Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Quan hệ mỹ nhật sau chiến tranh lạnh (1991 2001)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.61 KB, 73 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến Cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung người đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo
em trong suốt quá trình hoàn thiện khóa luận này. Em cũng xin trân trọng cảm
ơn các Thầy Cô trong khoa Lịch sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã
hướng dẫn, giảng dạy, cung cấp kiến thức và phương pháp trong 4 năm học.
Được sự giúp đỡ của Thầy cô, bạn bè đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình hoàn thành khóa luận này. Do thời gian nghiên cứu có hạn khóa luận
này chắc không tránh khỏi có nhiều thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự
góp ý và chỉ dẫn của Thầy Cô. Em xin trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày

tháng 5 năm 2013

Sinh viên

Trần Thị Mai

1


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả
nghiên cứu của bản thân tôi, được sự hướng dẫn tận tình của Ths Nguyễn Thị
Tuyết Nhung, không trùng với kết quả của các công trình nghiên cứu khác.
Nếu sai sót tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày



tháng 5 năm 2013

Sinh viên thực hiện

Trần Thị Mai

2


BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu

Chữ viết tắt

AFTA

Khu vực thương mại tự do Đông Nam Á

APEC

Diễn đàn hợp tác khu vực châu Á- Thái Bình Dương

ARF

Cơ chế hợp tác an ninh đa phương

ASEAN


Hiệp hội các nước Đông Nam Á

CA-TBD

Châu Á – Thái Bình Dương

CTTG2

Chiến tranh thế giới thứ hai

EU

Liên minh châu Âu

GATT

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch

NATFA

Khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ

SCAP

Tổng chỉ huy tối cao lực lượng Đồng minh

3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................................. 5
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ MỸ NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH LẠNH ................................................. 5
1.1. Nhân tố khách quan .................................................................... 5
1.2. Nhân tố chủ quan ........................................................................ 9
1.2.1. Về phía Mỹ ......................................................................... 9
1.2.2. Về phía Nhật Bản ............................................................... 13
1.3. Quan hệ Mỹ - Nhật Bản trước năm 1991 ................................... 15
Tiểu kết chương 1 .............................................................................. 19
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ MỸ - NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH LẠNH
(1991 -2001)................................................................................................. 20
2.1. Quan hệ trên lĩnh vực an ninh - chính trị ..................................... 20
2.1.1. Tiếp tục duy trì và khẳng định Hiệp ước an ninh
Mỹ - Nhật ...................................................................... 20
2.1.2. Mỹ - Nhật hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế ....... 25
2.2. Quan hệ trên lĩnh vực kinh tế ...................................................... 32
2.2.1. Việc kí kết các Hiệp định song phương giữa hai nước ... 33
2.2.2. Vấn đề đầu tư trực tiếp ................................................... 38
2.2.3. Việc giải quyết các vấn đề kinh tế .................................. 39
2.3. Quan hệ trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục .................................... 42
2.4. Tác động của quan hệ Mỹ - Nhật Bản ......................................... 45
2.4.1. Đối với hai nước Mỹ - Nhật Bản ...................................... 45
2.4.2. Đối với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương ................... 49
Tiểu kết chương 2 .............................................................................. 63
KẾT LUẬN ................................................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 67

4



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chiến tranh Lạnh kết thúc thế giới bước vào một thời kỳ mới, hệ thống
thế giới chuyển từ trật tự hai cực với sự đối lập ý thức hệ giữa hai khối đông tây sang sự đa dạng hóa và phức tạp của các trục quan hệ. Một trong những
quan hệ quan trọng nhất trong quan hệ quốc tế hiện nay trong khu vực châu Á
- Thái Bình Dương cũng như trên phạm vi toàn cầu là quan hệ Mỹ - Nhật
Bản. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở quan trọng là Hiệp ước an ninh Nhật Mỹ từ năm 1951, đã đem lại sự phồn thịnh cho đất nước Nhật Bản cũng như
khu vực Viễn Đông, và nó cũng hoạt động như một thể chế có tác dụng tạo ra
sự hòa bình và ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Việc nghiên cứu mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong chính sách phát triển của các nước trong khu vực CA-TBD vì sức
mạnh kinh tế và độ mở cửa của hai nước là vấn đề sống còn đối với chiến
lược phát triển kinh tế của các nước CA-TBD. Quan hệ kinh tế của Mỹ với
Nhật Bản có ảnh hưởng to lớn đối với sự thành công kinh tế, chiến lược công
nghiệp hóa của các nước này. Bất cứ một sự suy thoái kéo dài, việc tăng mức
bảo hộ, thái độ hợp tác hay căng thẳng nào trong quan hệ kinh tế Mỹ - Nhật
Bản đều có thể làm thay đổi cục diện kinh tế của CA-TBD. Do đó việc nghiên
cứu mối quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản có một ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc đánh giá tình hình thế giới và khu vực.
Với sự kiện 11/9/2001 xảy ra ở Mỹ thì quan hệ Mỹ - Nhật đã có sự gắn
bó hơn trong chiến lược toàn cầu chống khủng bố do Mỹ đề ra. Sau sự kiện
này Tokyo đã chứng tỏ mình là đồng minh tin cậy của Mỹ. Chính phủ Nhật
Bản đã hành động kiên quyết trong chống khủng bố, đã cử lực lượng phòng
vệ Nhật Bản trợ giúp một số hành động phi quân sự của Mỹ tại Irắc. Chủ

5


trương của Mỹ là tiếp tục hợp tác an ninh - chính trị với Nhật Bản nhằm vừa

tăng cường vừa kiềm chế Nhật Bản. Nhật Bản vẫn là đồng minh quan trọng
nhất của Mỹ ở châu Á, liên minh Mỹ - Nhật Bản được coi là hòn đá tảng cho
chính sách an ninh của Mỹ đối với khu vực CA - TBD cũng như cuộc chiến
toàn cầu chống khủng bố.
Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ Mỹ - Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh
Lạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các nước ở trong khu vực trong đó
có Việt Nam, nó sẽ tạo thêm cơ sở lí luận và thực tiễn cho các nước trong khu
vực trong quá trình phát triển kinh tế.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ Mỹ - Nhật Bản là một chủ đề thu hút được sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu trong nước .
Đáng chú ý có cuốn sách Quan hệ Mỹ- Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh
của tác giả Ngô Xuân Bình (Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản), xuất bản năm
1995, đã đánh giá tương đối bao quát quan hệ Mỹ - Nhật Bản trên hai mặt an
ninh và kinh tế những năm đầu thập kỷ 1990. Cuốn sách còn chưa đề cập tới
vấn đề tác động của mối quan hệ này đối với hai nước Mỹ và Nhật Bản, khóa
luận này sẽ làm rõ hơn vấn đề đó.
TS Đinh Quý Độ (chủ biên) đã giới thiệu cuốn sách Chính sách kinh tế
của Mỹ đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương kể từ sau Chiến tranh
Lạnh, xuất bản năm 2000, cũng đã có những đánh giá về quan hệ kinh tế của
Mỹ đối với khu vực và trong đó có quan hệ mật thiết với Nhật Bản. Cuốn
sách đề cập đến vấn đề kinh tế.
Tập thể tác giả PGS.TS Nguyễn Xuân Sơn - TS Nguyễn Văn Du (đồng
chủ biên) đã giới thiệu cuốn sách Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và
quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, đã đề cập đến sự
điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn trong đó có sự điều chỉnh

