Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hoạt động duy trì, bảo tồn hát ghẹo ở phú thọ (1986 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
==========

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

HOẠT ĐỘNG DUY TRÌ, BẢO TỒN
HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ (1986 - 2011)

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VĂN HÓA

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
==========

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

HOẠT ĐỘNG DUY TRÌ, BẢO TỒN
HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ (1986 - 2011)

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VĂN HÓA

Người hướng dẫn khoa học
TS. BÙI NGỌC THẠCH

HÀ NỘI - 2013




LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi
xin gửi lời cảm ơn những sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong khoa Lịch sử
và đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - TS. Bùi Ngọc
Thạch - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình thực
hiện và hoàn thiện khóa luận này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Thư viện trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 và Thư viện tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ tôi trong quá
trình thu thập tư liệu để làm khóa luận.
Tôi xin cảm ơn sự quan tâm của gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi đã trình bày trong khoá luận
này là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của thầy giáo,
TS. Bùi Ngọc Thạch. Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
khoá luận này.

Hà Nội,tháng 05 năm 2013

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ TRƯỚC NĂM
1986 ............................................................................................................. 8
1.1. CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ ................................. 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư .................................................................. 8
1.1.2. Kinh tế - xã hội ................................................................................... 9
1.1.3. Văn hóa .............................................................................................. 11
1.2. SỰ RA ĐỜI CỦA HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ ....................................... 22
1.2.1. Nguồn gốc của Hát Ghẹo .................................................................... 22
1.2.2. Ảnh hưởng của lối Hát Đúm trong vùng có Hát Xoan ........................ 25
1.2.3. Ảnh hưởng của chặng Hát Hội trong Hát Xoan .................................. 26
1.3. HOẠT ĐỘNG CỦA HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ TRƯỚC NĂM
1986 ............................................................................................................. 27
1.3.1. Tục kết nghĩa giữa các làng ................................................................ 27
1.3.2. Hoạt động của Hát Ghẹo ở Phú Thọ trước năm 1986.......................... 29
Chương 2.HOẠT ĐỘNG DUY TRÌ, BẢO TỒN HÁT GHẸO Ở PHÚ
THỌ (1986 - 2011)....................................................................................... 32
2.1. CHỦ TRƯƠNG DUY TRÌ, BẢO TỒN NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA
HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ ............................................................................ 32
2.1.1. Chủ trương của Bộ Văn hóa – Thông tin – Du lịch ............................. 32
2.1.2. Chủ trương của tỉnh Phú Thọ .............................................................. 39
2.2. HOẠT ĐỘNG DUY TRÌ, BẢO TỒN NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HÁT
GHẸO Ở PHÚ THỌ ..................................................................................... 41
2.2.1. Tổ chức hội thảo về Hát Ghẹo ............................................................ 41

2.2.2. Tổ chức sưu tầm các làn điệu Hát Ghẹo.............................................. 43
2.2.3. Khôi Phục Hát Ghẹo trong lễ hội ........................................................ 44
2.2.4. Tuyên truyền, quảng bá về Hát Ghẹo .................................................. 46


2.3. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG HOẠT ĐỘNG DUY TRÌ,
BẢO TỒN HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ......................................................... 48
2.3.1. Thuận lợi ............................................................................................ 48
2.3.2. Khó khăn ............................................................................................ 51
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC DUY TRÌ, BẢO
TỒN HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA
NGƯỜI DÂN PHÚ THỌ (1986 - 2011) ....................................................... 57
3.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC DUY TRÌ VÀ BẢO TỒN HÁT GHẸO
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN PHÚ THỌ (1986 2011) ............................................................................................................ 57
3.1.1. Việc duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo nằm trong chủ trương duy trì, bảo
tồn các giá trị văn hóa thời Hùng Vương ở vùng đất Tổ của tỉnh Phú Thọ ... 57
3.1.2. Các giải pháp duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo rất đa dạng, phong phú
nhưng chưa đảm bảo tính bền vững .............................................................. 58
3.1.3. Địa bàn gốc của Hát Ghẹo hẹp, đội ngũ, nghệ nhân Hát Ghẹo ít60
3.2. VAI TRÒ CỦA VIỆC DUY TRÌVÀ BẢO TỒN HÁT GHẸO
TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DÂN PHÚ THỌ (1986 2011) ............................................................................................................ 62
3.2.1. Tạo cơ sở cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng, mang tính chất truyền
thống, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia................................................. 62
3.2.2. Duy trì, bảo tồn được những giá trị đặc sắc của văn hóa vùng
miền, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa dân tộc............................. 64
3.2.3. Góp phần phát triển kinh tế - xã hội, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam trong thời kì hội nhập quốc tế ...................................... 66
KẾT LUẬN.................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71
PHỤ LỤC .................................................................................................... 73



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta có một nền văn hiến lâu đời. Trải qua ngót nghìn năm đô hộ
của phong kiến phương Bắc, gần một trăm năm là thuộc địa của thực dân
Pháp, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển, không chỉ ở góc độ là
một quốc gia độc lập, tự chủ mà còn được biểu hiện trong bản sắc văn hóa
dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là những giá trị vật thể và phi vật thể. Trong
kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc ta, dân ca là một trong những
di sản văn hóa vô cùng quý báu. Điển hình là Hát Ghẹo Phú Thọ, một làn điệu
dân ca hết sức đặc sắc, độc đáo, di sản văn hóa của thời Hùng Vương dựng
nước đang bị trôi vào quên lãng, thờ ơ, mai một đi nhiều và cần được bảo tồn,
phát huy, phát triển trong thời đại mới này.
Ngày nay, trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đảng bộ và
nhân dân Phú Thọ đang tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ra sức
phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng đẩy mạnh đề ra việc duy trì, bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc, trong đó đặc biệt quan tâm đến
việc bảo tồn và phát triển làn điệu Hát Ghẹo.
Nửa thế kỉ qua ở tỉnh Phú Thọ, kể cả thời kì mang tên Vĩnh Phú, chúng
ta đã có một đội ngũ hoạt động văn nghệ rất năng động, cố gắng, tâm huyết,
mê say dành nhiều công sức cho việc phổ biến nâng cao sức hấp dẫn của làn
điệu Hát Ghẹo. Chúng ta đã sưu tầm khá đầy đủ vốn dân ca này (ghi chép
bằng văn bản, bằng ghi âm các làn điệu, quay phim các nghệ nhân múa hát)
và bước đầu nghiên cứu về nguồn gốc, về âm nhạc, về tổ chức sinh
hoạt.Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hát Ghẹo được phổ biến
rộng rãi góp phần tích cực vào phong trào “Tiếng hát át tiếngbom”. Hát Ghẹo
giờ đây có nhiều cơ hội để duy trì và phát triển song cũng gặp không ít những



