Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Phật giáo đại việt dưới triều đại lý trần (1009 1400)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 98 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
*************

QUÁCH THỊ HƯƠNG

PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT DƯỚI TRIỀU
ĐẠI LÝ – TRẦN (1009 – 1400)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
NGUYỄN VĂN NAM

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các Thầy giáo, Cô giáo trong
khoa Lịch sử, trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã dạy dỗ, chỉ bảo và truyền
đạt kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường cũng
như trong thời gian thực hiện khoá luận tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Văn Nam đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện
khoá luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và những người
thân đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Trong thời gian thực hiện khoá luận tốt nghiệp, do thời gian có hạn và
bước đầu làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học nên không thể
tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của


các Thầy, Cô giáo và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện

Quách Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Khoá luận tốt nghiệp “Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý – Trần
(1009 – 1400)” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của Thầy giáo
Nguyễn Văn Nam.
Em xin cam đoan khoá luận này là kết quả nghiên cứu của bản thân em,
không trùng lặp với bất kì kết quả nghiên cứu của tác giả nào khác. Những kết
quả thu được là hoàn toàn chân thực. Nếu sai em xin chịu trách nhiệm.

Người thực hiện

Quách Thị Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6
Chương 1. KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ XI .. 14
1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO ......................................................... 14
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời .......................................................................... 14
1.1.2. Hệ thống giáo lý cơ bản của Phật giáo ......................................... 16
1.2. PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ XI................................ 23
1.2.1. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam............................................. 23
1.2.2. Tình hình Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ XI ............................. 27
1.2.3. Vai trò Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ XI ................................. 33

Chương 2. PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT DƯỚI TRIỀU ĐẠI LÝ – TRẦN
(1009 - 1400)................................................................................................ 39
2.1. PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI LÝ (1009 - 1225)............................. 39
2.1.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................... 39
2.1.2. Chính sách của triều Lý đối với Phật giáo .................................... 41
2.1.2.1. Chính sách chung đối với tôn giáo ............................................ 41
2.1.2.2. Chính sách cụ thể đối với Phật giáo .......................................... 43
2.1.3. Tình hình Phật giáo thời Lý ......................................................... 46
2.1.3.1. Các dòng phái Phật giáo........................................................... 46
2.1.3.2. Hệ thống chùa, tháp được xây dựng .......................................... 48
2.1.3.3. Hoạt động tổ chức của hệ thống tăng quan ............................... 50
2.2. PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN (1226 - 1400) ........................ 51
2.2.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................... 51
2.2.2. Chính sách của triều Trần đối với Phật giáo ................................ 52
2.2.2.1. Chính sách chung đối với tôn giáo ............................................ 52
2.2.2.2. Chính sách cụ thể đối với Phật giáo .......................................... 54
2.2.3. Tình hình Phật giáo thời nhà Trần ................................................ 56
2.2.3.1. Các dòng phái Phật giáo........................................................... 56
2.2.3.2. Hệ thống chùa, tháp được xây dựng .......................................... 60
2.2.3.2. Hoạt động của Tăng đoàn Phật giáo........................................ 61


2.3. NGUYÊN NHÂN PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN HƯNG
THỊNH...................................................................................................... 64
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ, HẠN CHẾ PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT
THỜI LÝ - TRẦN (1009 - 1400) ................................................................. 67
3.1. ĐẶC ĐIỂM PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN ................. 67
3.1.1. Phật giáo Đại Việt thời Lý - Trần mang tính tổng hợp ................. 67
3.1.2. Tính nhập thế của Phật giáo đời Lý - Trần ................................... 72
3.1.3. Phật giáo Đại Việt thời Lý – Trần mang thiên hướng nữ tính ....... 75

3.1.4. Phật giáo Đại Việt thời Lý – Trần có tính linh hoạt ...................... 75
3.2. VAI TRÒ PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN ..................... 76
3.2.1. Xây dựng một nền tư tưởng quốc gia độc lập, tự chủ và thống nhất
.............................................................................................................. 76
3.2.2. Tinh thần xây dựng xã hội khoan dung, nhân hòa ........................ 78
3.2.3. Đoàn kết toàn dân ........................................................................ 80
3.2.4. Trong quan hệ bang giao .............................................................. 81
3.2.5. Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật .............................................. 82
3.3. HẠN CHẾ PHẬT GIÁO ĐẠI VIỆT THỜI LÝ – TRẦN .................. 86
KẾT LUẬN.................................................................................................. 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 91
PHỤ LỤC .................................................................................................... 93


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam trên dưới 2000 năm, gắn bó
đồng hành cùng dân tộc và có mối quan hệ khăng khít với văn hóa, kinh tế,
chính trị, xã hội trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phật
giáo có mục đích cao cả là đem lại hạnh phúc và an lạc cho “chư Thiên” và
loài người. Trên nguyên tắc đoàn kết, hòa hợp, “tùy thuận chúng sinh”, nên
tuy là một yếu tố văn hóa “ngoại sinh” nhưng đã được dân tộc Việt Nam đón
nhận một cách rất tự nhiên như cây cần có nước và đã được hấp thụ, chuyển
hóa thành một bộ phận hữu cơ và tạo nên những nét đặc sắc trong văn hóa
dân tộc.
Với tư tưởng hòa đồng, đồng thời với tinh thần từ bi và trí tuệ, tư tưởng
Phật giáo đã trở thành một điểm tựa tinh thần vững chắc, một công cụ sắc bén
để giữ gìn bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu đồng hóa của phong kiến
phương Bắc suốt hơn 1000 năm thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kì lịch sử, tinh thần Phật giáo đã được các