6



chiến lược của Mỹ và Nhật Bản. Cuốn sách đã đề cập tới vấn đề điều chỉnh
chiến lược của Mỹ và Nhật Bản.
Ngô Xuân Bình (chủ biên) đã giới thiệu cuốn sách: Chính sách đối
ngoại của Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh Lạnh, NXB Khoa học xã hội Hà
Nội, 2000. Cuốn sách đã đề cập đến chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối
với Mỹ sau Chiến tranh Lạnh. Thời kì sau Chiến tranh Lạnh đã tạo cơ sở cho
Nhật Bản điều chỉnh lại chiến lược đối ngoại của mình.
Ngoài ra còn có các bài báo như bài: Một số vấn đề về quan hệ thương
mại Mỹ - Nhật (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 4-6, 1995) của tác giả Nguyễn
Thiết Sơn, và bài Quan hệ kinh tế Mỹ - Nhật Bản: phân tích qua dữ liệu sự
kiện, (Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 3, 2001) của Lê Kim Sa. Các bài báo
này đều đề cập tới quan hệ Mỹ - Nhật trên lĩnh vực kinh tế và thương mại.
Như vậy mối quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản đã được nhiều tác giả
trong nước đề cập đến.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản trên lĩnh
vực an ninh - kinh tế, văn hóa – giáo dục, cũng như tác động của mối quan hệ
này đến khu vực CA-TBD thời kì sau Chiến tranh Lạnh.
Đối tượng nghiên cứu đó là những nhân tố chi phối quan hệ kinh tế
quốc tế giữa các nước và chính sách của từng nước. Những mục tiêu và chính
sách của Mỹ đối với Nhật Bản thời kì sau Chiến tranh Lạnh. Và vai trò của
Nhật Bản trong chiến lược CA-TBD của Mỹ thời kì sau Chiến tranh Lạnh, tác
động của quan hệ Mỹ - Nhật chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế đối với một số
trọng tâm kinh tế khu vực CA-TBD.
4. Phạm vi nghiên cứu
Quan hệ Mỹ - Nhật Bản là một mảng đề tài rất rộng vì vậy khóa luận
tập trung nghiên cứu:

7



Về không gian: tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa hai nước Mỹ và
Nhật Bản trên các lĩnh vực kinh tế - an ninh, chính trị và văn hóa.
Về thời gian khóa luận sẽ tập trung vào khoảng thời gian từ 1991 đến
trước sự kiện 11/9 /2001 ở Mỹ.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Phương pháp nghiên cứu: trong khóa luận sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học xã hội như duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được
sử dụng trong nghiên cứu quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản trong thời điểm thế
giới có những chuyển biến tạo ra một bối cảnh mới.
Nguồn tư liệu: chủ yếu là các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học,
các bài báo, tạp chí của các nhà nghiên cứu, các nhà phân tích chủ yếu trong
nước.
6. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận nêu lên những nhân tố tác động đến quan hệ Mỹ - Nhật thời
kì sau Chiến tranh Lạnh, những mâu thuẫn, những chính sách của hai bên đối
với nhau. Phân tích các tác động của mối quan hệ Mỹ - Nhật Bản thời kì sau
Chiến tranh Lạnh đối với một số trọng tâm kinh tế trong khu vực CA-TBD.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khóa
luận bao gồm hai chương:
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Mỹ - Nhật Bản sau
Chiến tranh Lạnh
Chương 2: Quan hệ Mỹ - Nhật Bản sau Chiến tranh Lạnh (1991-2001)

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ

MỸ - NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH LẠNH

1.1. Nhân tố khách quan
Năm 1991, Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta sụp đổ, một
trật tự thế giới mới đang được hình thành. Chiến tranh Lạnh chấm dứt đồng
nghĩa với việc chấm dứt sự đối đầu giữa hai hệ thống về quân sự, chính trị, tư
tưởng và ngoại giao. Ở đó hình ảnh Liên Xô và Mỹ được xây dựng như hai kẻ
đại diện cho sự đối đầu đó. Sự sụp đổ nhanh chóng đến bất ngờ của Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm nảy sinh hai loại vấn đề buộc
hai siêu cường Hoa Kỳ và Nhật Bản và cộng đồng quốc tế phải đối phó đó là
vấn đề gìn giữ hòa bình và kết quả trực tiếp của sự sụp đổ của Liên Xô và
Đông Âu đó là khủng hoảng kinh tế và sự rối loạn về chính trị, thậm chí cả
xung đột vũ trang. Sự đối đầu về quân sự đã chấm dứt thay thế vào đó là vừa
hợp tác vừa cạnh tranh để phát triển kinh tế đã trở thành xu thế chính từ sau
Chiến tranh Lạnh.
Trong bối cảnh đó nổi bật nhất là vấn đề toàn cầu hóa mà đặc biệt là
toàn cầu hóa về kinh tế. Từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, quá trình toàn
cầu hóa bước sang một giai đoạn phát triển mới với quy mô và tính chất ở
trình độ cao hơn nhiều so với các giai đoạn trước đây và trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này biểu hiện
rất rõ thông qua sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về hàng hóa và dịch
vụ, về vốn, công nghệ, nhân công, ý tưởng,…Dưới tác động của toàn cầu hóa,
sự tương tác kinh tế và giao lưu giữa các quốc gia, dân tộc trở nên nhộn nhịp
hơn bao giờ hết, thế giới nhìn chung đã hòa bình và hữu nghị hơn.

