thì
ở đây là tình cảm, là thái độ, là cách thức của ngƣời nói, tất cả những từ tình thái
đó có thể bỏ đi mà không ảnh hƣởng đến nghĩa của câu. Tuy nhiên, sự có mặt
của nó là rất cần thì mới thỏa mãn sự đánh giá.
Nhƣ đã nói, trong tiếng Việt việc sử dụng các từ tình thái có hai hiện tƣợng:
những từ tình thái chuyên dụng và những từ tình thái lâm thời (do một số từ
thuộc từ loại khác kiêm nhiệm). Trƣớc hết, nói về các từ tình thái chuyên dụng
thƣờng gặp là: à, ư, nhỉ, nhé, a, ạ, ấy, với, thế, nào, đâu, vậy, hẳn, chắc, chăng,

13


mà, cơ, chứ, đâu, thôi, đã, đi, hả, ơi, ôi, sao… Có một số trƣờng hợp là song tiết

nhƣ: cơ chứ, mà lại, than ôi, hỡi ôi, vậy ư, mà thôi, thế à, cơ à, cơ mà…
Ý nghĩa chung của các từ tình thái này là diễn đạt mối quan hệ giữa ngƣời nói
và thực tại trong các phát ngôn có tính thông báo (câu). Các tiểu từ tình thái
chuyên dụng có thể đƣợc phân loại theo vị trí trong phát ngôn (đầu câu, cuối
câu) hoặc cũng có thể phân loại theo chức năng tình thái:
- Các tiểu từ biểu đạt ý nghĩa tình thái trong mối quan hệ với mục đích phát
ngôn biểu thị cảm xúc của ngƣời nói.
- Các trợ từ biểu đạt ý nghĩa tình thái với mục đích nhấn mạnh tăng cƣờng.
Ngoài những từ tình thái chuyên dụng trong tiếng Việt còn có các từ tình thái
lâm thời, đó là kết quả hiện tƣợng gọi là chức năng hóa, có nguồn gốc sâu hơn
trong cách thức phản ánh của ngƣời bản ngữ trên chất liệu cụ thể của tiếng Việt.
Các từ tình thái lâm thời đƣợc sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp khiến ngữ
dụng học quan tâm rất nhiều đến phƣơng diện này.
Trong ngôn ngữ, vấn đề tình thái cũng đã đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm
từ rất lâu. Các công trình nghiên cứu về tình thái chủ yếu xoay quanh những nội
dung nhƣ: phạm trù tình thái, các loại hình tình thái, những ý nghĩa tình thái
đƣợc phản ánh trong các ngôn ngữ, các phƣơng tiện diễn đạt.
Tình thái là sự nhìn nhận, đánh giá thái độ của ngƣời nói mà câu đề cập đến:
khẳng định tính đúng đắn chân thực của sự việc, phỏng đoán sự việc với thái độ
tin cậy cao hoặc thấp, đánh giá mức độ hay số lƣợng của một phƣơng diện nào
đó trong sự việc, xác định sự việc là có thực hay chỉ là khả năng giả thiết.
Trong giới Việt ngữ học, vấn đề tình thái đƣợc chú ý quan tâm nghiên cứu
hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp. Đại diện cho nhóm tác giả nghiên cứu gián tiếp về
vấn đề tình thái có Nguyễn Kim Thản (1977) trong “Nghiên cứu ngữ pháp Tiếng

14


Việt” khi phân loại các loại từ trong Tiếng Việt đã cho rằng có một số động từ
tình thái (nhƣ: toan, muốn, hòng…) và trợ từ phục vụ cho sự biểu thị thái độ của

