Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Truyện cổ dân gian mang màu sắc phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưới góc độ so sánh loại hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
__________________

Nguyễn Hữu Nghóa


PHỤ LỤC




Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ QUỐC HÙNG




Thành phố Hồ Chí Minh - 2009





LỜI CẢM ƠN


Học viên Nguyễn Hữu Nghĩa kính lời tri ơn sâu sắc đến thầy Hồ
Quốc Hùng - người đã hết lòng dẫn dắt trong quá trình thực hiện đề tài.
Người viết trân trọng cảm ơn quý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cùng
những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua. Cuối cùng, xin chân
thành cảm ơn gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều
kiện học tập, nghiê
n cứu.
Chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào!


Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 06/4/2009
Tác giả
Nguyễn Hữu Nghĩa

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, nghiên cứu văn hoá tâm linh đang đi vào chiều sâu và ngày càng được quan tâm như
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của khoa nghiên cứu văn học. Sự kết dính giữa tôn giáo với văn
học, đặc biệt là văn học dân gian đang nổi lên như một trong những vấn đề trung tâm trong nỗ lực
nghiên cứu văn hoá để con người hiểu biết về chính mình nhằm hướng đến một tương lai phát triển bền
vững trong thời đại đầy biến động và thử th
ách.
So với nhiều vùng trên thế giới, Đông Nam Á là mảnh đất lý tưởng để nuôi dưỡng và phát triển
Phật giáo. Bén rễ từ trước công nguyên, Phật giáo đã góp phần tạo thành nền tảng văn hoá Đông Nam

Á cổ đại. Việt Nam nằm trong cơ tầng văn hoá Đông Nam Á cổ đại từ sớm, trước khi bị ảnh hưởng văn
hoá Há
n. Phật giáo đã cấy lên cơ tầng văn hoá bản địa Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng
những dấu ấn vật chất và tinh thần đậm tính nhân văn, góp phần tạo nên những thời kỳ phát triển thịnh
vượng và huy hoàng trong lịch sử các dân tộc.
Đạo Phật trong hành trình phát tích truyền thừa của mình đã tạo nên một vùng quang phổ văn
hoá rộng lớn. Là một tôn giáo mang tính quốc tế, đặc biệt và độc đáo hơn bất kỳ một tôn giáo nào,

tưởng Phật giáo có một khả năng hoà phối ở mức cao nhất với quan điểm sống, tình cảm và nguyện
vọng của quảng đại quần chúng lao động các dân tộc. Nghiên cứu nguồn truyện cổ dân gian mang màu
sắc Phật giáo, ở một phạm vi nhất định, nhằm phác thảo lại con đường, cơ chế mà Phật giáo thâm nhập
vào đời sống các cư dân bản địa Đông Na
m Á để phát huy vai trò của nó trong đời sống văn hoá các
dân tộc, qua đó, đưa lại những khám phá về cách thức mà nhân dân các dân tộc tiếp biến tôn giáo này
trở thành một thành tố văn hoá ưu việt thúc đẩy sự phát triển cộng đồng. Đó là một sự quay lại, chiêm
nghiệm, tổng kết quá khứ đồng thời mở ra những cánh cửa mới để bước vào tương lai, phục vụ yêu cầu
đổi mới nghiên cứu, đổi mới sáng tác văn học, đổi mới tư duy văn hoá tôn giá
o cũng như đổi mới chiến
lược phát triển kinh tế xã hội.
Việc nghiên cứu văn học dân gian của ta hiện nay đang xích dần hơn với khoa nghiên cứu văn
học dân gian quốc tế và đạt được những thành tựu khá to lớn, đã đặt ra được những vấn đề quan trọng
có tính chất lí luận về nguồn gốc, bản c
hất, đặc trưng thể loại, quá trình lịch sử của tác phẩm văn học
dân gian, phương pháp nghiên cứu tác phẩm phônclo. Tuy nhiên, cấp độ nghiên cứu trung gian giữa
nghiên cứu khái quát văn học dân gian với nghiên cứu sáng tác dân gian cụ thể còn khá nhiều khoảng
trống. Bên cạnh việc áp dụng những thành tựu của cấu trúc luận vào lĩnh vực nghiên cứu thể loại, việc
khoa
nh vùng nghiên cứu những nhóm đối tượng mang những nét đặc thù loại hình, đặc biệt là trên cơ
sở nghiên cứu so sánh, đang là hướng đi chuyên sâu, thiết thực không chỉ góp phần thu hẹp những
khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu phônclo mà còn mang ý nghĩa liên nghành, đóng góp vào

những thành quả nghiên cứu văn bản học, nghiên cứu văn hoá tộc người, gợi mở những đường hướng
nghiên cứu có liên quan cũng như có thể giúp cho các nhà văn đương đại tìm hướng sáng tác mới trên
con đường tìm về với nguồn cội văn học dân tộc.
Giải mã truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo theo phương pháp tiếp cận loại hình lịch sử
và văn hoá học là đi tìm cách ứng xử của các dân tộc trong quá t
rình cọ xát văn hoá cũng như trong
mối quan hệ với tự nhiên và xã hội theo lí tưởng thẩm mỹ, vừa mang ý nghĩa phổ quát chung cho toàn
nhân loại vừa đậm dấu ấn văn hoá dân tộc. Việc nghiên cứu đối tượng này giúp nhận ra những đặc
điểm nằm ở bề sâu của lịch sử, văn hoá hình thành nên dân tộc tính, giúp cho sự hiểu biết những tương
đồng trong chiều sâu và dị biệt giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
Nghiên
cứu nguồn truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của các quốc gia Đông Nam Á góp phần
đưa lại những minh chứng văn hoá cụ thể, xác thực, bác bỏ những cách gọi tên máy móc và gán ghép
của người châu Âu xem văn hoá của các nước Đông Nam Á chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn là Viễn Ấn
(Father India), Đại Ấn (Great India), coi văn minh Đông Nam Á là văn minh ánh sáng trăng
(moonlight civilization), văn minh vệ tinh (satellite civilization) hoàn toàn do bên ngoài mang đến.
Đề tài này, nếu được qua
n tâm đúng mức, có thể tiến hành khảo sát, thu thập tư liệu trên một
diện rộng cũng như phân tích sâu những giá trị lịch sử, văn hoá của chúng làm tài liệu tham khảo rất bổ
ích cho công việc nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian nói riêng,
đặc biệt cho sinh viên các chuyên khoa Đông Phương học, Đông Nam Á học.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những kết q
uả nghiên cứu về vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong văn hoá - văn
học Đông Nam Á nói chung và văn hoá - văn học Việt Nam nói riêng, đặc biệt là ở phạm vi truyện cổ
dân gian, tiến hành nghiên cứu đề tài “Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và
các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưới góc độ so sánh loại hình”, chúng tôi xác định một số mục đích
khoa học sau đây:
Thứ nhất, khảo sát đối tượng nghi
ên cứu, rút ra những đặc điểm mang tính loại hình của truyện

cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước Đông Nam Á. Từ đấy, tiến hành so sánh sự giống,
khác nhau giữa truyện của Việt Nam và các nước trong khu vực để từ đó có thể hiểu được những quy
luật vận động của một nhóm loại truyện cổ dân gian trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở khu vực
Đông Nam Á mà trước đây ít nhiều đã đư
ợc tiến hành trên một vài kiểu truyện.
Thứ hai, trên cơ sở những đặc điểm mang tính loại hình của nhóm đối tượng khảo sát, bước đầu
đi vào những đối sánh cụ thể ở các cấp độ cốt truyện, nhân vật và mô típ để chỉ ra những khác biệt giữa
truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam so với truyện cổ dân gia
n mang màu sắc
Phật giáo của các nước bạn cùng khu vực.
Thứ ba, nghiên cứu đề tài này, chúng tôi cũng hướng đến mục đích bổ sung những mảng nghiên
cứu còn khá trống trải trong lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian Đông Nam Á đồng thời đem lại
những kết quả thiết thực phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu văn học dân gian.
Thứ tư, xác lập một hệ thống các đơn vị tác phẩm không chỉ làm tư liệu khảo sát phục vụ đề tài
m
à còn làm nguồn tư tiệu tham khảo về lâu dài, nếu có điều kiện thuận lợi, có thể tiến hành nhuận sắc,
bổ sung để cho ra đời một tuyển tập truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo trong khu vực tương
tự như công trình mà tác giả Lệ Như Thích Trung Hậu đã thực hiện đối với truyện cổ mang màu sắc
Phật giáo của Việt Nam.
3. Lịch sử vấn đề
3.1.
Nhóm tư liệu nghiên cứu liên quan đến truyện cổ dân gian Việt Nam mang màu sắc Phật
giáo
Từ những thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, các nhà nghiên cứu văn hoá-văn học dân gian như
Nguyễn Đổng Chi, Cao Huy Đỉnh, Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên… đã đề cập khá nhiều về vấn đề
ảnh hưởng của Phật giáo trong truyện cổ dân gian nước nhà thông qua các công trình: Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam (1957-1982), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện “Tấm
Cám”(1963), Tì
m hiểu thần thoại Ấn Độ (1964), Văn học dân gian Việt Nam (1972-1973), Tìm hiểu
tiến trình văn học dân gian Việt Nam (1974),…

Đinh Gia Khánh nhiều lần nhấn mạnh những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng tôn giáo nói
chung và tư tưởng Phật giáo ở nhiều truyện như Thần trùng, Thần hổ, Quỷ nhập tràng, Ma cà r
ồng,
Giếng Việt, Từ Đạo Hạnh, Mục Liên, Từ Thức, Duyên lạ nước Hoa, Con trâu Vạn Địch .v.v..

Tác giả
khẳng định vẻ đẹp tinh thần lành mạnh của dân tộc qua việc nhân dân cải biến hình ảnh đức Phật -
nhân vật tối cao của Phật giáo thành một hình tượng hiền từ, độ lượng, căm ghét kẻ ác, thương yêu
người thiện [75, tr. 332-333]. Nhìn chung tác giả chỉ nêu ra những nhận định sơ bộ về mối quan hệ
giữa Phật giáo với truyện cổ Việt Nam. Có thể nói, Đinh Gia Khánh là một trong những người dành
nhiều công sức nhất cho việc nghiên cứu kiểu truyện Tấm Cám. Ở công trình Sơ bộ tìm hiểu những vấn
đề của truyện cổ tích qua truyện “Tấm Cám”, xoa
y quanh hiện tượng chết đi sống lại nhiều lần của
Tấm, tác giả khẳng định: “nhà chùa đã thất bại khi muốn đem nhồi nhét giáo lý bi quan của đạo Phật
cho nhân dân ta” [74, tr. 107] và kết luận: “Tấm Cám thể hiện tinh thần đấu tranh quyết liệt dẻo dai để
bảo vệ cuộc sống, bảo vệ chính nghĩa” [74, tr. 119]
. Tác giả cũng đã tiến hành so sánh truyện Tấm
Cám của Việt Nam với những truyện cùng típ của các nước cùng khu vực. Công trình này gợi mở
nhiều khía cạnh đáng quan tâm cho hướng khai thác vấn đề của luận văn.
Cao Huy Đỉnh cũng thừa nhận tính chất mê tín của tư tưởng t
ôn giáo trong truyện cổ. Tuy
nhiên, theo tác giả, chính sự mềm dẻo trong quan niệm dân gian đã chi phối, điều tiết được những mâu
thuẫn của bản thân tôn giáo, bảo đảm sự hài hoà, thống nhất của hai xu hướng thiêng liêng và thế tục,
từ bi và đấu tranh, mê tín và thực tiễn [40, tr. 227]. Ông cũng chỉ ra sự kết hợp và chuyển hoá giữa đạo
Phật với tín ngưỡng bản địa qua biểu hiện những nữ thần thị tộc: bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn là biểu tượng
đại diện cho những lực lượng thiên nhiên: mưa, gió, sấm sét ở trong thần thoại cổ của người Việt đã trở
thành tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện) của đạo Phật dân gian [40, tr. 41]. Như
vậy, Cao Huy Đỉnh chỉ dừng lại ở chỗ đánh giá chung tinh thần Phật giáo trong truyện cổ dân gian
nước nhà, chưa đi vào những khía cạnh cụ thể về mặt loại hình, cũng như chưa qua
n tâm đến đặc điểm