9


Mặc dù có nhiều cách lí giải khác nhau nhưng mọi người dần hiểu được
nội dung và ý nghĩa cơ bản về toàn cầu hóa đó là: quá trình thế giới tiến đến

một ngôi làng chung, mà ở đó các đường biên giới quốc gia trở nên mờ nhạt
và nảy sinh nhu cầu phải có một sự quản lý chung trên phạm vi toàn cầu. Quá
trình này đang nằm trong giai đoạn đầu, đang được tăng tốc, giúp sức của
công nghệ thông tin, đặc biệt là Intenet và các biến thể của quá trình này là
hết sức phức tạp, luôn luôn có tính hai mặt, không một quốc gia nào, khu vực
nào có thể thờ ơ với nó.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới với bước chuyển biến từ
GATT sang WTO đã khiến cho tự do hóa thương mại và đầu tư cũng có điều
kiện phát triển mạnh. Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng của các dòng lưu
chuyển hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công, ý tưởng giữa các quốc
gia, quá trình toàn cầu hóa còn được thể hiện trong việc ra đời hàng loạt các
cơ chế hợp tác kinh tế quốc tế. Quá trình tự do hóa thương mại được thúc đẩy
bởi các nước trong khuôn khổ các thể chế liên kết kinh tế khu vực và toàn
cầu, đặc biệt là các nỗ lực trong việc giảm dần thuế quan và hàng rào phi thuế
quan.
Sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa đã và tiếp tục tạo ra sự thay đổi
sâu sắc trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của các quốc gia và
toàn bộ các mối quan hệ quốc tế, kéo theo tất cả các quốc gia vào dòng chảy
của hội nhập kinh tế.
Tất cả đã tạo nên xu thế ngày càng gia tăng hợp tác và cạnh tranh quyết
liệt đòi hỏi các nước lớn phải điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng
tăng cường các quan hệ liên kết, hợp tác giữa các nước với nhau để tập trung
vào phát triển kinh tế là xu thế chủ yếu trong thời kì sau Chiến tranh Lạnh.
Như vậy có thể nói, sau Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa kinh tế đã có đầy đủ
các tiền đề quan trọng cho nó phát triển, nên nó đã trở thành một xu hướng

10


lớn. Toàn cầu hóa kinh tế sẽ là xu hướng phát triển mạnh và lâu dài vì nó

phản ánh quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển, mặt
khác quá trình trên làm tăng nhanh sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trên thế giới, cùng góp phần làm tăng tính thống nhất trong quan hệ giữa các
nước với nhau.
Đối với Mỹ, toàn cầu hóa - quá trình đẩy nhanh liên kết kinh tế, công
nghệ, văn hóa, chính trị có ý nghĩa là Mỹ ngày càng chịu ảnh hưởng của các
sự kiện xảy ra ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ. Đồng thời, thời đại toàn cầu hóa hiện
nay tạo cho Mỹ những cơ hội chưa từng có để ngăn chặn các nguy cơ thách
thức nói trên và thúc đẩy các lợi ích của Mỹ. Toàn cầu hóa sẽ làm con người
ở tất cả các lục địa xích lại gần nhau, cho phép họ dễ dàng trao đổi tư tưởng,
hàng hóa và thông tin. Trong bối cảnh thế giới liên kết và phụ thuộc lẫn nhau,
Mỹ khẳng định cần duy trì sự can dự tích cực hơn vào công việc quốc tế để có
thể bảo vệ thành công lợi ích dân tộc Mỹ. Theo quan điểm của Mỹ, cải cách
trong nước Mỹ sẽ không thành công nếu Mỹ không tham gia các thị trường
nước ngoài, thúc đẩy dân chủ trong các nước then chốt, kiềm chế và chống lại
các đe dọa đang xuất hiện. Để sống trong an ninh và thịnh vượng, Mỹ tiếp tục
chủ trương giữ vai trò người đứng đầu thế giới nói chung, và ở khu vực CATBD nói riêng, cả trong lĩnh vực an ninh, chính trị lẫn lĩnh vực kinh tế.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, an ninh giữa các quốc gia trở nên phụ thuộc
lẫn nhau. Các lợi ích kinh tế đan cài vào nhau do hoạt động của các công ty đa
quốc gia, các vấn đề toàn cầu đã tạo nên các sự phụ thuộc đó. Và quan hệ
kinh tế Mỹ - Nhật cũng ngày có sự phụ thuộc vào nhau hơn.
Thứ hai là vấn đề khu vực hóa: khu vực hóa cũng là đang là xu thế gia
tăng rất mạnh, hình thành nhiều khối liên kết, hợp tác phát triển như EU,
NATFA, APEC, ASEAN,… là một trong những thực thể của định chế quốc
tế, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hội nhập toàn cầu nói chung kinh tế nói

11


riêng. Các tổ chức này ra đời, tuy còn ở mức độ khác nhau, nhưng mục đích

chung là biến khu vực mình thành một thị trường thống nhất. Các nước gia
nhập vào các tổ chức trên không chỉ để hưởng những thuận lợi mà thị trường
chung của khu vực đem lại mà còn tránh những hậu quả xấu tác động từ môi
trường toàn cầu hóa, hoặc từ một nhóm nước, một tập đoàn kinh tế nào đó.
Việc hình thành và phát triển các khối hợp tác kinh tế mới thời kì sau Chiến
tranh Lạnh kết thúc một nhu cầu thực tế để các nước trong khu vực tìm tiếng
nói chung, qua đó thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế và thương mại phát triển.
Song chính sự hình thành các khối này đã tạo ra nguy cơ của chính sách bảo
hộ mậu dịch tập thể chống lại sự tấn công của các bạn hàng. Đó là một thách
thức lớn đối với hai siêu cường kinh tế Mỹ và Nhật Bản.
Tương quan giữa các nước lớn: Với sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ đã trở
thành siêu cường duy nhất có sức mạnh và tầm quan trọng toàn cầu về mọi
mặt quân sự, kinh tế, chính trị… Bên cạnh đó thời kì sau Chiến tranh Lạnh
đang nổi lên một Trung Quốc đang có vai trò ngày càng quan trọng trong nền
kinh tế, chính trị thế giới, một Trung Quốc khổng lồ ngày càng có vị thế lớn
hơn cả về kinh tế, chính trị, quân sự. Sự vươn lên mạnh mẽ của Nhật Bản và
Tây Âu trở thành những đối thủ cạnh tranh đối với Mỹ. Còn Liên Xô lúc này
nền kinh tế ngày càng lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tuy Mỹ đang mạnh
nhất thế giới, song trong tình hình quốc tế phức tạp như hiện nay, Mỹ vẫn có
nhiều hạn chế và không đủ khả năng đơn phương giải quyết mọi vấn đề của
thế giới. Từ đó trong quan hệ với các đồng minh của mình đặc biệt là Nhật
Bản, Mỹ đã có yêu cầu chia sẻ trách nhiệm quốc tế. Quan hệ đồng minh Mỹ Nhật càng trở nên quan trọng phụ thuộc lẫn nhau hơn nhưng Nhật Bản đang
có những chính sách ngày càng độc lập hơn với Mỹ.
Như vậy toàn cầu hóa kinh tế tạo cơ hội cho tất cả các quốc gia, dân tộc
trên thế giới, với những mức độ và theo các phương cách khác nhau. Đối với