chính quyền vận dụng vào những kế sách trị nước, an dân. Bản thân Phật giáo
cùng các bậc cao tăng cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự hưng thịnh
của quốc gia, trường tồn của dân tộc. Chính vì vậy mà một số triều đại phong
kiến Việt Nam đều rất chú trọng đến Phật giáo. Tiêu biểu là triều Lý và triều
Trần.
Trong suốt gần 4 thế kỷ, vai trò của Phật giáo được phát huy cao độ,
tinh thần Phật giáo là chất liệu cố kết nhân tâm, là cầu nối giữa chính quyền
Trung ương với địa phương. Các vị quân vương thời Lý - Trần đã xây dựng
thành công một mô hình Nhà nước quân chủ rất đặc thù, rất Việt Nam thời
trung đại, đó là kiểu Nhà nước “tập quyền thân dân”. Với mô hình này hai


vương triều nói trên đã đưa dân tộc ta trở thành một trong những quốc gia
phát triển trong khu vực Châu Á thời bấy giờ.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả đã đưa ra nhận định rằng, thời
Lý - Trần Phật giáo là Quốc đạo. Nghiên cứu vấn đề này vừa có ý nghĩa khoa
học và ý nghĩa thực tiễn cao. Về mặt khoa học, nghiên cứu vấn đề này góp
phần tìm hiểu mối quan hệ tương tác mật thiết giữa tư tưởng Phật giáo với
chính quyền và tình hình văn hóa xã hội hai triều Lý - Trần. Về mặt thực tiễn,
nghiên cứu vấn đề này bổ sung nguồn tư liệu quan trọng cho những ai quan
tâm đến Phật giáo, đặc biệt Phật giáo thời Lý - Trần. Trong bối cảnh hiện nay,
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là một nhiệm vụ có tầm chiến lược, trong
đó đoàn kết tôn giáo, hướng tôn giáo tích cực phục vụ sự nghiệp xây dựng đất
nước là một nội dung hết sức quan trọng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có
những chính sách tôn giáo đúng đắn, phù hợp. Xuất phát từ ý nghĩa trên, em
xin chọn đề tài “Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần (1009 - 1400)”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo ở giai đoạn Lý Trần luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước.
Những tư liệu về Phật giáo thời Lý - Trần trong các thư tịch cổ Trung Hoa

như “Tống sử”, “Nguyên sử” và “Tục tư trị thông giám trường biên” của Lý
Đào…đã được các nhà sử học Việt Nam tổng hợp, phiên dịch và khai thác
phục vụ công việc nghiên cứu.
Trong các bộ sử biên niên Việt Nam, “Đại Việt sử ký toàn thư” là bộ sử
có giá trị, được khắc in lần đầu tiên vào năm Chính Hòa thứ 18(1697), gắn
liền với tên tuổi của những nhà sử học nổi tiếng như Ngô Sĩ Liên, Phạm Công
Trứ, Lê Hy. Có thế nói đây là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu tiến
trình lịch sử dân tộc Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Hậu Lê nói riêng và


Phật giáo nói chung. Hầu như tất cả các học giả sau này đều coi đây là tư liệu
gốc cho việc nghiên cứu tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quân
sự và tôn giáo của các triều đại phong kiến Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các
bộ sử sách cũ cũng được coi là những nguồn sử liệu quý báu, có giá trị tham
khảo cao, như “Việt sử lược”(hay “Đại Việt sử lược” của một tác giả khuyết
danh thời Trần), “An Nam chí lược” của Lê Tắc, “Kiến văn tiểu lục” và “Đại
Việt thông sử” của Lê Qúy Đôn, “Đại Việt sử lý tiền biên” và “Việt sử tiêu
án” của Ngô Thì Sĩ, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú …
Trong các bộ thư tịch Phật giáo trước hết phải kể đến sách “Thiền uyển
tập anh”. Đây là bộ sách tập hợp hành trạng của những bậc chân tu, cao tăng
của Phật giáo đã vận dụng trí tuệ để giúp cho Đạo pháp và Dân tộc dưới các
triều đại Việt Nam cho đến thời Lý - Trần. Theo ý kiến của một số chuyên
gia, “Thiền uyển tâp anh” được biên soạn dưới thời Lý và hoàn thành vào thời
Trần. Trải qua một thời gia khá dài, bộ sách này đã bị thất tán và cũ nát, nên
đến thời Hậu Lê nhà sư Thích Như Trí cùng các đệ tử đã tổ chức in lại vào
năm Vĩnh Thịnh thứ 11(1715). Đến đầu thế kỷ XX, một bậc danh tăng uyên
bác là Phúc Điền một lần nữa hiệu chỉnh và cho khắc in lại dưới tựa đề
“Trùng khắc Đại Nam thiền uyển đăng tập lục”. Với những giá trị tư liệu đặc
biệt, sách “Thiền uyển tập anh” đã được các học giả danh tiếng như Lê Qúy
Đôn, Phan Huy Chú sử dụng để biên soạn các tác phẩm của mình.

Bên cạnh “Thiền uyển tập anh”, trong các nguồn sử liệu Phật giáo phải
kể đến các tác phẩm “Khóa hư lục” của Trần Nhân Tông là quyển sách viết về
chân lí sinh tồn của con người, cũng là tài liệu phục vụ nghiên cứu Phật giáo
thời Trần. “Thánh đăng lục” là tiểu truyện về 5 vị Thiền sư đồng thời là vua
triều Trần, đó là Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông và
Minh Tông, bản in sớm nhất còn lại vào năm Cảnh Hưng thứ 11(1750) do sư
Quảng Đức hiệu đính và đề tựa; “Tam tổ thực lục” là tập truyện về ba vị Tổ


Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, bản in sớm nhất còn lại vào năm Cảnh Hưng
thứ 16 (1765) do Sa Môn Quảng Điền và Hải Lượng hiệu đính, trùng san.
Đến thập niên 30 - 40 của thế kỷ XX, hòa cùng phong trào yêu nước là
phong trào chấn hưng Phật giáo. Tác phẩm “Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại
giao và tông giáo triều Lý” của Hoàng Xuân Hãn, xuất bản lần đầu vào năm
1941 và được chỉnh lí tái bản nhiều lần. Tác phẩm giới thiệu cuộc đời sự
nghiệp anh hùng Lý Thường Kiệt, cuộc kháng chiến chống Tống và lịch sử
ngoại giao triều Lý, nhiều mặt của đời sống xã hội đương thời như: chế độ
ruộng đất, văn hóa, Phật giáo.
Tác phẩm “Việt Nam Phật giáo sử lược” của hòa thượng Thích Mật
Thể, xuất bản lần đầu vào năm 1943, sau được tái bản vào các năm 1970,
1996. Đây là cuốn sử Phật giáo đầu tiên của thời cận đại Việt Nam được biên
soan tương đối bài bản với các tư liệu có giá trị để dựng lên một bức tranh
tổng thể của Phật giáo Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ.
Từ năm 1945 đến 1975, mặc dù đất nước còn đang chiến tranh nhưng
một số tác phẩm có giá trị liên quan đến Phật giáo cũng đã được dịch và xuất
bản, trong đó đáng kế nhất là bộ “Thơ văn Lý - Trần” gồm có ba quyển. Đây
là bộ sách tuyển tập những bài thơ thời Lý và thời Trần.
Tác phẩm “Thiền sư Việt Nam” của Hòa thượng Thích Thanh Từ, xuất
bản năm 1972. Đây là một cuốn sách hệ thống lại các nguồn sử liệu về hành
trạng các Thiền sư Việt Nam.

Tiếp đó, năm 1973, nhà xuất bản Lá Bối đã công bố bộ sách “Việt Nam
Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang. Đây là một trong những khảo cứu công
phu nhất về lịch sử Phật giáo Việt Nam, trong đó có Phật giáo thời Lý - Trần.
Ngoài ra còn có thể kể tới: Tác phẩm “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến
thế kỷ XIII” của Trần Văn Giáp được Đại học Vạn Hạnh công bố ở Sài Gòn
năm 1973. Cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của tập thể tác giả do Nguyễn


Tài Thư chủ biên công bố bởi Nhà xuất bản Khoa học xã hội tại Hà Nội năm
1991.
Tác phẩm “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh, xuất
bản năm 1999. Tác phẩm nghiên cứu nội dung tư tưởng Phật giáo Việt Nam.
Đặc điểm Phật giáo Việt Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm
linh của cư dân bản địa có tiếp thu tôn giáo ngoại nhập.
Tác phẩm “Phật giáo với văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy do
Nhà xuất bản Hà Nội xuất bản năm 1999. Tác phẩm đưa ra các khái niệm, tư
duy triết lý văn hóa về Phật giáo với văn hóa Việt Nam; việc du nhập và mở
rộng văn hóa ở Việt Nam; Lý luận Phật giáo với văn hóa hữu hình; Phật giáo
với văn hóa tinh thần và Phật giáo với văn hóa dân tộc.
Tác phẩm “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”(2 quyển) của Lê Mạnh Thát
do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2001.
Tác phẩm “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Hùng
Hậu do nhà xuất bản Hà nội xuất bản năm 2002. Tác phẩm trình bày Phật
giáo từ khi du nhập vào Việt Nam. Quan điểm thế giới, nhân sinh quan của
Phật giáo Việt Nam.
Cùng với những công trình của các nhà khoa học phải kể đến tập san
của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam - tủ sách Phật giáo và dân tộc. Đây là
tập hợp những bài viết của Tăng ni sinh khóa VI chuyên ngành Phật giáo Việt
Nam thực hiện để chào mừng Đại lễ 1000 năm của dân tộc, với tựa đề “Phật
giáo đời Lý” do Nhà xuất bản Tôn giáo in năm 2010. Qua các bài viết của

tăng ni sinh, có thể thấy được giá trị hào hùng của dân tộc qua hàng nghìn
năm nhưng vẫn còn đang lưu chảy trong huyết quản của mỗi người dân Việt
Nam nói chung và của tăng ni nói riêng.
Bên cạnh đó là những bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo.
Tiêu biểu “Một số biểu hiện của văn hóa Phật giáo ảnh hưởng đến văn hóa


Việt Nam (thời Lý - Trần)” của tác giả Phan Nhật Huân đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo số 7, năm 2012. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thanh
Thảo “Phật giáo với nghệ thuật Việt Nam thời Lý-Trần” đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo số 7, năm 2012…
Một số luận văn thạc sĩ, luận văn tiến sĩ cũng đề cập đến Phật giáo Việt
Nam như Luận án Phó tiến sĩ của tác giả Phạm Văn Sinh, trường Đại học
Tổng hợp Hà Nội, công bố năm 1995 với đề tài: “Về vai trò của Phật giáo ở
Việt Nam (qua triều đại nhà Lý)” ; Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thuý
Thơm, trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, công bố năm 2010 với
đề tài: “Vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam (qua
triều đại nhà Trần)”…
Mặc dù có rất nhiều công trình đề cập đến Phật giáo Đại Việt thời Lý –
Trần, tuy nhiên, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu vấn đề Phật
giáo Đại Việt dưới hai triều đại Lý - Trần, vì vậy vấn đề Phật giáo Đại Việt
dưới triều đại Lý - Trần mới chỉ được nghiên cứu một cách khái lược đại
cương, cơ bản, chưa trình bày được một cách có hệ thống lô-gic, khoa học.
Song với nhiều tài liệu nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam, trong đó có Phật
giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần, đó là những tư liệu quý báu để tác giả
kế thừa, hoàn thiện công trình khóa luận của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích
Khoá luận tìm hiểu về Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần
(1009 - 1400).

Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ:
Thứ nhất: Khái quát về Phật giáo nói chung và Phật giáo Việt Nam
trước thế kỷ XI.