của nhóm truyện này trên phạm vi khu vực.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi, dành hai mươi lăm năm cho công trình Kho tàng truyện cổ
tích Việt Nam, đã đúc kết nhiều thành quả chiêm nghiệm quý báu khi nghiên cứu mảng truyện cổ có
dính líu đến đạo Phật. Thứ nhất, tác giả nhận định rằng: “Phần lớn truyện m
ang màu sắc Phật giáo là
những truyện cổ tích thế sự. Rất hiếm có những truyện mà nhân vật trung tâm của nó còn giữ được tầm
vóc của quá khứ như ông Khổng Lồ trong truyện Khổng Lồ đúc chuông” [8, tr. 80]. Đặc điểm thứ hai
của nhóm truyện cổ dân gian có ảnh hưởng của Phật giáo là “hiện tượng khai thác đề tài tình duyên để
chuyển tải ít nhiều tư tưởng có liên quan đến đạo P
hật” [8, tr. 1650]. Đặc điểm thứ ba là “tuy loại
truyện mang chủ đề tôn giáo chiếm số lượng ít, người Việt lại có khá nhiều truyện dường như là để
cảnh giới người tu hành” [8, tr. 1673]. Đặc biệt, Nguyễn Đổng Chi đã khái quát từ những biểu hiện vận
động cốt truyện của những truyện cổ tích mang màu sắc Phật giáo thành một đặc điểm hết sức độc đáo
của truyện cổ tích Việt Nam, đó là vấn đề chí
nh - tà được xây dựng theo quan hệ kép, quan hệ song tồn
và chuyển hoá chứ không phải quan hệ một chiều, đối kháng tuyệt đối dẫn đến triệt tiêu một phía [8, tr.
1620, 1624]. Nhìn chung, Nguyễn Đổng Chi đã chỉ ra những đặc điểm khá quan trọng xoay quanh
nhóm truyện mà đề tài nghiên cứu.
Điểm chung ở các tác giả này thể hiện ở cái nhìn thống nhất xoa
y quanh hình tượng Bụt trong
truyện cổ tích Việt Nam. Các tác giả xếp Bụt vào lớp nhân vật đảm nhiệm chức năng lực lượng phù trợ
cho nhân vật chính đạt hạnh phúc như vật báu thần kỳ, con vật thần kỳ, các hình thức biến hoá thần kỳ
của con người và thiên nhiên, là lực lượng ủng hộ cái thiện, ủng hộ lẽ phải, tiếp sức cho những kẻ có
chính nghĩa mà không có thực lực. Bụt hiện thâ
n cho vẻ đẹp hiền từ, nhân hậu gần gũi với mỗi người
dân Việt.
Như vậy, ở giai đoạn này, các chuyên gia đầu ngành văn học dân gian nói trên quan tâm nhiều
nhất vấn đề nhìn nhận trên đại thể bản chất tư tưởng Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam cũng như
quá trình nhân dân ta khẳng định bản sắc dân tộc qua sự tiếp biến,
bản địa hoá tôn giáo ngoại lai. Đây

đó cũng đã có một số phác thảo những đặc điểm của những truyện có liên quan đến Phật giáo. Tuy
nhiên những công trình này cũng chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát sơ bộ hoặc chỉ đi vào phân tích một
khối lượng đối tượng hạn hẹp, chưa nghiên cứu hệ thống truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của Việt
Nam và các nước Đông Nam Á.
Bước sang thập niê
n 90 của thế kỷ XX, trên cơ sở kế thừa những thành quả quý báu của những
nhà nghiên cứu đi trước kết hợp với những lý thuyết khoa học tiên tiến, lực lượng nghiên cứu ngữ văn,
văn hoá và tôn giáo khá hùng hậu như: Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng, Phạm Hải Triều, Nguyễn Duy
Hinh, Hoàng Văn Trụ, Lê Phong, Nguyễn Thị Nhàn, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Xuân Đức, Đào
Văn Tiến, Lê Mạnh Thát, Giác Dũng, Hồ Liên,… đã đi tiếp những bước sâu hơn, mới mẻ hơn trong
việc tiếp cận đối tượng.
Giai đoạn này có nhiều ý kiến bổ sung cho vấn đề nhìn nhận bản chất tinh thần P
hật giáo trong
truyện cổ dân gian. Lê Phong đã phân tích những chứng cứ văn học để đi đến khẳng định mối giao hoà
tốt đẹp trên hành trình Phật giáo đi vào đời sống của quảng đại quần chúng: “[…] Trong cuộc đời
phong phú, phức tạp có sự gặp gỡ giữa tư tưởng nhân dân và tôn giáo khi cả hai chủ trương cho điều
thiện, điều nhân ái với con người” [105]. Nguyễn Duy Hinh cũng nhìn nhận những giá trị cốt lõi mà
Phật giáo m
ang đến cho đời sống văn hoá dân tộc: “Phật giáo trở thành một thành tố tâm hồn của
người Việt Nam. Nó không tồn tại độc tôn, không hình thành một dòng văn học riêng mà hoà vào
nguồn chung của văn hoá, văn nghệ dân tộc.” [62]. Lê Mạnh Thát đã tiến hành những phân tích khoa
học công phu Lục độ tập kinh, Lĩnh Nam chích quái, Cựu tạp thí dụ kinh để chỉ ra rằng

Phật giáo từ
thời Chử Đồng Tử đến thời Mâu Tử là “một nền Phật giáo có tính cách quyền năng” [122, tr. 20-22].
Giác Dũng đưa ra thêm nhiều dẫn chứng từ Cổ Châu Phật bản hạnh, Lĩnh Nam chích quái, Lý hoặc
Luận, để khẳng định thêm tính chất thuyết phục ở nhận định của Lê Mạnh Thát trong cuốn Lịch sử
Phật giáo Việt Nam về vấn đề đạo P
hật thời kỳ Chử Đồng Tử là Phật giáo tín ngưỡng, tin tưởng vào
quyền năng, thần thông linh dị [28, tr. 72-77]… Những nhận định trên giúp chúng tôi có cái nhìn bao

quát cũng như những định hướng sơ bộ về những khía cạnh của tư tưởng Phật giáo trong nhóm truyện
mà đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, hàng loạt những bài nghiên cứu của nhiều tác giả đã góp phần soi rọi, lật xới vấn đề
ảnh hưởng của đạo P
hật đối với truyện Tấm Cám mà Đinh Gia Khánh đã khơi nguồn từ ba bốn mươi
năm trước: Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng -
1994), Đôi điều suy nghĩ về truyện Tấm Cám (Phạm Xuân Nguyên - 1994), Mối giao lưu và tương tác
văn hoá giữa các nước Đông Nam Á qua truyện Tấm Cám (Nguyễn Tấn Đắc - 1996),
Thử phân tích
vài biểu hiện của đặc điểm nhân ái trong truyện cổ tích Việt Nam (Phạm Hải Triều - 1996),... Mặc dù
việc nhìn nhận ảnh hưởng của đạo Phật trong truyện Tấm Cám vẫn chưa ngã ngũ nhưng các tác giả đã
đưa lại những tham chiếu từ nhiều góc độ, trên nhiều bình diện: văn học, văn hoá, lịch sử, tôn
giáo.v.v..có tác dụng gợi mở nhiều cánh cửa để tham sát vấn đề. Đây
là những tài liệu tham khảo liên
quan trực tiếp đến đề tài luận văn khi khảo sát các típ truyện tiêu biểu trong truyện cổ dân gian mang
màu sắc Phật giáo của khu vực Đông Nam Á. Dù vậy, các kết quả nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở một
típ truyện mà chưa mở rộng phạm vi khảo sát trên diện rộng các típ truyện mang màu sắc đạo Phật của
Việt Nam và các nước

Đông Nam Á.
Cũng xuất phát từ những chiêm nghiệm cùng những phân tích khá lý thú và độc đáo của tác giả
Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam khi bàn về quan hệ kép, quan hệ song tồn và chuyển hoá của hai trục
chính-tà trong truyện cổ tích có liên quan đến Phật giáo, Lê Tiến Dũng mở sang cánh cửa tiếp cận trên
bình diện nhân vật. Tác giả khái quát một đặc điểm của nhân vật trong truyện cổ mang màu sắc Phật
giáo là “tính cách có thay đổi chứ không bất biến như đa số các trường hợp. Nhưng sự thay đổi này
không diễn ra như một quá trình như tự sự hiện đại mà mang tính đột biến, do ý đồ chủ quan của người
kể nhằm phục vụ “mưu toan” định sẵn ngay từ đầu.” [29]. Đây là gợi ý quan trọng cho việc khảo sát
đặc điểm
nhân vật của nhóm truyện cổ mang màu sắc Phật giáo.
Không ít công trình nghiên cứu truyện cổ dân gian Việt Nam dưới góc độ nhân vật. Trong đó,

đáng lưu ý là nhân vật Bụt. Về nhân vật này, nhìn chung lớp những người nghiên cứu về sau vẫn
không có ý kiến biện chính lại những quan niệm trước đây mà vẫn cho Bụt là nhân vật đóng vai trò
phân biệt đúng - sai, phải - trái, tốt - xấu, hay giúp đỡ người lành, là sự hoá thân, sự hiện thực hoá cái
thiêng liêng của sự sống,
cái đẹp và cái thiện
1
. Như vậy, các tác giả chỉ dừng lại ở việc xếp nhân vật
Bụt vào nhóm nhân vật trợ thủ, chưa chỉ ra sự khác biệt xoay quanh nhân vật này trong truyện cổ Việt
Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Gần với hướng khai thác đề tài luận văn là công trình “Cảm quan Phật giáo trong truyện cổ tích
Việt Nam” của Nguyễn Hữu Sơn - Lại Phi Hùng [116] và luận văn cao học “Truyện dân gian Việt
Nam về Phật giáo nhì
n từ góc độ loại hình” của Đỗ Văn Đăng [38].
Trong công trình của mình, Nguyễn Hữu Sơn và Lại Phi Hùng lấy Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam gồm 200 truyện làm cơ sở khảo sát và đã thống kê được 29/200 truyện có liên quan xa gần đến
cảm quan Phật giáo. Trong đó, 18 truyện thể hiện ở cấp độ yếu tố, thành phần; 11 truyện hoàn chỉnh
hơn về nội dung, cốt truyện và nhân vật. Hai tác giả đã chỉ ra được 6 biểu hiện của cảm
quan Phật giáo
trong các truyện cổ tích khảo sát có thể hiện trên các cấp độ yếu tố, chi tiết, nhân vật,… Đặc biệt, công
trình đưa lại một nhận định thú vị về kiểu dạng cốt truyện của nhóm đối tượng khảo sát: “Các truyện
mang cảm quan Phật giáo hoàn toàn chỉ xuất hiện đậm đặc ở truyện về nguồn gốc sự vật…”. Các tác
giả khẳng định “màu sắc cảm
quan Phật giáo thường gắn bó chặt chẽ với nguồn gốc nguyên mẫu, giải
thích nguồn gốc sự vật và cuộc đời các danh nhân có uy vọng trong đời sống tâm linh quần chúng.”
[116, tr. 54-55]. Tiếc rằng các tác giả chỉ dừng lại ở mức độ nhận định khái quát, không phân tích cụ
thể kiểu dạng đặc thù của hình t
hức kể chuyện sự tích để làm sáng tỏ tính chất vừa mâu thuẫn vừa
thống nhất của xu hướng thiêng hoá và thế tục hoá của truyện cổ mang màu sắc đạo Phật.
Luận văn thạc sĩ của học viên Đỗ Văn Đăng nghiên cứu khá tỉ mỉ về nhóm truyện cổ dân gian
mang màu sắc Phật giáo của nước ta. Sau khi phân chia đối tượng khảo sát thành ba loại: Phật thoại,

những truyện ảnh hưởng của Phật giáo và
những truyện có mối giao thoa với kinh điển, điển tích Phật
giáo, tác giả đã phác hoạ kiểu dạng cấu tạo cốt kiểu truyện chính: kiểu Phật thoại dân gian thoát thai từ
truyện tích nhà chùa và kiểu Phật thoại xây dựng từ típ truyện dân gian. Kế đến, tác giả khảo sát 17 mô
típ đặc trưng của nhóm truyện này. Tác giả cũng tiến hành nghiên cứu khá kỹ loại hình nhân vật Phật
giáo. Đặc biệt, người viết dành hẳn một chương để bước đầu so sánh khái quát kiểu truyện dâ
n gian