ngƣời nói (nhƣ: ạ, cơ, vậy, mà, đấy, đấy thế…) Hay Lê Cận – Phan Thiều (1983)
trong “Giáo trình ngữ pháp Tiếng Việt” có xác định, miêu tả tình thái từ trong
hệ thống từ loại tiếng Việt. Đinh Văn Đức (2001) trong “Ngữ pháp Tiếng Việt –
từ loại” đã nhận định “tình thái vốn là một khái niệm về ngữ nghĩa của câu,
nghĩa là thuộc địa hạt cú pháp”. Còn Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn
Hiệp (1998) với “Thành phần câu Tiếng Việt” đã trình bày các phƣơng tiện
ngôn ngữ dùng để biểu thị tình thái trong tiếng Việt. Ngoài ra, Diệp Quang Ban
và Hoàng Văn Thung trong Ngữ pháp Tiếng Việt (2000) cũng nêu vấn đề về tình
thái từ. Theo đó, tình thái từ “là tiểu từ chuyên dùng biểu thị ý nghĩa tình thái
trong quan hệ của chủ thể phát ngôn với người nghe hay với nội dung phản
ánh.”
1.2 Quán ngữ tình thái - Khái niệm cơ bản
Quán ngữ là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trƣớc hết của các nhà
nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thƣờng đƣợc gặp trong công
trình nghiên cứu về tự vựng hơn là trong các sách ngữ pháp. Bản thân thuật ngữ
“quán ngữ” đƣợc hiểu theo kiểu chiết tự “quán” là thói quen. Lý do là lớp từ này
đƣợc sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc tính “dùng lâu thành quen” theo
“phản xạ”, một số ngƣời cũng gọi chung thành ngữ là quán ngữ.
Nguyễn Văn Tu với công trình nghiên cứu từ tiếng Việt đã dành vài trang để
nói về khái niệm quán ngữ. Theo quan niệm của tác giả, quán ngữ cũng có tính
ổn định vì các thành tố gắn bó với nhau thông qua quá trình “quen dùng” và đƣa
ra các ví dụ minh họa cho quan điểm của mình: bạn nối khố, anh hùng rơm, gót
sắt, kỷ luật sắt, mua việc… Nhƣ vậy, đối với Nguyễn Văn Tu, quán ngữ là một

15


kiểu ngữ cố định mà các tác giả khác gọi tên là “ngữ cố định định danh” (Vũ
Đức Nghiệu); Thành ngữ kết hợp (Nguyễn Thiện Giáp)… Qua đó, tác giả quan
niệm tất cả các đơn vị của ngữ cố định đều có đặc tính “dùng lâu thành quen” và

với những cụm nào nghĩa bóng thấp thì ông gọi là quán ngữ và nghĩa bóng cao là
thành ngữ. Có thể đây là lý do giải thích có lúc ngƣời ta dùng thuật ngữ “quán
ngữ” để gọi luôn cho thành ngữ hay ngƣợc lại.
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ đã định nghĩa quán ngữ là: “Tổ hợp
từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ các nghĩa của các yếu
tố hợp thành.” Từ điển này đƣa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên
tiếng”. Còn Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và văn hóa thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo lại định nghĩa, quán ngữ là “Tổ hợp từ cố định quen dùng
mà nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của những yếu tố cấu thành.” Tuy nhiên, từ điển
này không cho ví dụ minh họa. Từ định nghĩa của hai từ điển, chúng tôi vẫn rút
ra đƣợc một kết luận rất có ích cho việc phân biệt quán ngữ với thành ngữ đó là:
quán ngữ dùng về mặt từ vựng học, không có nghĩa bóng.
Có thể nói vắn tắt rằng, trong tiếng Việt, khái niệm quán ngữ thƣờng đƣợc
nhắc đến trong mối quan hệ với cụm từ tự do hay cụm từ cố định, thành ngữ..
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng quán ngữ là những kết cấu mà ở đó “một bộ phận
hiểu theo nghĩa đen, một bộ phận hiểu theo nghĩa hình tƣợng.”
Đỗ Hữu Châu lại quan niệm quán ngữ là cách nói cách diễn đạt đƣa đẩy để
chuyển ý hay dẫn ý, để dẫn nhập chứ không nêu bật một sắc thái …
Nguyễn Thiện Giáp còn đi đến chỗ phân biệt một cách rõ rệt hơn khi cho
rằng quán ngữ có chức năng liên kết, rào đón, biểu thái…và có cấu tạo gồm từ
ba thành tố trở lên.

16


Đặc biệt trong đó cũng có các QNTT nhƣ: nói gì thì nói, ngó bộ, thảo nào,
đằng thẳng ra, kể ra, làm như thế… Đó là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo
thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tƣơng đối ổn định đƣợc ngƣời nói
dùng nhƣ một công cụ chức năng của những tác tử tình thái tác động vào nội
dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Dù khái niệm về quán ngữ vẫn chƣa đƣợc

các nhà từ vựng học thống nhất với nhau về nội dung, nhƣng ý nghĩa biểu đạt
tình thái của lớp từ này đã đƣợc thừa nhận. Và chúng tôi tạm gọi đối tƣợng mà
mình đang nghiên cứu là quán ngữ tình thái.
Quán ngữ tình thái có bộ phận luôn đứng sau nòng cốt câu, có nhiệm vụ đánh
dấu lực ngôn trung cơ sở (ngôn trung điển hình) của câu. Trong ví dụ:
-