thách thức, khó khăn khi mà đất nước đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền với xu thế mở của hội nhập quốc tế.
Hát Ghẹo là một di sản văn hóa phi vật thể quý báu của dân tộc ta nói
chung và của Phú Thọ nói riêng. Việc nghiên cứu làn điệu Hát Ghẹo có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, không những làm sáng tỏ đường lối đổi
mới đất nước của Đảng về việc duy trì, bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hóa dân tộc mà còn góp phần nghiên cứu lịch sử địa phương, giúp bạn đọc có
thêm nguồn tư liệu mới nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, biết trân trọng,
nâng niu, phát huy những giá trị di sản văn hóa vô giá của dân tộc, góp phần
bảo tồn di sản mang bản sắc, tâm hồn nghệ thuật truyền thống, tìm ra những
biện pháp để Hát Ghẹo có vị trí quan trọng trong nền âm nhạc dân tộc, trước
xu thế hội nhập văn hóa.
Với những ý nghĩa sâu sắc đó, tôi quyết định nghiên cứu về “Hoạt động
duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo ở Phú Thọ (1986 - 2011)” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình nhằm nâng cao sự hiểu biết và tập dượt nghiên cứu, phục vụ
cho mục đích học tập.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các làn điệu dân ca có vai trò quan trọng trong đời sống. Hiện nay
nghiên cứu về dân ca nói chung và hát Ghẹo nói riêng có thể kể đến các
công trình tiêu biểu như:
Năm 1979, hai tác giả Nguyễn Khắc Xương và Dương Huy Thiện đã
xuất bản cuốn sách “Hát Xoan, Hát Ghẹo Vĩnh Phú” do nhà xuất bản Phú Thọ
xuất bản. Các tác giả đã giới thiệu đến bạn đọc làn điệu Hát Ghẹo, Hát Xoan
ở Vĩnh Phú ra đời như thế nào, nội dung, cách thức hát ra sao; vì sao lại gọi là
Hát Ghẹo, Hát Xoan. Nhưng hạn chế của các tác giả là chưa đi sâu vào nghiên
cứu quá trình phát triển của Hát Ghẹo qua các thời kỳ, chưa đưa ra được cơ sở
khoa học cụ thể về giá trị lịch sử và văn hóa của Hát Xoan.



Nhạc sĩ Nguyễn Đăng Hòe đã công bố các công trình nghiên cứu: “Hát
Ghẹo Phú Thọ” năm 1958 bằng in ronéo; năm 1979, theo yêu cầu của Sở Văn
hóa, thông tin, thể thao Vĩnh Phú, nhạc sĩ sửa chữa, bổ sung cho xuất bản
cuốn “Bước đầu tìm hiểu Hát Ghẹo Vĩnh Phú”. Đây là công trình sưu tầm,
nghiên cứu công phu đi sâu vào các lĩnh vực: nguồn gốc, lời ca, xã hội và
nhất là về âm nhạc, đồng thời cũng gợi ra những vấn đề chuyên sâu để cùng
trao đổi. Tuy nhiên, tác phẩm chủ yếu xoáy sâu vào lĩnh vực âm nhạc mà
chưa thấy được những giá trị lưu truyền của làn điệu Hát Ghẹo, sức sống của
Hát Ghẹo qua các thời kỳ và việc gìn giữ vốn dân ca này của dân tộc từ trước
tới nay có được chú ý hay không.
Đề tài “Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Hát Ghẹo Phú
Thọ” là đề tài do Hội Văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ chủ trì, Chủ nhiệm đề
tài – Ngô Thị Xuân Hương – Cử nhân nghiên cứu lí luận âm nhạc, cùng với
sự phối hợp của NS. Đào Đăng Hoàn, Thạc sĩ Đào Đăng Phương và Lê Thị
Hoa, thực hiện từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 12 năm 2007. Ngay trong phần
giới thiệu mở đầu tác giả viết: “Đề cập tới Hát Ghẹo với quy mô có tính chất
bao trùm lên nhiều lĩnh vực lịch sử, về ý nghĩa, phong tục, tập quán – thể
thức, lề lối của Hát Ghẹo và cuối cùng là nó mong muốn làm cho Hát Ghẹo
được hồi sinh và trở lại với những gì bản thân nó đã có”. Đó là những gì mà
công trình nghiên cứu này khác với những công trình nghiên cứu trước như
“Bước đầu tìm hiểu Hát Ghẹo Vĩnh Phú” của nhạc sĩ Nguyễn Đăng Hòe
(1979) và “Hát Xoan, Hát Ghẹo Vĩnh Phú” của Nguyễn Khắc Xương, Bùi
Huy Thiện (1979). Công trình đã dày công tìm hiểu, khai thác và nêu được
một số vấn đề mới rất đáng được trân trọng nhằm gìn giữ phát triển Hát
Ghẹo.Tuy nhiên, đề tài vẫn chưa nêu được bước chuyển của Hát Ghẹo từ thời
kỳ đổi mới đất nước ra sao. Đảng và Nhà nước cũng như tỉnh Phú Thọ đã có
những biện pháp, chủ trương gì trong việc lưu giữ và bảo tồn làn điệu Hát
Ghẹo trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.



Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác như:
Sở Văn hóa - Thông tin Vĩnh Phú (1986), “Văn hóa dân gian vùng đất
Tổ”, Địa chí Vĩnh Phú, Vĩnh Phú.
Phạm Phúc Minh, (1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Hà nội, Hà
Nội.
Phạm Trọng Toàn (2008), Đôi lời bày tỏ về Xoan - Ghẹo nơi miền quê
Phú Thọ, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
Nguyễn Khắc Xương (2008), Các công trình nghiên cứu văn học, văn
hoá dân gian vùng đất Tổ, Nxb Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Thọ, Phú Thọ.
Đặng Hoành Loan (2009), Ý tưởng khai thác, bảo tồn loại hình nghệ
thuật hát Ghẹo, Nxb Âm nhạc Hà Nội, Hà Nội.
Nhóm tác giả Trần Văn Thục, Cao Văn Thịnh, Dương Bích Liên
(2009), Ca dao, dân ca Phú Thọ, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Hội văn nghệ dân gian tỉnh Phú Thọ cũng tổ chức một số cuộc hội
thảo lần thứ VI (2010), bàn về dân ca với chủ đề “Nét sinh hoạt dân gian tự
do của hát Ghẹo Vĩnh Phú”, Nxb Văn hóa - Thông tin tỉnh Phú Thọ, Phú
Thọ.
Tùy theo mục đích và hướng tiếp cận khác nhau mà các tác giả chủ yếu
đề cập tới một cách chung nhất về đặc điểm diễn xướng dân gian, nghệ thuật
trình diễn hát Ghẹo. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, tìm hiểu
một cách toàn diện và cụ thể về “Hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo Phú
Thọ (1986 - 2011)”.Tác giả khoá luận kế thừa những kết quả nghiên cứu trên
đây đồng thời bằng sự trải nghiệm thực tế nhằm đưa ra những hiểu biết và cái
nhìn riêng để thực hiện đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Dựng lại toàn cảnh “Hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo Phú Thọ
(1986 – 2011)” một cách đầy đủ, có hệ thống, khách quan.



- Nêu rõ những thuận lợi, khó khăn của Hát Ghẹo hiện nay.
- Rút ra những đặc điểm và vai trò của việc duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo
Phú Thọ trong đời sống văn hóa của người dân Phú Thọ (1986 - 2011).
3.2. Nhiệm vụ
- Sưu tầm, khai thác các nguồn tư liệu thành một hệ thống tư liệu có giá
trị khoa học để phục vụ nghiên cứu đề tài.
- Trình bày khái quát về Hát Ghẹo trong đời sống văn hóa của người
dân Phú Thọ trước thời kỳ đổi mới.
- Tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo Phú Thọ
trong thời kỳ đổi mới đất nước (1986 - 2011).
- Từ đó rút ra đặc điểm và vai trò của việc duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo
Phú Thọ trong đời sống văn hóa của người dân Phú Thọ (1986 - 2011).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu về làn điệu Hát Ghẹo trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ.
Về thời gian: Nghiên cứu về hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo Phú
Thọ trong khoảng thời gian (1986 - 2011).
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Tài liệu văn kiện của Đảng: Do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà
Nội xuất bản đã đăng tải các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội, trong đó
thể hiện rõ đường lối của Đảng về đổi mới đất nước, nhất là đường lối duy trì,
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Tài liệu văn kiện của Đảng bộ địa phương: Đó là những văn kiện về
chủ trương hành động, dự án của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Phú Thọ nhằm
duy trì, bảo vệ, phát triển là điệu Hát Ghẹo trong thời kỳ đổi mới đất nước.


Tài liệu thông sử: Do các cơ quan Trung ương xuất bản như: Viện lịch
sử Việt Nam, Viện khoa học xã hội, Nhà xuất bản Giáo dục,… phản ánh về

lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến nay. Trong đó, những giá trị lịch sử văn
hóa được duy trì, bảo tồn qua các thời kỳ khác nhau.
Tài liệu lịch sử địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ từ 1986 –
1997, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ từ 1997 – 2000. Trong đó thể hiện
những chủ trương, chính sách, biện pháp của tỉnh Phú Thọ về duy trì, bảo tồn
làn điệu Hát Ghẹo.
Tài liệu chuyên sâu của những cá nhân, tập thể trong tỉnh cũng như
ngoài tỉnh nghiên cứu, giới thiệu về làn điệu Hát Ghẹo.
Tài liệu điền dã: Những tài liệu dân gian thu thập trong nhân dân, qua
những lời kể và những lời hát được nghe từ các nghệ nhân Hát Ghẹo, những
tranh ảnh thu được liên quan đến Hát Ghẹo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào quan điểm và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về lịch sử.
Kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logíc, trong đó
phương pháp lịch sử là chủ yếu.
Sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, đối chiếu để xác minh sự
kiện.Thực hiện phương pháp điền dã để khai thác tư liệu.
5. Đóng góp của đề tài
Dựng lại bức tranh toàn cảnh về hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo
Phú Thọ trong thời kỳ đổi mới đất nước một cách đầy đủ, có hệ thống, khách
quan.
Nêu bật những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động duy trì, bảo tồn
Hát Ghẹo Phú Thọ trong thời kỳ hiện nay.


Rút ra những đặc điểm và vai trò của việc duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo
Phú Thọ trong đời sống văn hóa của người dân Phú Thọ (1986 - 2011).
Góp phần tập hợp nguồn tài liệu chi tiết, đáng tin cậy hấp dẫn về văn
hoá hát Ghẹo vùng quê đất Tổ.