1
Xem Hồ Liên [81], Lê Phong [105], Nguyễn Hữu Sơn, Lại Phi Hùng [116],
Việt Nam mang màu sắc Phật giáo và kiểu truyện cùng loại của một số nước trong khu vực. Công trình
này mang lại những đóng góp đáng trân trọng và là nguồn tư liệu tham khảo thực sự bổ ích cho chúng
tôi khi nghiên cứu đề tài của luận văn. Tuy nhiên, cần thấy rằng bình diện cốt truyện chưa được tác giả
khai thác rốt ráo và khoa học, cụ thể là tác giả đồng nhất giữa việc phân loại với việc phác hoạ các
dạng cấu tạo cốt truyện dẫn đến sự thiếu rõ ràng và thuyết phục khi đưa ra những kiểu dạng cốt truyện
của nhóm
đối tượng khảo sát. Hệ thống mô típ mà tác giả phác thảo khá dàn trải do sự phân chia đối
tượng thành những thành phần quá chi tiết thay vì có thể gộp vào những kiểu dạng chung. Phần đối
sánh giữa truyện người Việt với truyện các nước Đông Nam Á chỉ m
ang tính khái quát và là những
phác thảo đơn sơ chứ chưa phải là đối tượng khảo sát chính.
Tóm lại, dù đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh xoay quanh mối quan hệ giữa Phật giáo và
truyện cổ dân gian Việt Nam, các công trình trên cũng chỉ dừng lại ở phạm vi dân tộc chứ chưa tiến
hành nghiên cứu hệ thống nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của nước ta với các quốc
gia Đông Nam Á.
3.2. Nhóm tư liệu nghiên cứu liên quan đến truyện cổ dân gi
an mang màu sắc Phật giáo của
các nước Đông Nam Á
Xoay quanh vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học dân gian Đông Nam Á có một số tác
giả từ thập niên 60 của thế kỷ trước đã đề cập ở trên như Cao Huy Đỉnh (Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ

(1964)), Đinh Gia Khánh (Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á (1993))
cùng rất nhiều nhà nghiên cứu về sau như Đức Ninh (Văn học các nước Đông Nam Á (1999)), Nguyễn
Tấn Đắc (Truyện kể dân gi
an đọc bằng type và motif (2001)), Lại Phi Hùng (Những tương đồng và
khác biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam (2004)), Vũ Tuyết Loan (Tuyển tập
văn học Campuchia (2003), Văn học Phật giáo Campuchia (2005)), Phạm Đức Dương (Việt Nam-
Đông Nam Á ngôn ngữ và văn hoá (2007)), Lương Ni
nh - Vũ Dương Ninh (Tri thức Đông Nam Á
(2008)),… Chỉ sơ bộ qua thống kê trên sẽ thấy hướng nghiên cứu so sánh thực sự phát triển mạnh vào
những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX cho đến nay.
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu thống nhất cho rằng các quốc gia Đông Nam Á theo dòng
chữ Phạn chịu sự ảnh hưởng đặc biệt sâu đậm của Phật giáo và văn học Ấn Độ. Truyện cổ dâ
n gian của
các nước này lấy đề tài chủ yếu và xuyên suốt từ các tác phẩm kinh điển của văn học xứ Phật Đà, đặc
biệt là Bổn sinh kinh (Jataka). Năm 1964, khi tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, nhà nghiên cứu Cao Huy
Đỉnh từng chỉ ra mối liên hệ giữa những truyện xoay quanh nhân vật chú thỏ ở các nước Campuchia,
Lào, Thái Lan, Myanma,…với chuyện tiền thân đức Phật của người Ấn với tên gọi “sasa”, vừa chỉ con
thỏ, vừa chỉ mặt trăng [40, tr. 684]
. Sang những năm cuối thập niên 80 đầu 90, nhiều kết quả nghiên
cứu Đông Nam Á tiếp tục khẳng định và đi sâu hơn vào khu vực văn học dân gian Đông Nam Á ảnh
hưởng từ văn học Phật giáo Ấn Độ. Lưu Đức Trung, từ những năm 1989 đến 1999 đã chỉ ra những ảnh
hưởng của Jataka vào văn học Lào, Thái Lan, Campuchia: “[…
] Jataka vào Campuchia cuối thời kì
Ăngco, ngày càng trở thành nguồn đề tài quan trọng của văn học. Tư tưởng Phật giáo trong Jataka có
ảnh hưởng sâu đậm trong các tác phẩm văn học của Campuchia, xu hướng Jataka hoá ngày càng rõ nét
trong truyện cổ, ngụ ngôn. Các nhân vật phần nhiều là hiện thân của đức Phật. Lối kết thúc truyện cũng
giống như lối kết thúc trong Jataka, Jataka đến với Lào với cái tên Xattakhăm, phần nhiều truyện tiền
kiếp của đức Phật trở thành nguồn chất liệu trong sáng tác của văn học Lào…”[142, tr. 12-13]. Trong
Tuyển tập văn học C
ampuchia, ở phần giới thiệu bộ phận văn học truyền thống, Vũ Tuyết Loan phân

tích quá trình Phật hoá văn học Campuchia cũng như xu hướng Jataka hoá truyện cổ Campuchia sâu
đậm đến mức “[…] Văn học Campuchia thời kỳ này (thế kỷ XVI, XVII) nhiều lúc chỉ làm việc minh
hoạ đơn giản cho giáo lý nhà chùa, bởi lẽ quan niệm nghiệp căn (Karma) của Phật giáo chi phối hầu
hết các tình tiết cốt tru
yện.” [84, tr. 19].
Các tác giả Đức Ninh, Vũ Tuyết Loan, Nguyễn Tương Lai cũng khá thống nhất khi phân chia
văn học các nước Lào, Thái Lan, Campuchia thành ba loại: văn học dân gian, văn học nhà chùa, văn
học cung đình. Trong đó, tinh thần đạo Phật hầu như chiếm lĩnh xuyên suốt ba bộ phận nói trên
2
.
Một mặt nhấn mạnh những ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo cũng như văn học Ấn Độ, các nhà
nghiên cứu vẫn khẳng định sức mạnh nội sinh của văn hoá bản địa hình thành trước khi có sự xâm
nhập của đạo Phật: “[…] Từ thời xa xưa, ở các nước Asean đã từng có một nền văn hoá rực rỡ, nền văn
minh nông nghiệp lúa nước phát sinh rất sớm. Nh
iều nhà nghiên cứu gọi lớp văn hoá nguyên sơ này là
cơ tầng văn hoá Đông Nam Á” [46, tr. 2]. Các tác giả phân tích quá trình tiếp biến chủ động, có chọn
lọc của các dân tộc Đông Nam Á: “Những tác phẩm văn học cổ đại Ấn Độ khi vào Đông Nam Á gặp
ngay đời sống dân gian vô cùng sống động đã được dân gian hoá, được tái sinh trong dân gian, làm
giàu thêm cho kho tàng văn học dân gian vùng này.” [46, tr. 5].
Từ góc độ loại hình lịch sử và vận dụng lý thuyết nghiên cứu cấu trúc luận, N
guyễn Tấn Đắc đã
chỉ ra mối quan hệ nguồn cội của típ truyện U Thền của dân tộc Thái (Việt Nam) với những truyện
cùng típ ở các quốc gia Đông Nam Á từ trong văn học Phật giáo [35, tr. 139]. Theo đó, tác giả nêu cụ
thể “[…] Các truyện về U Thền (hay U Thền, Ú Thêm) và về Xi Thuần (hay Xi Thốn) của người Thái ở
Việt Nam đã tiếp nhận từ các type truyện Rot
hisen (hay Butthesen) và Sudhana (hay Xi Thôn) phổ biến
ở các nước Đông Nam Á theo Phật giáo Theravada là Lào, Campuchia, Thái Lan và Myanma. Và
nguồn gốc sâu xa của chúng là từ Đất nước Phật Đà - Ấn Độ [35, tr. 150-151]. Đặc biệt, tác giả chỉ ra
những điểm dị biệt trong thế đối sánh truyện Việt Nam với truyện các nước bạn cùng khu vực: “Cũng
tiếp nhận từ Ấn Độ, nhưng cách người Thái

Lan, người Lào, người Campuchia, Myanma và Việt Nam
tiếp nhận có khác nhau. Trong khi người lào, Thái Lan, Campuchia và Myanma đã tiếp nhận nguyên
vẹn những yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ, thì người Thái ở Việt Nam đã tìm cách biến đổi
hoặc tước bỏ chúng đi.” [35, tr. 153]. Trên cơ sở quan sát thấy sự thiếu vắng một số chi tiết ở truyện
Việt Nam so với các nước khác, tác giả khái quát: “trong cách tiếp nhận, người Thái Việt Nam có xu

2
Xem Đức Ninh [84] và Vũ Luyết Loan [102]
hướng tước bỏ nhiều yếu tố đặc trưng của vũ trụ văn hoá Ấn Độ và thay đổi một số tiết và motif để cho
phù hợp với vũ trụ quan và quan niệm đạo đức của mình. Và vì vậy, các bản của người Thái Việt Nam
càng xa với bản gốc.” [35, tr. 160-161].
Cũng theo hướng nghiên cứu này, trên cơ sở lịch sử xã hội, vận dụng các thao tác phân tích cấu
trúc, phân loại, so sánh, Lại Phi Hùng đã tìm hiểu những tương đồng và khác biệt về đặc điểm loại
hình kiểu truyện Chàng trai khoẻ, kiểu tr
uyện Người bất hạnh và kiểu truyện Người đội lốt vật của
Việt Nam và Lào trên các cấp độ mô típ, kết cấu, cốt truyện, chủ đề,…[65]. Công trình này gợi ở nhiều
khía cạnh về mặt phương pháp để chúng tôi thực hiện đề tài.
Nhìn chung, các công trình trong nước đã đóng góp kết quả khoa học cụ thể thiết thực và quý
báu và
o những khoảng trống của khu vực nghiên cứu truyện cổ Đông Nam Á trên tinh thần nghiên cứu
so sánh những nhóm dạng tác phẩm cụ thể, đặc thù. Tuy nhiên, về mảng truyện cổ dân gian mang màu
sắc Phật giáo, hầu hết các nghiên cứu chỉ dừng lại ở phạm vi một, hai quốc gia riêng lẻ. Từ thành quả
trên, luận văn chúng ta sẽ tiếp tục triển khai ở cấp độ khu vực.
Những nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài về lĩnh vực này cũng đưa lại những kết quả
đáng qua
n tâm. Siraporn Nathalang ở bài viết Sự xung đột và thoả hiệp giữa tín ngưỡng bản địa với
Phật giáo được phản ánh qua những thần thoại của người Thái về nguồn gốc cây lúa (Conflict and
compromise between the indigenous beliefs and Buddhism as reflected in Thai rice myths) đã dẫn ra b
a
kiểu truyện được lưu truyền ở các dân tộc Thái Lan và phân tích những nghĩa lý mang tính lịch sử-dân

tộc của chúng phản ánh quá trình chuyển biến từ “cú sốc văn hoá” ở buổi đầu Phật giáo mới du nhập
vào lãnh thổ, va chạm với tín ngưỡng bản địa, đến những bước mối xung đột ấy dần dần được xoa dịu
và cuối cùng đi đến hoà bình. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra sự chuyển biến cục diện văn hoá và lịch

sử dẫn đến sự chuyển hoá về mặt cấu tạo cốt truyện dân gian truyền miệng như là một quy luật tất yếu
của văn học dân gian…[156, tr. 99-112]. William J. Klausner, đã cung cấp những câu chuyện thú vị
xoay quanh một nhân vật mà người Thái Lan gọi là “Hua paw” trong truyện kể truyền miệng vùng
Đông-Bắc nước này. Đó là những câu chuyện kể về những người đàn ông bứt m
ình ra khỏi vai trò trụ
cột của gia đình, rời bỏ nhà cửa, vợ con để vào chùa đi tu nhưng không thể thoát khỏi những ràng buộc
của đời sống thế tục và những ham muốn đời thường [156, tr. 69-72]. Pranee Wongthet trong bài
Chuyện tiền thân đức Phật và thế giới quan của người Lào Buông (The Jataka stories and Laopuan
worldview) đã đi sâu nghiên cứu tầm quan trọng của Jataka trong đời sống của người Lào Buông và