Cưới được vợ là sướng rồi còn gì

quán ngữ tình thái còn gì là nhận định để bác bỏ nhận định đã có trƣớc đó.
Xét về vị trí trong mô hình cấu trúc câu song phần đơn giản, quán ngữ tình
thái luôn đứng sau nòng cốt. Ở các câu thuộc kiểu nòng cốt ghép đơn giản hay
phức tạp, tình thái ngữ có thể chiếm vị trí cuối mỗi vế câu.
Ở một số dạng thức là một kết cấu ngữ pháp mà theo lí thuyết của Cao
Xuân Hạo gọi là Khung tình thái nhƣ: Thà…còn hơn, Hình như…thì phải..chúng
ta thấy nó gắn liền với toàn bộ cấu trúc câu, không bị chi phối bởi bất cứ thành
phần nào nên chúng tôi cũng coi những trƣờng hợp đó là quán ngữ tình thái.
Với một hiện tƣợng nhƣ đồng âm cũng là vấn đề cần đặc biệt chú ý khi
nhận biết quán ngữ tình thái. Hiện tƣợng này đƣợc Cao Xuân Hạo phân biệt bằng
ranh giới Đề Thuyết nhƣng Nguyễn Văn Hiệp lại có cách làm khác: với vị ngữ
câu đơn thuần, khi bị lƣợc bỏ, ý nghĩa câu sẽ không trọn vẹn, còn với quán ngữ
tình thái, mặc dù bị lƣợc bỏ, ý nghĩa câu vẫn giữ đƣợc sự trọn vẹn nhất định.

17


Theo ý kiến chủ quan của chúng tôi, cách phân biệt nhƣ của Nguyễn Văn
Hiệp sẽ thuận lợi hơn cho ngƣời nƣớc ngoài học tiếng Việt vì nó đƣa lại cho họ
một cảm nhận tƣơng đối dung dị với một vấn đề khá rắc rối nhƣ tình thái tiếng
Việt. Trong một số hiện tƣợng đồng âm khác, chính vị trí của quán ngữ tình thái

sẽ là nhân tố để định danh nó, giúp phân biệt nó với hiện tƣợng đồng âm khác.
Nếu hai quán ngữ tình thái đặt cạnh nhau, thậm chí phủ định nhau về mặt ý
nghĩa thì theo Nguyễn Văn Hiệp, ý nghĩa của quán ngữ tình thái sau vẫn nằm
trong tầm ảnh hƣởng của quán ngữ trƣớc.
Người ta nói, nghe nói là, nghe đồn là, có thể, có lẽ
Nhƣ vậy, qua nghiên cứu, chúng tôi có thể tóm tắt một số đặc điểm về bản
chất của quán ngữ tình thái tiếng Việt nhƣ sau:
-

Là cụm từ cố định, có tính ổn định tƣơng đối về câu trúc và thành phần

từ vựng cấu tạo nên nó
-

Có chức năng bày tỏ, bộc lộ sắc thái biểu cảm. Đây là đặc điểm khác hẳn

với những quán ngữ chỉ dùng trong phong cách khoa học, có chức năng liên kết.
-

Về cấu trúc, thƣờng có cấu trúc cụm từ, một số trƣờng hợp có kết câu

cụm chủ - vị (Chẳng hạn nhƣ: ai ngờ đâu, ai có dè đâu…)
-

Về chức năng tạo câu, QNTT tƣơng đƣơng với từ.

-

Về ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa của QNTT tƣơng đƣơng với ý nghĩa của


một từ hoặc cụm từ.
-

Là cụm từ cố định (đơn vị có sẵn trong vốn từ vựng của ngôn ngữ)

nhƣng ranh giới của lớp từ này với cụm từ tự do (đơn vị cấu tạo tự do trong lời
nói) là không rõ ràng cụ thể.
QNTT theo thống kê thƣờng xuất hiện dƣới dạng hai âm tiết là chủ yếu, ngoài
ra cũng có dạng ba hoặc bốn âm tiết hay nhiều hơn nữa. Nếu là dạng hai âm tiết

