Tải bản đầy đủ (.pdf) (185 trang)

toàn văn Phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 185 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HUY PHÒNG

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
NGUYỄN HUY TƯỞNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HUY PHÒNG

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
NGUYỄN HUY TƯỞNG
Chuyên ngành: Lý luận Văn học
Mã số: 62 22 32 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS Phạm Thành Hưng
2. TS. Nguyễn Văn Nam

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực,
khách quan, khoa học và chưa được công
bố trong công trình của các tác giả khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Huy Phòng
NguyÔn Huy Phßng


MỤC LỤC

1. Lý do chọn đề tài

1
1

2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu

2
3

4. Phương pháp nghiên cứu

5. Đóng góp mới của luận án
6. Cấu trúc luận án

3
4
5

MỞ ĐẦU

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Một số vấn đề về phong cách và phong cách cá nhân nhà văn
1.1.1. Một số quan niệm về phong cách
1.1.2. Về vấn đề phong cách cá nhân nhà văn
1.1.3. Tình hình nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết phong cách ở Việt Nam
1.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.2.2. Tình hình nghiên cứu, tiếp nhận sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
ở Trung Quốc
1.2.3. Những vấn đề đặt ra qua khảo sát tình hình nghiên cứu phong cách
nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng

6
6
6
12
19
24
24

32
35

Chương 2
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
VÀ QUAN NIỆM CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG VỀ NGHỆ THUẬT

40

2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan và quan
niệm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng
2.1.1. Gia đình, quê hương và thời đại
2.1.2. Con người Nguyễn Huy Tưởng
2.2. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng
2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
2.2.2. Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
2.3. Quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật
2.3.1. Về thiên chức cao cả của người nghệ sĩ
2.3.2. Về văn chương và tiêu chuẩn của cái đẹp

40
40
43
46
46
51
56
56
60



2.3.3. Về đặc trưng của thơ và tiểu thuyết lịch sử

64

Chương 3
NÉT TINH TẾ, TÀI HOA CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
TRONG KHÁM PHÁ ĐỜI SỐNG LỊCH SỬ - VĂN HÓA

70

3.1. Vùng hiện thực thẩm mĩ đặc sắc trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng
3.1.1. Cảm thức về truyền thống lịch sử dân tộc
3.1.2. Cảm thức về âm hưởng hào hùng của các cuộc chiến tranh
cách mạng
3.1.3. Cảm thức về vẻ đẹp của Thăng Long - Hà Nội
3.2. Các kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
3.2.1. Kiểu nhân vật Quân vương, tướng sĩ
3.2.2. Kiểu nhân vật kẻ sĩ Thăng Long
3.2.3. Kiểu nhân vật người phụ nữ

71
72
78
88
96
97
101
105


Chương 4
NHỮNG SÁNG TẠO ĐỘC ĐÁO CỦA NGUYỄN HUY TƯỞNG
TRONG PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

115

4.1. Những sáng tạo trong nghệ thuật nghệ hư cấu về đề tài lịch sử
4.2. Dấu ấn sáng tạo trong sử dụng ngôn từ
4.3. Những đặc điểm nổi bật trong việc tạo âm hưởng, giọng điệu
4.4. Sự kết hợp hài hòa lối kết cấu cổ điển và hiện đại
4.5. Những tín hiệu không gian - thời gian nghệ thuật tiêu biểu

115
126
142
151
157

KẾT LUẬN

166

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

169
170



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Sự vận động, phát triển của một nền văn học được đánh dấu bằng sự
xuất hiện, định hình của các tài năng văn học, các phong cách nghệ thuật độc
đáo. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu từng khẳng định, khi một “phong cách lớn
ra đời, đó là một thời kỳ mới của văn học trong quá trình lịch sử” [59, tr.62], vì
thế việc nghiên cứu sáng tác của nhà văn dưới góc nhìn lý thuyết phong cách là
hướng nghiên cứu cần thiết, có tính thời sự để nhận diện, khẳng định những nỗ
lực sáng tạo của người nghệ sĩ trong việc tạo ra lối viết, phong cách riêng
không lẫn với các cây bút cùng thời. Đồng thời qua việc nghiên cứu phong
cách tác giả sẽ thấy được sự phong phú, đa dạng của đời sống văn chương,
thấy được những dấu ấn của cả một giai đoạn, thời kỳ lịch sử.
Trong đời sống phê bình văn học hiện nay có sự xuất hiện của nhiều
trường phái, lý thuyết phê bình như: tự sự học, thông diễn học, văn hóa học,
phê bình nữ quyền, hậu thực dân… nhằm đem đến cho người đọc những cảm
nhận mới về các hiện tượng văn chương. Tuy nhiên để thấy được sự khác biệt,
nổi bật trong cảm hứng, quan điểm sáng tác đến phương thức, bút pháp nghệ
thuật của nhà văn thì lối nghiên cứu, phê bình theo phong cách vẫn là hướng
nghiên cứu phù hợp, có tính thực tiễn cần được vận dụng để thấy được vẻ đẹp,
sự khác lạ của những tác phẩm văn chương, cũng như sự sáng tạo, đóng góp
của nhà văn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.
1.2. Nhắc đến văn học Việt Nam thế kỷ XX không thể không nhắc tới
những gương mặt tiêu biểu với phong cách độc đáo như Nguyễn Bính, Xuân
Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Thạch Lam…, và đặc biệt phải kể tới những
sáng tác ấn tượng mang phong cách riêng của Nguyễn Huy Tưởng. Xuất hiện
trên văn đàn muộn so với sự thành công của những bạn văn cùng thời, nhưng
với những bước tiến chậm mà chắc chắn, đĩnh đạc của một cây bút luôn nỗ lực
vươn lên với niềm khát khao mãnh liệt mượn văn chương để tỏ lòng yêu nước,
“tô điểm cho non sông những tòa đài hoa lệ lộng lẫy nhất trần gian” (kịch Vũ

Như Tô), đã thôi thúc và giúp Nguyễn Huy Tưởng có được những tác phẩm
xuất sắc với lối viết tài hoa. Bao trùm lên sáng tác của nhà văn là âm hưởng sử
1