12


các nước phát triển, toàn cầu hóa kinh tế tạo cơ hội cho họ mở rộng không

gian kinh tế, phát huy các lợi thế so sánh về công nghệ, vốn đầu tư và kĩ năng
quản lý. Dưới tác động của toàn cầu hóa, hợp tác về kinh tế để cùng phát triển
đã trở thành một xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thế giới. Tính
chất của mối quan hệ giữa các nước đang phát triển và các cường quốc kinh tế
như Mỹ, EU, Nhật Bản,…đã thay đổi từ quan hệ phụ thuộc sang quan hệ tùy
thuộc lẫn nhau. Để khai thác những lợi ích của toàn cầu hóa và hạn chế các
tác động tiêu cực của nó, nhiều quốc gia đã nhận thấy sự cần thiết phải liên
kết chặt chẽ với nhau nhằm tạo nên các lợi thế cạnh tranh mới. Những biến
đổi trong môi trường kinh tế thế giới đã tác động mạnh đến sự phát triển của
mọi nền kinh tế quốc gia. Để tiếp tục phát triển và giữ vững vai trò đầu tàu
kinh tế thế giới, Mỹ, EU, Nhật Bản,… đã quyết định cải cách cơ cấu kinh tế,
nhằm khai thác các thành quả của cách mạng khoa học công nghệ. Các nước
đang phát triển với lợi thế so sánh về giá tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao
động đã xem các ngành công nghiệp là cơ hội phát triển của họ. Do vậy từ khi
bước vào thời kì hậu Chiến tranh Lạnh, hầu hết các nước đang phát triển trên
thế giới đều thi hành chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới.
1.2. Nhân tố chủ quan
1.2.1. Về phía Mỹ
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu về cơ
bản đã tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho việc thực hiện mưu đồ
bá chủ thế giới của Mỹ. Bên cạnh những cơ hội to lớn sau sự kết thúc của
Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đứng trước một chiến lược thay đổi cơ bản.
Thách thức chủ yếu từ Liên Xô trước đây không còn, nhưng nước Mỹ ra khỏi
Chiến tranh Lạnh trong tình trạng mình đầy thương tích.
Mỹ đứng trước những thách thức to lớn từ trong nước: kinh tế trì trệ và
giảm sút sức cạnh tranh, thâm hụt cán cân buôn bán và ngân sách. Sức mạnh

13



tổng hợp của Mỹ đã giảm đi tương đối. Về chính trị nội bộ: sự sụp đổ của
Liên Xô làm cho nước Mỹ mất đi cơ sở tạo nên một sự nhất trí rộng rãi trong
nội bộ [10, tr.35-36]. Ở mức độ nào đó có thể nói, với sự biến mất của kẻ thù
chủ yếu, nước Mỹ rơi vào tình trạng bị động, trong một thế giới mà Mỹ chưa
xác định được rõ ràng những lợi ích cơ bản của mình, thách thức đối với
những lợi ích đó để từ đó xây dựng một chiến lược mới cho thời kì mới.
Tương tự như những thời kì trước khi chiến tranh kết thúc và nước Mỹ bước
vào một giai đoạn chiến lược mới, trong lòng nước Mỹ đang diễn ra một cuộc
tranh luận gay gắt về vai trò của Mỹ trên thế giới. Cuộc tranh luận truyền
thống giữa chủ nghĩa biệt lập mới và chủ nghĩa quốc tế mới. Sự đấu tranh
giữa chủ nghĩa biệt lập mới và chủ nghĩa quốc tế mới trong lòng nước Mỹ
chứng tỏ một thực tế là ngay trong chính nước Mỹ cũng chưa có được sự nhất
trí về vai trò lãnh đạo thế giới và xác lập bá quyền của mình. Trong giới lãnh
đạo cũng như công chúng Mỹ, cuộc đấu tranh giữa hai trường phái biệt lập và
quốc tế vẫn chưa chấm dứt. Một khác biệt căn bản trong môi trường chiến
lược mới đối với nước Mỹ thời kì sau Chiến tranh Lạnh là tính chất phức tạp,
không rõ ràng của những thách thức đối với nước Mỹ trên bình diện quốc tế,
thế hai cực mất đi, quá trình phát triển không đồng đều giữa các quốc gia có
thể tạo ra những trung tâm quyền lực mới. Vị trí sức mạnh đem đến cho Mỹ
nhiều quyền uy, nhưng đồng thời cũng khiến cho Mỹ có nhiều kẻ thù. Mỹ có
thể đóng vai trò đầu tàu trong một loạt vấn đề, nhưng cũng có thể bị thế giới
còn lại tập hợp chống lại sự thống trị hay sức ép của Mỹ trên nhiều vấn đề
như vấn đề nhân quyền. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các cuộc xung đột
cục bộ, xung đột tôn giáo, sắc tộc, nạn khủng bố quốc tế có chiều hướng gia
tăng và do vậy ở một chừng mực nào đó đe dọa đến an ninh của Mỹ, trước hết
là các công dân Mỹ.

14



Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cùng với sự sụp đổ của Liên Xô làm
Mỹ mất đi ngọn cờ tập hợp lực lượng. Trong các nước đồng minh của Mỹ xu
hướng li tâm phát triển. Mâu thuẫn giữa Mỹ với các trung tâm kinh tế khác
ngày càng gay gắt. Mỹ đã mất ngọn cờ tập hợp lực lượng là mối đe dọa cộng
sản. Thực ra xu hướng li tâm đã xuất hiện ngay trong thời kì Chiến tranh Lạnh
khi so sánh lực lượng giữa Mỹ và các nước đồng minh Tây Âu và Nhật Bản
có những chuyển biến quan trọng. Sự phục hồi kinh tế và những thập kỷ phát
triển ngoạn mục đã đưa các nước Tây Âu và Nhật Bản nổi lên thành những
trung tâm kinh tế cạnh tranh gay gắt với Mỹ. Cùng với sự lớn mạnh về kinh
tế, vai trò an ninh chính trị của các đồng minh của Mỹ cũng ngày càng trở nên
độc lập với Mỹ. Đây là một thách thức lớn đối với Mỹ trong thời kì sau Chiến
tranh Lạnh. Một mặt Mỹ vẫn cần đến sự ủng hộ của đồng minh để đối phó với
những thách thức an ninh đa dạng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và sự phụ
thuộc lẫn nhau. Mặt khác xu hướng độc lập, li tâm trong các đồng minh ngày
càng gia tăng, tạo ra thách thức lớn đối với Mỹ trong việc dựa vào các liên
minh đa phương và song phương để triển khai chiến lược toàn cầu. Xu hướng
Mỹ duy trì và nâng cấp các dàn xếp an ninh song phương và đa phương phục
vụ mục tiêu kép của Mỹ là thực hiện tham vọng lãnh đạo thế giới với sự hỗ
trợ của các đồng minh phương Tây, đồng thời khống chế đồng minh dưới sự
lãnh đạo của Mỹ [2, tr. 40].
Như vậy quan hệ Mỹ - Nhật Bản không nằm ngoài những mục tiêu
chiến lược mà Mỹ đã đề ra. Mỹ chủ trương duy trì và thậm chí tăng cường các
liên minh an ninh song phương, đa phương để kiềm chế đồng minh, ngăn
chặn xu hướng độc lập, ly tâm của những nước này đối với Mỹ trong thời kì
mới khi mối đe dọa chung là chủ nghĩa cộng sản đã không còn. Và duy trì các
liên minh này còn nhằm hợp tác và chia sẻ trách nhiệm với các đồng minh
nhằm xoa dịu dư luận trong nước Mỹ, đặc biệt trước những chỉ trích việc Mỹ