Thứ hai: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, chính sách cũng như tình hình
Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần (1009 - 1400).
Thứ ba: Rút ra đặc điểm và vai trò Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý
- Trần (1009 - 1400).
Đối tượng nghiên cứu
Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần (1009 - 1400).
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Khóa luận tập trung chủ yếu vào thời kỳ tồn tại của hai
triều đại Lý và Trần (1009 - 1400) trải suốt gần bốn trăm năm. Trong quá
trình nghiên cứu, khóa luận có đề cập đến thời kỳ trước đó (các triều Ngô,
Đinh, Tiền Lê) nhưng chủ yếu chỉ để minh họa, so sánh để làm nổi bật thời kỳ
trọng tâm.
Về không gian: Phật giáo trên lãnh thổ Đại Việt thời Lý - Trần.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu dựa trên cơ sở thế gới quan và phương pháp
luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nghiên cứu Lịch sử. Khi nghiên cứu đề
tài, người viết sử dụng kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp
logic, là hai phương pháp chủ đạo.
Bên cạnh đó, khóa luận còn sử dụng phương pháp: sưu tầm, thu thập,
xử lí tư liệu, thống kê, phân tích, so sánh để xác minh sự kiện, nội dung lịch
sử.
5. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lý luận: đề tài góp phần vào việc tìm hiểu về Phật giáo Đại Việt
dưới triều đại Lý - Trần (1009 - 1400), qua đó thấy được mối quan hệ tương

tác mật thiết giữa tư tưởng Phật giáo với chính quyền và tình hình mọi mặt
của đất nước dưới hai triều đại Lý - Trần.


Về mặt thực tiễn: Khóa luận có đóng góp về mặt tư liệu cho những ai
quan tâm đến Phật giáo. Đặc biệt là Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý Trần (1009 - 1400). Bên cạnh đó, khoá luận có ý nghĩa cho việc hoạch định
chính sách đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát Phật giáo Việt Nam trước thế kỷ XI
Chương 2: Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý - Trần (1009 - 1400)
Chương 3: Đặc điểm và vai trò Phật giáo Đại Việt dưới triều đại Lý Trần (1009 - 1400).


Chương 1

KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ XI

1.1. KHÁI QUÁT VỀ PHẬT GIÁO
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ thứ VI TCN ở Ấn Độ trên vùng đất thuộc
Nêpan ngày nay. Đây là thời kỳ phát triển cực thịnh của đạo Bà la môn kể về
mặt tôn giáo lẫn vị trí chính trị xã hội. Dân cư trong xã hội Ấn Độ cổ đại lúc
này chia thành 4 đẳng cấp là Bà la môn (Brahmanas), Sát đế lị (Ksastryas),
Vệ xá (Vaisyas) và Thủ đà la (Soudras).
Bà la môn là đẳng cấp có địa vị cao nhất, bao gồm những người hoạt
động tôn giáo chuyên nghiệp.
Sát đế lị là đẳng cấp của vua quan và tầng lớp võ sĩ.
Vệ xá là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn

nuôi, làm ruộng, buôn bán, thợ thủ công…
Thủ đà la là đẳng cấp thấp nhất chiếm đa số, là con cháu của những bộ
lạc bại trận, những người bị phá sản, không có tư liệu sản xuất.
Sự phân biệt đẳng cấp thể hện ở nhiều mặt, từ địa vị xã hội, quyền lợi
kinh tế đến quan hệ giao tiếp, ăn mặc, đi lại, sinh hoạt tôn giáo…Đẳng cấp
Thủ đà la ở địa vị dưới đáy của xã hội, làm nô lệ cho ba đẳng cấp trên.
Sự phân biệt đẳng cấp diễn ra vô cùng khắc nghiệt khiến cho tầng lớp
đa số trong xã hội - những người Thủ đà la căm ghét chế độ đẳng cấp. Nhiều
trào lưu tư tưởng chống lại đạo Bà la môn và chế độ đẳng cấp của nó đã ra
đời, trong đó có đạo Phật.
Sự ra đời của đạo Phật còn gắn liền với tên tuổi người sáng lập là thái
tử Cồ Đàm Tất Đạt Đa (Siddharta Gautama), sinh năm 563 tr.CN, con vua


Tĩnh Phạm (Sutdodana) nước Ca tỳ la vệ ở chân núi Hymalaya - miền đất bao
gồm một phần miền nam nước Nêpan và một phần của Ấn Độ ngày nay.
Ngay từ nhỏ, Thái tử Tất Đạt Đa đã được sống trong nhung lụa, không
tiếp xúc với xã hội bên ngoài, không hề thấy và không hề biết rằng trong cuộc
đời lại có những đói khát, bệnh tật, già yếu và chết chóc.
Năm 17 tuổi, Thái tử cưới vợ là công chúa Da giu đà la, sinh một con
trai là La ầu la. Từ đó, Thái tử mới được tiếp xúc với cuộc sống ngoài chốn
cung đình. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với những cảnh già yếu, bệnh tật, chết
chóc đã tác động đến tâm hồn nhạy cảm của Ngài.
Năm 29 tuổi, Ngài quyết định rời bỏ ngôi cao quyền lực, rời bỏ cuộc
sống nhung lụa xa hoa để dấn thân vào con đường tu hành khổ hạnh, mong
tìm được giải thoát cho chúng sinh.
Sau 6 năm tu hành khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn mà không đạt được sự
yên tĩnh trong tâm hồn và cũng không nhận thức được chân lí, Ngài nghiệm ra
là cả cuộc sống tràn đầy vật chất, thỏa mãn dục vọng, lẫn cuộc sống khổ hạnh
đều không giúp tìm con đường giải thoát, chỉ có con đường trung đạo là đúng