Đề tài cũng có thể làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu và giảng dạy,
học tập về làn điệu Hát Ghẹo ở tỉnh Phú Thọ.
Đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, hiểu biết về hát Ghẹo cho mọi người quan
tâm.
Nâng cao hiểu biết về dân ca đặc biệt là dân ca hát Ghẹo, một làn điệu
âm nhạc cổ truyền cần được bảo vệ và lưu truyền cho thế hệ sau.
Giới thiệu quảng bá sâu rộng cho bạn đọc về hát Ghẹo, góp phần
nâng cao hiệu quả trình diễn nghệ thuật hát Ghẹo, khắc phục những hạn chế
còn tồn tại trong tổ chức sinh hoạt biểu diễn hát Ghẹo. Tìm ra những giải
pháp bảo tồn và phát huy giá trị quý báu về âm nhạc của cha ông để lại.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,phụ lục, khóa luận
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về Hát Ghẹo trước năm 1986
Chương 2: Hoạt động duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo ở Phú Thọ (1986 2011)
Chương 3: Đặc điểm và vai trò của việc duy trì, bảo tồn Hát Ghẹo
trong đời sống văn hóa của người dân Phú Thọ (1986 - 2011)


NỘI DUNG

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HÁT GHẸO TRƯỚC NĂM 1986
1.1. CƠ SỞ RA ĐỜI CỦA HÁT GHẸO Ở PHÚ THỌ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư
Vĩnh Phú thuộc miền trung du, là một vùng đất đai cổ kính rộng lớn
của miền Bắc nước ta nằm dọc theo hai bên bờ những con sông lớn: Sông
Hồng, sông Lô, sông Chảy, sông Đà. Xưa kia Vĩnh Phú là phần đất đai nằm
vào địa bàn của bộ lạc Mê Linh, bộ lạc lớn nhất của người Lạc Việt thời kì
Hùng Vương. Theo ông Đào Duy Anh trong quyển “Đất nước Việt Nam qua

các đời” thì bộ lạc Mê Linh bao gồm một phần tỉnh Yên Bái, miền nam tỉnh
Tuyên Quang, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Sơn Tây và tỉnh Vĩnh Phúc.
Lúc này trong điều kiện con người chưa có khả năng ngăn chặn được lũ
lụt hàng năm do nước của các con sông lớn dâng ngập, miền đồng bằng Bắc
Bộ còn là những đầm lầy và còn bị biển cả xâm lần thì những vùn đất đai
rộng lớn, những cánh đồng cao chen lẫn với núi đồi ở đây là nơi sinh sống và
cư trú rất thích hợp.
Sống ven những con sông, tuy những sự tàn phá khắc nghiệt xảy ra mỗi
năm một mùa do lũ lụt, nhưng bên cạnh đó, chính núi rừng bao la ở đây lại là
địa bàn vô cùng thuận lợi cho kinh tế hái lượm, săn bắn kết hợp với trồng trọt
và chăn nuôi. Chính vì vậy mà đây là một trong những vùng cư trú trù mật
nhất, cổ xưa nhất đã xây dựng làng mạc từ lâu đời và đã trải qua nhiều biến
đổi cho đến ngày nay. Chính ở đây đã diễn ra những cuộc hốn hợp dân tộc
giữa các bộ lạc khác nhau, Lạc Việt và Tây Âu – để hình thành cư dân Âu
Lạc, tổ tiên của dân tộc Việt ngày nay.


Vào đầu thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, ở đây cũng đã diễn ra cuộc
nổi dậy chống quân xâm lược Hán của nhân dân ta do Hai Bà Trưng lãnh đạo.
Ngày nay, trên đất mà nhân dân ta vẫn gọi là đất tổ Hùng Vương này
còn lưu lại nhiều di tích, nhiều địa điểm văn hóa khảo cổ học, nhiều truyền
thuyết và các loại hình văn nghệ dân gian khác có giá trị chứng minh tính chất
truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam ta.
Nằm giữa một vùng đất đai có nhiều kì tích như vậy, quê hương hát
Ghẹo - ở đây là hai huyện Tam Nông và Thanh Sơn lại có đặc điểm riêng
đáng chú ý khác. Huyện Tam Nông xưa vốn thuộc địa hạt Sơn Tây (nay là
tỉnh Hà Tây) tiếp giáp với trấn Hưng Hóa là miền rừng núi âm u kéo dài mãi
về phía tây, nơi cư trú của đồng bào các dân tộc ít người (theo “Đại Nam nhất
thống chí”). Đến đầu thế kỷ XIX (Minh Mệnh thứ 12 - 1831), huyện Tam
Nông được cắt rời khỏi Sơn Tây để sáp nhập vào tỉnh Hưng Hóa và đặt tỉnh lị

ở đây. Nhưng từ trước đó ở huyện Tam Nông, học vấn đã mở mang, đã có
nhà học, có các chức huấn đạo, giáo thụ. Cho nên, tuy địa lý hành chính là
thuộc tỉnh Hưng Hóa mà phong tục ở đây vẫn giữ nguyên gốc giống như các
miền khác ở trung châu – theo “Hưng Hóa dư địa chí”.
Tam Nông và Thanh Sơn lại ở gần sông, có con sông Bứa len lỏi làm
đường giao thông thuận lợi cho mọi giao lưu kinh tế và văn hóa ỏ trong vùng.
Huyện Thanh Sơn là khu vực cư trú của người Mường, có mặt cả người
Kinh và một số dân tộc anh em khác như Tày, Nùng,…
1.1.2. Kinh tế - xã hội
*Kinh tế
Đất đai ở đây chủ yếu là đất sỏi, đất cát pha, cát lắc, đất phe-ra-rít nâu
vàng trên đất phù sa.
Đồi ở đây là đồi đá ong, đất vàn đỏ, trước cách mạng phần lớn là đồi
trọc, đồi hoang với sim, mua, rang rang, chè vè.