18


thì chúng tôi chấp nhận chúng phải có những đặc điểm khác với từ ghép hai âm
tiết thông thƣờng nhƣ chúng phải có tính cố kết với nhau, không thể giải thích
nghĩa theo kiểu kết hợp nghĩa của từng yếu tố. Sở dĩ chúng ta phải chú ý đến đặc
điểm hình thức này nhằm có một nét khu biệt với từ tình thái, thƣờng là từ một
âm tiết. Mặc dù còn nhiều ý kiến về biên giới giữa từ tình thái và quán ngữ tình
thái nhƣng nhƣ chúng tôi đã trình bày, với mục đích nhắm đến đối tƣợng sinh
viên nƣớc ngoài nên chúng tôi tạm chấp nhận một khái niệm tƣơng đối rõ ràng
và giản tiện về mặt cảm quan.
1.3 Phát ngôn tình thái
Nội dung thông báo có tính miêu tả trong câu bao giờ cũng gắn với ít nhất
một tình thái nhất định. Câu nào cũng phải có ý nghĩa tình thái.
Trong xu hƣớng nghiên cứu ngôn ngữ học hiện nay, ngƣời ta không chỉ quan
tâm đến những mô hình ngôn ngữ học trừu tƣợng, tĩnh tại mà còn quan tâm cả
đến ngôn ngữ học trong hoạt động, với tƣ cách là công cụ tƣơng tác liên nhân.
Nói cách khác ngôn ngữ học không chỉ quan tâm đến ngôn ngữ mà còn quan tâm
đến những sự kiện của lời nói, của giao tiếp. Hệ quả là vai trò của chủ thể giao
tiếp, của tính chủ quan đƣợc chú trọng hơn trƣớc rất nhiều, trong đó có tình thái

và phát ngôn tình thái.
Trong một phát ngôn tình thái, đôi lúc yếu tố tình thái đối với sự tri nhận của
sinh viên nƣớc ngoài giống nhƣ “một mớ hỗn độn” đối lập với những yếu tố có
nghĩa thực xung quanh nó, hơn nữa, vì thƣờng dùng trong khẩu ngữ nên việc
nghe hiểu ngữ điệu là rất quan trọng. Việc khác biệt giữa các loại hình ngôn ngữ
của bản ngữ và ngôn ngữ mẹ đẻ của ngƣời học cũng đem đến những khó khăn
nhất định cho sinh viên nƣớc ngoài. Vì thế, điều quan trọng là giáo viên phải tạo
cho ngƣời học một “cảm giác nào đó” về “khối hỗn độn” đó, tạo một thói quen

19


trực giác, sau đó phải đạt đƣợc một độ nhạy cảm nhất định về sự tồn tại của
những yếu tố này trong lời nói bằng cách luyện tập nghe và nhận biết các lối nói
nhấn nhá, ngữ điệu khác nhau trong khẩu ngữ.
Vai trò của phát ngôn tình thái trong giao tiếp là của ngƣời Việt có vị trí khá
quan trọng, đặc biệt là trong giao tiếp khẩu ngữ, giao tiếp trực tiếp, từ đó nó cũng
trở thành một vấn đề hết sức quan trọng đối với ngƣời nƣớc ngoài khi muốn nắm
bắt tiếng Việt với tƣ cách nhƣ một ngoại ngữ. Qua nghiên cứu, ngƣời ta thấy
rằng một số chức năng tình thái chỉ xuất hiện trong giao tiếp mặt đối mặt, nghĩa
là chúng không chỉ phụ thuộc vào ngƣời nói mà còn phụ thuộc vào quan hệ
tƣơng tác, có tính đối thoại giữa ngƣời nói và ngƣời nghe.
Nhìn chung, khi phân biệt tình thái của phát ngôn, ngƣời ta thƣờng thấy ý
nghĩa của chúng có thể đóng vai trò phân biệt các kiểu chức năng của câu.
Thƣờng có bốn loại chức năng chính:
- Tình thái trần thuật: đấy, là cùng, ấy mà (í mà)…
- Tình thái nghi vấn: chăng, hả, ư, chứ…
- Tình thái mệnh lệnh, cầu khiến: xem, đi, đã, nhé…
- Tình thái cảm thán: mất, thật, mới chết…
Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi thƣờng gặp một số loại mô hình quán

ngữ tình thái mà đặc biệt sinh viên thƣờng quan tâm đến những loại nhƣ: quán
ngữ tình thái có hình thức kết cấu ngữ pháp, từ tình thái có hình thức hƣ từ…Với
sự phân bố vị trí của chúng trong câu cũng nhƣ khả năng mô hình hóa, công thức
hóa thì dƣờng nhƣ quán ngữ tình thái dƣới dạng một kết cấu có tính cố kết nhƣ
một công thức ngữ pháp, đặc biệt là với sinh viên nƣớc ngoài, nói một cách đơn
giản hơn, nó nhƣ là một cách nói khẩu ngữ có yếu tố văn hóa cao trong tiếng
Việt.