đắn nhất. Do đó, Ngài tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lí và bỏ lối
tu khổ hạnh, đi sâu vào tư duy trí tuệ.
Sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây bồ đề tại làng Uruvela, chìm đắm
trong tư duy sâu thẳm, Ngài tuyên bố đã đến được với chân lí, hiểu được bản
chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và con đường cứu vớt. Ngài tự xưng
là Phật (Buddha - có nghĩa là giác ngộ). Người đời gọi Ngài là Thích ca Mâu
ni (bậc thánh của dòng họ Thích ca).
Từ đó, Phật truyền bá đức tin, thành lập các đoàn truyền giáo. Đạo Phật
ra đời, trên thực tế là sự phủ nhận chế độ đẳng cấp của đạo Bà la môn. Giáo lí
đạo Phật sâu sắc, hấp dẫn, đề cao sự bình đẳng, hướng tới sự giải thoát; lễ


nghi đạo Phật đơn giản, không tốn kém như đạo Bà la môn, nên nhanh chóng
thu hút được tín đồ.
Năm 483 tr.CN, lúc 80 tuổi Phật tịch.
1.1.2. Hệ thống giáo lý cơ bản của Phật giáo
Giáo lí cơ bản của đạo Phật được thể hiện trong Tam tạng kinh điển là
Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng.
Kinh tạng (Sutra Pitaka) là những sách ghi lời Phật Thích ca giảng về
giáo lí.
Luật tạng (Vinafapitaka) là sách ghi lại những giới luật do Phật chế
định làm khuôn phép sinh hoạt cho các tăng đoàn và các đệ tử tại gia.
Luận tạng (Abhidhammapikata) là hệ thống những luận giải của cá Hộ
pháp về kinh tạng và luật tạng.
Giáo lí cơ bản của đạo Phật được thể hiện qua những khái niệm như: vô
tạo giả, vô thường, vô ngã, tứ diệu đế…
Vô tạo giả
Vô tạo giả là không có kẻ sáng tạo đầu tiên.
Trong giáo lí của đạo Phật thì không gian là vô tận, thế giới nhiều như
cát sông Hằng. Không gian có “Tam thiên thế giới” gồm: đại thiên thế giới,

trung thiên thế giới, tiểu thiên thế giới. Mỗi tiểu thiên thế giới có hàng chục
ngàn thế giới. Thời gian có “Tam kiếp” gồm: đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp.
Một đại kiếp = 4 trung kiếp. Một trung kiếp = 20 tiểu kiếp. Một tiểu kiếp =
hàng chục triệu năm.
Thế giới trong không gian được gọi là thế gian. Mỗi thế giới đều có
một vật ở trung tâm là Tu di. Tu di là tên quả núi, có đỉnh và chân. Xung
quanh núi có mặt trời, mặt trăng và bốn vùng thiên hạ.
Dưới Tu di là địa ngục, bốn xung quanh, lưng chừng núi là chỗ ở của tứ
thiên hạ là: người, a – tu - la, ngã quỷ, súc sinh…Ở lưng chừng xung quanh


núi, cao hơn là cõi trời thứ nhất, chỗ ở của thiên vương. Ở trên đỉnh núi có cõi
trời thứ hai, là chỗ ở của vua Đế Thích và 32 vị thần khác. Trên đỉnh Tu di là
cõi trời thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ 6. Cõi trời thứ sáu là cõi cuối cùng trong
dục giới. Thế giới được phân thành 3 cõi lớn: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc
giới.
Dục giới: gồm những sắc chất không trong sạch, có 4 cảnh khổ và 2
cảnh phúc.
Bốn cảnh khổ là: Địa ngục, Súc sinh, Ngã quỷ, A – tu - la.
Địa ngục (Ni Raya-Ni: Không, Raya: Hạnh phúc): là cảnh khổ mà
chúng sinh phải chịu vì đã tạo ra nghiệp ác. Ở đó cũng có cơ thoát ra, do
nghiệp Thiện tạo ra, được Địa Tạng Bồ Tát cứu độ.
Súc sinh: chúng sinh bị tái sinh vào cảnh cầm thú vì tạo nghiệp xấu.
Ngã quỷ (Pêta yoni-pêta:quỷ, yoni:cảnh): Pêta là người tuyệt đối không
có hạnh phúc, mắt người không thấy được.
A – tu - la (Asuta-yoni): là cảnh giới của nhiều người không bao giờ
vui, không có tiêu khiển giải trí, là nhiều chúng sinh cùng đau khổ như ngã
quỷ.
Hai cảnh phúc là: cảnh người và cảnh trời.
Cảnh người là cảnh giới có hạnh phúc và khổ não. Đây là cảnh hiện

thực.
Cảnh trời là cõi hữu phúc, người ở cõi này cũng có hình thể, nhưng tinh
tế không thấy được. Họ cũng chết, trí tuệ không hơn người. Đây là cảnh hư
không.
Vạn pháp (các sự vật hiên tượng) trong thế giới được tạo nên bởi những
phần tử vật chất và tinh thần gọi là Ngũ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn, thức uẩn.
Sắc uẩn gồm tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong.


Thọ uẩn là cảm giác vui, khổ hoặc không vui, không khổ được cảm
nhận do sự tiếp xúc của 6 cảnh tương ứng bên ngoài là: hình sắc, mùi, âm
thanh, vị, cứng mềm và những đối tượng của tư tưởng.
Tưởng uẩn là ấn tượng, tri giác được phát sinh do sự tiếp xúc giữa 6
căn (mắt, mũi, tai,lưỡi, thân và ý) với 6 cảnh bên ngoài giúp nhận biết sự vật
là vật lí hay tâm lí.
Hành uẩn (tư duy) là những thao tác của tâm thức, gồm những hoạt
động của ý chí. Trong hành có “Nghiệp”. “Nghiệp” chính là ý muốn. Khi đã
có ý muốn, thì người ta thao tác bằng thân, miệng, ý (thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp) dẫn đến những hoạt động tốt, xấu.
Cảm giác và tri giác không phải là những hoạt động của ý chí, chúng
không phát sinh nghiệp quả. Chỉ có hành (những hoạt động do ý chí) như: chú
ý (tác ý), muốn (dục), xác định (thắng giải), tin (tín), định (kiên định), tuệ (trí
tuệ), nghị lực (tinh tấn), tham (ham muốn), thù ghét (hận), ngu si (vô minh),
kiêu căng (mạn), chấp và thân xác (thân kiến) mới sinh nghiệp quả.
Thức uẩn là phản ứng của các giác quan đối với 6 hiện tượng ngoại giới
(hình sắc, âm thanh, mùi vị, sự vật tếp xúc, tâm giới). Thức không nên xem là
“tinh thần” đối lập với vật thể. Nó tồn tại tùy thuộc vào vật thể được cảm
giác, tri giác.
Vô thường