15



phải gánh vác trách nhiệm bảo vệ an ninh cho những nước là đồng minh quân
sự nhưng lại là những đối thủ cạnh tranh quyết liệt về kinh tế như Nhật Bản,
Tây Âu.
Trong quá trình chuẩn bị thiết lập một vành đai an ninh nhằm ngăn
chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Á, Mỹ không thể bỏ qua vị
trí chiến lược then chốt của Nhật Bản. Mỹ muốn biến Nhật Bản thành tiền
đồn chống chủ nghĩa xã hội ở châu Á. Cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ
tháng 6/1950 càng đẩy Mỹ đi nhanh đến thực hiện điều chỉnh chiến lược này.
Sự chuyển hướng ý đồ chiến lược của Mỹ đối với Nhật Bản, mục tiêu biến
Nhật Bản thành thành trì chống chủ nghĩa cộng sản ở Châu Á trong chiến
lược toàn cầu đã khiến Mỹ sớm thúc đẩy sự chấm dứt chiếm đóng và quay ra
hỗ trợ Nhật Bản tái thiết kinh tế và kí kết Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật. Nhật
Bản sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong chiến lược CA-TBD của Mỹ.
Liên minh an ninh Mỹ - Nhật là trụ cột chính trong chính sách an ninh nhằm
phục vụ mục tiêu lâu dài của Mỹ ở khu vực CA-TBD là xác lập vai trò lãnh
đạo của Mỹ, duy trì hòa bình, ổn định và ngăn chặn bất cứ một nước nào hay
một nhóm nước nào nổi lên thách thức vai trò của Mỹ.
Tuy nhiên hiện nay nhiều nhà chiến lược Mỹ bắt đầu lo ngại về những
biện pháp chính trị của Nhật Bản, cho rằng nếu Nhật Bản trở thành cường
quốc quân sự thì sẽ dẫn đến nhiều đối kháng trong khu vực. Cùng với việc
Nhật Bản tham gia ngày càng nhiều vào công việc quốc tế và xây dựng lực
lượng hải quân mạnh, giữa Mỹ và Nhật có thể nảy sinh xung đột về an ninh.
Tuy nhiên Tokyo vẫn là đồng minh quan trọng của Mỹ và quan hệ giữa hai
bên vẫn tốt đẹp. Những lợi ích chiến lược lâu dài trong việc duy trì liên minh
an ninh Mỹ - Nhật (lợi ích chiến lược dài hạn trong việc kiềm chế sự trỗi dậy
của Trung Quốc, vấn đề Đài Loan,…) là nhân tố quyết định chiều hướng
chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản. Quan hệ Mỹ - Nhật là quan hệ đồng

16



minh gắn bó với nhau và lợi ích kinh tế, chính trị, an ninh được phát triển
trong một cơ chế an ninh song phương.
1.2.2. Về phía Nhật Bản
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Nhật Bản đã trải qua nhiều năm phát
triển kinh tế làm cả thế giới phải kinh ngạc và gọi đó là sự “thần kỳ” kinh tế.
Nhưng cùng với sự biến đổi của tình hình quốc tế sau Chiến tranh Lạnh mà ở
đó Nhật Bản phải đương đầu với nhiều vấn đề nổi cộm trong nước nảy sinh
sau nhiều thập niên phát triển thuận lợi từ chính trị, kinh tế, xã hội.
Về kinh tế: kinh tế Nhật Bản đã có sự phát triển vượt bậc trong giai
đoạn trước khi kết thúc Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên trong những năm 90 nền
kinh tế Nhật phát triển chậm lại và rơi vào tình trạng suy thoái kéo dài nhất
trong lịch sử sau chiến tranh. Khi nền kinh tế bong bóng bị đổ vỡ, những tổn
thất đầu tiên và nghiêm trọng nhất là hệ thống ngân hàng và các công ty tài
chính, tín dụng. Tình trạng trên đã khiến giới đầu tư trong và ngoài nước
không còn lòng tin đối với thị trường tài chính Nhật Bản và đã rút vốn chuyển
sang các thị trường tài chính khác ở châu Á.
Suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính khiến cho các công ty sản
xuất máy tính lớn của Nhật Bản như Toshiba, Mutsubishi đều bị sa sút. Trong
nỗ lực cứu nền kinh tế thoát khỏi suy giảm và lạm phát, chính phủ Nhật Bản
đã đưa ra kế hoạch kích thích kinh tế cả gói trong giai đoạn 1992 - 2000. Tuy
nhiên các biện pháp kích thích này đã không thực sự có hiệu quả. Chúng chỉ
là các biện pháp tình thế tạm thời làm dịu cơn đau. Hậu quả to lớn của sự sụp
đổ nền kinh tế bong bóng và sự tăng giá đồng yên trong những năm 1990 làm
tỉ lệ thất nghiệp cao chưa từng thấy ở Nhật Bản.
Về chính trị: tình hình chính trị bất ổn định. Theo nhiều đánh giá, một
yếu tố làm cho Nhật Bản không thoát khỏi tình trạng trì trệ về kinh tế là do
những bất ổn về chính trị trong nước. Hơn nữa bối cảnh quốc tế sau Chiến