20


1.4 Lai lịch vấn đề
Lý thuyết tình thái mặc dù đã nêu ra nhiều thế đối lập về phạm trù tình thái
nhằm làm sáng tỏ bức tranh muôn màu này, tuy nhiên cũng khó có thể đi đến
thống nhất hoàn toàn trong quan niệm. Chẳng hạn tình thái nhận thức và tình thái
đạo nghĩa; tình thái căn bản và tình thái nhận thức; tình thái hƣớng tác thể và
tình thái hƣớng ngƣời nói; tình thái mục đích phát ngôn và tình thái lời phát
ngôn. Trong đó thế đối lập giữa tình thái mục đích phát ngôn và tình thái của lời
phát ngôn là một thế đối lập triển vọng và hữu dụng.
Cách tiếp cận ngữ dụng học này cho phép ngƣời nghiên cứu có thể miêu tả
toàn diện tình thái với các phƣơng tiện tình thái hoạt động, theo Cao Xuân Hạo,
“nhƣ những siêu tác tử tác động vào nội dung mệnh đề, hình thành nên khung
tình thái rộng lớn của câu”. Cao Xuân Hạo cũng là tác giả đầu tiên trong giới
Việt ngữ học chủ trƣơng phân loại tình thái theo cặp đối lập trên nhƣng ông gọi
chúng là tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn.
Tình thái của hành động phát ngôn phân biệt lời nói về phƣơng diện mục đích
và tác dụng trong giao tiếp. Đó là sự phân biệt phổ biến giữa các khái niệm quen
thuộc câu trần thuật, câu hỏi, câu cầu khiến…vốn là những sự phân biệt đƣợc
ngữ pháp hóa (thể hiện bằng những sự phân biệt về hình thức đã đƣợc mã hóa
trong ngữ pháp), chúng cũng đƣợc ngữ pháp truyền thống mô tả từ lâu. Ngoài ra,

tình thái của hành động phát ngôn còn phải kể thêm sự phân biệt giữa hai loại
câu trần thuật (miêu tả) mang tính thông báo thuần túy, những câu có giá trị ngôn
trung đƣợc đánh dấu: câu xác nhận, câu phản bác (phản bác phủ định), câu ngôn
hành. Tình thái của hành động phát ngôn thuộc về dụng pháp.
Tình thái của lời phát ngôn thuộc nội dung đƣợc truyền đạt (trong câu trần
thuật hay câu hỏi), nó liên quan đến thái độ của ngƣời nói đối với điều mình nói

21


ra hay đến quan hệ sở đề và sở thuyết của mệnh đề. Nó thuộc về bình diện nghĩa
học, bao gồm hai loại là tình thái của câu và tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt
nhân.
Tình thái của câu phản ánh thái độ của ngƣời nói với điều mình nói ra, cách
ngƣời nói đánh giá hiện thực trong thời gian (phạm trù thì), mức độ của tính xác
thực, tính tất yếu (khách quan hay đạo lí), tính khả năng (vật chất hay tinh thần),
tính mong muốn hay đáng tiếc..của điều đƣợc thông báo.
Tình thái của cấu trúc vị ngữ hạt nhân phản ánh những dạng thức thể hiện của
hành động, quá trình, trạng thái hay tính chất do vị ngữ diễn đạt (phần thuyết).
Dạng thức này bao gồm những đặc trƣng nhƣ “kéo dài/không kéo dài”, “bắt
đầu/kết thúc” (đặc trƣng về thể). Nếu hạt nhân vị ngữ của câu có chủ thể thì tình
thái phản ánh mối quan hệ của chủ thể (tham tố thứ nhất) đối với tính hiện thực,
tính tất yếu, tính khả năng của hành động, quá trình, trạng thái hay tính chất do
vị ngữ hạt nhân của phần thuyết biểu đạt (có ý muốn, có ý định làm, đủ can đảm,
để làm, mức độ của trạng thái, tính chất đƣợc chủ thể mang trong bản thân.
Khi chúng ta chấp nhận một quan niệm rộng về tình thái và các yếu tố tình
thái liên quan, đồng nghĩa với việc chúng ta cho rằng bất kì một phát ngôn nào
cũng chứa đựng một yếu tố tình thái nào đó. Có dạng tình thái đƣợc đánh dấu
trong câu và dạng không đƣợc đánh dấu trong câu. Tình thái có thể đƣợc đánh
dấu bằng chính các phƣơng tiện tình thái, nghĩa.

Các ý nghĩa tình thái rất rộng và phong phú, vì thế phƣơng thức thể hiện và
biểu đạt chúng cũng là một tập hợp rộng lớn và đa dạng không kém. Sự rộng lớn
và đa dạng đó không chỉ đem lại những điểm thú vị trong giao tiếp hay trong
nghiên cứu mà nó còn khiến chúng ta gặp phải không ít những khó khăn, phức
tạp. Trong ngôn ngữ biến hình thì các phƣơng tiện biểu thị nghĩa tình thái đã

22


×