thi hùng tráng quyện hòa trong chất men say của lãng mạn, trữ tình với niềm
cảm thức khôn nguôi về lịch sử dân tộc trong quá khứ, hiện tại với lòng yêu
nước thiết tha, sâu nặng.
1.3. Tính từ tác phẩm đầu tay Vũ Như Tô đến cuốn tiểu thuyết cuối đời
Sống mãi với Thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng đã tạo ra một hành trình văn chương
phong phú, đặc sắc. Trên nền cảm hứng về đề tài lịch sử dân tộc, nhà văn đã có
những hư cấu, sáng tạo độc đáo mà cho đến nay những vấn đề đặt ra trong
sáng tác của nhà văn như: mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống; nghệ
thuật với cường quyền; trách nhiệm của nhà văn với cuộc đời, với nghệ thuật;
bút pháp hư cấu, sáng tạo về đề tài lịch sử…vẫn thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu, phê bình và công chúng bạn đọc.
1.4. Không chỉ là nhà văn lớn, Nguyễn Huy Tưởng còn là người nặng
tình với với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa dân tộc. Cuộc đời và sự nghiệp
của ông là một đề tài lớn luôn gây được sự quan tâm, chú ý của bạn đọc và giới
nghiên cứu, phê bình. Đã có nhiều công trình khoa học, nhiều hội thảo được tổ
chức, giới thiệu về cuộc đời, văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng ở nhiều phương
diện, góc nhìn với những tìm tòi, phát hiện thú vị, nhưng tiếp cận sáng tác của
nhà văn dưới ánh sáng của lý thuyết phong cách thì vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được
nhìn nhận một cách toàn diện, bao quát, có hệ thống. Vì thế, nghiên cứu phong
cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng là công việc cần thiết để nhận chân và
khẳng định dấu ấn sáng tạo, tài năng văn chương và những đóng góp to lớn của
nhà văn đối với sự phát triển văn hóa, văn học nước nhà.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của một tác giả, chúng tôi quan tâm
đến dấu ấn sáng tạo và những tín hiệu nghệ thuật đặc sắc mang tính ổn định

được thể hiện trong toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn. Đồng thời có sự
đối sánh với các tác giả cùng thời và sau này để thấy được những sáng tạo
riêng của nhà văn đó. Phong cách nghệ thuật nhà văn thể hiện qua quan niệm
sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu, đỉnh cao. Nguyễn Huy Tưởng sáng tác
trên nhiều thể loại, trong phạm vi của luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu
vào bốn thể loại với những tác phẩm mà theo chúng tôi, chúng chứa đựng văn
phong, cốt cách con người Nguyễn Huy Tưởng: Tiểu thuyết (Đêm hội Long
2


Trì, An Tư, Sống mãi với Thủ đô); Kịch (Vũ Như Tô, Bắc Sơn, Những người ở
lại, Luỹ hoa - kịch bản phim); Truyện thiếu nhi (Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Tìm
mẹ, An Dương Vương xây thành Ốc, Kể chuyện Quang Trung) và toàn bộ Nhật
ký của nhà văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung tìm hiểu những vấn đề lý luận về phong cách trong
nghiên cứu văn học, đặc biệt là vấn đề phong cách tác giả. Đồng thời ứng dụng
lý thuyết của loại hình phê bình này để tìm hiểu phong cách nghệ thuật
Nguyễn Huy Tưởng. Đó là những nét độc đáo, nổi bật trong quan niệm của
nhà văn về nghệ thuật và con người, trong cảm hứng sáng tạo, trong nội dung
tư tưởng và bút pháp thể hiện. Từ đó luận án khẳng định vai trò, dấu ấn của
phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng đối với sự phát triển của văn
chương dân tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu phong cách của một tác giả văn học Việt Nam hiện đại,
chúng tôi dựa trên phương pháp luận biện chứng, lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin. Phân tích đánh giá tác giả, tác phẩm một cách khách quan, khoa học
trong sự đối sánh với các tác phẩm, tác giả khác cùng thời và sau này.
Bên cạnh đó, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
làm công cụ cho việc định hướng thẩm bình và chỉ ra những vẻ đẹp trong sáng
tác của nhà văn như:

- Phương pháp tiếp cận thi pháp học. Vận dụng những lợi thế của thi
pháp học, luận án đi sâu khảo sát hệ thống quan niệm của nhà văn về nghệ
thuật và cuộc đời; tài nghệ của nhà văn trong việc xây dựng hình tượng nhân
vật, xây dựng kết cấu, nghệ thuật dùng từ, cách bài trí không gian, thời gian
nghệ thuật.
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử. Phương pháp này được luận án vận
dụng trong việc nghiên cứu, tìm hiểu những tác động của ngoại cảnh như: gia
đình, quê hương, thời đại và các mối quan hệ của người nghệ sĩ đến việc hình
thành cảm quan sáng tác, cách lựa chọn đề tài, nhân vật của nhà văn.
- Phương pháp so sánh. Qua so sánh đối chiếu sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng với sáng tác của các nhà văn khác cùng viết về đề tài lịch sử, luận án sẽ
3


chỉ ra những nét riêng, độc đáo, những đóng góp to lớn của Nguyễn Huy
Tưởng đối với văn chương dân tộc.
- Phương pháp thống kê. Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát về
mặt ngôn ngữ và tần số xuất hiện của những từ đặc trưng trở đi trở lại nhiều
lần trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng, trở thành những tín hiệu nghệ
thuật quan trọng để qua đó thấy được nét riêng và sự sáng tạo của nhà văn
trong việc sử dụng từ ngữ - một trong những chất liệu đầu tiên làm nên thành
công và sức hấp dẫn của tác phẩm.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là
nhà văn, ông còn là nhà văn hóa, nhà nghiên cứu lịch sử. Mỗi tác phẩm của
ông đều chứa đựng lượng tri thức lớn về lịch sử - văn hóa - văn chương. Vì
vậy nghiên cứu con người và sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, chúng tôi kết
hợp một số thao tác nghiên cứu của các ngành văn hóa học, lịch sử, ngôn
ngữ… để có thể đưa ra những kết luận có sức thuyết phục về sự kết hợp hài
hòa những yếu tố văn hóa, văn học, lịch sử trong nhiều sáng tác của nhà văn.
5. Đóng góp mới của luận án

Thông qua luận án, chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn bao quát về hành
trình sáng tạo của Nguyễn Huy Tưởng với những quan niệm tiến bộ của ông về
nghệ thuật, con người mà đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
một cách hệ thống dưới góc nhìn lý thuyết phong cách. Luận án khẳng định
những giá trị nổi bật, những dấu ấn sáng tạo và đóng góp to lớn của Nguyễn
Huy Tưởng đối với dòng văn học viết về lịch sử. Với những nỗ lực sáng tạo
cùng tình yêu lịch sử, yêu quê hương, đất nước, Nguyễn Huy Tưởng xứng
đáng được mệnh danh là nhà chép sử bằng văn chương, nhà văn của Hà Nội
với những trang viết tài hoa, độc đáo.
Qua nghiên cứu phong cách nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng, luận án sẽ
mở ra hướng nghiên cứu tiếp theo về phong cách nghệ thuật của các tác giả
cùng thời, rộng hơn là phong cách thời đại. Những đóng góp mới của luận án
hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo có ý nghĩa đối với những ai quan tâm tìm hiểu
di sản văn chương dân tộc, trong đó có những sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng.
4


6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang) và danh mục tài liệu
tham khảo (11 trang), cấu trúc luận án gồm có 4 chương như sau:
Chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2
Hành trình sáng tạo và quan niệm của Nguyễn Huy Tưởng về nghệ thuật
Chương 3
Nét tinh tế, tài hoa của Nguyễn Huy Tưởng
trong khám phá đời sống lịch sử - văn hóa
Chương 4