17


tranh Lạnh với xu hướng toàn cầu hóa đã làm nền kinh tế Nhật Bản không thể
phát triển biệt lập như trước đây. Tam giác quyền lực Nhật Bản (giới chính trị
- quan chức - doanh nghiệp) trước kia có nhiều ảnh hưởng tích cực đến sự
phát triển của nền kinh tế thì nay đã tỏ ra hạn chế và trở thành lực cản phát
triển. Các mâu thuẫn về lợi ích của các bên bắt đầu nảy sinh [2, tr.46].
Một vấn đề nữa mà Nhật Bản đang phải gánh chịu là tình trạng lão hóa
dân số đang gia tăng. Xu hướng già hóa dân số với tốc độ nhanh nhất thế giới
của Nhật Bản đã làm thay đổi cơ cấu và chất lượng lao động cũng như làm
nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã hội. Vấn đề già hóa dân số và tỉ lệ sinh thấp
gây ra tình trạng thiếu lao động đặc biệt là lực lượng lao động trẻ có kỹ thuật
giảm sút, làm giảm năng suất lao động xã hội, là mặt trái làm cho nền kinh tế
Nhật Bản kém năng động, chậm thích ứng với những thay đổi và từ đó làm
giảm khả năng cạnh tranh quốc gia của Nhật Bản. Vấn đề người nước ngoài ở
Nhật Bản, theo nhiều dự báo, số người nước ngoài sẽ tiếp tục tăng lên ở Nhật
Bản. Thực trạng này sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng đến xã hội Nhật Bản, trước
mắt nó sẽ gây ra sức ép đối với vấn đề việc làm và về lâu dài sẽ tác động đến
lối sống, quan niệm xã hội và phong cách văn hóa của xã hội Nhật Bản.
Trong một thế giới ngày càng phụ thuộc như hiện nay không chỉ là
quyền lợi riêng của Nhật Bản nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, mà còn có tác
động tích cực đối với hoạt động kinh tế thế giới nói chung. Vì sự tham gia
giải quyết các vấn đề quốc tế của các nước này và ảnh hưởng trong hoạt động
kinh tế đối ngoại với Mỹ nói riêng và sự liên hệ chặt chẽ của hai quốc gia này.
Vì vậy Nhật Bản muốn dựa vào những trợ giúp của Mỹ để thoát ra khỏi tình
trạng trì trệ của nền kinh tế Nhật Bản. Những vấn đề nan giải của nền kinh tế
Nhật Bản cùng với những bất ổn về chính trị đã làm nước này dường như
không tìm thấy đường ra. Việc thay đổi một nền kinh tế theo kiểu độc tài của
Nhật Bản gắn liền với giới chính trị là một việc không dễ dàng đòi hỏi sức ép


18


từ nhiều phía, đặc biệt là từ bên ngoài. Những nhận thức đúng đắn về cải cách
kinh tế không thể phát huy do yếu tố chính trị đè nặng. Mặt khác chỉ có Mỹ
với sự hợp tác an ninh, chính trị chặt chẽ mới có khả năng gây áp lực trong
những vấn đề kinh tế trong chính trường của Nhật Bản. Do đó, Nhật Bản cần
Mỹ hỗ trợ trong việc tư vấn các định hướng cải cách nhằm thoát khỏi tình
trạng tồi tệ như thập niên mất mát.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản có điều kiện hơn trong
quan hệ kinh tế với các nước khác trên thế giới. Quan hệ Nhật - Mỹ là mối
quan hệ quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Nhật. Nhưng Nhật
đang tìm mọi cách tránh sự phụ thuộc tuyệt đối vào Mỹ để giành vị thế độc
lập và tự chủ hơn trong quan hệ quốc tế. Và người Nhật cho rằng họ cần phải
hợp tác với Mỹ một cách tối đa để bảo vệ các lợi ích dân tộc.
1.3. Quan hệ Mỹ - Nhật trước năm 1991
Năm 1853 Đô đốc Mathew Perry xuất hiện tại Vịnh Edo cùng với một
hạm đội mạnh. Sứ mệnh của ông tướng này là hối thúc Nhật Bản mở cửa giao
lưu với Mỹ. Sau một thời gian trì hoãn, Nhật Bản đã phải nhượng bộ Mỹ
thông qua ký Hiệp ước Nagasaki. Điều này đánh dấu một bước tiến lớn, có ý
nghĩa như một cuộc cách mạng thực sự, ở đó Nhật Bản thực thi chính sách đối
ngoại mở cửa với thế giới chấm dứt gần 300 năm tuyệt giao với bên ngoài. Rõ
ràng, chính sách đối ngoại mở cửa của Nhật Bản bắt đầu với một đối tác CATBD, đó là Mỹ. Chính sách mở cửa của Nhật Bản được bắt đầu từ kỷ nguyên
Minh Trị nhưng sự ảnh hưởng có hiệu quả nhất của chính sách này tới sự phát
triển nhiều mặt của Nhật Bản phải kể đến thời kì sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, gắn liền với sự lan tỏa của văn minh kinh doanh Hoa Kỳ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Mỹ đã có một mối liên hệ hết sức mật
thiết với Nhật Bản. Với tư cách là nước chiến thắng Mỹ đã thông qua các kế
hoạch tái thiết Nhật Bản thời kì hậu chiến với những chính sách khá hà khắc.


19


Mối quan hệ Mỹ - Nhật đã được thực tiễn phát triển của thế giới đương đại
kiểm nghiệm, đánh giá là mối quan hệ chuyên nghiệp, chặt chẽ, lâu dài, hợp
tác toàn diện về nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nổi bật hàng đầu là hợp
tác về an ninh và hợp tác về kinh tế. Đặc biệt hợp tác an ninh Nhật - Mỹ từ
nhiều thập niên qua vẫn luôn được cả hai bên cùng đề cao, coi đó là trọng tâm
chiến lược hợp tác phát triển song phương giữa hai nước, với những tính toán
chiến lược của mình, Hoa Kỳ cùng với Nhật Bản thỏa thuận kí kết hiệp ước
phòng thủ chung vào năm 1960 tại Washington. Việc kí kết hiệp ước này, cả
hai nước đều xuất phát từ những mục đích khác nhau. Đối với Hoa Kỳ học
thuyết quân sự của họ ở thời kì này là tìm mọi cách giành ưu thế quân sự trên
phạm vi toàn cầu, bao vây, cô lập Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Xây
dựng các khối quân sự để vừa kiểm soát các đồng minh vừa tạo cơ sở cho các
hoạt động quân sự khi cần thiết. Ở Thái Bình Dương họ coi việc xây dựng
một hiệp ước phòng thủ với Nhật Bản lâu dài là hết sức cần thiết, thậm chí coi
Nhật Bản như một NATO phương Đông.
Sự ra đời của Hiệp ước phòng thủ Mỹ - Nhật còn nhằm một mục đích
khác nữa là tạo cơ sở pháp lý cho việc có mặt dài hạn của các căn cứ quân sự
Mỹ ở Nhật Bản. Hơn nữa bằng hiệp ước đó Mỹ muốn kiểm soát trực tiếp và
kiềm chế khả năng quân sự của Nhật Bản. Trong khi đó Nhật Bản lại nhằm
những mục tiêu khác với Mỹ. Như sử dụng chiếc ô an ninh của Mỹ, coi nó
như một sự đảm bảo an ninh từ xa nếu bị tấn công. Sự lo sợ của Nhật Bản ở
thời kì này là khả năng quốc phòng của Liên Xô ngày càng được tăng cường
cộng với tiềm năng về vũ khí hạt nhân của nước này đã buộc Nhật phải tính
đến việc dựa vào sự đảm bảo của Mỹ trong lĩnh vực phòng thủ. Với việc kí
kết hiệp ước này với Mỹ, Nhật có thể tiết kiệm một khoản chi phí quốc phòng
lớn và cho phép Nhật chỉ tập trung vào một mối quan tâm chủ yếu là phát