Do kết cấu địa lý như vậy nên kinh tế ở quê hương Ghẹo chủ yếu là
kinh tế trung du. Nguồn sống chính của nhân dân ở đây là làm ruộng, làm rẫy,
khai thác lâm thổ sản, làm cá ở ven sông và ở các ao, đầm lớn trong vùng,
nhân dân còn trồng nhiều các loại cây công nghiệp như chè, cà phê, dầu cọ,
nuôi nhiều ong và chăn nuôi nhiều các loại gia cầm, gia súc như gà, vịt, lợn,
trâu bò,… Đời sống nhân dân nhờ vậy nên nói chung là sung túc, sinh hoạt
khá cao, thôn xóm trù mật, nhà cửa khang trang, vườn rộng và trồng trọt khá.
Đó cũng là lý do mà ở đây ngày xưa đặc biệt ít có người phải đi buôn bán
hoặc đi làm ăn ở những nơi xa.
Nhìn vào các dụng cụ lao động nông nghiệp như cày bừa, cuốc thuổng,
các kiến trúc nhà cửa và các cách sinh hoạt hàng ngày khác cũng có thể nhận
thấy ngày nay đồng bào vẫn giữ chung nền nếp như ở các nơi khác ở miền
trung du.
Chính những đặc điểm kinh tế thuần nông của vùng trung du miền núi

là cơ sở hình thành những văn hóa truyền thống ở vùng đất Tổ Vua Hùng,
trong đó có Hát Ghẹo.
Tình hình kinh tế của Phú Thọ trước thời kỳ đổi mới đất nước:
Trong thời kỳ chiến tranh do chưa có điều kiện phát triển kinh tê, nên ở
Phú Thọ về cơ bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu không được
chú ý, với phương thức sản xuất thủ công, manh mún, lạc hậu nghèo nàn.
Công nghiệp thì không hoàn chỉnh, chủ yếu là khai thác mỏ, tuy nhiên
phương thức khai thác vẫn còn thủ công, sử dụng lao động chân tay, chưa có
sự tham gia của máy móc và công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ củng cố xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ
1975 – 1980, Phú Thọ đã đẩy mạnh hoạt động sản xuất nông nghiệp, áp dụng
máy móc với phương thức sản xuất hiện đại, tính đến năm 1980, bình quân
lương thực đạt 250 – 270 kg/người/năm. Về công nghiệp, có 6 khu công
nghiệp lớn tập trung ở thành phố Việt Trì.


Bước sang năm 1981 – 1986, nông nghiệp đã có những bước tiến mới
với tổng sản lượng lương thực đạt 39,5 vạn tấn, trong công nghiệp đã hình
thành tam giác vàng: Việt Trì – Lâm Thao – Bãi Bằng, tập trung chủ yếu vào
sản xuất các mặt hàng mũi nhọn như chế biến lương thực – thực phẩm, sản xuất
giấy, dệt, suppe,…
Nhìn chung, trước thời kỳ đổi mới kinh tế đất nước, kinh tế Phú Thọ đã
có những chuyển biến và đạt những bước phát triển về kinh tế công
nghiệp và nông nghiệp.
*Xã hội
Với điều kiện tự nhiên và kinh tế như vậy, cư dân Văn Lang cổ đã hình
thành quan hệ xóm làng láng giềng thân thiết, gần gũi, mang đậm tính chất
của cư dân nông nghiệp lúa nước
Trong sinh hoạt, những xóm nhà trên đồi tạo thành những làng
đồi.Người dân vùng Ghẹo sống chất phác, cần cù, chịu khó.

Địa bàn Ghẹo với tính chất cổ sơ cũng như truyền thống văn hóa đã tạo
nên nếp sinh hoạt văn hóa vùng Ghẹo.
1.1.3. Văn hóa
*Văn học dân gian
Kho tàng văn hóa Phú Thọ, văn hóa vật thể và phi vật thể có sự đan
quyện vào nhau đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Trong đó, văn học dân gian
có vai trò quan trọng bao gồm hầu hết các thể loại vừa phong phú vừa đa dạng
về tri thức bách khoa, vừa tiềm tàng khả năng bảo tồn và truyền bá văn hóa
cội nguồn. Từ xa xưa, truyền thuyết về thời các vua Hùng (còn gọi là truyền
thuyết Hùng Vương) chủ yếu là các nhân vật thần thoại về anh hùng văn hoá
với những câu chuyện “Hạt lúa thần”; “Vua Hùng dạy dân cấy lúa”; “Cây
kiệu”…Thuở các Vua Hùng dựng nước, sinh ra từ cái bọc Trăm Trứng nở
trăm người con nòi giống Tiên Rồng Con Lạc Cháu Hồng Con Rồng Cháu
Tiên giữa Cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Dưới góc độ cái nhìn khái quát


tổng thể, truyền thuyết Hùng Vương có thể dựng lại khá toàn diện sự thật lịch
sử dựng nước và giữ nước. Truyền thuyết Hùng Vương như “bảo tàng sống”
về lịch sử - văn hóa - xã hội Văn Lang, Âu Lạc nơi lưu giữ tinh hoa quá khứ
cội nguồn dân tộc. Văn học dân gian Phú Thọ còn phải kể đến truyện cười
Văn Lang mà mỗi khi nhắc đến đâu đâu cũng có câu:
“Dù ai đi ngược về xuôi,
Váy ngắn quá gối là người Văn Lang”
(Ca dao – Tục ngữ)
Truyện cười Văn Lang hiện lên chân dung những người nông dân thuần
túy, lành hiền như củ sắn củ khoai mà sâu sắc sự đời, giàu tài hoa sáng tạo và
năng khiếu hài hước:
“Một ngày hai bữa cơm đèn
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng”.
(Ca dao – Dân ca)