Những sáng tạo độc đáo của Nguyễn Huy Tưởng
trong phương thức biểu hiện

5


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề về phong cách và phong cách cá nhân nhà văn
Phong cách học là khoa học nghiên cứu văn chương, một loại hình lý
thuyết phê bình ra đời sớm và đạt được nhiều thành tựu trong việc chỉ ra nét
độc đáo, riêng biệt và dấu ấn sáng tạo của người nghệ sĩ đối với sự phát triển
của văn chương dân tộc. Tuy nhiên cho đến nay những vấn đề về phong cách
vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau như: cách quan niệm về nội
hàm khái niệm phong cách; các bình diện, tiêu chí phê bình theo phong cách
học; sự phân định ranh giới giữa phong cách với thi pháp; phong cách học chỉ
bao gồm hình thức hay cả phương diện nội dung tác phẩm? liệu có thể xác
định được phong cách chung của cả thời đại văn học?… Đó là những vấn đề
đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Vì thế việc xác lập hệ thống khái niệm
công cụ với các tiêu chí, bình diện cụ thể là cần thiết để việc nghiên cứu, phê
bình văn học theo phong cách đạt hiệu quả. Trong tiểu mục này, luận án sẽ
tổng hợp một số ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu, phê bình trong và
ngoài nước về lý thuyết phong cách, đặc biệt đi sâu tìm hiểu vấn đề phong
cách cá nhân nhà văn làm cơ sở lý luận triển khai việc tìm hiểu phong cách
nghệ thuật Nguyễn Huy Tưởng.
1.1.1. Một số quan niệm về phong cách
Thuật ngữ Stylos (Hy Lạp), Stylus (La Mã), Style (Pháp) có nghĩa là
phong cách ra đời sớm nhất ở Hy Lạp - La Mã cổ đại với nghĩa ban đầu chỉ nét
chữ, bút pháp, rộng hơn là chỉ tình yêu ngôn ngữ, nghệ thuật dùng từ. Với nét

nghĩa ban đầu, phong cách được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực ngôn ngữ,
điều này được thể hiện rất sớm trong các công trình Thi pháp học, Tu từ học
của Aristote, Các quy luật của Xixeron (Marcus Tullius Cicero, 106-43 TCN).
Sang thời cận đại, khái niệm phong cách không chỉ được hiểu và vận
dụng trong phạm vi hẹp của ngôn ngữ học mà nội hàm khái niệm đã được mở
rộng. Phong cách được coi là đặc trưng nghệ thuật của nghệ thuật, một phạm
trù thẩm mĩ, một hệ thống nghệ thuật biểu hiện hình thức của tác phẩm.
"Phong cách là một phương hướng riêng biệt trong nghệ thuật hình thành ở
6


thời đại nào đó và là một hệ thống xác định của các dấu hiệu nghệ thuật tư
tưởng" [103, tr.28].
Cùng với sự phát triển của các khuynh hướng nghiên cứu, phê bình và
thực tiễn sáng tác nghệ thuật, tới thời hiện đại, phong cách được coi là một
phạm trù thẩm mĩ, một hiện tượng văn học nghệ thuật bao gồm trong đó tất cả
sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong cách được nghiên cứu trong mối tương
quan với tư tưởng của nhà văn, với thời đại.
Bàn về khái niệm, thuật ngữ phong cách có nhiều ý kiến, quan điểm khác
nhau được đưa ra nhằm xác định nội hàm, phạm vi, đặc trưng của lĩnh vực
nghiên cứu. Nhưng càng nghiên cứu, các nhà khoa học lại càng nhận ra sự đa
dạng, phức tạp của đối tượng. Theo L. Dolezel, nhà lý luận ngữ văn của Đại
học Toronto, thuật ngữ phong cách là một khái niệm siêu ngôn ngữ của lý
thuyết văn chương. Nó chỉ là một khái niệm vay mượn từ ngôn ngữ học, do
các nhà ngôn ngữ cố ý đề cao, lợi dụng nó để nhấn mạnh tầm quan trọng của
ngữ học trong nghiên cứu và phê bình văn chương. Theo thời gian, khái niệm
phong cách càng ngày càng trở nên phức tạp, tổ hợp quá nhiều cách hiểu, thậm
chí gây trở ngại cho nghiên cứu phê bình văn học. Đã đến lúc phải trả lại nó
cho ngôn ngữ học, xem nó chỉ là phong cách ngôn ngữ là đủ. (xem “Phong
cách văn học: Ghi chú ngắn về một khái niệm phức hợp”, tr. 265, Lubomir

Dolezel : Studiez ceske literatury a poetiky, Nxb Torst, Praha, 2008). Còn theo
nhận định của Khrapchenko thì “hiện đang tồn tại một số lượng rất lớn những
định nghĩa khác nhau về phong cách văn học. Những định nghĩa này xoè ra
như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù lịch sử - thẩm mĩ
rộng nhất, bao quát và sự nhìn nhận nó như những đặc điểm của những tác
phẩm riêng lẻ” [73, tr. 258]. A. Compagnon trong cuốn Bản mệnh của lý thuyết
cũng nhận định: “Phong cách học vẫn là một môn bất ổn định do tính đa nghĩa
của phong cách, và nhất là của độ căng, của tính thăng bằng mong manh, thậm
chí không thể có, vốn đặc trưng cho một quan niệm nằm ngất ngưởng giữa cái
riêng và cái chung, cá nhân và đám đông. Phong cách nhất thiết phải có hai
phương diện, một phương diện tập thể và một phương diện cá thể, hoặc một
phía quay về ngôn ngữ xã hội và một phía quay về ngôn ngữ cá thể.” [14;
tr.255]. Và với quan điểm của mình, Khrapchenco khẳng định: “Phong cách là
7


phương pháp biểu đạt cách chiếm lĩnh đời sống bằng hình tượng, là phương
pháp thuyết phục và hấp dẫn người đọc.” [73, tr.7] Như vậy, phong cách là thủ
pháp, là cách thức, phương tiện nghệ thuật để nhà văn phản ánh hiện thực
nhằm tạo ra sự hấp dẫn của tác phẩm đối với bạn đọc.
Bên cạnh quan điểm của Khrapchenco về phong cách, các nhà nghiên cứu
ngôn ngữ, văn chương Nga như V.V.Vinogradov, V.Turin, L.Novichenko,
V.Jirmunxky… trong các công trình của mình cũng đã đưa ra những quan
niệm riêng về phong cách.
Theo V.V.Vinogradov: “Phong cách học nghiên cứu sự phát triển của các
phong cách cá nhân, chiếm vị trí trung tâm trong phong cách học văn học là
những quan sát và nghiên cứu trong lĩnh vực các quy luật hình thành và phát
triển của các hệ thống biểu hiện ngôn từ nghệ thuật - đây là những hệ thống có
tính chất cá nhân hoặc được cá thể hóa, tức là được hình thành như những cấu
trúc cố định và hoàn chỉnh - cả trong lịch sử từng nền văn học dân tộc nói