niềm tin của họ đối với cây bồ đề …[156, tr 47-60]…
Có thể chưa bao quát hết những ý kiến của các tác giả nước ngoài nhưng trong phạm vi hiểu
biết, chúng ta thấy hầu hết các nghiên cứu tập trung vào khía cạnh ảnh hưởng của Jataka trong truyện
cổ dân gian các nước theo Phật giáo Theravada hoặc chỉ giới thiệu đôi nét về một số típ truyện cổ dân
gian mang màu sắc Phật giáo mang nặng tính chất khảo cứu thực địa hơn là nghiê
n cứu từ góc độ loại
hình. Nhìn chung, đối tượng nghiên cứu của các tác giả này cũng chỉ gói gọn trong một phạm vi tác
phẩm hạn hẹp, chưa khảo sát diện rộng nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước
Đông Nam Á từ góc độ loại hình.
Những phác họa từ các công trình đi trước có thể còn thiếu nhưng cũng đủ cho thấy hướng
nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện cổ dân gian với Phật giáo được đặc biệt quan tâm. Nhiều vấn đề
đã được khẳng định. Nhiều vấn đề chỉ dừng ở mức gợi mở. Đấy chính là vấn đề chúng tôi
quan tâm.
Trong phạm vi đề tài của luận văn, chúng tôi xác định hướng nghiên cứu nhằm bổ sung phần phác hoạ
diện mạo cốt truyện, nhân vật và hệ thống các mô típ của nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật
giáo của Việt Nam và các nước cùng khu vực Đông Nam Á ở mức độ bao quát hơn. Đề tài sẽ tập trung

chỉ ra những tương đồng ở ch
iều sâu cũng như những dị biệt có cội rễ từ trong đời sống văn hoá,
truyền thống, thể hiện bản sắc riêng của các dân tộc. Trên một diện rộng như vậy, chúng tôi tự xác định
không thể quán xuyến tất cả mọi khía cạnh hiện tồn trong bản thân đối tượng nghiên cứu mà chỉ đi vào
một số khía cạnh chủ yếu khả dĩ m
ang lại những khái quát khoa học bước đầu và cơ bản nhất có thể để
làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp sau của bản thân hoặc những ai quan tâm vấn đề này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước
trong khu vực Đông Nam Á và tiến hành phân loại để nghiên cứu cấu tạo về loại hình của chúng. Tuy
nhiên, không phải mọi truyện xuất hiện những dấu hiệu có liên qua
n đến Phật giáo đều thuộc đối tượng
lựa chọn để nghiên cứu đề tài. Chúng tôi chỉ giữ lại những truyện mà trong đó, yếu tố Phật giáo tham
gia và đóng một vai trò quan trọng góp phần cấu thành giá trị của chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.
Trên thực tế, những truyện thuộc nhóm đối tượng này xuất hiện ở hầu hết các thể loại của loại
hình tự sự dân gian như thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười. Trong
đó, truyền thuyết và truyện cổ tích chiếm tỷ lệ cao nhất.
Ở phạm
vi quốc gia, dân tộc, về phía Việt Nam, do đặc điểm văn hoá lịch sử riêng, chúng tôi
chọn những truyện của dân tộc Kinh làm nguồn tư liệu nghiên cứu chí
nh. Về phía các nước cùng khu
vực Đông Nam Á, do tình hình thực tế của nguồn tư liệu, chúng tôi khảo sát chủ yếu truyện cổ của các
nước Campuchia, Thái Lan, Lào, Myanma. Truyện cổ của các quốc gia còn lại trong khu vực Đông
Nam Á như Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Philippin, Brunây, Đông Timo có thể được sử dụng với
khối lượng hết sức hạn chế phục vụ cho thao tác đối chiếu, bổ sung.
Tuy trải trên một diện rộng về tư liệu nhưng nhiệm vụ chính của đề tài là khảo sát loại hình.
Xuất phát từ góc độ loại hình, chúng tôi hy vọng có thể khái quát
được một số nét đặc thù, có thể dựa
vào đấy làm điểm tựa để nhận diện những đơn vị tác phẩm thuộc nhóm đối tượng này và từ đấy có thể
tìm thấy những nét tương đồng và dị biệt của nó giữa các nước.

5. Phương pháp nghi
ên cứu
Triển khai đề tài này, chúng tôi cố gắng vận dụng một số phương pháp nghiên cứu phù hợp với
khoa nghiên cứu văn học dân gian, đặc biệt là nghiên cứu so sánh loại hình lịch sử.
Phương pháp phân tích cấu trúc được sử dụng như là phương pháp nền tảng để khai thác những
thành tố cấu thành chỉnh thể nghệ thuật tác phẩm. Trong đó, thao tác phân lớp đối tượng, chia nhỏ các
thành tố bộ phận, sắp xếp chúng vào cùng một hệ thống và thống kê, phân loại các đơn vị đã phân
chia,…luôn hỗ trợ đắc lực trong quá trình khảo sát đối tượng.
Vận dụng phương pháp loại hình lịch sử, trên cơ sở những kết quả thu được từ thao tác giải
phẫu cấu tr
úc văn bản tác phẩm, những khía cạnh liên quan đến lịch sử - văn hoá luôn là điểm khơi
nguồn cho hầu hết những phác thảo khoa học đồng thời là điểm đến sau khi những kết quả nghiên cứu
đã được khái quát và hệ thống lại. Bởi lẽ, chúng tôi luôn quan niệm tất cả những khía cạnh đặc trưng
loại hình của một nền văn học, một tác giả hay một thể loại văn học,.. đều xuất phát từ những đặc điểm
nền tảng địa lý, kinh tế, xã hội, văn hoá,…m
à nền văn học ấy, tác giả và thể loại văn học ấy sinh ra, tồn
tại, vận động và phát triển.
Phương pháp hệ thống cũng được quan tâm như là một trong những phương phá
p chủ yếu của
quá trình nghiên cứu. Bởi lẽ đối tượng nghiên cứu của đề tài là những đơn vị tác phẩm cụ thể nằm
trong hệ thống truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các nước thuộc khu vực Đông-Nam
châu Á. Mọi biểu hiện trên từng tác phẩm riêng lẻ có ý nghĩa như là những dấu hiệu bộ phận có nét
tương đồng hoặc dị biệt với những đơn vị tác phẩm
khác, từ đó có thể khái quát nên những đặc điểm
mang tính loại hình của đối tượng nghiên cứu cũng như những dấu hiệu ngoại lệ nằm chệch ra ngoài hệ
thống đó.
Phương pháp nghiên cứu so sánh tham gia tích cực trong việc đối chiếu những đặc điểm mang
tính loại hình giữa truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước bạn c
ùng
khu vực. Phương pháp này đóng vai trò quan trọng giúp chúng tôi thu được những kết quả khảo sát mà

nhiệm vụ đề tài đặt ra.
Trong quá trình nghiên cứu, ở những chỗ cần thiết, chúng tôi sẽ mở rộng liên kết liên ngành để
phục vụ cho kết quả nghiên cứu được thuyết phục ở khả năng cao nhất có thể.
Trên đây là một số phương pháp chủ yếu được chúng tôi vận dụng khi triển khai đề tài “Truyện
cổ dân gi
an mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam Á nghiên cứu dưói góc
độ so sánh loại hình”.
6. Đóng góp của luận văn
Đóng góp thứ nhất thể hiện trên khối lượng văn bản truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo
của các nước Đông Nam Á bước đầu được tập hợp một cách khá hệ thống. Thiết nghĩ, nếu có điều kiện
thuận lợi, có thể tiến hành nhuận sắc, bổ sun
g để cho ra đời một tuyển tập truyện cổ dân gian mang
màu sắc Phật giáo trong khu vực tương tự như công trình mà tác giả Lệ Như Thích Trung Hậu đã thực
hiện đối với truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam.
Đóng góp thứ hai cũng là đóng góp chính của luận văn là từ những kết quả nghiên cứu đề tài,
luận văn góp vào khoa nghiên cứu văn học
nói chung và khu vực nghiên cứu văn học dân gian nói
riêng những phác thảo về đặc điểm mang tính loại hình của nhóm truyện cổ dân gian mang màu sắc
Phật giáo và những kết quả so sánh những đặc điểm ấy trong truyện Việt Nam và truyện của các quốc
gia cùng khu vực Đông-Nam châu Á.
Thông qua nghiên cứu, luận văn cũng góp vào thành quả nghiên cứu chung về mặt phương pháp
luận nghiên cứu văn học dân gian trên quan điểm loại hình lịch sử và so sánh văn học…
Luận văn không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận m
à còn phục vụ cho công tác thực tiễn nghiên cứu
và giảng dạy văn hoá-văn học Đông Nam Á.
7. Cấu trúc của luận văn
Do đề tài quá rộng nên luận văn chỉ mong đưa ra những phác hoạ đầu tiên làm cơ sở cho những
bước nghiên cứu lâu dài. Vì vậy, ngay cả những tiêu đề của luận văn cũng chỉ mang tính chất định
hướng chứ chưa thể xem
là hướng đi rốt ráo của từng vấn đề.

Ngoài phần Mở đầu (17 trang) và phần Kết luận (4 trang), nội dung luận văn được triển khai
theo bốn chương:
Chương 1: Phật giáo và truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo trong đời sống văn hoá
các dân tộc Đông Nam Á (26 trang)
Chương 2: Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam
Á dưới cấp độ cốt truyện (37 trang)
Chương 3: Truyện cổ dân gian m
ang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước Đông Nam
Á dưới cấp độ nhân vật (29 trang)
Chương 4: Một số mô típ tiêu biểu trong truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt
Nam và các nước Đông Nam Á (29 trang)

Chương 1: PHẬT GIÁO VÀ TRUYỆN CỔ DÂN GIAN MANG MÀU SẮC
PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CÁC DÂN TỘC
ĐÔNG NAM Á

1.1. Phật giáo trong đời sống văn hoá các dân tộc Đông Nam Á
1.1.1. Phật giáo theo lý trình của gió mùa qua các đường buôn bán trên vùng biển Nam (Nam
Dương) đến vùng đất Vàng (Kim Địa)
3
từ những thế kỷ II-III sau công nguyên. Cùng với sự phát triển
thương nghiệp hàng hải, lần lượt mọc lên các đô thị thiêng liêng (sacred cities), những lãnh địa bến
cảng (harbor states) thời cổ, nơi trung chuyển thương phẩm đồng thời là những trung tâm Phật giáo cổ
đại như Phù Nam (thế kỷ III), Dvaravati (thế kỷ VI), Sailendra, Matarm, Pagan, Srivijaya (thế kỷ VII-
VIII) [37]… Sự xuất hiện ban đầu của Phật giáo diễn ra ở các quốc gia cổ ở khu vực nà
y có thể sớm -
muộn, trực tiếp - gián tiếp khác nhau, xảy ra những va chạm với tín ngưỡng truyền thống của người
dân bản xứ cũng như những giai đoạn lịch sử phát triển với nhiều thăng trầm, biến động…nhưng trên
cục diện chung, Phật giáo đã nhanh chóng hoà nhập êm đẹp, đem những tinh hoa của nó góp phần tạo
nên những bước chuyển mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của các dân tộc.