Vô thường (Anitya): Vạn pháp trong vũ trụ không đứng yên mà luôn
luôn chuyển động, biến đổi theo chu trình: Thành - trụ - hoại - không hay
Sinh - trụ - dị - diệt.
Sinh - diệt là hai quá trình xảy ra trong mỗi sự vật, hiện tượng cũng như
trong toàn vũ trụ. Thế giới này là hoại - không của thế giới khác, pháp khác,
cứ như vậy mà tiếp diễn. Các pháp chuyển động, biến đổi đều bị chi phối bởi
luật nhân duyên.


Nhân là mầm tạo quả. Duyên là điều kiện, phương tiện. Nhân duyên
hòa hợp thì sự vật sinh. Nhân duyên tan rã thì sự vật diệt. Tùy theo nhân
duyên mà hợp thành sự vật, hiện tượng khác nhau. Mỗi sự vật, hiện tượng
không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nhân duyên đã có từ trước.
Trong vũ trụ nhân duyên là vô tận, là tính “trùng trùng duyên khởi”. Do đó,
các sự vật, hiện tượng quan hệ mật thiết với nhau, nương nhờ chi phối lẫn
nhau. Thế giới sự vật, hiện tượng biến đổi ở các trạng thái sắc (hữu hình) và
không (vô hình). Sắc - không là hai dạng tồn tại của vạn pháp.
Như vậy, thế giới luôn biến đổi, vô thủy, vô chung, không có bắt đầu,
không có kết thúc. Thế giới sự vật biến đổi không phải do thần thánh, mà tự
nó (tự kỷ nhân quả). Sự vật, hiện tượng do con người nhận biết qua thần sắc,
hình tướng chỉ là giả tạm. Do đó, thế giới khách quan đang tồn tại chỉ là hư
ảo, không có thực, là vô thường.
Vô ngã
Giáo lí đạo Phật cho con người là “một pháp” đặc biệt của thế giới, bao
gồm phần sinh lí và tâm lí, là sự kết hợp của Ngủ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành,
thức).
Phần sinh lí (sắc uẩn) là thần sắc, hình tướng, được tạo thành bởi tứ đại
(địa - thủy - hỏa - phong).
Phần tâm lí (tinh thần, ý thức) gồm thụ - tưởng - hành thức, được biểu
hiện bằng thất tình: ái, ố, nộ, hỉ, lạc, ai, dục.

Phần tâm lí bao giờ cũng dựa vào phần sinh lí, con người sinh - diệt là
sự giả hợp của ngũ uẩn. Khi ngũ uẩn hợp là sinh, khi ngủ uẩn tan là diệt. Do
đó, không có cái gọi là “bản ngã” (cái tôi). Tồn tại con người chỉ là “vô ngã”.
Con người thường có cái tâm thường trụ bất biến và bao hàm vũ trụ.
Tâm của con người là cái Tâm đại bình đẳng, Tâm bát nhã, Tâm chân như,
Phật tính, tâm Phật. Không thể phân biệt tâm của ta hay tâm của người.


Tâm của chúng sinh do vô minh che lấp nên chỉ là cái tâm mê loạn; vì
vô minh nên không thấy được chân lí của vũ trụ là “chư hành vô thường”,
“chư pháp vô ngã”; vì vô minh nên chúng sinh lầm tưởng mọi cái, kể cả xác
thân ta là có thật. Mọi sự vật, kể cả con người đều chỉ là giả tưởng, không có
thật. Để khắc phục vô minh, cần phải diệt trừ cái nhận thức mê lầm của Ngã
chấp.
Khi thân xác chết (gọi là “chấp đoạn”), linh hồn sẽ đầu thai vào kiếp
khác (gọi là “chấp trường”). Cứ như vậy luân hồi sinh tử không đứt.
Con người từ kiếp này phải chịu quả báo về những việc làm của họ từ
kiếp trước. Như vậy con người chịu sự quy định của nhân quả, nhân quả tác
động lẫn nhau do duyên. Mọi pháp đều giới hạn, tương đối và phụ thuộc vào
nhau. Nó thể hiện trong nguyên tắc của duyên khởi. Cái này có, thì cái kia có;
cái này sinh, thì cái kia sinh; cái này không có thì cái kia không có; cái này
diệt thì cái kia diệt.
Duyên khởi (thập nhị nhân duyên) gồm: vô minh – hành - thức - danh
sắc - lục nhập – xúc - thụ - ái - thủ - hữu – sinh - tử.
Đây là quá trình sự sống phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu chấm dứt
sự chết thì quá trình chấm dứt: Không còn vô minh, không còn phiền não…
Vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc
diệt… cho đến khi sinh diệt thì lão tử diệt. Mỗi một duyên khởi vừa là quả,
vừa là nhân, vừa bị định đoạt, vừa làm điều kiện. Vì thế chúng đều là tương
đối, liên quan với nhau, không có gì là tuyệt đối hay biệt lập. Thập nhị nhân

duyên, vì thế không phải là một chuỗi, mà là một vòng,
Tứ diệu đế
Tứ diệu đế là bốn chân lí cao cả gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Khổ đế (Dukkha) là chân lí nói về sự khổ.