riêng, cả trong lịch sử chung của văn học thế giới (phong cách tác phẩm văn
học, phong cách nhà văn, phong cách trường phái văn học…)" [73, tr. 18]
Đi sâu vào bình diện ngôn ngữ - một yếu tố quan trọng cấu thành nên
phong cách nhà văn, V. Turin lưu ý: "Phong cách đó là ngôn từ được xét trong
mối quan hệ của nó với hình tượng, đó là tác động qua lại thường xuyên giữa
những khái niệm và những ý nghĩa nảy sinh trong ngôn từ vốn đặt vào một văn
cảnh nghệ thuật” [73, tr. 259]. Còn L.Novichenko thì cho rằng phong cách
nghệ thuật gắn liền với cá tính sáng tạo và bị chi phối bởi những tác động của
thời đại, cộng đồng: "Phong cách học hiểu theo nghĩa chung nhất là vẻ đặc thù
trong những tác phẩm của nhà văn (hoặc của một nhóm nhà văn), vẻ đặc thù
này được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong
những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những tác
phẩm ấy." [73, tr. 261].
Với nhà nghiên cứu V.Jirmunxky, khi nhận định về phong cách của tác
phẩm văn học lại nhấn mạnh sự thống nhất của các yếu tố nội dung và những
yếu tố tạo hình thức của phong cách: "Phong cách nghệ thuật của nhà văn là sự
biểu hiện thế giới quan của anh ta, thế giới quan đó được thể hiện trong những
hình tượng bằng các phương tiện ngôn ngữ. Bởi vậy không thể nghiên cứu
8


phong cách nghệ thuật của nhà văn trong tính mục đích chức năng của nó mà
tách rời nội dung tư tưởng - hình tượng của tác phẩm. Đồng thời phong cách
của tác phẩm văn học không phải là tu từ học: đề tài, hình tượng, bố cục của
tác phẩm văn học, nội dung nghệ thuật của nó (nội dung này được thể hiện
bằng những phương tiện ngôn ngữ nhưng không giới hạn ở từ ngữ) cũng là
những yếu tố quan trọng của của phong cách, và có thể khá quan trọng, bởi vì
chúng xác định cả những nguyên tắc nghệ thuật của việc lựa chọn chất liệu từ
ngữ, tức là tu từ học hiểu theo nghĩa hẹp của từ đó" [73, tr. 260].
Bên cạnh những thành tựu lý luận của các nhà nghiên cứu, phê bình văn

học Nga bàn về phong cách, các nhà nghiên cứu văn học Pháp, Mỹ như: A.
Compagnon, G.Flaubert, R. Barthes, R. Jakovson, C. Lévi - Strauss, M.
Riffaterre… bằng những kiến giải từ hệ hình cấu trúc, ngôn ngữ, thi học, cũng
đã đưa ra những ý kiến, quan điểm mới về vấn đề tưởng chừng như xưa cũ là
phong cách:
Nhà văn Pháp G. Flaubert khi bàn về phong cách cho rằng yếu tố quan
trọng làm nên phong cách là ở quan điểm của người nghệ sĩ: “Phong cách đối
với nhà văn cũng như màu sắc đối với họa sĩ là một vấn đề không thuộc về kỹ
thuật mà về quan điểm.” [14; tr. 250]
Còn trong công trình Độ không của lối viết, nhà nghiên cứu R. Barthes
bằng việc khảo sát, so sánh giữa ngôn ngữ và phong cách đã khẳng định:
“Phong cách là sự lựa chọn tổng quát một giọng, một éthos (văn thể)” [14; tr.
257]
Với A. Compagnon, nhìn vấn đề từ bản thể lý thuyết, ông cho rằng:
“Phong cách, về bản chất đó là sự phóng tứ của thi pháp, là khoảng cách trong
quan hệ với lối sử dựng được coi là thông thường của ngôn ngữ” [14; tr. 266].
“Phong cách giống như một chữ kí cũng có thể áp dụng cho cá nhân cũng như
trào lưu hoặc trường phái, và cho xã hội; ở mỗi một cấp độ, nó cho phép ta giải
quyết những vấn đề quy kết thuộc tính. Đó là một vẻ riêng của gia đình mà
chúng ta có thể nhận ra ngay khi chúng ta không có khả năng miêu tả nó, tách
bạch hoặc phân tích nó.” [14; tr. 278] Qua thống kê, khảo sát những ý kiến,
quan điểm của các nhà nghiên cứu đi trước, A. Compagnon đã đưa ra ba tiêu
chí mang tính thuyết phục để nhận diện phong cách, và ông khẳng định những
9


phương diện, tiêu chí này chưa bao giờ thực sự bị thủ tiêu. Phong cách vẫn
sống:
- “Phong cách là một biến hóa hình thức trên một nội dung ổn định (ít
hoặc nhiều)

- Phong cách là một tập hợp những nét đặc trưng của một tác phẩm cho
phép qua đó nhận dạng và nhận ra tác giả (trực giác hơn là phân tích)
- Phong cách là một sự lựa chọn giữa nhiều lối viết.” [14; tr.285]
Tuy còn có những điểm khác biệt trong quan niệm, cách giải thích, định
nghĩa về phong cách cũng như việc xác định, quy chiếu những yếu tố làm nên
phong cách nghệ thuật tác giả, tác phẩm, thể loại, thời đại… nhưng điểm gặp
gỡ trong quan điểm của các nhà nghiên cứu phương Tây là họ nhấn mạnh đến
khía cạnh sáng tạo, những nét riêng biệt, độc đáo của người nghệ sĩ sẽ góp
phần tạo nên phong cách. Và phong cách được thể hiện trong toàn bộ hành
trình sáng tạo, trong nội dung tư tưởng tác phẩm và phương thức biểu hiện.
Ở các nước phương Đông, đặc biệt là Trung Hoa, thuật ngữ phong cách
tuy xuất hiện muộn nhưng trong các công trình bàn về thơ của Lưu Hiệp (Văn
tâm điêu long), Viên Mai (Tùy viên thi thoại)… khái niệm văn khí, khí chất,
văn như kỳ nhân đã được các nhà phê bình sử dụng nhiều trong các bài viết khi
bàn về đặc tính của thơ, coi đó là yếu tố cơ bản để phân biệt giọng văn, khí
chất giữa nhà thơ này với nhà thơ khác. Bàn về quy luật và yêu cầu sáng tạo thi
ca, Viên Mai nhấn mạnh đến dấu ấn cá nhân của thi sĩ: “Thơ có người mà
không có ta là bù nhìn vậy… Làm thơ cũng như các huyện ở Giang Nam nấu
rượu đều lấy gạo làm nguyên liệu mà vẫn nấu thành các vị riêng. Người sành
rượu nếm khắp và nói đây là rượu Nam Kinh này, còn đây là rượu Tô Châu
này… Cái ngon giống nhau mà vị khác nhau là vì mỗi nơi đều có cách nấu
khác nhau.” [96, tr.134]. Như vậy, tuy không trực tiếp bàn về vấn đề phong
cách nhưng qua cách lý giải của Viên Mai về năng lực, tài nghệ sáng tạo của
người nghệ sĩ trong việc tạo ra những nét riêng, độc đáo ở mỗi tác phẩm, ta
thấy từ rất sớm những yêu cầu về sự độc đáo, khác lạ, không lặp lại trong sáng
tạo văn chương là quy luật, yêu cầu bắt buộc đối với mỗi nghệ sĩ. Và để có
được “khí chất” riêng, ngoài những yếu tố thiên bẩm, cá tính sáng tạo, đòi hỏi
10