Mặc dù có những giai đoạn Phật
giáo dòng Mahayana (Đại thừa) từng tồn tại nhưng từ thế kỷ XI-
XII, do ảnh hưởng của Ceylon và Miến Điện, Phật giáo dòng Theravada (Tiểu thừa) đã truyền sang
Tambralinga, rồi lan sang các nước Đông Nam Á lục địa, tạo nên một bước thay đổi lớn về tôn giáo ở
vùng này. Từ đó, Phật giáo Theravada trở thành quốc giáo của Thái La
n, Campuchia, Myanma và
Lào
4
. Ngày nay, có khoảng trên dưới 90% dân số các quốc gia này là Phật tử. Trong khi đó, Việt Nam
chịu ảnh hưởng Phật giáo thông qua Trung Quốc, theo dòng Đại thừa, qua trung tâm Phật giáo Luy
Lâu
5
từ thế kỷ thứ II. Phật giáo Việt Nam phát triển hưng thịnh vào các triều đại Lý, Trần. Về sau, tuy
không còn giữ địa vị quan trọng hàng đầu nhưng Phật giáo luôn được ủng hộ và đóng một vai trò khá
quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân.
1.1.2. Vai trò của Phật giáo đặc biệt được phát huy chưa từng có bởi những vị vua vĩ đại trong
lịch sử. Ở các quốc gia Phật giáo dòng Theravada, vua vừa là người đứng đầu quốc gia vừa là người
đứng đầu tăng chúng và cộng đồng P
hật giáo. Những vị vua trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á
lấy chánh pháp làm phép trị nước, lấy bác ái, từ bi làm đức chăn dân đã thực sự tạo nên những thời kỳ
phát triển huy hoàng trong lịch sử văn hoá dân tộc cũng như trong lịch sử phát triển Phật giáo theo hình

3
Người Ấn Độ gọi Đông Nam Á là Savarnadvipa (đảo Vàng) hay Suvacnabumi (xứ Vàng)
4
Tôn sùng Phật giáo luôn đứng đầu trong bảng thang bậc giá trị của văn hoá các nước này. [37, 251-257]
5
Luy Lâu hay còn gọi là Dâu, là kinh đô của Giao Chỉ, là nơi dừng chân của khách buôn từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Trong thời gian
ở lại Giao Chỉ, các khách buôn bày biện nghi lễ thờ cúng và cầu nguyện đức Phật và các vị Bồ tát. Trong các vị đó, Phật Nhiên Đăng
(Dipankara) và Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara) là những vị thường che chở cho thuỷ thủ và người đi biển được bình yên vô sự.

Từ đó, người Giao Chỉ ảnh hưởng Phật giáo của Ấn Độ. [37,
tr. 188]
mẫu quốc vương Asoka
6
xứ Phật Đà. Vua Li Thay, triều đại Sukhothai (Thái Lan) (1347-1368), xây
dựng thành phố Khamphaeng Phet để thay cho thành phố Chakangrao nằm đối diện bên kia sông Ping
với hai công trình kiến trúc giá trị nhất, 2 ngôi chùa cổ làm theo kiểu Srilanka là Vat Pra Siriyabot, nơi
chứa tượng Phật lớn nhất ở Sukhothai và Vat Chang Rob (chùa Voi) có ngôi tháp lớn mà quanh nền có
những hình voi đắp nổi. Vua Phía Tạkxỉn, triều đại Aynthaya (1767-1782) có công trong việc phát
triển đạo Phật và cho xây dựng nhiều chùa chiền ở thôn Buri. Các đời vua Rama I, II, III, IV (thế kỷ
XVIII-XIX) đều tích cực xây dựng Phật giáo. Năm
1782, vua Rama I đã tổ chức một hội nghị Phật
giáo nhằm giải thích toàn bộ Tam Tạng kinh (Tripitaka). Thế kỷ XIX, vua Mongkut (Rama IV, vị vua
đi tu trong suốt 27 năm tại chùa Mahathat - chùa Xá Lỵ lớn) đã đặt nền móng cho Phật giáo Thái Lan
hiện đại bằng cách thực hiện một cuộc cải cách sanga (tăng đoàn), lập ra giáo phái nổi tiếng
Dhammayut. Vua Chulalongkorn (1868-1910) cho xuất bản cuốn Điển lễ bằng tiếng Pali, tiếp tục cải
cách Phật giáo và đặt Phật giáo dưới sự bảo trợ của nhà
vua… Các vị vua Phật tử thuần thành của Lào
như vua Chậu Phạ Ngừm (1316-1376), Chậu Phônthixảrarat (1520-1550), vua Xulinha Vônga (1637-
1694),… đã nối tiếp nhau đưa Phật giáo và văn hoá dân tộc phát triển đến độ toàn thịnh. Campuchia có
vua Jayavarman II (802-850), vua Suryavacman II (1113-1150), Jayavarman VII (1181-
1218),…Myanma có các ông vua Phật tử Bayinnaung (1551-1581), Batgiđo (1819-1837)
7
,…
Ở Việt Nam, thời kỳ hưng thịnh nhất của Phật giáo và dân tộc là thời kỳ của tám vị vua nhà Lý
8

và các vị vua nhà Trần
9
, đều là những Phật tử nhiệt thành, vừa lo việc triều chính vừa học đạo, hành

thiền, thành lập giáo phái. Các vua Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Anh Tông (1138-1139), Lý Cao
Tông (176-1210) là các vị tổ sư các thế hệ của Thiền phái Thảo Đường. Vua Trần Thái Tông (1225-
1258) là một cây đuốc sáng khai nguồn cho tinh hoa đạo Phật bùng cháy. Vua Trần Thánh Tông (1258-
1278) tuy ngồi trên ngai vàng mà hành trạng chẳng khác một thiền sư đắc đạo. Vua Trần Nhân Tông
(1278-1297) là vị tổ sư đời thứ nhất của phái Trúc Lâm, khi mới lên ngôi “[…] tuy ở chốn cửu trùng
cao sang m
à vua vẫn sống thanh tịch. Vua thường ngủ trưa ở chùa Tư Phúc trong Đại Nội.” [114,
tr748]. Trong triều đình nhà Trần, xuất hiện một hiện tượng: “lấy địa vị vua chúa làm nhà đại sĩ, hoàng
hậu làm tỳ khưu, khanh tướng làm thầy chùa.” [41, tr. 387]…
Có thể thấy, mối quan hệ giữa triều đình, giữa người trị vì vương quốc với thần dân chan hoà
hoan hỷ trong tinh thần Đại bi Phật giáo. Hiếm
khi có sự hoà hợp mỹ mãn giữa vương quyền - thần
quyền - dân quyền như trong lịch sử các quốc gia Phật giáo phía Đông-Nam châu Á.

6
Asoka, vị vua - Phật tử nổi danh trong lịch sử Ấn Độ, vương triều Mauria (III-TCN), là người bảo hộ Phật giáo và có công làm cho
Phật giáo lan rộng ra khắp Ấn Độ và châu Á. Từ sau khi quy y, ông cho xây dựng trong nước 8 vạn 4 nghìn chùa, 8 vạn 4 nghìn bảo
tháp, cho khắc bia đá tuyên bố chính pháp, tổ chức cuộc kiến tập lần thứ ba, sai các vị truyền đạo đi khắp chốn để truyền bá đạo Phật.


7
Phần này chúng tôi tham khảo Từ điển văn hoá Đông Nam Á phổ thông [25]
8
Lý Thái Tổ (1010-1028), Lý Thái Tông (1028-1054), Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1127), Lý Thần Tông
(1128-1137), Lý Anh Tông (1138-1175), Lý Cao Tông (1176-1210), Lý Huệ Tông (1211-1225).
9
Trần Thái Tông (1237-1257), Trần Thánh Tông (1258-1278), Trần Nhân Tông (1278-1297), Trần Anh Tông (1339)
Về khía cạnh này, điểm quan trọng đặc biệt cần chú ý là các quốc gia Campuchia, Lào, Thái Lan,
Myanma có khuynh hướng lấy Phật giáo tập hợp quần chúng, thu phục nhân tâm nhưng lại lấy mô hình
nhà nước quân chủ lập hiến của phương Tây và mang tính chất Hindu giáo thần bí, trong đó vua vừa là

thần, vừa là Phật, đồng nhất với Indra, vừa là thần vua (Devaraje), vừa là Phật vua (Buddharaja). Vai
trò chính trị của Phật giáo ở các nước Đông Nam Á theo Phật giáo Theravada đặc biệt quan trọng. Nó
thể hiện cụ thể trên mối qua
n hệ hai chiều giữa nhà nước và tổ chức Phật giáo. Hiện tượng Phật giáo
gắn bó mật thiết với chính trị biểu hiện qua việc thần thánh hoá các quốc vương ở các nước này rõ hơn rất
nhiều so với ở Việt Nam.
Quá trình tiếp biến và gìn giữ những tinh hoa của Phật giáo ở người Việt ít có những điều kiện
thuận lợi hơn ở các nước an
h em cùng khu vực. Vị trí văn hoá Ấn Độ ở Lào, Thái Lan, Campuchia
đóng vai trò thiết chế nhà nước. Trong khi ở Việt Nam, vai trò đó thuộc về văn hoá Trung Hoa. Đạo
Phật các dân tộc theo đạo Phật Tiểu thừa tiếp nhận một cách tự nhiên và có ảnh hưởng lớn lao cả trong
đời sống của người dân cũng như thiết chế nhà nước và được xem là quốc giáo, không có tình trạng đối
lập giữa văn hoá dân gian và văn hoá kẻ thống trị ngoại b
ang. Phạm Đức Dương cho rằng sự tiếp thu
Phật giáo của các quốc gia Campuchia, Lào, Thái Lan,…nhìn chung có nhiều điều kiện thuận lợi hơn,
“thuận chiều” hơn so với Việt Nam. Và ông cũng cho rằng: “[…] Chúng ta thừa nhận ảnh hưởng của
hai nền văn hoá lớn Ấn Độ, Trung Hoa đối với tất cả các nước Đông Nam Á, nhưng mức độ đậm nhạt
có khác nhau. Văn hoá Lào, Thái Lan,
Campuchia chịu ảnh hưởng đậm của văn hoá Ấn Độ. Văn hoá
Việt Nam chịu ảnh hưởng đậm của văn hoá Trung Hoa.” [31, tr. 799-800].
1.1.3. Dấu tích Phật giáo cụ thể và đậm đặc nhất chính là hệ thống những công trình kiến trúc
trên những lãnh thổ mà nó đi qua. Dấu vết đó hình thành nên những phong cách nghệ thuật của những
đế chế Phật giáo huy hoàng ở Thái Lan như: Giai đoạn nghệ thuật Dvaravati (VI-XI), trường phái nghệ
thuật Ayuthya (XIV-XVIII), trường phái nghệ thuật Băng Cốc (XVIII-XX),… Vô số những công trình
chùa thá
p đồ sộ làm chứng nhân trong suốt trường kỳ lịch sử của đất nước này như: Lampang Luang,
ngôi chùa cổ nhất và trang nhã nhất của Bắc Thái Lan do công chúa Chama Devi xây dựng vào thế kỷ
VII; vat Prathat Haripunchai và vat Kunkut một trong những vat cổ xưa nhất ở Bắc Thái Lan (thế kỷ
IX); vat Chiang Mai (XIII), vat Chomkiri Nagaproth (XIV), vat Bovornivet ở Băng Cốc (Thái Lan-thế
kỷ XVIII);… Campuchia có Phimeanakas (cung điện trên không), một trong những đền núi của người

Khơm
e do vua Suriavacman I xây dựng vào đầu thế kỷ XI. Theo truyền thuyết, chính tại đây, đêm đêm
vua Khơme phải lên tháp ngủ với rắn thần Naga - vị nữ tổ của vương quốc. Tiêu biểu cho nghệ thuật
kiến trúc Phật giáo thời Ăng co là mô típ rắn Naga viền quanh các hào nước, trong đó Ăngco Thom do
vua Jayavarman VI xây dựng trong suốt 40 năm (1811-1219) là đỉnh cao của kiến trúc đô thị và đền
tháp thời kỳ này. Nea
k Pean, ngôi đền “Rắn cuộn” nổi tiếng với kiến trúc biểu tượng hoa sen nổi bồng
bềnh đặt trên hai con rắn cuộn, phía trên đỉnh trang trí hình bông sen do vua Khơme là Jayavarman VII
xây dựng từ thế kỷ XII ở ngoại ô thành Ăngko Thom. Điển hình cho kiến trúc Phật giáo Lào là thạt,
nơi chứa hài cốt của Phật hoặc các vị cao tăng. Có nhiều thạt lớn như thạt Luổng (Viêng Chăn), thạt
Xỉkhốt Tạboong (Thà Khẹc), thạt Mạc Mô (Luổng Phabang), thạt Ing Hăng (Xảvănnảkhệt-Nam Lào).
Bên cạnh các thạt là các vắt (chùa) như vắt In Peng (Viên Chăn) và hàng loạt các vắt ở Luổng Pha
Bang như vắt A Phay, vắt A Ram, vắt Chum Khoong,…. Myanma có Chaito, ngôi chùa huyền thoại
cất giữ 6 sợi tóc Phật gần Thaton (phía Nam Myanma). Bộ ba kiến trúc Bobotzi, Peátzi, Peama là
những kiến trúc tháp Phật giáo xưa nhất ở My
anma (thế kỷ V)… Đặc biệt, Sveđagôn (chùa Vàng - thế
kỷ XIV) là một trong những kiến trúc giá trị nhất, tự hào nhất và cũng linh thiêng nhất của nước
này
10