Hay:
“Một đồng một giỏ không bỏ nghề sơn
Trăm trận nghìn hờn tróc vẫn ra trai”.
Bên cạnh đó kho tàng tục ngữ, phương ngôn, ca dao nói về cảnh sắc
trung du được thể hiện khá đậm nét trong tục ngữ, ca dao Phú Thọ. Sông
Thao dòng chảy Nhị Hà chở nặng phù sa nên màu nước đục đỏ như màu son:
“Sông Thao nước đục người đen
Ai lên Vũ Ẻn thì quên đường về”.
(Ca dao – Tục ngữ)
Các bài hò, vè trong lao động sản xuất đúc kết nhiều kinh nghiệm của ông
cha:
“Sắn lùn mau mắt thấp cây,
Chồng luộc vợ nấu có ngày oan gia.
Sắn lùn là sắn người ta,


Phơi khô đóng bịch tháng ba đỡ lòng”.
(Ca dao)
Hay bài ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Ca dao nói về Đền Hùng, nhân dân nói lên lòng tự hào về nguồn gốc,
về đất nước quê hương mình.
“Trời cao bể rộng đất dày
Sông Thao núi Tản chốn này làm ghi
Bốn bềcây cối xanh rì
Nhác trông phong cảnh khác gì Đào Nguyên
Đường liền vẫn bậc bước lên

Rõ rằng lăng miếu mẹ Tiên cha Rồng
Hàng năm mở hội Đền Hùng
Tiếng tăm lừng lẫy nức lòng gần xa”
(Ca dao – Dân ca) [21, tr.9]
Qua các giai đoạn lịch sử, mảnh đất Phú Thọ đã hình thành và phát
triển với nhiều tên tuổi của dòng văn học lớp nho sĩ như: Hàn Thuyên (Hạ
Hòa), Đỗ Nhuận (Kim Hoa cũ)... Đặc biệt, Phú Thọ được biết đến bà Ngô Chi
Lan giỏi thơ hay chữ, bà có bài thơ Vịnh Phù Đổng vẫn còn truyền tụng đến
ngày nay:
“Vệ linh cây cỏ lẫn mây ngàn,
Vạn đá ngàn hồng đỡ thế gian.
Ngựa sắt bay lên rồi đó nhỉ,
Anh hùng sống mãi với giang san”.


(Vịnh Phù Đổng) [7, tr.70]
Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm
chống Mỹ "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương
lai" (Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào
sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội không kính
(trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970)
được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.
Phú Thọ với kho tàng ca dao, dân ca phong phú, với nền tảng ấy hát Ghẹo
luôn được phát huy những giá trị văn hoá riêng biệt của nó.
*Phong tục tập quán, tín ngưỡng
Người Việt nói chung và người Việt ở Phú Thọ nói riêng có nhiều
phong tục tập quán biểu hiện nhiều giá trị văn hóa có sức sống lâu bền. Một
trong những phong tục truyền thống tốt đẹp là tục kết nghĩa (kết chạ) giữa các
làng với nhau.Có lẽ tục này xuất phát từ nền nông nghiệp sản xuất lúa nước,
do việc phải cố kết với nhau trong đấu tranh bão lụt, bảo vệ mùa màng, chống

kẻ thù hay chia sẻ nguồn canh tác. Tục kết nghĩa còn do tín ngưỡng phồn
thực, tín ngưỡng thờ thần của người Việt ở nơi đây mà được hình thành. Hát
Xoan, hát Ghẹo, hát Đúm, hát Trống Quân ở Phú Thọ gắn với tục kết nghĩa,
gắn với tín ngưỡng phồn thực và gắn với tín ngưỡng thờ thần. Tục kết nghĩa
có những quy ước chặt chẽ, về ứng xử, các làng kết nghĩa đều hết sức tôn
trọng nhau, làng này thường gọi làng kia là anh tự xưng là em và ngược lại.
Đặc biệt có quy ước trai hay gái làng không được kết hôn với nhau. Người ta cho
rằng đã là anh em thì không được lấy nhau.Quy ước này cũng trở thành quy ước
của đào kép phường Xoan và quan anh, quan chị trong hát Ghẹo.
Làng Nha Môn kết nghĩa với làng Tiên Du (Phong Châu) mục đích là
chia sẻ nguồn nước canh tác. Làng Máy (xã Cao Mại, huyện Phong Châu) kết
nghĩa với làng Nam Cường (xã Thanh Uyên, huyện Tam Nông) để chống kẻ


thù chung. Làng Phù Đức (xã Kim Đức, Việt Trì) kết nghĩa với làng Phù
Ninh, cùng Đức Bác (xã Đức Bác, huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc) để kết
bạn hát Xoan.
Tục kết nghĩa đã thắt chặt các mối quan hệ giữa các làng với nhau. Nếu
cho rằng làng xã của người Việt là một đơn vị xã hội “đóng” thì quan niệm
đó không chuẩn xác. Các làng kết nghĩa với nhau không chỉ vì mục đích vật
chất mà quan trọng là mục đích tinh thần. Niềm vui được nhân đôi nỗi buồn
được xẻ nửa, cái riêng của mỗi làng được hòa vào cái chung của cộng đồng
nhiều làng. Cái chung của cộng đồng nhiều làng là tổng hợp cái riêng của
từng làng. Đây chính là bản sắc đời sống của xã hội người Việt.
Tín ngưỡng phồn thực với sự phồn sinh nòi giống biểu hiện khá đặc sắc
trong Truyền thuyết Hùng Vương ở Phú Thọ với tục thờ sinh thực khí và biểu
hiện của hành vi tính giao. Nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa cho biết về lễ
hội làng He, hội Đền Hùng nguyên sơ là lễ hội thờ thần Núi (Đột Ngột Cao
Sơn), thờ Đá Ông - Đá Bà (tức Linga và Yoni). Ngoài ra, hội làng Thanh
Đình với nghi lễ đâm chiếc bánh chưng tày xuống cái Oa cũng là biểu hiện