triển kinh tế. Sự đối đầu về quân sự Xô - Mỹ ở Tây Bắc Thái Bình Dương,

20


cuộc nội chiến ở Campuchia là những nhân tố tạo cớ cho sự cấu kết quân sự
của hai quốc gia Mỹ và Nhật Bản đã được hàn gắn và ảnh hưởng của nó lan
tới nhiều nước ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Có thể nói rằng sự cố kết về
quân sự giữa hai nước này từ cuối những năm 70 cũng đặt ra nhiều vấn đề
mới cho cả hai nước, nhất là trong lĩnh vực quốc phòng. Chính sự liên minh
chặt chẽ bền vững này đã là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đưa lại
vị thế cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ) từ thập niên 70 của
thế kỷ XX.
Với tư cách là nước chiến thắng Mỹ đã thông qua các kế hoạch tái thiết
Nhật Bản thời kì hậu chiến với những chính sách hà khắc. Các kế hoạch tái
thiết này đã buộc Nhật Bản phải cải cách mạnh mẽ nền kinh tế trước đây chỉ
tập trung cho cuộc chiến tranh. Sau một thời gian ngắn, kinh tế Nhật Bản đã
có những thay đổi cơ bản. Đến chiến tranh Triều Tiên, nhờ các đơn đặt hàng
quân sự và nguồn vốn của Mỹ, kinh tế Nhật đã có bước phát triển thần kỳ. Mỹ
đã mở cửa một cách thoải mái cho hàng hóa sản xuất tại Nhật Bản, nước Mỹ
đã trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa của Nhật Bản. Điều này đã tạo
lực đẩy phát triển cho kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là ngành xuất khẩu. Lượng
hàng hóa của Nhật Bản sang Mỹ ngày càng tăng cao. Trong thời kì đầu những
năm 1960 người Mỹ đã không để ý rằng hàng hóa đã tràn ngập thị trường Mỹ
và Nhật Bản đã phát triển kinh tế là nước lớn thứ hai.
Thông qua vị thế cường quốc đó Nhật Bản trong quan hệ liên minh
song phương chặt chẽ, bền vững với Mỹ mà cũng từ nhiều thập niên qua Nhật
Bản đã là quốc gia luôn đi đầu trong việc giúp Mỹ khẳng định và giữ nguyên
được vị trí siêu cường số một thế giới.
Do nhận được sự đảm bảo an ninh của Mỹ, Nhật Bản dành mọi sự ưu

tiên cho phát triển kinh tế. Cơ chế chính trị pháp quyền của Nhật Bản sau
chiến tranh được rập khuôn theo kiểu Hoa Kỳ, nhất là cơ cấu Quốc hội và

21


Chính phủ. Tuy nhiên yếu tố Nhật Bản vẫn được duy trì và đan xen. Chính sự
vững mạnh về kinh tế đã tạo cơ sở cho Nhật Bản ngày càng độc lập tương đối
trong chính sách đối ngoại. Sự phụ thuộc của Nhật Bản vào thị trường Mỹ là
một trong những nhân tố chủ đạo tạo ra bước phát triển thần kì của Nhật Bản
trong nhiều năm qua và khó có thể thay thế.
Bằng những chương trình hợp tác, quan hệ quân sự Mỹ - Nhật vào giữa
những năm 80 đã được nâng lên một tầm mới và ngày càng chứng tỏ vai trò
quan trọng của Nhật Bản trong việc đóng góp vào chiến lược toàn cầu của
Mỹ. Nói cách khác vào thời kì đó Nhật Bản thực sự trở thành một NATO
phương Đông với đầy đủ ý nghĩa của nó. Và lần đầu tiên trong lịch sử của
quan hệ quốc phòng Mỹ - Nhật, phía Nhật thỏa thuận sẽ tham gia vào chương
trình chiến tranh giữa các vì sao của Mỹ vào năm 1986.
Nếu như hiệp ước hữu nghị hợp tác và đảm bảo an ninh Mỹ - Nhật kí
năm 1960 tại Washington tạo ra chiếc ô pháp lý để Nhật tập trung sức lực và
trí tuệ vào việc phát triển kinh tế thì Hiệp định Palaza năm 1985 ký tại New
York lại là bước xác nhận sự lớn mạnh vượt bậc của Nhật Bản, nhất là trong
lĩnh vực kinh tế thương mại quốc tế. Một trong những nội dung quan trọng
nhất của Hiệp định Palaza là việc hai bên Mỹ - Nhật đồng ý đánh giá lại giá
trị của đồng yên Nhật trong quan hệ hối đoái với đồng đôla. Điều đó còn tạo
cơ hội cho Nhật Bản trở nên độc lập hơn trong quan hệ kinh tế với Mỹ. Với
việc định giá lại đồng yên dựa trên cơ sở Hiệp định Palaza đã làm cho tính
chất của mối quan hệ kinh tế Mỹ - Nhật Bản thay đổi từ phụ thuộc sang hợp
tác và cạnh tranh. Sau hiệp định này quan hệ kinh tế giữa hai siêu cường phát
triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Bên cạnh đó sự cọ sát về lợi ích cũng trở nên kịch

tính. Chính việc làm này đã tạo cho Nhật Bản một lợi thế to lớn trong quan hệ
thương mại với các nước trong khu vực CA-TBD. Đồng yên trở thành chất
keo chủ yếu của liên kết kinh tế khu vực. Từ đó vai trò của Nhật Bản lại trở