Trong suốt 18 thế kỷ tồn tại của đạo Phật ở Việt Nam, rất nhiều chùa tháp đã được xây cất… Hầu
như làng nào ở Việt Nam cũng có chùa, thậm chí có tới hai, ba chùa. Chùa nằm ở rìa làng, có khi ở
ngay gần chợ được gọi là chùa chợ. Ngoài ra còn có chùa núi, chùa hang, là nơi hành hương, chiêm bái
của nhân dân một vùng thậm chí của cả nước. Nếu như ngôi đình của Nho giáo tượng trưng cho ngôi
thứ, trật tự, tôn ti thì ngôi chùa của phật giáo thể hiện t
inh thần bình đẳng, dân chủ như câu nói “Đất
vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”. Trung Tâm Phật giáo Luy Lâu xưa (Bắc Ninh) còn in dấu những di
tích Phật giáo như chùa Dâu (tức chùa Diên Ứng - cuối thế kỷ III), chùa Phật Tích (đầu thế kỷ XI),
chùa Bút Tháp (giữa thế kỷ XIII). Hà Nội có chùa cổ Trấn Quốc (thế kỷ VI), chùa Báo Ân (thế kỷ
VIII), chùa Một Cột (tức chùa Diên Hựu - đầu thế kỷ XI). Ngoài ra, ở Hà Tây có chùa Đậu (thế kỷ

XVII), chùa Thầy (thế kỷ XI),…
Tuy nhiê
n, cũng cần thấy rằng, ở nước ta, cùng với sự mất đi vai trò lịch sử đỉnh cao của đạo Phật
sau thời Lý, Trần, hoạt động xây chùa chiền cũng như nhiều sinh hoạt Phật giáo khác đã không trở
thành nếp sinh hoạt thường nhật trong đời sống của dân tộc. Đặc điểm này hoàn toàn khác với các
nước bạn cùng khu vực.
1.1.4. Phật giáo thâm nhập hết sức mạnh mẽ vào các loại hình văn học nghệ thuật của các nước
thuộc khu vực Đông Nam Á.

Theo dòng thâm nhập của đạo Phật, nhiều truyện cổ Ấn Độ như
Panchatantra, Biển sữa, Tripitaka, Truyện con vẹt. v.v. có ảnh hưởng sâu rộng và ngày càng trở thành
nguồn đề tài quan trọng của văn học nghệ thuật các nước này [142]. Điều đó thể hiện qua các truyện
Buddhiaen (hay còn gọi là Rôthixên), Krum Subhamitr (Cơrông Xô Phẹ Mứt), Ông già trồng dưa chuột
ngọt, Xuvan Xirax Axut (Campuchia), Chămphaxithôn, Nàng Ka Cây, Cal
akệt (Lào), Thết Mahảchạt
(Thái Lan) [103],… Đặc biệt là một loạt tác phẩm cải biến từ Ramayana của Ấn Độ như Phra Lắc
Phra Lam (Lào), Riêm Kê (Campuchia), Rama Kiên (Thái Lan) hay những câu chuyện về chú thỏ
thông minh tuyệt trí bắt nguồn từ hình tượng một tiền thân của đức Phật sống cùng với giả can, khỉ và
gấu bên dòng sông Hằng truyền tụng rộng rãi trong nhân dân…

10
Phần này chúng tôi sử dụng tư liệu từ Ngô Văn Doanh [25]
Nhiều truyện cổ về loài vật của Việt Nam cũng ảnh hưởng từ văn học Phật giáo Ấn Độ như Thầy
bói xem voi, Mèo lại hoàn mèo, Cua và cò.v.v... Dấu vết của Ramayana cũng ít nhiều tìm thấy trong
truyện Dạ Thoa Vương. Hình tượng chằn phảng phất trong truyện Thạch Sanh. Mô típ Tác biển tìm vợ
có trong truyện tiền thân đức Phật cũng gần gũi với Sự tích con gi
ã tràng..v.v.
Từ xu hướng bản địa hoá các tác phẩm Phật giáo của văn học Ấn Độ trong văn học dân gian đến
xu hướng dân tộc hoá các sáng tác ấy trong văn học viết là một đặc điểm chung của văn học các nước
Đông Nam Á. Nguyễn Tấn Đắc nhiều lần nhấn mạnh sức mạnh nội sinh của văn hoá khu vực này:

“[…] Các quốc gia Đông Nam Á không những đủ khả năng chống lại cuộc x
âm lăng từ bên ngoài, đủ
khả năng để bảo vệ nền văn hoá truyền thống mà còn có thể tiếp thu những tinh hoa của 2 nền văn hoá
lớn của châu Á - Ấn Độ và Trung Hoa với tất cả tính bản địa…”, “[…] Văn học Đông Nam Á đã dân
tộc hoá những gì có thể chấp nhận được từ nhiều nguồn bên ngoài.” và “những gì Đông Nam Á tiếp
nhận rồi sinh sôi nảy nở trên mảnh đất
này đã trở thành di sản thật sự của văn hoá dân tộc.” [33, tr. 10-
15].
Về khía cạnh này, chúng ta vẫn nhận thấy rất rõ bóng dáng mờ nhạt của tinh thần Phật giáo xuất
phát từ Ấn Độ trong các tác phẩm của Việt Nam tiếp thu chung một nguồn gốc với các nước cùng khu
vực…
1.1.5. Giá trị nhân bản của Phật giáo chính là những ảnh hưởng sâu đậm nhất của Phật giáo trên
phương diện giáo dục nhân cách con người. Sự phát triển giáo dục ở các nước Cam
puchia, Lào, Thái
Lan, Myanma gắn một phần quan trọng với vai trò của đạo Phật. Mọi trẻ em, dù con vua, con quan,
giàu hay nghèo đều đến trường chùa học sơ đẳng, văn hoá nghệ thuật, giáo lý nhà Phật, đến 12 tuổi làm
tiểu, 21 tuổi làm tỳ khưu, sau một thời gian có thể hoàn tục và có thể coi là một người hiền (pandit)
được xã hội trọng dụng. Ở các quốc gia này, tha
nh niên được coi là người trưởng thành và được mọi
người kính trọng nếu họ tu học ở nhà chùa, đã khoác áo cà sa ít nhất từ 6 tháng đến một năm. Sangha ở
Campuchia là cầu nối giữa nhà nước và quần chúng. Tăng đoàn đảm nhiệm chức năng giáo dục…
Chùa Việt Nam trước đây không những là nơi lễ bái mà còn là trường học, nơi gặp gỡ, nơi tập
hợp dân làng trong những lễ hội. Giáo dục nhà chùa đã từng tạo nên những lớp trí thức
có nhân cách
vững vàng, ra sức phụng sự dân tộc. Từ nhà Đinh (968-980), nhà Tiền Lê (980-1009) cho đến nhà Lý
(1010-1225), nhà Trần (1225-1400), các vị thiền sư thông thạo cả Phật giáo lẫn chữ Hán. Họ có tài
năng xuất chúng, giỏi cả việc nhập thế và xuất thế. Các thiền sư từ Vạn Hạnh đến Minh Không đã nhập
thế chẳng khác gì những nhà Nho để giúp vua làm việc nước. Các thiền sư như Khuông Việt (Ngô
Châ
n Lưu, 933-1011), Đỗ Pháp Thuận (Đỗ Thuận, 915/?-990), Vạn Hạnh (939/?-1018), Mãn Giác

(1052-1096), Viên Thông (1080-1151) và Huyền Quang (1254-1334)…đã góp phần lớn vào công việc
chính trị, ngoại giao. Họ đều là những người uyên bác, thông hiểu cả Phật giáo lẫn Hán học, am hiểu
thiên văn, địa lý, y học, văn học…
Tuy nhiên, về mặt này, giữa văn hoá Phật giáo của Việt Nam và văn hoá Phật giáo ở các nước bạn
cùng khu vực cũng có những khác biệt đáng kể. Trong khi nhân dân các quốc gia theo Phật giáo
Theravada coi sinh hoạt tu tập như là bộ phận quan trọng của đời sống thường nhật thì người Việt lại
“quy hoạch” sinh hoạt Phật giáo trong một giới hạn riêng, tương đối tách bạch với sinh hoạt thế tục.
Người Việt qua
n niệm một người đã phát nguyện đi tu, gửi thân nơi cửa Phật, nguyện đi theo Tam bảo
thì suốt đời không được hoàn tục. Trả áo nhà chùa là một hành động chứng tỏ sự thối thất đạo hạnh,
một sự thất bại. Một người bỏ dở việc tu hành, hoàn tục sẽ bị người đời nhìn với ánh mắt thiếu tôn
trọng. Bản thân người ấy cũng m
ang mặc cảm tội lỗi. Phật giáo Việt Nam không có nhiều điều kiện
phát triển mạnh mẽ và liên tục như ở các nước bạn. Hơn nữa, người Việt lại có nếp nghĩ, thói quen tâm
lý hồn nhiên, linh hoạt, mềm dẻo, thực tế trong việc tiếp nhận các triết thuyết ngoại lai.
1.1.6. Những phong tục tập quán, lễ hội Phật giáo là một bộ phận quan trọng trong đời sống nhâ
n
dân các quốc gia Đông Nam Á. Từ 7 giờ sáng, các sư trong chùa xếp thành hàng (sư đi đầu, tiểu đi sau)
ra các ngả đường, mà ở đó, các tín đồ đã chờ sẵn. Khi các sư tới, mọi người kính cẩn cúi đầu dâng thức
ăn vào bát của sư và tiểu. Trong các dịp bun hội, việc bố thí được tiến hành như là một nghi lễ mà
người Thái Lan và người Lào gọi là “bin bạt” hay “tắt bạt” (nghĩa là khất thực). “Bun” tiếng Là
o và
tiếng Thái Lan có nghĩa là “điều thiện”, “bạp” nghĩa là “điều ác”. “Bun” vừa có nghĩa bố thí, vừa có
nghĩa làm điều thiện, làm phúc theo quan niệm của Phật giáo. Lễ hội cũng gọi là bun. Trong lễ hội bao
giờ cũng có sự tham gia nòng cốt của sư sãi và bao giờ cũng có hoạt động bố thí. Hầu như người Lào
tổ chức lễ hội mọi tháng trong năm
11
và lễ hội nào cộng đồng Phật giáo cũng đóng vai trò chủ chốt như
người cầm trịch tổ chức nghi lễ cũng như cầu phúc, tổ chức các hoạt động gắn kết dân bản với nhau và
bồi đắp tình cảm của con người với cái thiêng của bản làng, đất trời, khơi dậy những tình cảm, trách

nhiệm và nghĩa vụ truyền thống tốt đẹp, những cách hành xử quý báu tr
ong cuộc sống. Chẳng hạn như
bun Bẵng Phay (Hội ống lửa), t

chức vào tuần thứ hai tháng sáu Phật lịch, bun Khảo Nay Lan (hội
vun thóc trên sân, hội tháng hai),… Đặc biệt, bun Pimày là ngày tết cổ truyền của Lào (vào các ngày
13, 14, 15 tháng tư Dương lịch) còn gọi là hội tháng năm, hội năm mới, hội té nước Phật, tẩy rửa
những điều xấu, đón rước may mắn, tốt lành. Tình hình cũng tương tự ở Thái Lan, với các lễ hội: bun
Sern Phrawed (lễ hội nông nghiệp chính tổ chức ở Đông Bắc Thái Lan), Băm
rung (lễ chọi voi nhằm
mục đích cầu mưa)… Theo họ, nếu trong đời làm được nhiều điều thiện thì linh hồn (vinain) sẽ được
lên thiên đàng (xavẳn). Nếu bun và bạp bằng nhau thì phải xuống địa ngục (narok) hoặc làm ma (phỉ)
lang thang trên mặt đất. Ở “đất nước của áo cà sa vàng”, phong tục dệt vải dâng các nhà sư (Khathin
hay Khathin Than Chai) là một phong tục phổ biến lâu đời của phụ nữ. Phụ nữ Thái tin rằng dệt
Khat
hin cũng là một việc tích đức. Ở Myanma, “Quon-Gyi” nghĩa là “đại vinh quang”, một tước hiệu
thành kính dành cho các nhà sư ở nước này. “Đã là người Miến thì đó là một Phật tử”, đó là câu nói thể
hiện Phật giáo có sức sống mãnh liệt ở xứ Chùa Vàng. Tại Myanma, vua chúa thì bị dân chúng sợ hãi,