Đức Phật cho rằng “Cuộc đời là bể khổ”. Con người có 8 nỗi khổ:
sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội, thụ biệt li, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn.
Mặc dầu cuộc sống có khổ đau, nhưng không nên buồn sầu, oán hận
hay thiếu kiên nhẫn vì nó. Con người cần hiểu rõ vấn đề khổ đau, nó phát sinh
thế nào, làm sao xua đuổi nó, và tùy theo đó mà hành động với sự kiên nhẫn,
thông minh và nghị lực, để vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, sung sướng, vui
hưởng hạnh phúc.
Tập đế (Samuđaya) là chân lí nói về nguyên nhân của sự khổ.
Nguyên nhân trực tiếp, rõ rệt, và phổ biến gây nên sự khổ là dục vọng,
bao gồm: ham muốn khoái lạc giác quan, ham muốn tài sản, ham muốn thế
lực, ham muốn tư tưởng, ham muốn danh vọng và ham muốn những sự tin
tưởng. Mọi ham muốn đề có cội rễ là tam độc: tham (lòng tham vị kỉ), sân (sự
giận dữ) và si (sự si mê).
Ý chí, dục vọng, lòng ham muốn, lòng khát khao tồn tại, tiếp tục tăng
trưởng, không mất đi, dừng lại cùng cái chết của thân xác, mà tiếp tục biểu
hiện trong một hình thức khác, phát khởi sự tái sinh gọi là luân hồi. Còn sự
khao khát trở thành thì vòng luân hồi còn tiếp tục. Nó chỉ chấm dứt, nhờ trí
tuệ thấy rõ thực tại, chân lí, Niết Bàn.
Diệt đế (Nirodha) là chân lí nói về chấm dứt sự khổ, đó là Niết bàn.
Muốn diệt trừ Dukkha, phải diệt cội gốc chính của Dukkha đó là lòng
khao khát hay tham ái. Bởi thế Niết bàn còn là diệt ái, sự diệt hẳn dục vọng.
Niết bàn là cái tuyệt đối không bị giới hạn, là sự diệt tắt của ham muốn,
vọng tưởng, hận thù, sự hủy diệt của ý niệm sai lầm về ngã. Theo Phật giáo
Tiểu thừa, Niết bàn và luân hồi sinh tử là hai phạm trù khác biệt nhau. Còn

theo Phật giáo Đại thừa. Niết bàn có thể thực hiện được ngay trong cõi này.
Người chứng nhận chân lí Niết bàn là người hạnh phúc nhất trần gian. Người
ấy thoát khỏi mặc cảm và ám ảnh, phiền não, lo âu, sức khỏe tinh thần thoải


mái, không tiếc quá khứ, không mơ mộng về tương lai. Họ trong sạch, từ hòa,
đầy lòng thương, thông cảm và khoan dung. Họ phục vụ người khác trong
sạch, không nghĩ về mình, không vụ lợi, họ đã thoát khỏi ảo tưởng về ngã và
lòng khát khao “trở thành”.
Đạo đế (maga - con đường) là chân lí chỉ ra con đường diệt khổ nghĩa
là phải thực hiện phương pháp diệt khổ cụ thể là tu luyện qua ba môn học:
Giới - rèn luyện đạo đức
Định - rèn luyện tư tưởng
Tuệ - khai sáng trí tuệ
Ba môn này được cụ thể hóa trong con đường Bát chính đạo, nghĩa là 8
con đường đúng đắn:
Chính ngữ: nói năng đúng đắn.
Chính nghiệp: hành động đúng đắn.
Chính mệnh: sống đúng đắn.
Chính niệm: tưởng nhớ đúng đắn.
Chính định: suy ngẫm đúng đắn.
Chính kiến: tín ngướng đúng đắn.
Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
Chính tinh thần: hi vọng đúng đắn.
Như vậy 8 con đường đúng đắn này loại trừ mọi ham muốn xa lánh
cám dỗ trần tục của con người. Đây chính là hình thức tu thân để hướng tới
chân lí của Phật và nó không phân biệt về mức độ thực hiện cũng như hiệu
quả thân phận mỗi con người và cũng không có sự phân biệt con người ở
đẳng cấp khác nhau.



1.2. PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ XI
1.2.1. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam
Từ giữa thế kỷ thứ III trước công nguyên, vua A Dục đã thâu tóm cả
Bắc và Nam Ấn Độ. Ngoài việc chăm lo phát triển cho đất nước, ông đã tận
tâm cống hiến cho Phật giáo. A Dục Vương đã cho xây dựng rất nhiều chùa
tháp, ủng hộ việc kết tập kinh điển lần thứ ba, đặc biệt ông đã phái khiển các
bậc cao tăng đi tới các quốc gia để truyền bá Phật giáo.
Với tinh thần nhiệt huyết các sứ giả tình nguyện đi truyền bá Phật giáo,
họ đã cùng những thương thuyền Ấn Độ đi tới các quốc gia ngòai Ấn Độ.
Phật giáo được truyền vào Việt Nam trong bối cảnh đó.
Đại đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng vào khoảng thế kỷ thứ II
Phật giáo đã được du nhập vào Việt Nam. Nhưng thực tế Phật giáo đã được
du nhập vào Việt Nam sớm hơn thời điểm đó, có thể cả trước công nguyên,
bởi những lý do sau:
Thứ nhất, trung tâm Phật giáo Luy Lâu có trước Bành Thành và Lạc
Dương, mà hai trung tâm này đã được xác định là hình thành vào thời Hậu
Hán (25 - 220).
Thứ hai, theo truyền thuyết, khi cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất
bại (43) một nữ tướng Bát Nàn đã đi tu. Từ hình ảnh của một Đức Quán Thế
Âm được tiếp thu rồi hình thành lên một nữ tướng, nữ vương, Tỳ kheo ni (nữ
giới xuất gia), sự chuyển tiếp đó đến thế kỷ thứ II thì cuối cùng Phật Man
Nương (Phật Mẫu Man Nương) chùa Dâu đã hoàn toàn là Phật Việt Nam.
Bốn pho tượng được Phật Man Nương kéo lên bờ cho tạc tượng cũng trở
thành 4 vị Phật. Ở đây, ngoài những yếu tố tín ngưỡng dân gian hay truyền
thuyết có thể thấy tâm tư, tình cảm và tư duy của người Việt đối với tư tưởng
Đại thừa đã rất sâu đậm, và phải trải qua một thời gian dài để tiếp thu và cải
biến từ hình ảnh của một Quán Thế Âm thành Phật Việt Nam.