22


nên cần thiết hơn cho sự phát triển kinh tế của nhiều nước, đáng chú ý là đối
với các nước láng giềng.
Như vậy có thể nói đến cuối những năm 1980 quan hệ kinh tế Mỹ Nhật không chỉ có lịch sử phát triển lâu dài, đặc biệt từ sau Chiến tranh thế
giới thứ hai, mà còn phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển
vượt bậc của Nhật Bản và sức mạnh kinh tế của Mỹ cũng như mối quan hệ
càng phụ thuộc giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Tình hình quốc tế cuối những năm 80 đầu thập niên 90 diễn ra khá
phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc và nhiều mặt tới quốc tế, tới mọi quốc gia. Tình
hình này đã tạo ra bộ mặt mới cho mối quan hệ truyền thống giữa Nhật Bản
và Mỹ, hợp tác và cạnh tranh. Như vậy, quan hệ Mỹ - Nhật Bản trước năm
1991 tạo cơ sở cho sự liên minh chặt chẽ hơn nữa giữa Mỹ - Nhật Bản trong
giai đoạn sau.
Tiểu kết chương 1
Chiến tranh Lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta sụp đổ, một trật tự thế
giới mới đang được hình thành. Mỹ tuy đã chiến thắng nhưng vị thế cũng đã
bị suy giảm, các nước lớn đều muốn khẳng định vai trò độc lập trong việc giải
quyết các vấn đề quốc tế. Bên cạnh đó sự phát triển xu thế toàn cầu hóa và tri
thức hóa kinh tế ở nhiều nước trên thế giới do kết quả của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, có tác động sâu rộng tới môi trường an ninh,
đặc biệt là an ninh kinh tế của các quốc gia. Bối cảnh thế giới sau Chiến tranh
Lạnh đã xuất hiện nhiều cơ hội và thách thức đối với các nước đặc biệt là các
nước lớn trước xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra trên toàn thế
giới. Những nhân tố khách quan và chủ quan đó là cơ sở để hai nước Mỹ Nhật tiếp tục khẳng định mối quan hệ đã có từ sau Chiến tranh thế giới thứ

hai.

23


CHƯƠNG 2: QUAN HỆ MỸ- NHẬT BẢN
SAU CHIẾN TRANH LẠNH (1991- 2001)

2.1. Quan hệ trên lĩnh vực an ninh - chính trị
2.1.1. Tiếp tục duy trì và khẳng định Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật
Về việc tiếp tục duy trì, khẳng định Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật được
ký kết từ năm 1951 nhưng thời kì sau Chiến tranh Lạnh đã có sự thay đổi theo
chiều hướng tăng cường cùng có lợi hoặc cùng chia sẻ trách nhiệm là đặc
trưng chủ yếu của quan hệ song phương Mỹ - Nhật và nó bộc lộ trong thời kì
sau Chiến tranh Lạnh.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã quyết định lựa chọn con
đường phát triển đất nước gắn bó chặt chẽ với Mỹ và phương Tây. Ngày
8/9/1951 Mỹ và Nhật Bản đã kí với nhau Hiệp ước an ninh song phương và
được coi là hòn đá tảng trong quan hệ an ninh Mỹ - Nhật và với sự ra đời của
Hiệp ước phòng thủ năm 1960 giữa Mỹ và Nhật Bản còn nhằm mục đích là
tạo cơ sở pháp lí cho việc có mặt dài hạn của các căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật
Bản. Hơn nữa bằng hiệp ước đó Mỹ muốn kiểm soát trực tiếp và kiềm chế
khả năng quân sự của Nhật Bản.
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,
Chiến tranh Lạnh chấm dứt, tình hình thế giới có nhiều thay đổi căn bản.
Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản càng làm cho quan hệ
quốc tế trở nên đa dạng phức tạp, đã đưa đến sự điều chỉnh một bước trong
quan hệ Mỹ - Nhật trong tình hình mới. Tháng 4/1996, Tổng thống Mỹ
B.Clinton và Thủ tướng Nhật đã chính thức ra tuyên bố chung khẳng định sự
tiếp tục và mở rộng Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật vì lợi ích của cả hai nước.

Tuyên bố chung về “an ninh Mỹ - Nhật liên minh hướng tới thế kỷ XXI” được
coi là nội dung điều chỉnh cơ bản của Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật [1, tr. 61].

24


Hai bên nhất trí rằng sự có mặt quân sự Mỹ ở Nhật Bản là hết sức cần thiết
đối với việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực, hai bên tiếp tục tăng
cường hợp tác quân sự song phương, trao đổi thông tin thảo luận các vấn đề
quốc tế liên quan, về chính sách phòng thủ, về số lượng và cơ cấu quân đội.
Hiệp định này đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ giữa Nhật Bản và
Mỹ. Tuyên bố về liên minh an ninh cho đến thế kỷ XXI đã thắt chặt liên kết
chiến lược Mỹ - Nhật trong khu vực. Từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, khả
năng về một cuộc xung đột vũ trang toàn cầu đã bị loại bỏ nhưng khả năng về
sự mất ổn định và sự bất trắc trong khu vực lại là mối nguy cơ đe dọa an ninh
trong khu vực. Chính vì vậy Nhật Bản vẫn khẳng định tầm quan trọng và duy
trì mối quan hệ an ninh chiến lược Nhật - Mỹ và coi đó là nền tảng quan trọng
để đạt tới những mục tiêu chung về an ninh trong khu vực.
Ngay sau khi kí Tuyên bố chung, hai nước bắt đầu điều chỉnh “phương
hướng chủ đạo hợp tác quốc phòng Mỹ - Nhật” vào năm 1997 thay cho
phương hướng chỉ đạo năm 1978 [19, tr.112]. Sự điều chỉnh có một số điểm
nổi bật: xác định khu vực phòng vệ chung là khu vực xung quanh Nhật Bản,
khu vực này sẽ biến đổi theo tình hình quốc tế, bao gồm toàn bộ CA-TBD,
thậm chí cả Ấn Độ Dương và vịnh Pecxich, cho phép quân đội Nhật Bản từ
hoạt động phòng vệ chuyển sang hướng có thể tấn công đối phương, tăng
cường và đề cao vị thế của nước Nhật trên trường quốc tế, từng bước nâng
cao tính chủ động của lực lượng quân sự Nhật Bản.
Chiến tranh Lạnh kết thúc không ảnh hưởng tới các mục tiêu chính của
Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Nhật cho phép Mỹ xây dựng những căn cứ quân
sự của Mỹ trên đất Nhật và Nhật cung cấp cho Mỹ không gian và tài chính để

lực lượng quân sự Mỹ trên đất Nhật có thể can thiệp tại khu vực nếu cần thiết.
Nhật cũng cần có một đồng minh có sức nặng đủ khả năng đảm bảo an ninh
cho Nhật. Trên quan điểm đó cả hai nước đều cùng có một kết thúc song

25


×