cách điệu hóa hành vi tính giao của tín ngưỡng phồn thực. Lễ hội Trò Trám
(xã Tứ Xã, huyện Lâm Thao), các cặp biểu trưng nõ - nường, cua mo - cò mỗ,
chày - cối, vuông - tròn… cũng thể hiện tín ngưỡng phồn thực. Nhiều làng ở
Phú Thọ còn bảo lưu một số tín ngưỡng khá nguyên thuỷ như thờ thần Núi
cao, thần Nước, thần Mặt trời, thần Lúa với những nghi thức tín ngưỡng phồn
thực. Một số tục hèm: rước Ông Khiu, Bà Khiu. Tín ngưỡng phồn thực thể
hiện trong nhiều lễ hội như: hội cầu đình làng Dị Nậu có trò cướp “chày kinh,
mo dài” để mong cho được sinh lắm con nhiều cháu. Phú Thọ được coi là
tinh hoa của nền văn minh lúa nước Sông Hồng, văn minh bản địa của Lạc
Việt - Âu Việt cổ đại.
*Di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử


Trên mảnh đất này, từ buổi bình minh của lịch sử đất nước đã có người
Việt Cổ sinh sống cách đây 3 - 4 vạn năm, đã phát hiện nền văn hóa Sơn Vi
(niên đại Công Nguyên là 10 - 20.000 trước đây, cuối thời đá cũ). Tiếp đến
cách đây trên dưới 4000 năm, miền đất trung du cổ kính này lại diễn ra sự quy
tụ con người và văn hóa lần thứ hai đó là văn hóa Phùng Nguyên phát hiện
nhiều di chỉ khảo cổ: công cụ sản xuất bằng đá, công cụ săn bắt. Giai đoạn
Đồng Đậu (cách khoảng 3000 năm), cư dân đã biết trồng lúa nước và phát
nương rẫy.
Sang giai đoạn Gò Mun kỹ thuật chế tác công cụ sản xuất bằng đồng
phát triển và dần thay thế công cụ bằng đá. Cư dân Việt Cổ tiếp bước sang
giai đoạn văn hóa Đông Sơn qua các di chỉ chính nghĩa Làng Cả, Gò Mun,
Đồng Se, đã tìm thấy những mũi đồng, rìu đinh ba, thạp đồng... Trong buổi
đầu thời đại đồng thau, nơi đây là vùng hội tụ, tiếp xúc và giao lưu văn hóa
vùng lục địa phía Bắc.
Sau thời kỳ các Vua Hùng, tổ chức Nhà nước của người Việt dần hoàn
chỉnh: Thục Phán xây thành Cổ Loa, đúc binh khí. Gần đây nhất, năm 2005,
tỉnh Phú Thọ phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành khai quật

thứ 3, trong đợt khảo cổ này đã phát hiện nhiều hiện vật quý, trong đó có 10
mộ táng đều là loại mộ đất thuộc thời đại kim khí, đồ tùy táng đều là đồ gốm
sứ thuộc Văn hóa Đông Sơn. Kết quả khai quật đã khẳng định rằng, nơi đây
chính là trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị thời Hùng Vương, thời Bắc thuộc
và thời phong kiến tự trị.
Nói đến Phú Thọ người ta nghĩ ngay đến Đền Hùng - di tích lịch sử cấp
quốc gia đặc biệt quan trọng. Từ Hà Nội theo quốc lộ 2 đến thành phố Việt
Trì (90km), đi tiếp 10km nữa đến khu di tích Đền Hùng. Di tích này gắn liền
với truyền thuyết 18 đời Vua Hùng xây dựng nhà nước Văn Lang, đóng đô ở
Phong Châu. Nơi đây cũng là điểm du lịch nổi tiếng, hàng năm đón nhiều lượt
du khách về thăm viếng mộ tổ và tri ân công đức vua cha. Ngoài ra, Phú Thọ


còn được biết đến với những công trình kiến trúc gắn với tín ngưỡng sinh hoạt
tôn giáo như Đền Trần Nguyên Hãn và Đền Mẫu Âu Cơ (huyện Hạ Hòa), Đền
Quốc Tổ Lạc Long Quân (Thành phố Việt Trì), Chùa Phúc Thánh, Tháp Bình
Sơn (huyện Tam Nông) được xây dựng từ thời Trần. Trang trí nghệ thuật trong
các ngôi đình dần dần đi vào khuôn mẫu như Đình Đào Xá xây dựng theo mô típ
thời Hậu Lê. Cùng với hệ thống các di chỉ khảo cổ, di tích lịch sử, hát Ghẹo... là
những sản phẩm văn hóa đặc trưng có nguồn gốc lâu đời Phú Thọ mà khi nhắc
tới thì không ai có thể quên được.
*Phú Thọ - quê hương các làn điệu dân ca
Trong các sinh hoạt văn hóa dân gian ở Phú Thọ thì âm nhạc dân gian
đóng vai trò quan trọng.Từ trò diễn dân gian, sân khấu dân gian đến múa dân
gian đều phải có nhạc.Âm nhạc ở đây bao gồm nhân tố thô sơ nhất như tiếng
hú, tiếng gõ đến các làn điệu có cấu trúc đa dạng, có sự phát triển giai điệu
tinh tế. Âm nhạc dân gian mà chủ yếu là ca hát dân gian của người Việt như:
Hát Ví, Hát Trống Quân, Hát Xoan, Hát Ghẹo, Hát Xẩm.
Hát Ví: Ví von là một trong những đặc trưng của tính cách người Việt
được biểu hiện trong các sinh hoạt văn hóa nói chung. Trong âm nhạc dân

gian nói riêng, Hát Ví, Hát Đúm, Hát Ghẹo, Hát Quan họ… lối hát nào cũng
có những bài, những câu ví von về phong cảnh thiên nhiên, tình yêu đôi lứa.
Hát Ví được tổ chức vào mùa xuân và mùa thu, được tiến hành theo các bước:
Chào hỏi, làm quen, ngỏ lời kết bạn
Tỏ tình, se kết giao duyên
Chia tay
Làng Dầu, xã Hữa Lâu, thành phố Việt Trì hàng năm vào những đêm
trăng mùa thu có lối hát Ví giao duyên giữa trai và gái. Cuộc hát diễn ra chập
tối đến sáng, trai ngồi trên thuyền thường hát đối đáp với gái ngồi trên bờ. Hát