11
Rất nhiều lễ hội được tổ chức suốt năm như bun khảo Chỉ (hội xôi nướng, hội tháng ba) - tháng 3 Phật lịch, bun Mahabusa - lễ hội
tưởng nhớ sự kiện Phật nhập Niết bàn ở Lào, tổ chức bắt đầu từ ngày rằm tháng ba, kéo dài 3 ngày, bun Phavệt - lễ hội Phật giáo lớn
nhất ở Lào, tổ chức vào tháng tư hàng năm, tưởng nhớ đức hy sinh cao cả của Vệt Xẳn Đon
, một trong những tiền thân của đức Phật,
bun Khẩu Phănxả - lễ vào hạ hay vào chay của cộng đồng Phật giáo Lào (tháng 8, 9, 10-mùa mưa), bun Koong Khẩu - hội mùa (cuối
tháng 10) tạ ơn trời đất cho vụ mùa bội thu, tạ ơn hồn lúa đã trở về với con người,…
còn các sư thì được kính trọng, yêu mến vì họ (hay là Quon-Gyi) là đại diện cho Phật trên thế giới trần
tục này…
Ở Việt Nam, lễ hội Phật Đản, lễ hội tắm Phật và các lễ hội theo định kỳ khác vẫn diễn ra khá đều
đặn nhưng sức ảnh hưởng đối với nhân dân nói chung tuy lớn nhưng không nhất loạt và trở thành một

nhu cầu mạnh mẽ như ở các nước bạn cùng khu vực.
T
rên đây chúng tôi đã phân tích những ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo trên tất cả các mặt của
đời sống văn hoá nhân dân các quốc gia Đông Nam Á nói chung đồng thời cũng chỉ ra những chỗ khác
biệt cơ bản đáng lưu ý khi tìm hiểu văn hoá Phật giáo ở Việt Nam so với các nước bạn cùng khu vực.
Thiết nghĩ, điều này sẽ là những cứ liệu nền tảng cần thiết để thâm nhập và tìm
hiểu truyện cổ dân gian
mang màu sắc Phật giáo của các dân tộc. Đây là cơ sở để chỉ ra nguồn gốc của những tương đồng và
khác biệt trong truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của Việt Nam và các nước cùng khu vực
Đông Nam Á.
1.2. Tổng quan về truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo ở Đông Nam Á
1.2.1. Mô tả tư liệu sử dụng
1.2.1.1. Truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo tuy không làm thành một tiểu loại hay
một dòng truyện riêng trong ý t
hức nhân dân, thậm chí của đa số người sưu tầm, biên soạn mà chỉ là
một bộ phận chiếm tỷ lệ khá lớn nhưng cũng mang những đặc điểm riêng đáng quan tâm trong kho
tàng truyện cổ của các dân tộc ở Đông-Nam châu Á. Riêng đối với nguồn truyện trong nước, chúng tôi
có một danh sách tư liệu tác phẩm khá dồi dào để tham khảo và tuyển lựa. Đó là những công trình sưu
tầm, n
hững tuyển tập truyện cổ của các học giả, các tập thể tác giả đã dày công thu thập, chỉnh lí, biên
soạn và xuất bản từ trước đến nay như Lĩnh Nam chích quái (Vũ Quỳnh - Kiều Phú), Việt Điện U Linh
(Trần Thế Pháp), Truyện cổ nước Nam (Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
(Nguyễn Đổng Chi), Tổng tập văn học dân gian Việt Nam (Ủy ban Khoa học Xã hội)
…, đặc biệt là
công trình tuyển chọn Những truyện cổ Việt Nam mang màu sắc Phật giáo của Lệ Như Thích Trung
Hậu. Do đó, việc tham khảo và chọn lọc đối tượng khảo sát khá thuận lợi.
Tuy nhiên, tình hình có khác khi tiếp xúc với tư liệu truyện cổ của các quốc gia khác trong khu
vực. Nhìn trên đại thể, số lượng các đầu sách mang nhan đề về truyện cổ dâ
n gian các dân tộc ở châu Á
nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng tuy chưa thực phong phú nhưng không phải hiếm hoi.

Tuy nhiên, phần lớn trong quá trình tuyển chọn có sự lặp lại khá lớn, do đó, chúng tôi gặp ít nhiều khó
khăn trong việc thu thập một khối lượng truyện cổ phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài. Điều
này có thể giải thích từ hai nguyên nhân chính: thứ nhất, hầu hết các tuyển tập truyện cổ các quốc gia
Đông Nam Á hiện có ở Việt Nam chủ yếu đư
ợc dịch từ các tuyển tập truyện cổ của các tác giả nước
ngoài được sưu tầm và biên soạn chủ yếu bằng tiếng Anh với số lượng truyện không nhiều, lại rải đều
cho các dân tộc; thứ hai, ở qui mô những tuyển tập nhỏ, người biên soạn dành sự quan tâm nhiều hơn ở
những sáng tác được lưu truyền rộng rãi nhất và được quần chúng yêu thích nhất chứ không ưu tiên
cho những truyện mang màu sắc Phật giáo. Ngoài ra, còn phải kể đến việc cân nhắc số lượng tác phẩm
trải đều trên các thể loại,…
Truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của các nước bạn phân bố hết sức tản mạn. Trong khoảng 50
đầu sách nguồn tư liệu truyện cổ được sử dụng làm tài liệu tham khảo chính, có trên dưới 40 đầu sách
phục vụ cho việc tuyển chọn truyện cổ mang màu sắc Phật giáo của các nước Cam
puchia, Lào, Thái
Lan, Myanma. Trong đó bao gồm các tuyển tập truyện cổ châu lục, tuyển tập truyện cổ khu vực, tuyển
tập truyện cổ các quốc gia riêng biệt, ngoài ra còn có sách chùm truyện tranh và các sách truyện tranh
lẻ dành cho thiếu nhi. Chúng tôi tuyển lựa được 121 truyện cổ mang màu sắc Phật giáo, chủ yếu tập
trung ở các quốc gia Lào, Thái Lan, Campuchia, Mianma (với khoảng 113 truyện, chiếm hơn 90 %).
Số lượng truyện kể trên chưa phải là một nguồn văn bản dồi dà
o và lý tưởng cho nghiên cứu. Song,
bấy nhiêu đủ để có thể tiến hành những khảo sát, từ đó đưa lại những khái quát khoa học phản ánh diện
mạo của truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của các quốc gia phía Đông-Nam châu Á, đặc biệt
là những quốc gia Đông Nam Á lục địa.
1.2.1.2. Đối với nguồn truyện khá hạn chế ở các nước Inđônêxia, Malaixia, Singapo, Phillipin,
Brunây và Đông Tim
o, ban đầu, chúng tôi lấy làm băn khoăn. Tuy nhiên, điều đó có lí do từ điều kiện
địa lý, lịch sử, văn hoá. Các nước Đông Nam Á hải đảo (Malaixia, Singapo, Inđônêxia, Đông Timo,
Philippin, Brunây). Do điều kiện địa lí quy định, các quốc gia này có những yếu tố rất khác so với
những nước nằm sâu trong lục địa (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma). Trước kia, các
nước này cũng chịu ảnh hưởng của văn hoá và chữ viết Ấn Độ, cũng theo Ấn giáo và P

hật giáo, tuy
nhiên, theo tác giả công trình Văn hoá Đông Nam Á (2005), từ thế kỷ XV trở đi, Islam giáo và văn hoá
Ảrập truyền vào dần dần thay thế văn hoá Ấn Độ [37, tr. 29]. Cũng tương tự, theo kết quả nghiên cứu
nêu trong cuốn Tri thức Đông Nam Á thì đạo Hồi xuất hiện ở Đông Nam Á từ khoảng thế kỷ X đến thế
kỷ XIV, lan truyền mạnh và trở th
ành tôn giáo chính ở thế giới Mã Lai (chỉ các quốc gia Đông Nam Á
Hải đảo như Inđônêxia, Malaixia,…). Từ thế kỷ XII đến XIII, với sự hưng thịnh của Malacca, đạo
Islam từ Ảrập và Ấn Độ được truyền sang vùng Đông Nam Á hải đảo, đã tạo nên một bước chuyển
biến tôn giáo lớn, Islam đã trở thành quốc giáo của Malaixia, Inđônêxia, Brunây và là tôn giáo chính ở
Nam Philippin. Thực tế đó làm cho toàn bộ nền văn học các quốc gia này đã có một sự chuyển m
ình
quan trọng từ văn tự đến thể loại văn học [104, tr. 377-378]. Nhìn chung, những dẫn chứng trên chỉ
khác biệt về thời gian. Vấn đề chủ yếu đáng quan tâm là “[...] dòng văn học mang màu sắc Hồi giáo trở
thành dòng văn học chủ đạo ở các vương quốc vùng hải đảo với các trung tâm phát triển văn học cổ
Malai-Inđô như Srivitgiai, Malacca, Atre, Đgiohô,
…”[46, tr. 15-16]. Cho đến nay, những dấu tích của
văn học Ấn Độ vẫn còn nhưng chủ yếu đã và đang còn văn học mang tính tôn giáo của Đạo Hồi…
12
.
Như vậy, cùng với sự mất đi vai trò chủ đạo cũng như sự thu hẹp lại phạm vi lan toả ảnh hưởng
của Phật giáo trong đời sống của quảng đại quần chúng các dân tộc hải đảo là sự mai một và biến thái

12
Xem thêm các tài liệu nghiên cứu Đông Nam Á của Phạm Đức Dương [31], Ngô Văn Doanh [25], Nguyễn Tấn Đắc [37], Lương
Ninh-Vũ dương Ninh [46]

các sáng tác văn học truyền miệng, trong đó có truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo. Tham
khảo các tuyển tập truyện cổ của những quốc gia này, chúng ta dễ dàng tìm thấy những truyện mang
yếu tố của đạo Hồi và đạo Thiên Chúa. Rất nhiều truyện cổ của Inđônêxia đề cao các nhân vật Hồi
giáo, tuyên truyền cho tôn giáo này như các truyện sử: Truyện về Iskanda Dvuroj, Truyện về Ami