Thứ ba, Phật giáo du nhập vào Việt Nam nhiều khả năng trước khi âm
mưu đồng hóa người Việt của các quan lại Trung Quốc được thực hiên ráo
riết. Khi Mã Viện bắt tay vào việc điều chỉnh các điều khoản của Việt luật
cho phù hợp với Hán luật, bởi nếu Phật giáo được du nhập vào sau khi Giao
châu bị Bắc thuộc thì chắc chắn Phật giáo sẽ bị ảnh hưởng của văn hóa Hán
nhiều hơn văn hóa Việt. Sau khi Mã Viện điều chỉnh luật Việt cho phù hợp
với Hán luật, các quan lại phong kiến phương Bắc không những đối xử với
dân bản địa tham tàn bạo ngược, mà còn muốn xóa hết những dấu tích văn
hóa bản địa, thì một nền văn hóa ngoại lai là rất khó du nhập.
Thứ tư, đến thời Mâu Tử sang, Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng Phật giáo
một cách sâu sắc và đã được truyền bá sâu rộng trong đông đảo quần chúng
nhân dân nên ông mới có thể viết ra bộ “Lý hoặc luận” để phản bác lại những
quan điểm của Nho giáo. Mâu Tử đã tiếp xúc với những vị cao tăng đủ để
chuyển hóa hệ tư tưởng Nho giáo đã được Mâu Tử tiếp thu từ trước, bởi Mâu
Tử là người giỏi về Nho học được ví như Mạnh Kha, Mặc Địch.
Tiếp đó, là câu chuyện giữa Thông Biện và Phù Thánh Linh Nhân
hoàng thái hậu bàn về lịch sử Phật giáo Việt Nam được chép trong Đàm Thiên
pháp sư truyện của cuốn sách “Thiền uyển tập anh”. Theo đó thì khi Phật giáo
chưa được truyền sang Trung Quốc thì ở Giao châu đã xây dựng được hơn 20
ngọn bảo tháp, độ được hơn 500 tăng sĩ, dịch được 15 bộ kinh rồi. Bấy giờ có
các vị Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội đến ở và truyền đạo…
Như vậy, Phật giáo từ Ấn Độ đã truyền bá trực tiếp vào nước ta. Các
nhà sư từ Ấn Độ đi theo đường biển truyền bá Phật giáo vào Luy Lâu (Giao
Chỉ). Phật giáo lúc này mang sắc Phật giáo Tiểu thừa Nam tông. Từ
“Buddha” tiếng Phạn được phiên âm trực tiếp sang tiếng Việt thành “Bụt”.
Sang thế kỷ thứ IV, V, nước ta lại có thêm luồng Đại thừa Bắc tông từ
Trung Quốc truyền vào. Chẳng mấy chốc nó đã lấn át và thay thế luồng Nam


tông từ trước đó. Từ “Buddha” vào tiếng Hán được phiên âm là “Phật đà”,

vào tiếng Việt rút gọn lại là Phật. Từ đây, từ Phật thay dần cho từ “Bụt”, từ
“Bụt” chỉ còn trong các quán ngữ biến thành ông Tiên trong các câu chuyện
dân gian.
Người Việt có một tín ngưỡng đặc sắc là thờ cúng tổ tiên. Khi được du
nhập vào Phật giáo không những không bị bài xích mà còn rất được hoan
nghênh. Việc một nền văn hóa mới được chấp nhận phụ thuộc rất nhiều vào
tính cách của người dân bản địa. Đối với người Việt, tính cách đó được hình
thành trên nền văn hóa lúa nước. Công việc trị thủy là một yếu tố khách quan
cần có sự hợp sức của tập thể dần dần tạo nên mô thức sống cộng đồng kiểu
làng xã. Người Việt thường cư xử với nhau bằng “tình làng nghĩa xóm”, xử
sự mọi vấn đề thường lấy tình cảm để giải quyết cứ ít sử dụng đến lý lẽ. Như
vậy, để duy trì được mối quan hệ làng xóm thì mọi thành viên phải cần đến sự
tự giác cao, nếu không mô hình tập thể bị phá vỡ, và Phật giáo với tư tưởng
Đại thừa là “tự giác giác tha” đã bồi đắp yếu tố quan trọng này trong sự kết
nối và phát huy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết cộng đồng làng xóm, và lớn hơn
là góp phần củng cố, phát triển tinh thần dân tộc.
Hệ thống tư tưởng Phật giáo được du nhập vào Việt Nam
Đạo Phật gồm một hệ thống giáo lý và nghi thức tu hành hoàn chỉnh và
phức tạp, nhưng khi du nhập vào vùng nào đó thì luôn có những biến đổi để
thích nghi với văn hóa bản địa. Phật giáo du nhập vào Việt Nam là Phật giáo
Đại thừa. Tư tưởng Đại thừa vừa phóng khoáng, vừa bao dung nhưng cũng
mang tư tưởng triết lý cao siêu, với tinh thần từ, bi, hỉ, xả, vô ngã vị tha, và tự
giác - giác tha. Cùng với hạnh nguyện độ sinh, cứu khổ cứu nạn, dù thuận
cảnh hay nghịch cảnh vẫn hùng dũng hiên ngang, chuyển hóa kẻ thù bỏ ác
làm lành. Chính vì thế, tư tưởng Đại thừa Phật giáo đã rất phù hợp với văn
hóa của dân tộc Việt Nam, và cũng rất cần thiết cho cuộc kháng chiến của dân


×