thi sĩ phải học tập cổ nhân, nỗ lực cố gắng trong lao động nghệ thuật. Lưu Hiệp
nói: “Tài năng có cao thấp, khí chất có cứng mềm, học vấn có sâu nông, tập
quán có khéo vụng, đều là do bản chất và cũng do sự rèn luyện thêm mà đúc
thành. Vì thế mà văn chương có hay có dở, biến hóa vô cùng, vậy nên văn lý
sắc hay cùn, không thể vượt khỏi tài năng. Văn khí cứng hay mềm không thể
khác với khí chất, sự nghĩa nông sâu không thể trái với học vấn, thể thức tinh
hay thô không thể ngược với sự rèn luyện. Mỗi người đều theo cái sự thành
tâm của mình, sự khác nhau thật giống như gương mặt của từng người vậy.”
[96, tr. 135] Nhấn mạnh khí chất, phong cách của mỗi cá nhân nhưng Lưu
Hiệp cũng cho rằng qua những sáng tạo của người nghệ sĩ, người đọc sẽ thấy
được bức tranh, gương mặt văn chương của cả thời đại.
Như vậy, song hành với quá trình sáng tác của người nghệ sĩ, vấn đề
phong cách luôn được đặt ra bởi đó là những nét riêng, những sáng tạo độc đáo
làm nên bản sắc của mỗi thi sĩ, văn nhân. Đây cũng là tiêu chí để nhận diện,
phân biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác, và rộng hơn là giữa văn học của
dân tộc này với dân tộc khác. Nhà văn Pháp Voltaire từng khẳng định: “Từ
phong cách sáng tác để nhận ra người Ý, người Pháp, người Anh, người Tây
Ban Nha cũng rất dễ dàng như qua gương mặt, giọng nói, cử chỉ hành động để
nhận ra quốc tịch của họ vậy. Cái mềm mại đẹp ngọt của tiếng Ý đã tự nhiên
nhi nhiên thấm vào tư chất của nhà văn Ý. Và tôi cũng thấy đặc điểm của nhà
văn Tây Ban Nha thường được đánh dấu bằng ngôn từ hoa lệ, phong cách
trang trọng, ưa dùng những ẩn dụ… Muốn thấy rõ được sự khác nhau trong sở
thích, hứng thú của các dân tộc lân bang, phải khảo cứu phong cách khác nhau
giữa họ.” [96, tr. 136]
Ở Việt Nam, trong các cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, 150 thuật ngữ
văn học, Từ điển văn học, thuật ngữ phong cách được cắt nghĩa một cách
tương đối thống nhất: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự
thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện
biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn,
trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc.” [132,

tr.256]

11


1.1.2. Về vấn đề phong cách cá nhân nhà văn
Phong cách cá nhân nhà văn hay phong cách tác giả là một trong những
vấn đề quan trọng của phong cách, bởi nhà văn đóng vai trò là chủ thể, là nhân
tố quan trọng trong đời sống văn học. Nói như M. Proust: Thế giới được tạo
lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một
lần thế giới được tạo lập. Và chính sự độc đáo, riêng biệt, mới lạ trong sáng tác
của mỗi nhà văn thông qua những tác phẩm cụ thể sẽ góp phần làm nên phong
cách nghệ thuật của nhà văn đó. Đồng thời qua phong cách nghệ thuật sẽ cho
thấy sự trưởng thành, định hình của một tài năng sáng tạo.
Tuy là là một vấn đề quan trọng của phong cách học nhưng những quan
niệm, đánh giá, xác định về phong cách cá nhân nhà văn vẫn còn tồn tại nhiều
ý kiến khác nhau. Có người cho rằng phong cách cá nhân nhà văn gắn liền với
tư tưởng, tình cảm của nhà văn đó, người khác thì lại nghiêng về việc xem xét
những kỹ thuật biểu hiện ở nội dung và hình thức tác phẩm sẽ cho thấy những
sáng tạo riêng làm nên phong cách nhà văn… Ở góc độ nào đó, có thể thấy
những ý kiến đó đều đúng nhưng chưa đủ. Trong tiểu mục này, chúng tôi sẽ
khảo sát ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề này, qua đó xây dựng những
tiêu chí, bình diện cụ thể để làm cơ sở tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn
Huy Tưởng.
Theo cách hiểu truyền thống, nói đến phong cách là nói đến dấu ấn sáng
tạo của cá nhân nhà văn, nó mang tính riêng biệt, cá thể, độc đáo không lặp lại,
không tìm thấy trong sáng tác của nhà văn khác. Đồng thời phong cách nhà
văn còn thể hiện ở hệ thống các phương tiện biểu đạt, ở hình thức nghệ thuật
được xem xét trong tính quy luật và các nguyên tắc hài hòa. Như vậy, phong
cách cá nhân nhà văn được thể hiện trong nhiều yếu tố từ cá tính sáng tạo, tài

năng, cách nhìn nhận thế giới, con người đến việc lựa chọn đối tượng phản ánh
và những dấu ấn sáng tạo trong phương thức biểu hiện… Trên cơ sở tổng hợp,
phân tích các ý kiến, quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi xin được
nêu ra hai bình diện cơ bản làm cơ sở lí luận cho việc tìm hiểu dấu ấn sáng tạo
và phong cách nghệ thuật của cá nhân nhà văn.
Ở bình diện thứ nhất, phong cách cá nhân nhà văn biểu hiện trước hết ở
cách nhìn, cách cảm thụ mang tính chất khám phá, phát hiện mới về cuộc sống
12


nhân sinh. Đây là yếu tố thuộc về vấn đề thế giới quan, tư tưởng, lập trường và
quan điểm sáng tác của người nghệ sĩ. Tùy thuộc vào khí chất, tính cách và
những tác động của môi trường sống (gia đình, quê hương, thời đại), sự tiếp
thu những tinh hoa văn hóa, văn học truyền thống và nước ngoài sẽ chi phối và
ảnh hưởng lớn đến cảm quan sáng tác của nhà văn. Khrapchenco có cơ sở khi
cho rằng: “Phong cách biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo của nhà
văn, sự hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về cuộc sống, của cách nhìn của nhà
văn đối với thế giới.” [73, tr. 272] Cùng quan điểm này, nhà văn Đức Goethe
cũng nhấn mạnh: Phong cách nằm trong những căn cứ sâu xa của nhận thức,
nằm trong chính bản chất của sự vật chừng nào ta có thể xác định nó trong
những hình tượng có thể nhìn thấy và sờ thấy được. Còn A. Compagnon thì
cho rằng “Phong cách là một cách nhìn độc đáo, là dấu ấn chủ thể trong diễn
ngôn.” [14; tr. 250].
Nhưng nhận định trên đã khẳng định, thế gới quan của nhà văn có vai trò,
tác động lớn trong việc lựa chọn, phản ánh đối tượng, giúp họ tìm được vùng
hiện thực thẩm mỹ để sáng tác. Bàn về vai trò của việc tạo xúc cảm thẩm mỹ
trong văn bản ngôn từ, R. Jakovson nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của
“người gửi” (addresser) trong việc tạo “mã” (code) văn bản: “Chức năng được
gọi là cảm xúc hay biểu cảm vốn tập trung ở người gửi có mục đích thể hiện
trực tiếp thái độ của người nói với cái mà anh ta nói đến.” [32; tr. 111] Thế