Ví được hát ở mọi nơi, nên cuộc hát ở địa điểm nào thì cũng là tên gọi của lối
hát Ví ở đó: Ví đồi chè, Ví đồi dọc, Ví bến nước…
Hát Trống Quân: Hát Trống Quân ở Phú Thọ hình thành do tục kết
nghĩa giữa phường Xoan làng Phù Đức (xã Kim Đức thành phố Việt Trì) và
xã Đức Bác huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc). Cuộc hát được bắt đầu từ
buổi trưa cho đến tối ngày 1 tháng 2 âm lịch. Sở dĩ hát đối đáp giữa các cô
đào phường Xoan và trai làng Đức Bác được gọi là Trống Quân là do khi biểu
diễn, các cô đào có đeo một chiếc trống con trước ngực. Khi hát nam và nữ
dừng bước, mắt nhìn nhau, mỗi câu hát đều gõ một tiếng trống hoặc nhịp
trống, hát hết một câu lại bước một bước.
Thời gian hát Trống Quân chủ yếu vào mùa thu khoảng từ tháng 07 đến
tháng 09 âm lịch. Hát Trống Quân Đức Bác gắn liền với múa bởi vì nó là lối
hát gắn với nghi lễ. Ví dụ: điệu hát “mó cá” bao giờ cũng có 12 cô gái làm cái
lưới, còn 4 chàng trai bên trong đi tìm bắt những con cá dính vào những cái
lưới của các cô gái. Họ hát có kết hợp với những vũ đạo tuy rất đơn sơ thôi
nhưng cũng gây hưng phấn cho cả người diễn cũng như người xem, phù hợp
với các nghi lễ phồn thực được tổ chức hàng năm của người dân vùng Vĩnh
Phúc, Phú Thọ.
Hát Xoan: Hát Xoan là một loại dân ca lễ nghi, phong tục gắn với hội

mùa, thờ thành hoàng cũng như hát Dặm, hát Dô ở đồng bằng sông Hồng.
Hát Xoan được tổ chức vào mùa xuân, mở đầu cho múa hát để đón chào năm
mới. Các họ Xoan ở vùng đất Tổ lần lượt hát khai xuân ở miếu đình làng xã,
sau đó các họ Xoan sẽ đi hát lần lượt các nơi khác.Vì được hát ở đình nên hát
Xoan có tên gọi là “khúc môn đình”.Theo truyền thuyết dân gian vùng đất Tổ
Phú Thọ, nghệ thuật hát Xoan có từ thời các vua Hùng dựng nước. Tập
"truyền thuyết Hùng Vương" đã ghi sự tích của hát Xoan như sau:


"Vợ vua Hùng mang thai đã lâu, tới ngày sanh nở, đau bụng mãi mà
không sanh được. Có một người hầu tâu với vua Hùng về nàng Quế Hoa xinh
đẹp, múa hát rất hay, nên đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ đau và sinh
nở được. Vợ vua Hùng nghe lời, cho mời nàng Quế Hoa đến. Quế Hoa vâng
theo lời triệu, đến chầu vua Hùng. Bấy giờ vợ vua Hùng đang lên cơn đau dữ
dội, mới bảo nàng Quế Hoa đứng trước giường múa hát. Quế Hoa vâng lời
miệng hát, tay múa, đi qua, đi lại trước giường. Giọng hát trong vắt , khi cao,
khi thấp như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, dẻo
như bún ai cũng say mê. Vợ vua Hùng mải nghe hát, xem múa không thấy đau
nữa, hạ sanh được ba người con trai khôi ngô đẹp đẽ. Vua Hùng vui mừng
khôn xiết và hết lời khen ngợi Quế Hoa, nên bảo nàng dạy cho các mỵ nương.
Khi đó là vào mùa xuân nên có tên gọi là hát Xuân sau đổi tên là hát Xoan”
[12, tr.120]
Ngày nay, hát Xoan chỉ thấy phổ biến ở vùng đất Tổ diễn ra vào mùa
xuân, sau Tết Nguyên Đán.Mỗi phường Xoan giữ hát ở một số cửa đình nhất
định.Tục giữ cửa đình cũng có ý nghĩa là tránh sự tranh chấp và dẫm chân
nhau giữa các phường Xoan.Từ tục này đã dẫn đến tục kết nghĩa họ Xoan và
người địa phương của đình sở tại.Tình nghĩa ấy rất được coi trọng. Và mỗi
phường Xoan hay còn gọi là họ Xoan phải có một ông trùm. Ông trùm Xoan
lo hướng dẫn, chỉ bảo các đào, kép học tập các làn điệu hát, múa và chuyên lo
giao dịch với các địa phương.Các đào Xoan đều là các cô gái xinh đẹp, có

giọng hát hay, tuổi từ 15 - 20. Khi đã có chồng thì không theo phường hát
nữa. Hàng năm, trước khi đi hát, các phường Xoan thường lo tập luyện trước.
Hát Xoan phải theo trình tự đã qui định, gồm hát phần nghi lễ tôn giáo; phần
diễn xướng các quả cách như xuân, hạ, thu, đông, ngư tiều canh mục, thuyền
chèo, tứ dân... cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm phần hát hội mang tính
chất trữ tình, phản ánh những nội dung yêu đương, giao duyên giữa trai và


×