Hamzac, Truyện về Nu Muhamat, Truyện về Na-bi Ba-phạt, Truyện về Huang Tuak, Vườn của vua
[46]
,… Tình hình cũng tương tự ở Malaixia. Hàng loạt các Hikayat mang màu sắc đạo Hồi như Seri
Rama, Hikayar Inderaputera, Hikayat Hang Tuak, các truyện cổ như Inu Kertanati bị bắt cóc, Lời
khuyên của nhím, Silunchai,...cùng các truyện sử (Sejara) như Truyện sử Mã Lai, Hikayat Ached…
Brunây là một nước nhỏ chưa đầy 30 vạn dân có nguồn gốc Mã Lai. Trụ cột thứ nhất là văn hoá Mã
Lai. Trụ cột thứ hai là Hồi giáo vì
thế văn học cũng mang đậm màu sắc đạo Hồi.
Đối với trường hợp Singapo, hầu như yếu tố Thiên Chúa giáo thống trị trong những câu chuyện
ngàn năm. Bởi lẽ, tôn giáo này đã có một bề dày thâm nhập vào đời sống văn hoá của quốc gia non trẻ
này ngay từ những bước đầu tiên hình thành vương quốc.
Philippin hình thành một tiểu khu vực riêng biệt, các yếu tố văn hoá Ấn Độ, văn hoá Hồi giáo
ảnh hưởng vào Philiippin thường yếu ớt và chủ yếu thông qua sự truyền bá từ Inđônêxia, Malaixia.
Philppin là nước nhận ảnh hưởng văn hoá phương Tây sớm nhất Đông Nam
Á. Từ thế kỷ XVI,
Philppin bị Tây Ban Nha thống trị, rồi đến Mỹ vào thế kỷ XX. Ảnh hưởng của văn học Tây Ban Nha
và màu sắc văn học Thiên chúa giáo là đặc điểm khác biệt của văn học P
hilippin. Các loại hình tự sự
dân gian trong văn học nước này vẫn phát triển trộn lẫn các mô típ folklore châu Âu, điển hình là các
truyện: Nuetra Senorade salambaw, Landan de diablo, Truyền thuyết vùng Mariveles, Chuyện truyền
thuyết Kusu…. Theo B.B. Parniken, truyện cổ tích Philippin có thể chia theo 3 nhóm: nhóm 1 của các
dân tộc đồng bằng như Visaya, Tagan, Ilốccan,… với 90 % dân số theo thiên chúa; nhóm 2 của các dân
tộc miền núi, nhóm 3 là của các dân tộc Moro Hồi giáo hoá ở miền Nam Philippin [102, tr. 269]. Như
vậy, văn học dân gian Philippin chủ yếu là văn học Hồi giáo và Thi
ên chúa giáo.
Thực tế trên hoàn toàn trùng khớp với những gì mà các học giả nước ngoài nhận xét khi tiến
hành sưu tầm và khảo sát thực tế tình hình truyện cổ ở các quốc gia này. Đối với trường hợp Inđônêxia
và Malaixia, Jan Knappert tuyển chọn 28 truyện cổ, tập hợp từ các thể loại thần thoại, truyền thuyết, cổ
tích, như tác giả nhận xét ở trang 91 của sách, truyện cổ mang màu sắc Phật giáo hầu như vắng bóng
13

.
Chính vì thế mà ngoài hơn 40 tuyển tập truyện cổ các nước Đông Nam Á trình bày bằng tiếng Việt, kết
hợp tham khảo thêm một số tập truyện của các tác giả nước ngoài, chủ yếu trình bày bằng Anh ngữ
14

chúng tôi vẫn chỉ tìm thấy một số lượng ít ỏi những truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo của
các quốc gia Đông Nam Á hải đảo.

13
“Curiously little or no Buddhist literture survieves in Indonesia or Malaysia, but there is a wealth of Hindu literature.” (tạm dịch:
“Thật kỳ lạ, văn học Phật giáo ít và hầu như không còn tiếp tục tồn tại ở Inđônêxia và Malaixia trong khi đó văn học Hindu giáo thì
lại dồi dào.”) [155]
14
Xem danh mục sách tiếng Anh từ [154] đến [164]
Điểm qua diện mạo lịch sử xã hội và lịch sử tôn giáo có ảnh hưởng đến tình hình truyện cổ ở
các nước Đông Nam Á hải đảo như thế, chúng tôi muốn nhấn mạnh một thực tế về vấn đề văn bản
truyện cổ dân gian mang màu sắc Phật giáo Đông Nam Á nói chung tồn tại hiện nay không đồng đều,
nếu không muốn nói là có sự đối lập khá lớn giữa các quốc gia lục địa và các quốc gia hải đảo. Tr
ong
đó, sự phân bố dày và đậm đặc nghiêng hẳn về phía Đông Nam Á lục địa và hết sức thưa thớt, mờ nhạt
ở phía Đông Nam Á hải đảo. Với tình hình tư liệu như thế, luận văn chắc chắn sẽ khai thác, chủ yếu, tư
liệu ở Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á lục địa như Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanma.
1.2.1.3. Việc nhận diện và xác định truyện cổ dâ
n gian mang màu sắc Phật giáo không thể chỉ
căn cứ trên bình diện loại hình dựa trên những dấu hiệu hình thức và nội dung hiển lộ ngay trên văn
bản ngôn từ tác phẩm, mà còn cần phải nghiên cứu toàn diện trên cơ sở kết hợp phân tích các dữ liệu
văn hoá, lịch sử trong tương quan đồng đại, lịch đại. Bởi vì ở các quốc gia mà Phật giáo không có sự
phát triển liền mạch, chỉ trải qua một thời kỳ hoàng kim
nhất định sau đó mau chóng bị những làn sóng
tôn giáo khác áp đảo, lấn át hoặc chịu sự tác động của nhiều nhân tố lịch sử, yếu tố Phật giáo trong

truyện cổ dân gian khá mờ nhạt. Đơn cử trường hợp truyện cổ dân gian Singapo. Hơn 15 năm trước,
Noel Chia đã sưu tầm những truyền thuyết cổ và có những ghi chú đáng lưu ý khi kể câu chuyện về sự
khám
phá ra kinh đô mới của vua Sri Tri Buana (In search of the new kingdom) [154, tr. 45-53]. Ông
cho rằng tên gọi cổ của Singapo có nhiều khả năng là do những nhóm nhà sư Phật giáo đặt ra vào cuối
thế kỷ XIII sau Công nguyên. Con Singa được các nhà sư gọi theo tiếng Sankrit chuyển dịch sang tiếng
Anh có nghĩa là “sư tử” (lion). Sự xuất hiện của con vật lỳ lạ đó có thể được coi như một điềm báo,
một dấu hiệu thần t
hánh mà đức Phật mách bảo cho đức vua chọn nơi đặt kinh đô mới khi mà Phật
giáo đã mở rộng ảnh hưởng của nó đến vùng đất mà ngày nay có tên là Singapo. Cùng nằm trong chuỗi
truyền thuyết về các triều đại của vương quốc Singapo cổ, truyện Ngọn đồi đỏ [154, tr. 95-100] kể về
một tai họa cá kiếm có nguy cơ gây diệt vong cho vương quốc vì sức tàn phá khôn lường của nó đối
với ngư dâ
n. Sau bao nhiêu nỗ lực khắc phục tai hoạ này thất bại, vua Sri Maharaja được một đứa bé
hiến kế diệt trừ lũ cá kiếm. Sau đó, vua ra lệnh cho các chiến binh của mình bí mật giết cậu bé vì sợ sự
thông minh của cậu sẽ là mối đe doạ cho ngai vàng. Một bà già thần bí xuất hiện, chặn đứng hành vi
tội ác của những tên lính của nhà vua và niệm thần chú làm cho cả vùng đồi ngập đầy máu. Sang
truyện Cá
i chết của vua Sri Maharaja [154, tr. 103-107], sự diệt vong của vương triều Sri Maharaja
(1375-1388) cùng với cái chết của vua được lí giải như là một quả báo từ hành động vấy máu của vua
khi ông cho các chiến binh của mình đi giết ân nhân đã cứu sống cả vương quốc thoát khỏi nạn cá kiếm
hung ác hoành hành. Và bản thân vua, sau đó lại mắc phải một sai lầm nghiêm trọng hơn khi giết đứa
cháu ngoại sơ sinh vì sự dị dạng của nó gâ
y ra bởi một cung nữ lúc đỡ đẻ cho quận chúa, con gái vua.
Và để che lấp hành động tàn nhẫn của mình, vua đã vu oan và trục xuất một vị tướng - một quân sư
trung thành của mình. Một nhân vật thần bí xuất hiện, không phải là Phật, chỉ được gọi là một tu sĩ,
ông ta cảnh báo tai họa sẽ đến với đức vua, sau đó biến mất một cách siêu phàm. Khi liên kết các yếu
giữa hai truyện nói trên, ta thấy mạch tâm thức của dân gian về quan niệm quả báo khá rõ nét. Căn cứ
vào thời gian cụ thể được xác định trong tuyển tập truyền thuyết của người biên soạn, chúng ta có cơ
sở để khẳng định rằng những truyền thuyết này xảy ra vào thời kỳ Phật giáo đang mở rộng ảnh hưởng

của nó từ Sri Lan Ka đến các quốc gia Đông Nam Á thông qua Malaixia (thế kỷ XI-XII) [154, tr. 53].
Trong cuốn Mythol
ogy and folklore in South-East Asia, do đại học Oxford xuất bản năm 1993,
sau khi kể chuyện Hai đứa trẻ lười biếng
15
của Campuchia, Jan Knappert đã kèm thêm ghi chú: “Bài
học của câu chuyện này là tất cả những gì mà chúng ta làm đều tạo ra nghiệp. Với những gì ta đã tạo ra
ở kiếp trước sẽ mang lại may mắn hoặc bất hạnh cho chúng ta ở kiếp này.” [155, 187-190]. Ở truyện
Người vợ đức hạnh
16
[155, tr. 180-182], tác giả nêu một nhận định mang tính tổng kết: “Câu chuyện
này rút ra bài học là những đức hạnh của người vợ có thể bù trừ vào nghiệp chướng của người chồng
và bảo vệ được anh ta”
17
. Nếu không có những ghi chú từ kết quả của quá trình dày công thực địa, điền
dã và sưu tầm, người đọc, người nghe khó lòng nhận diện những dấu vết của Phật giáo thể tiềm ẩn
trong tác phẩm.
Ngoài ra, nhiều truyện nhắc đến nhà chùa, sư tăng, đức Phật nhưng hầu như không chứa đựng
nội dung triết lý Phật giáo, chẳng hạn như các truyện Mối tình chàng vẹt nàng sáo, Con chó biết nói
,
Tại sao con trăn không có nọc độc (Campuchia), Sự tích cái khèn, Chàng mồ côi thông minh (Lào),
Ông vua sầu muộn (Thái Lan), Viên hồng ngọc bị mất cắp, Giống như ta, Thằng ngốc (Myanma),..
1.2.1.4. Hiện tượng thẩm thấu, pha trộn giữa tư tưởng Phật Giáo với các loại hình tín ngưỡng và
tôn giáo khác thể hiện khá nổi bật trong nhóm đối tượng đang khảo sát. Ngoại trừ những truyện mà
phương diện nội dung cũng như hình thức thể hiện tương đối rõ nét những yếu tố Phật giáo, chúng ta
đứng trước
nhiều trường hợp mờ nhoè, khó xác định đâu là yếu tố Phật giáo, đâu là những yếu tố của
các tôn giáo khác pha trộn như Bà la môn giáo, Ấn giáo, đặc biệt là sự khó phân định bởi lằn ranh
mỏng manh giữa quan điểm dân gian, chất dân gian với những yếu tố thuộc về đạo Phật. Nhiều truyện
cổ các quốc gia theo Phật giáo Tiểu thừa có sự pha t

rộn giữa tinh thần Phật giáo với tư tưởng đạo
Hindu như truyện Cô gái tóc xoã, Hai vua lười (Campuchia),… Là một tôn giáo ra đời sau, Phật giáo
giữ lại rất nhiều những yếu tố của Hindu giáo thích hợp với tôn chỉ của nó. Có thể nói, những gì vốn có
nguồn gốc Hindu giáo được Phật giáo bảo lưu cho đến ngày nay là những tinh tuý của tôn giáo nhân
dân.
Có những truyện m
ang nội dung Phật giáo đậm đặc đến nỗi hầu như lấn át chất dân gian (Sự
tích hình thỏ trên mặt trăng, Sự tích lời chúc tụng , Nàng Visakha, Sự tích ngày lễ Phchum ben (Lễ xá
tội vong nhân), Dấu chân Phật tổ, Con rùa đen, Kamanit (Thái Lan), Hội nước, Chó sói và sếu (Lào),
Thân lừa ưa nặng (Malaixia), Bốn chàng Bàlamôn, Lòng biết ơn của súc vật (Myanma),…Có những

15
Hai anh em lười đến nỗi chẳng chịu làm một việc gì, bố mẹ không nuôi nổi, phải tự đi lang thang kiếm sống, nhờ một thầy phù thuỷ
giúp đỡ sau này trở thành vua của hai vương quốc.
16
Hai vợ chồng chàng trai lười biếng được nhiều của cải, xây một lâu đài. Đến đời con của họ, của cải xài cũng không cạn.
17
Ở đây, chúng tôi đã chuyển dịch sang tiếng Việt.

×