giới quan của người nghệ sĩ còn được thể hiện qua những bài viết mang tính
tuyên ngôn, quan điểm, và nhất là được thể hiện qua những sáng tác cụ thể.
Thế giới quan sẽ chi phối việc nhà văn tiếp cận, lựa chọn chất liệu, nội dung
phản ánh, từ đó thấy được tinh thần, thái độ và trách nhiệm của người nghệ sĩ
đối với những vấn đề mà cuộc sống, xã hội đặt ra. K.A. Fedin từng viết: Cách
nhìn nhận cuộc sống chỉ thôi thúc nhà tiểu thuyết chọn tư liệu này chứ không
phải tư liệu khác cho tác phẩm của mình. Cùng quan điểm này, Khrapchenco
nhấn mạnh thêm: “Trong khi tạo thành một trong những đặc điểm cơ bản của
phương pháp tác phẩm, thái độ đối với những hiện tượng của hiện thực được
thể hiện ở sự lựa chọn tư liệu, ở các điển hình hóa, ở việc phân bố các nhân vật
của tác phẩm… Trong trường hợp này, thái độ đối với đối tượng sáng tác được
coi như một yếu tố cấu thành của phong cách.” [73; tr. 298], hay “Cá tính sáng
13


tạo của nhà văn thể hiện trong những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật của
nhà văn đó, trước hết nó thể hiện ở sự độc đáo trong cách nhìn của anh ta đối
với những hiện tượng của cuộc sống, ở sự độc đáo và ở ý nghĩa của những khái
quát mang tính sáng tạo của anh ta.” [73; tr. 221]
Như vậy, vai trò của thế giới quan, quan điểm sáng tác sẽ chi phối và tác
động lớn đến việc hình thành những đặc điểm riêng trong cách nhìn nhận,
khám phá hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ. Những yếu tố này tạo thành
nét riêng, độc đáo, tạo cơ sở, tiền đề cho việc hình thành phong cách nghệ
thuật.
Bên cạnh vai trò của thế giới quan trong sáng tác, một trong những yếu tố
có vai trò then chốt, quyết định đến việc tạo ra những tác phẩm lớn phải kể tới
là yếu tố tài năng, thiên bẩm của người viết. Bàn về tài năng, cá tính sáng tạo
của nhà văn, Turghenev đã nhấn mạnh đến nét riêng, sự sáng tạo độc đáo của
mỗi người, cái mà ông đề cao là tiếng nói, giọng điệu riêng biệt: “Cái quan
trọng trong tài năng văn học… và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kỳ một

tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của mình. Đúng thế, cái quan
trọng là tiếng nói của mình, cái quan trọng là cái giọng riêng biệt của chính
mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ một người nào khác…
Muốn nói được như vậy và muốn có được cái giọng ấy thì phải có cái cổ họng
được cấu tạo một cách đặc biệt, giống như của loài chim vậy. Đó chính là đặc
điểm phân biệt chủ yếu của tài năng văn học.” [73; tr. 220] Cùng quan điểm
này, nhà văn Ácmêni Đerenik Đemirchian cũng cho rằng với mỗi tài năng sáng
tạo phải tạo ra được “tiếng nói của mình”, “cái của riêng mình” bởi đó là
những yếu tố làm nên sự hấp dẫn, thích thú cho người đọc: Trong mỗi người
tàng trữ quá nhiều khoáng liệu, chất liệu của mình. Do đó cần phải rút ra, cần
phải khai thác cái chất liệu đó chứ không nên sử dụng những thứ do những
người khác đã làm ra trước anh. Cái của riêng mình dù nó là nhỏ bé nhưng là
của riêng mình - đó chính là cái có giá trị lớn trong văn học và đem lại sự thích
thú cho văn học… Việc khẳng định những cái riêng, những cái chỉ có ở nhà
văn này mà không có ở nhà văn khác là những biểu hiện của cá tính sáng tạo
và phong cách nghệ thuật nhà văn. “Cá tính sáng tạo của nhà văn thể hiện
trong những khía cạnh khác nhau của nghệ thuật của nhà văn đó, trước hết nó
14


thể hiện ở sự độc đáo trong cách nhìn của anh ta đối với những hiện tượng của
cuộc sống, ở sự độc đáo và ở ý nghĩa của những khái quát mang tính sáng tạo
của anh ta.” [73, tr. 221]
Nhấn mạnh đến phương diện nội dung phản ánh sẽ quyết định lớn đến
việc định hình phong cách nhà văn, G. Flaubert cũng cho rằng: Một tác phẩm
viết tốt không bao giờ làm cho người ta mệt mỏi, phong cách - đó là cuộc sống.
Đó là máu của chính tư tưởng.
Ở bình diện thứ hai, khi nói về phong cách cá nhân nhà văn, không thể
không quan tâm đến vai trò, tài nghệ của người nghệ sĩ đối với việc tổ chức kết
cấu tác phẩm; cách lựa chọn, xử lý tư liệu; vấn đề tạo giọng điệu, sử dụng

ngôn ngữ, thể loại - những yếu tố thuộc phương diện hình thức nghệ thuật của
tác phẩm, thiên về kỹ thuật, lối viết và phương thức biểu hiện. Đây là những
yếu tố quan trọng, là tín hiệu nghệ thuật để người nghiên cứu có thể gọi tên
phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.
Bàn về vai trò của việc tổ chức, sắp xếp tư liệu của người nghệ sĩ,
Khrapchenco cho rằng: “Phong cách không chỉ được hình thành dưới tác động
của đối tượng sáng tác, của tư liệu hiện thực mà còn tích cực tổ chức nên tư
liệu đó.” [73, tr. 282] và ông khẳng định, đặc điểm của người nghệ sĩ điêu
luyện là biết sắp xếp, tổ chức tư liệu, biết tách cái chủ yếu ra khỏi cái ngẫu
nhiên, biết khắc phục sự chống đối của tư liệu. Cùng với tư tưởng chung,
phong cách cũng có sứ mệnh kết hợp lại thành một chỉnh thể năng động những
yếu tố không thuần nhất có trong tư liệu của cuộc sống, trong đối tượng sáng
tác.
Ở phương diện khác, bên cạnh việc lựa chọn, xử lý tư liệu thì cách thức tổ
chức, kết cấu tác phẩm, cốt truyện, không gian - thời gian cũng là những yếu tố
hợp thành phong cách cá nhân nhà văn. “Tính xác định về chất của phong cách
cá nhân biểu hiện rõ trong những thủ pháp và những phương thức kết cấu các
tác phẩm văn học, trong cách cấu tạo chúng. Cách cấu tạo - xét trên phương
diện vai trò chức năng của nó trong hệ thống phong cách - có thể được xác
định như là sự tổ chức không gian và thời gian trong văn tự sự và trong kịch
một cách hợp lý và hữu hiệu nhất theo quan điểm của những nguyên tắc thẩm
mỹ cơ bản mà nhà văn làm kim chỉ nam.” [73, tr. 303]
15


Tuy nhiên với đặc trưng là loại hình nghệ thuật ngôn từ, lấy chất liệu
ngôn ngữ làm phương tiện biểu hiện vì thế khi nghiên cứu, phê bình văn học
dù vận dụng lý thuyết, xu hướng phê bình nào cũng không thể bỏ qua dấu hiện
quan trọng, đặc thù của ngôn ngữ. Phong cách cá nhân nhà văn được biểu hiện
cụ thể và rõ nhất trong việc tạo giọng điệu và sử dụng ngôn ngữ riêng, độc đáo.

Ngôn từ là hình thức, là phương tiện biểu đạt tư tưởng, nội dung, đồng thời nó
cũng là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Qua tín hiệu ngôn ngữ, người
đọc có thể nhận diện, phân biệt được sáng tác của nhà văn này so với nhà văn
khác. “Những người sành sỏi về văn học có thể căn cứ vào những đặc điểm về
giọng điệu của một đoạn văn tự sự nhất định mà họ chưa hề biết hoặc căn cứ
vào mấy dòng của một bài thơ mới lạ để xác định tác giả của những tác phẩm
ấy.”[73, tr. 297]. Trong những yếu tố cấu thành tác phẩm thì giọng điệu đóng
vai trò quan trọng, “quyết định nhiều cái trong việc xây dựng tác phẩm cũng
như trong tính cách khắc họa nhân vật.” Nhưng để tác phẩm có được giọng
điệu riêng đòi hỏi nhà văn phải có sự sắp xếp, tổ chức câu chữ, vận dụng phù
hợp với văn cảnh, tâm trạng nhân vật. Bàn về vai trò của nhà văn trong việc
sáng tạo, dùng từ, Khrapchenco cho rằng ngôn ngữ nghệ thuật không chỉ là cơ
sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn như là những hiện tượng của phong
cách. Việc sử dụng ngôn ngữ không chỉ xác lập căn cứ cho hình thức có tính
chất hình thức mà trước hết xác lập căn cứ cho hình thức có ý nghĩa của tác
phẩm văn học.
Với tư cách là một hiện tượng phong cách, ngôn ngữ có chức năng tạo ra
hệ thống giọng điệu của tác phẩm. Trong bức thư gửi V. Golxev (1887), nhà
nghiên cứu V. Korolenko viết: “Tôi muốn rằng mỗi một từ, mỗi một câu phải
đúng giọng điệu, phải đúng chỗ và trong mỗi câu, thậm chí nếu có thể được,
trong từng câu tách riêng ra, có thể lắng nghe thấy được sự phản ánh của một
môtip chủ yếu, có thể lắng nghe thấy được tâm trạng trung tâm, nếu có thể nói
như vậy được.” [73, tr. 318]
Như vậy, những sáng tạo về mặt ngôn ngữ, cách thức sử dụng chúng là
yếu tố quan trọng làm nên phong cách cá nhân nhà văn. Bàn về những dấu hiệu
của ngôn ngữ, những nhà nghiên cứu thuộc chủ nghĩa hình thức Nga, các nhà
16


cấu trúc, kí hiệu học phương Tây đã có nhiều kiến giải thú vị. Nếu phong cách

được coi là “phương thức thuyết phục và thu hút độc giả” thì những sáng tạo
của nhà văn trong việc tạo ra lối viết sẽ có vai trò quyết định việc chinh phục
và cuốn hút người đọc.
Đề cập đến sức mạnh của ngôn từ, sức vang và những hàm nghĩa tiềm
ẩn trong thơ, R. Jakovson cho rằng: “Trong logich học hiện đại có sự phân biệt
hai cấp độ ngôn ngữ, “ngôn ngữ đối tượng” nói về thế giới bên ngoài và “siêu
ngôn ngữ” nói bản thân ngôn ngữ.” [32; tr. 115] Và với R. Barthes, mỗi nhà
văn lớn là người tạo ra cho mình một lối viết riêng, lối viết chính là hình thức
của tác phẩm nghệ thuật: “Đặt giữa hệ vấn đề của văn chương, nó (lối viết) chỉ
nảy ra từ đó, vậy nên lối viết chính là ngụ ý của hình thức… Vậy nên lối viết
về bản chất là ngụ ý của hình thức, đó là sự lựa chọn của mặt bằng xã hội mà
tại đó nhà văn đã quyết định đặt bản chất ngôn từ của mình vào giữa lòng của
nó.” [14; tr. 257] Nhấn mạnh đến vai trò của ngôn ngữ, hình thức biểu hiện
trong việc tạo phong cách nhà văn, Stephen Ullman nhấn mạnh: “Chỉ có thể
nói về phong cách trong trường hợp người phát ngôn hoặc nhà văn có khả
năng lựa chọn giữa những hình thức biểu đạt khác biệt. Phép đồng nghĩa, theo
nghĩa bao quát nhất, nằm ở gốc rễ của tất cả vấn đề phong cách.” [14; tr. 260]
Có thể nói, phong cách học nói chung và phong cách cá nhân nhà văn
nói riêng là những vấn đề phức tạp, chưa dễ thống nhất trong quan điểm đánh
giá. Nói như A. Compagnon: “Phong cách khó có thể là một khái niệm thuần
túy; đó là một quan niệm phức tạp, phong phú, mập mờ, phức hợp. Thay vì gạt
bỏ những điều đã chấp nhận trước đây trong khi nó lại cứ được bồi thêm
những cái mới.” [14; tr. 254]. Phong cách cá nhân văn được biểu thị ở nhiều
bình diện, có sự hòa trộn, kết hợp cả những yếu tố thuộc nội dung tư tưởng và
bút pháp thể hiện: “Phong cách nằm trong đề tài (hình thức của nội dung), và
đề tài nằm trong phong cách (hình thức của biểu hiện)” hay “Phong cách
không liên quan tới thực chất của nội dung (hệ tư tưởng của nhà văn) mà đôi
khi lại liên quan tới thực chất của sự biểu hiện (chất liệu âm thanh), và luôn

17



luôn liên quan tới hình thức của nội dung (các lập luận) và hình thức của lối
biểu hiện (hình tượng, sự phân chia văn bản)” [Molinié, 14; tr. 275].
Như vậy, phong cách cá nhân nhà văn được biểu hiện khá đa dạng trong
toàn bộ hành trình sáng tạo, nhưng nơi tập trung biểu hiện rõ nhất là tác phẩm,
với những dấu ấn độc đáo trong cách sử dụng ngôn từ, tạo giọng điệu, xây
dựng hình tượng, kết cấu… Để có được phong cách nghệ thuật riêng, độc đáo
đòi hỏi mỗi cá nhân nghệ sĩ phải có những nỗ lực sáng tạo không ngừng trong
việc chiếm lĩnh cuộc sống, đổi mới lối viết, lối tư duy. “Để có phong cách,
phải có nhiều cách để nói cùng một điều: nguyên tắc là vậy. Phong cách đòi
hỏi một sự lựa chọn trong nhiều cách để nói cùng một điều.” [14; tr. 276] Tuy
nhiên không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách, chỉ những nhà văn
có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong cách riêng độc đáo. “Không thể
một lần và vĩnh viễn tạo ra được phong cách cá nhân. Phong cách cá nhân
được hình thành trong sự tương tác sinh động với những vấn đề sáng tác mà
nhà văn giải quyết trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của cuộc sống
và của bản thân nhà văn.”[73, tr. 331]
Sự vận động, phát triển của một nền văn học có sự đóng to lớn của các
văn nghệ sĩ có tài năng, có phong cách. Chính sự đa dạng trong phong cách cá
nhân sẽ tạo động lực thúc đẩy nền văn học phát triển. Qua các phong cách
nghệ thuật lớn, người đọc có thể thấy được phong cách chung của cả một giai
đoạn, thời kỳ. “Phong cách cá nhân của nhà văn là một khâu rất quan trọng của
quá trình văn học…những phong cách ra đời không phải chỉ như sự thể hiện
cách nhìn nhận cuộc sống của nhà văn riêng lẻ mà còn như một hiện tượng có
tính chất chung hơn.” [73, tr. 292] Với tính chất là một khâu, một mắt xích
quan trọng của quá trình văn học, phong cách cá nhân nghệ sĩ không chỉ là
những yếu tố thuộc sở hữu riêng mà rộng hơn nó mang tính chất thời đại, dân
tộc, nhân loại, và điều này chỉ có những phong cách nghệ thuật lớn, vĩ đại.
Victor Hugo từng khẳng định: Tương lai chỉ thuộc về những ai nắm được

phong cách - nhằm đề cao vai trò của phong cách trong sáng tạo nghệ thuật và
dự báo xu thế phát triển của mỗi nền văn học cũng như sự hiện diện của mỗi
18


nhà văn trong cuộc sống. Nắm bắt được những yếu tố làm nên phong cách với
những sở trường, đặc tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật - đó là cách để nhà
văn tồn tại, tạo được dấu ấn, bản sắc nghệ thuật riêng và quan trọng hơn là gây
được sự hấp dẫn, cuốn hút của tác phẩm đối với công chúng bạn đọc nhiều thế
hệ. Đây là yêu cầu, quy luật có phần nghiệt ngã trong sáng tạo nghệ thuật của
nhà văn: sự độc đáo, khác biệt, không lặp lại.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu, ứng dụng lý thuyết phong cách ở Việt
Nam
Vào những thập niên đầu thế kỷ XX, trong quá trình giao lưu, tiếp xúc với
văn hóa, văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, các nhà nghiên cứu, lý
luận phê bình như Hoài Thanh, Hải Triều, Thiếu Sơn, Vũ Ngọc Phan, Lê
Tràng Kiều, Trương Tửu, Lê Đình Kỵ… trong các bài viết của mình đã vận
dụng lý thuyết của các trường phái phê bình như phê bình tiểu sử, phê bình ấn
tượng, phê bình xã hội học…để nhìn nhận, đánh giá các hiện tượng văn
chương. Mặc dù trong các công trình nghiên cứu, họ không gọi tên lý thuyết
phê bình đã vận dụng nhưng qua những lời bình, những nhận xét, đánh giá về
cuộc đời, sự nghiệp của các thi sĩ, văn nhân bằng những câu, đoạn văn ngắn,
ấn tượng đã gọi tên được phong thái, cốt cách nổi bật, những nét đặc sắc riêng
của mỗi nhà văn. Trong Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh), Phê bình và cảo
luận (Thiếu Sơn), Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan)… những dấu ấn của lý
thuyết về phê bình theo phong cách đã được các nhà nghiên cứu vận dụng một
cách linh hoạt có hiệu quả.
Tuy nhiên thuật ngữ phong cách và những vấn đề lý luận về phong cách
như phong cách tác giả, phong cách tác phẩm, dòng phong cách… chỉ thực sự
xuất hiện và được bàn luận sôi nổi vào những thập niên cuối thế kỷ XX khi

một loạt các công trình của Vexelopxki, Shklovky, Jirmunxki, Khrapchenko…
bàn về phong cách được dịch và phổ biến ở nước ta. Trong một số công trình
nghiên cứu, các tác giả đã ứng dụng những thành tựu của khuynh hướng phê
bình theo phong cách một cách có hiệu quả với những kiến giải, phát hiện thú
vị. Tiêu biểu có thể kể tới công trình Thơ Hồ Xuân Hương (NXB Văn học,
1968) của Nguyễn Lộc khi ông thấy tiêu chí phân biệt thơ Hồ Xuân Hương
19


đích thực và lộn sòng theo mức độ và tính chất dâm tục của Trần Thanh Mại
không thoả đáng, nên đề xuất phân biệt theo phong cách.
Tiếp đó trong bài viết Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn
học Việt Nam của Đỗ Đức Hiểu in trên Tạp chí Văn học số 3 năm 1985, tác giả
cho rằng: việc xác định tiêu chí phân kỳ các giai đoạn lịch sử văn học cần phải
căn cứ vào sự xuất hiện của các tài năng văn học, các nhà văn lớn. Thông qua
các tác phẩm có giá trị thời đại sẽ quyết định và chi phối đến đặc trưng và sự
vận động, phát triển của cả một giai đoạn, thời kỳ văn học. Cuộc đời và sự
nghiệp sáng tác của nhà văn vừa mang những đặc trưng, dấu ấn cá nhân riêng
nhưng đồng thời cũng phản ánh những nét phổ quát của thời đại mình đang
sống. Nét nổi bật đó tạo ra những phong cách lớn, tiêu biểu. Vì thế khi phân
chia các giai đoạn, thời kỳ văn học cần phải quan tâm theo những phong cách
lớn.
Còn tác giả Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong
cách (in lần đầu năm 1979, NXB Tác phẩm mới) cho rằng phong cách gắn liền
với cá tính sáng tạo của nhà văn, bởi "văn chương là một hình thái ý thức xã
hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu và tài nghệ, cần cá
tính và phong cách" [99, tr.26]. Kế thừa tư tưởng, quan điểm của
V.V.Vinogradov: Phong cách học nghiên cứu sự phát triển của các phong cách
cá nhân, Nguyễn Đăng Mạnh đã triển, khai bổ sung thêm quan điểm này, ông
cho rằng: Đánh giá một nhà văn phải căn cứ vào ba tiêu chuẩn chính: tư tưởng,

tâm hồn lớn và có những đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc, vì “nghiên cứu một nhà văn xét đến cùng là nghiên
cứu tư tưởng của ông ta.”[99, tr. 13].
Ở một khía cạnh khác, nhà nghiên cứu Đào Thái Tôn trong công trình
Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục (NXB Giáo dục, 1995) khi lý
giải cơ sở nữ sĩ lựa chọn thể thơ Nôm truyền tụng đã viện dẫn đến phong cách
Lưu hương ký. Nhưng phong cách ấy cụ thể như thế nào thì vẫn chưa được lý
giải thấu đáo.
Nhìn chung trong các công trình nghiên cứu chuyên biệt, các tác giả mới
gọi tên khuynh hướng phê bình theo phong cách mà chưa đưa ra được cơ sở lý

20


×